Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

luận văn thạc sĩ Cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người Dân tộc thiểu số của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (596.65 KB, 121 trang )

Cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động
kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là ngời dân tộc
thiểu số của viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
ở tỉnh Thái Nguyên
hà nội - 2009
Mục lục
Trang
Mở đầu
1
Chơng 1: cơ sở lý luận về hoạt động kiểm sát xét xử án
hình sự sơ thẩm đối với bị cáo là ngời dân tộc
thiểu số ở Việt Nam
8
1.1. Hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự và đặc điểm của hoạt động
kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự đối với bị cáo là ngời dân tộc
thiểu số 8
1.2. Các yếu tố ảnh hởng, các yêu cầu và điều kiện bảo đảm các yêu
cầu trong hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là
ngời dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay 38
Chơng 2: Tình hình ngời dân tộc thiểu số phạm tội và
thực trạng hoạt động kiểm sát xét xử án hình
sự đối với ngời dân tộc thiểu số phạm tội của
viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ở tỉnh thái
nguyên (2004-2008)
61
2.1. Tình hình kinh tế - xã hội và tình hình ngời dân tộc thiểu số phạm
tội trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 61
2.2. Thực trạng hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là
ngời dân tộc thiểu số của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ở
tỉnh Thái Nguyên 74
Chơng 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm hoạt động kiểm


sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là ngời dân
tộc thiểu số của viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện ở tỉnh thái nguyên
95
3.1. Quan điểm bảo đảm hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với
bị cáo là ngời dân tộc thiểu số đáp ứng yêu cầu cải cách t pháp 95
3.2. Giải pháp bảo đảm hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với
bị cáo là ngời dân tộc thiểu số, đáp ứng yêu cầu cải cách t pháp 100
Kết luận
118
danh mục tài liệu tham khảo
122
Danh mục các chữ viết tắt
BLHS : Bộ luật hình sự
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
DTTS : Dân tộc thiểu số
HĐND : Hội đồng nhân dân
HĐXX : Hội đồng xét xử
KSV : Kiểm sát viên
KSXX : Kiểm sát xét xử
TANDTC : Toà án nhân dân tối cao
UBND : Uỷ ban nhân dân
VKSNDTC : Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng
và lãnh đạo trong hơn 20 năm qua đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đặc biệt là
trong lĩnh vực kinh tế, đã đem lại cho đất nước một sự thay đổi cơ bản, toàn diện

làm cho thế và lực của nước ta không ngừng lớn mạnh trên trường quốc tế.
Trong những lĩnh vực đổi mới thì đổi mới hệ thống chính trị, trong đó
đổi mới tổ chức hoạt động của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng góp phần
ngày càng hoàn thiện cơ cấu và cơ chế tổ chức hoạt động, chất lượng hoạt
động lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng được bảo đảm. Nhà nước
thực hiện quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã
hội ngày càng hiệu quả, tính pháp quyền ngày càng rõ rệt phù hợp với bối
cảnh mới của đất nước thời đại.
Nhất quán đường lối đổi mới tại Đại hội Đảng IX, tại Đại hội X Đảng
Cộng sản Việt Nam đã tiếp tục chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân, vì dân, thực hiện tất cả quyền lực
thuộc về nhân dân, đồng thời gắn việc thực hiện chủ trương này với việc thực
hiện ba cuộc cải cách lớn về bộ máy nhà nước, gồm cải cách lập pháp, cải
cách hành chính và cải cách tư pháp. Thực hiện cải cách tư pháp là nhằm
“Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người, kiện toàn các cơ quan tư pháp theo hướng
nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả lấy cải cách tổ chức và hoạt động
xét xử làm trung tâm”.
Thực hiện mục tiêu trên các hoạt động cải cách tư pháp đã diễn ra
mạnh mẽ, trên tất cả các yếu tố cấu trúc của nền tư pháp, với nhiều chuyển
biến tích cực, góp phần quan trọng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, góp phần thực hiện công bằng xã hội, phục vụ tích cực vào công
cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.
Tuy nhiên, những kết quả đó mới chỉ là bước đầu, và mới chỉ tập trung
vào giải quyết những vấn đề bức xúc nhất. Hoạt động tư pháp còn bộc lộ
nhiều hạn chế. Đối với hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp, trong đó có
hoạt động kiểm sát xét xử (KSXX) sơ thẩm án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân (VKSND) còn có những hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu công

tác đấu tranh phòng chống tội phạm, trong thực tế còn xảy ra tình trạng oan
sai, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong xét xử, đội ngũ Kiểm sát viên
(KSV), kiểm sát xét xử án hình sự còn nhiều yếu kém về nhận thức pháp luật,
về năng lực trình độ, chưa phát huy được hết vai trò trách nhiệm khi thực hiện
chức năng, nhiệm vụ được giao. Việc nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị tài liệu, nội
dung đề cương, thẩm vấn tại phiên toà của KSV chưa được chú trọng. Hoạt
động tranh tụng giữa KSV với luật sư, người bào chữa và những người tham
gia tố tụng chất lượng chưa cao. Những tồn tại nêu trên do nhiều nguyên
nhân, cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan đòi hỏi phải có
sự nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để có các quan điểm, giải pháp tháo gỡ có
tính đồng bộ, khả thi. Mặt khác, về phương diện lý luận, quan điểm của Đảng
về những định hướng lớn đổi mới tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp,
nhất là việc chuyển tổ chức Toà án theo đơn vị hành chính sang theo thẩm
quyền xét xử, tiến tới Viện kiểm sát sẽ trở thành Viện Công tố, thực hiện chỉ
đạo điều tra đã và đang đặt ra những vấn đề lý luận, đòi hỏi phải giải quyết để
có những phương án cải cách mang tính khoa học và thực tiễn.
Đối với VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên việc thực hiện cải cách tư
pháp những năm qua đã có nhiều đổi mới, chất lượng công tác kiểm sát hoạt
động tư pháp và thực hành quyền công tố trong giải quyết các vụ án hình sự,
trong đó có các vụ án mà bị cáo là người dân tộc thiểu số (DTTS) ngày càng
được bảo đảm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy Thái Nguyên với dân số hơn 1
triệu người, có 10 dân tộc cùng sinh sống (Kinh, Tày, Nùng, Dao, Cao Lan,
Sán Chỉ, Sán chay, H'mông, Hoa), tình hình tội phạm hình sự vẫn đang diễn
ra hết sức phức tạp, đối tượng phạm tội là người DTTS chiếm tỷ lệ cao, nhiều
trường hợp phạm tội nghiêm trọng, như cướp tài sản, giết người, cố ý gây
thương tích, hiếp dâm, cưỡng đoạt tài sản ngày càng tăng. Chất lượng hoạt
động KSXX án hình sự còn bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót, nhất là trong hoạt
động kiểm sát xét xử án hình sự mà đối tượng phạm tội là người DTTS. Trước
thực trạng và yêu cầu nghiên cứu lý luận trên, đề tài luận văn Thạc sĩ nghiên cứu
"Cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị

cáo là người Dân tộc thiểu số của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên" là
hết sức cần thiết và cấp bách đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, đặc biệt là từ khi có Nghị quyết 08-NQ/TW
ngày 02/1/2002 của Bộ Chính trị "về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp", vấn đề áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật hình sự trong
hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự nói riêng của ngành kiểm sát
luôn là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học pháp lý, và đã có
nhiều công trình khoa học được công bố đến vấn đề này, đáng chú ý là các
công trình sau:
- VKSND tối cao "Những giải pháp xây dựng đội ngũ KSV cấp huyện
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay" (2002). Đề tài khoa học cấp Bộ
do Vụ Tổ chức cán bộ chủ trì đề tài đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về đội
ngũ KSV xác định những nguyên nhân, tồn tại, đề ra biện pháp khắc phục
nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ KSV cấp huyện, đáp ứng yêu cầu cải cách
tư pháp hiện nay.
- Trịnh Khắc Triệu, "Nâng cao trách nhiệm của KSV trong việc thực
hành quyền công tố tại các phiên toà xét xử án hình sự", Tạp chí Kiểm sát số
08 năm 2002. Bài viết đã nghiên cứu làm rõ hoạt động thực hành quyền công
tố của KSV tại phiên toà, những vấn đề KSV cần thực hiện tốt trong kiểm sát
tại các phiên toà xét xử án hình sự.
- Vũ Mộc, "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới thủ tục tranh
luận tại phiên toà" (2004) đề tài cấp Bộ, Viện Khoa học VKSND tối cao chủ
trì đề tài làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn vận dụng tranh tụng tại phiên toà,
đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới tranh tụng tại phiên toà hình sự theo
tinh thần Nghị quyết 08/NQTW của Bộ Chính trị khoá IX.
- Dương Thanh Biểu, "Tranh luận của KSV tại phiên toà hình sự,
những vấn đề lý luận và thực tiễn", Tạp chí Kiểm sát số 24 năm 2005. Bài
viết đã tập trung trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng hoạt
động tranh luận của KSV tại phiên toà hình sự và đề xuất phương hướng

nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tranh luận của KSV tại phiên toà hình
sự. Luận văn đã phân tích những vấn đề lý luận về tố tụng hình sự trong bảo
đảm quyền con người, trong đó có những vấn đề lý luận liên quan đến vai trò
của KSV qua thực hiện quyền công tố và KSXX để bảo vệ có hiệu quả quyền
con người của bị can, bị cáo.
- Nguyễn Mạnh Hà, "Trách nhiệm của Kiểm sát viên VKSND trong
thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự theo
yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay", Luận văn Thạc sĩ Luật, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2008). Luận văn đã xây dựng khái niệm
trách nhiệm của KSV, những yêu cầu đối với KSV trong thực hiện trách
nhiệm thực hành quyền công tố và KSXX trong các phiên toà hình sự, các
giải pháp bảo đảm trách nhiệm đó theo yêu cầu cải cách tư pháp.
- Nguyễn Đức Phúc, "Đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự
ở Việt Nam hiện nay" Luận văn Thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, 2004.
Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu được công bố trên các tạp chí
chuyên ngành, các sách chuyên khảo của các nhà khoa học pháp lý nghiên
cứu những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài của luận văn. Tuy nhiên có thể
thấy cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách
có hệ thống, đầy đủ dưới góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật hoạt
động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự đối với bị cáo là người DTTS, nhất
là lại ở một tỉnh có nhiều DTTS như tỉnh Thái Nguyên hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên
quan đến hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS của
VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên, từ đó đề xuất các luận chứng các quan
điểm, giải pháp bảo đảm hoạt động đó đáp ứng những yêu cầu đặt ra hiện nay.
- Nhiệm vụ: Phù hợp với mục đích trên luận văn có các nhiệm vụ sau
+ Phân tích cơ sở lý luận hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với
bị cáo là người DTTS, như khái niệm, đặc điểm và những yếu tố ảnh hưởng

tới hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS.
+ Xác định các yêu cầu và điều kiện bảo đảm cho hoạt động kiểm sát
xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS của VKSND cấp huyện ở tỉnh
Thái Nguyên đáp ứng các yêu cầu đặt ra hiện nay.
+ Khảo sát thực tiễn hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị
cáo là người DTTS của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên, thông qua
hoạt động của KSV ở các giai đoạn chuẩn bị xét xử; giai đoạn xét xử và giai
đoạn kết thúc phiên toà, xác định những nguyên nhân của những ưu điểm và
tồn tại cần khắc phục.
+ Đề xuất luận chứng, quan điểm, và giải pháp nhằm bảo đảm hoạt
động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự đối với bị cáo là người DTTS của
VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên đáp ứng yêu cầu hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn của các quan điểm, giải pháp bảo đảm hoạt động kiểm sát xét xử án
hình sự đối với bị cáo là người DTTS theo BLHS, BLTTHS Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về mặt lý
luận và thực tiễn hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người
DTTS của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên, và chỉ giới hạn ở giai
đoạn xét xử (gồm: các hoạt động trước, trong và sau xét xử). Về thời gian,
trong khoảng thời gian 5 năm (2004 - 2008), cả về phương diện lý luận và
thực tiễn đều cho thấy hoạt động KSXX và hoạt động thực hành quyền công
tố của KSV tại phiên toà hình sự có quan hệ chặt chẽ với nhau không thể tách
rời. Vì lẽ đó, luận văn trong nhiều vấn đề không thể không đề cập đến việc
thực hành quyền công tố của KSV nhất là những vấn đề trực tiếp liên quan
đến KSXX án hình sự.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm mang

tính lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước và pháp luật
trong thời kỳ đổi mới, về cải cách tư pháp và chính sách dân tộc. Luận văn
cũng dựa trên cơ sở lý luận của các bộ môn khoa học pháp lý chuyên ngành,
trực tiếp là bộ môn lý luận chung về nhà nước và pháp luật, khoa học luật
hình sự, tố tụng hình sự Việt Nam.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của
triết học Mác - Lênin, trực tiếp sử dụng các phương pháp phân tích và tổng
hợp, lịch sử cụ thể, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Ngoài ra, luận văn còn
sử dụng một số các phương pháp của các bộ môn khoa học khác, như phương
pháp của lý thuyết hệ thống, phương pháp của khoa học thống kê, phương
pháp xã hội học.
Các phương pháp của triết học Mác-Lênin có ý nghĩa phương pháp
luận, được luận văn sử dụng đồng thời để giải quyết các nhiệm vụ được đặt
ra: phương pháp của khoa học thống kê, xã hội học, được sử dụng chủ yếu
trong khảo sát tình hình phạm tội và đánh giá thực trạng, phương pháp lý
thuyết hệ thống bảo đảm tính toàn diện, nhất quán, sự cân đối và liên thông
giữa các nội dung của luận văn.
6. Những điểm mới về mặt khoa học của luận văn
Từ kết quả đạt được luận văn có những điểm mới về mặt khoa học sau:
- Phân tích làm nổi bật các đặc điểm của hoạt động KSXX án hình sự
đối với bị cáo là người DTTS.
- Xác định các yếu tố ảnh hưởng, những yêu cầu, điều kiện bảo đảm
hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS ở Việt
Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị
cáo là người DTTS của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên, rút ra những
hạn chế và nguyên nhân dẫn đến hạn chế đó hiện nay.
- Luận chứng và đề xuất các quan điểm, giải pháp bảo đảm hoạt động
kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS của VKSND cấp
huyện ở tỉnh Thái Nguyên đáp ứng yêu cầu đặt ra hiện nay.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên những cơ sở lý luận và thực
tiễn hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS của
VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên. Do vậy kết quả nghiên cứu của luận
văn góp phần phát triển cơ sở lý luận nhằm bảo đảm cho hoạt động kiểm sát xét
xử án hình sự đối với các bị cáo là người DTTS, có giá trị tham khảo trực tiếp
cho VKSND tỉnh Thái Nguyên. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy tại các cơ sở đào tạo, nghiên cứu luật ở tỉnh
Thái Nguyên cũng như các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khác trên phạm vi cả nước.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT XÉT XỬ
ÁN HÌNH SỰ SƠ THẨM ĐỐI VỚI BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DÂN TỘC
THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM
1.1. HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT XÉT XỬ ÁN HÌNH SỰ VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA
HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT XÉT XỬ SƠ THẨM ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CÁO LÀ
NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.1.1. Khái niệm hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự
Hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự là hoạt động kế tiếp hoạt động
kiểm sát điều tra, là quá trình kiểm tra lại các kết quả của hoạt động điều tra
và hoạt động kiểm sát điều tra, nhằm bảo vệ quan điểm truy tố của VKSND.
Hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự được bắt đầu khi hồ sơ vụ án
được chuyển đến Toà án nhân dân, TAND quyết định đưa vụ án ra xét xử tại
phiên toà, VKS thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động xét xử của Toà án và thực hành quyền công tố nhà nước tại phiên toà. Hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố là loại hình hoạt
động đặc trưng của VKSND được Hiến pháp và pháp luật qui định.
Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam và Điều 16

Luật Tổ chức VKSND (năm 2002) qui định: “Trong hoạt động kiểm sát xét
xử các vụ án hình sự VKSND có trách nhiệm thực hành quyền công tố đảm
bảo việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và kiểm sát việc xét xử
các vụ án hình sự, nhằm bảo đảm xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp
thời" [17].
Như vậy, trong giai đoạn kiểm sát xét xử án hình sự, VKSND thực hiện
đồng thời hai hoạt động là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân. Hoạt động thực hành
quyền công tố trong giai đoạn xét xử là truy tố người có hành vi phạm tội ra
trước Toà án nhân dân, còn hoạt động kiểm sát xét xử là bảo đảm việc thực
hiện theo pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất theo đúng qui định
của pháp luật và đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Để làm rõ
khái niệm hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự, cần làm rõ một số
vấn đề sau:
- Hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự là một trong các hoạt
động kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND.Theo qui định tại Điều 137
Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001), chức năng của VKSND đã được điều chỉnh,
theo đó là VKSND không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong lĩnh vực hành chính - kinh tế - xã hội mà chỉ tập trung thực hiện
chức năng "thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp". Luật
Tổ chức VKSND (năm 2002) qui định kiểm sát hoạt động tư pháp gồm:
+ Hoạt động kiểm sát điều tra.
+ Hoạt động kiểm sát xét xử.
+ Hoạt động kiểm sát thi hành án.
+ Hoạt động kiểm sát tạm giam, tạm giữ, cải tạo phạm nhân.
Như vậy, kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là chức năng
hiến định của VKSND, có nội dung giám sát mọi hoạt động của các cơ quan
tư pháp trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, nhằm
đảm bảo cho pháp luật tố tụng hình sự được thực hiện nghiêm chỉnh và thống

nhất [18, tr.62].
Khác với hoạt động thực hành quyền công tố nhà nước, kiểm sát các
hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự của VKSND không chỉ được tiến
hành trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử mà còn được tiến hành ở cả giai
đoạn thi hành án, trong đó hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự có
mục đích là nhằm phát hiện kịp thời những vi phạm pháp luật của các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng để bảo đảm
việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời.
- Đối tượng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử sơ thẩm án
hình sự là kiểm sát việc tuân thủ pháp luật nghiêm chỉnh và thống nhất của cơ
quan tiến hành tố tụng (Toà án nhân dân), của người tiến hành tố tụng (thẩm
phán, thư ký, hội thẩm nhân dân), và những người tham gia tố tụng gồm: (bị
cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan đến vụ án, người làm chứng, người bào chữa, người giám định,
người phiên dịch). Trong quá trình kiểm sát, VKSND ngoài việc xem xét
TAND có tuân thủ chấp hành các qui định của BLTTHS (năm 2003) như:
các qui định về thủ tục tố tụng ở giai đoạn chuẩn bị xét xử, các qui định tố
tụng chung tại phiên toà như: xét hỏi, tranh luận, nghị án mà còn xem xét
việc áp dụng pháp luật hình sự và đường lối xử lý của Toà án có đảm bảo
đúng pháp luật qui định hay không, nếu có vi phạm, thì tiến hành kiến nghị,
kháng nghị nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố
tụng. BLTTHS (năm 2003) qui định trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự
có các trình tự thủ tục như: Xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, và việc xét lại
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm. Ở những giai đoạn xét xử khác nhau thì nhiệm vụ quyền hạn và nội
dung kiểm sát xét xử của VKSND có những đặc điểm khác nhau, bởi do tính
chất pháp lý của từng hình thức phiên toà qui định.
- Phạm vi hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự
Phạm vi hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự đang là một vấn
đề có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng hoạt động kiểm sát xét xử

sơ thẩm án hình sự chỉ bắt đầu khi Toà án có quyết định đưa vụ án ra xét xử,
tức là khi Toà án xác định một vụ án đã có đủ điều kiện để đưa ra xét xử.
Điều đó có nghĩa ở giai đoạn chuẩn bị xét xử Toà án có thể đình chỉ vụ án
hoặc VKS có thể rút quyết định truy tố, và đó không thuộc phạm vi kiểm sát
xét xử sơ thẩm án hình sự. Có ý kiến lại cho rằng theo quy định tại Điều 17
Luật Tổ chức VKSND (năm 2002) thì hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự chỉ bắt đầu khi TAND bắt đầu mở phiên toà xét xử, vì lúc này
VKS mới có điều kiện thực hiện hoạt động buộc tội đối với bị cáo và đồng
thời kiểm sát các hoạt động của những người tiến hành tố tụng, người tham
gia tố tụng một cách công khai. Như vậy theo ý kiến này, phạm vi hoạt
động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự còn hẹp hơn ý kiến ban đầu, mặc dù
vậy các ý kiến ấy điều cho thấy có sự hợp lý ở một góc độ nhất định.
Để xác định chính xác phạm vi của hoạt động Kiểm sát xét xử sơ thẩm
án hình sự đòi hỏi phải nhìn nhận một cách đầy đủ và toàn diện trên cơ sở các
qui định của Hiến pháp, pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
VKSND. Theo qui định của BLTTHS xác định giai đoạn quyết định việc truy
tố nằm trong giai đoạn hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, khi cơ
quan điều tra, kết thúc điều tra bằng bản kết luận và chuyển hồ sơ cho VKS
đề nghị truy tố, VKS xét thấy có đủ dấu hiệu phạm tội thì truy tố bị can ra
TAND bằng bản cáo trạng, hành vi pháp lý đó đã kết thúc giai đoạn hoạt động
kiểm sát điều tra, mở ra một giai đoạn tố tụng tiếp theo, đó là giai đoạn hoạt
động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự.
Như vậy theo các qui định này, có thể xác định phạm vi của hoạt động
kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự được bắt đầu từ khi Toà án có thẩm quyền
nhận và thụ lý hồ sơ vụ án kèm theo quyết định truy tố của VKSND và kết
thúc khi bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật. Việc xác định
giới hạn như trên chỉ hiểu là tương đối, bởi lẽ hoạt động xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự của TAND có thể bị chấm dứt ngay trong quá trình xét xử khi
có căn cứ qui định tại Điều 105 BLTTHS "khởi tố theo yêu cầu người bị hại"
khi người bị hại rút yêu cầu khởi tố trước khi mở phiên toà, thì Toà án phải ra

quyết định đình chỉ vụ án, hoặc khi VKS ra quyết định rút quyết định truy tố,
hoặc khi bản án, quyết định của TAND có kháng cáo hoặc bị kháng nghị theo
trình tự phúc thẩm.
Quan điểm về phạm vi hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật
như đã nêu trên, được Điều 2 Qui chế thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự (năm 2008) và
Điều 3 Qui chế thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự
ban hành năm 2007 thể hiện rõ với các nội dung:
- Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc điều tra các vụ án hình sự bắt đầu từ khi phát hiện có dấu hiệu
phạm tội xảy ra đến khi kết thúc việc điều tra.
- Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử án hình sự được
bắt đầu từ khi chuyển bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút
gọn cùng với hồ sơ vụ án sang TAND để xét xử và kết thúc khi bản án và
quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật không bị kháng cáo, kháng nghị.
- Theo qui định của BLTTHS (năm 2003) hoạt động kiểm sát xét xử sơ
thẩm án hình sự có một số vấn đề cần chú ý sau: Về thẩm quyền thực hiện
hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình
sự. Tại Điều 170 BLTTHS qui định,TAND cấp huyện được xét xử sơ thẩm
những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm
trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ một số tội phạm khác theo qui định.
TAND cấp tỉnh được xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm
không thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện hoặc những vụ án thuộc thẩm
quyền của TAND cấp dưới mà cấp trên lấy lên để xét xử.
Như vậy, qua sự phân tích trên chúng ta có thể hiểu: Hoạt động kiểm
sát xét xử sơ thẩm án hình sự là việc VKSND sử dụng quyền năng pháp lý do
pháp luật qui định để kiểm tra, giám sát tính hợp pháp, tính có căn cứ, đúng
pháp luật những hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự, nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp

thời. Hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự theo quan niệm đó được
thực hiện trong cả giai đoạn chuẩn bị xét xử, giai đoạn xét xử công khai và
giai đoạn sau khi xét xử xong vụ án.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự
đối với bị cáo là người dân tộc thiểu số
Hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự đối với bị cáo là người
DTTS có những đặc điểm chung của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án
hình sự, đồng thời còn có những đặc điểm riêng, được qui định chủ yếu do bị
cáo là người DTTS cụ thể như sau:
1.1.2.1. Các đặc điểm chung của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm
án hình sự
Theo qui định của BLTTHS, quá trình tiến hành tố tụng hình sự bao
gồm nhiều giai đoạn khác nhau gồm: giai đoạn khởi tố điều tra, giai đoạn truy
tố và giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, các giai đoạn này đều thực hiện mục
đích xử lý nghiêm minh đối với người phạm tội, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích pháp hợp của công dân. Các giai đoạn tố tụng
nêu trên tuy tương đối độc lập nhưng có mối quan hệ khăng khít với nhau tạo
thành một hoạt động thống nhất. Giai đoạn trước là tiền đề cần thiết cho việc
thực hiện nhiệm vụ của giai đoạn sau và ngược lại, giai đoạn sau là sự kiểm
nghiệm kết quả khách quan đúng đắn của giai đoạn trước, mỗi giai đoạn tố
tụng ấy đều có một ý nghĩa quan trọng và mang tính đặc thù riêng trong pháp
luật tố tụng hình sự.
Trong các giai đoạn tố tụng hình sự, giai đoạn xét xử được xác định là
giai đoạn quan trọng nhất, nó mang tính quyết định đối với vụ án, điều này
được khẳng định tại Điều 9 BLTTHS (năm 2003) với nội dung "không ai bị
coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã
có hiệu lực pháp luật" [19].
Hoạt động tố tụng hình sự luôn có ba chức năng: gồm chức năng buộc
tội, chức năng bào chữa, chức năng xét xử. Chức năng tố tụng buộc tội thực
chất là hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Ở Việt

Nam, Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam qui định: VKSND là cơ
quan duy nhất thay mặt Nhà nước thực hiện chức năng buộc tội, có trách
nhiệm và có quyền đưa ra lời cáo buộc đối với người phạm tội và bảo vệ sự
buộc tội đó tại phiên toà, nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được
xử lý nghiêm minh, kịp thời, không bỏ lọt tội phạm, lọt người phạm tội và
không làm oan người vô tội. Những hoạt động đó được diễn ra tại phiên toà
xét xử sơ thẩm hình sự, bởi đây là xét xử lần đầu, do TAND có thẩm quyền
tiến hành theo qui định của pháp luật, tuy nhiên không phải mọi trường hợp
xét xử sơ thẩm đều là xét xử lần đầu. Trong thực tiễn có các trường hợp Toà
án có thẩm quyền xét xử đã ra quyết định huỷ án để điều tra hoặc xét xử lại
dựa trên qui định pháp luật cụ thể là: theo các Điều 250 BLTTHS (Toà án cấp
phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại), Điều 287
BLTTHS (Hội đồng giám đốc thẩm huỷ bản án hoặc quyết định đã có hiệu
lực pháp luật để điều tra hoặc xét xử lại), Điều 300 BLTTHS (Hội đồng tái
thẩm quyết định huỷ bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều
tra lại hoặc xét xử lại vụ án) thì việc xét xử sơ thẩm trong các trường hợp này
không thể được coi là xét xử lần đầu. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự trong các trường hợp trên theo BLTTHS qui định chủ yếu thuộc về
TAND cấp huyện, một số vụ án thuộc về TAND cấp tỉnh và tương đương.
Với quan niệm trên, hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự có
những đặc điểm sau:
Một là: Kiểm sát xét xử tại phiên toà sơ thẩm là buộc tội bị cáo, bảo vệ
cáo trạng, đấu tranh cho quan điểm pháp chế thống nhất tại phiên toà. VKSND,
nhân danh Nhà nước thực hiện quyền lực để truy tố người phạm tội ra trước
TAND và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên toà xét xử sơ thẩm án hình sự.
Hai là: Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử sơ
thẩm án hình sự của Toà án nhân dân, chỉ duy nhất thuộc về VKSND được
thực hiện trên cơ sở các qui định cụ thể của Hiến pháp và pháp luật hình
sự, Tố tụng hình sự và Luật Tổ chức VKSND, hoạt động đó được tiến hành
thông qua hoạt động của KSV được giao nhiệm vụ kiểm sát xét xử sơ thẩm

án hình sự.
Trong quá trình xét xử các vụ án hình sự theo trình tự sơ thẩm, sự tuân
thủ pháp luật của HĐXX và những người tham gia tố tụng là đối tượng của
hoạt động kiểm sát. Căn cứ vào các qui định của pháp luật, KSV thực hiện
nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình xét xử vụ án, nhằm
bảo đảm xét xử của TAND được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo
đảm cho tất cả các chủ thể trong các quan hệ pháp luật phát sinh trong quá
trình xét xử đều thực hiện được đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo
qui định của pháp luật và đều bình đẳng trước pháp luật.
Mặt khác, hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự còn đảm bảo
mọi trường hợp oan sai đều phải được giải quyết kịp thời, có những biện pháp
khắc phục nhanh chóng những thiệt hại có thể xảy ra đúng theo Nghị quyết số
388/NQ/ Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá X ngày 17 tháng 3 năm 2003 qui
định về "bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng hình sự gây ra".
Ba là: Về nội dung hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự gồm:
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc chuẩn bị xét xử. Chuẩn bị xét xử
là việc chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đưa một vụ án ra xét xử theo
đúng qui định của pháp luật, thực hiện tốt việc chuẩn bị xét xử sẽ nâng cao
chất lượng xét xử vụ án, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử các cơ quan tiến
hành tố tụng (Toà án nhân dân, VKSND) và những người tiến hành tố tụng
(thẩm phán, hội thẩm nhân dân, thư ký, KSV, phải tiến hành các hoạt động
nhất định, tuỳ theo chức năng tố tụng của mình theo pháp luật qui định.
Đối với thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà, trong giai
đoạn này phải tiến hành các hoạt động như: nghiên cứu hồ sơ vụ án, giải
quyết việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn, các yêu cầu,
khiếu nại của những người tham gia tố tụng, đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án
nếu có các căn cứ theo luật định và tiến hành các công việc cần thiết khác cho
việc mở phiên toà.
Đối với KSV khi được phân công thực hành quyền công tố, kiểm sát

xét xử vụ án hình sự thì việc kiểm sát các hoạt động chuẩn bị xét xử của Toà
án là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Hoạt động này được bắt đầu từ
khi Toà án nhận được hồ sơ vụ án và kết thúc khi vụ án được đưa ra xét xử tại
phiên toà. Căn cứ vào Qui chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát
xét xử các vụ án hình sự, ban hành kèm theo Quyết định số 960 ngày 17 tháng
9 năm 2007 của VKSND tối cao, thì trong giai đoạn này KSV phải kiểm sát
việc tuân theo pháp luật các việc sau: Đó là về kiểm sát thẩm quyền xét xử,
việc chuyển vụ án, về thời gian chuẩn bị xét xử, việc ra quyết định đưa vụ án
ra xét xử, quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án, việc giao các quyết
định này cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ và người bào chữa chậm
nhất là mười ngày trước khi mở phiên toà theo Điều 182 BLTTHS.
Khi thực hiện những công việc trên, KSV có quyền yêu cầu Toà án khắc
phục vi phạm hoặc báo cáo Viện trưởng VKSND cùng cấp đề xuất việc kiến
nghị Toà án khắc phục những vi phạm trong khi chuẩn bị xét xử, hoặc đề xuất
kháng nghị các quyết định của Toà án cấp sơ thẩm khi có vi phạm nghiêm
trọng BLTTHS.
Thông thường ngay từ khi kiểm sát việc khởi tố vụ án, KSV đã phải xác
định ngay thẩm quyền tiến hành tố tụng của VKSND và tương ứng là thẩm
quyền của cơ quan điều tra và Toà án nhân dân. Sau khi kết thúc giai đoạn
truy tố, VKS chuyển hồ sơ sang Toà án có thẩm quyền theo qui định. Tuy
nhiên nhiều khi việc xác định chính xác thẩm quyền tố tụng nói chung và
thẩm quyền xét xử nói riêng cũng rất phức tạp, nhiều trường hợp không xác
định được ngay bởi có thể còn có các quan điểm khác nhau xung quanh việc
Toà án nào là cơ quan có thẩm quyền xét xử vụ án. Do vậy, trong thực tiễn
còn có những trường hợp xảy ra việc khi nhận hồ sơ, thụ lý vụ án mà không
thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án cấp mình mà phải chuyển hồ sơ cho
TAND khác giải quyết theo thẩm quyền.Trong trường hợp này theo qui định
tại Điều 174 BLTTHS trong thời hạn hai ngày kể từ ngày Toà án ra quyết
định chuyển vụ án, Toà án có trách nhiệm thông báo cho VKSND cùng cấp
biết. Khi nhận được thông báo về việc chuyển vụ án, KSV phải kiểm tra lại

hồ sơ vụ án, kiểm tra lại các căn cứ xác định thẩm quyền việc chuyển vụ án
theo thẩm quyền xét xử có đúng pháp luật qui định hay không, đồng thời
kiểm sát việc quyết định chuyển vụ án đã được gửi tới bị can, bị cáo và những
người có liên quan.
Trong giai đoạn kiểm sát thời hạn chuẩn bị xét xử đây là khoảng thời
gian luật định để TAND tiến hành các hoạt động chuẩn bị cần thiết cho việc
xét xử, thời hạn chuẩn bị xét xử cũng là thời hạn để thẩm phán được phân
công chủ toạ phiên toà ra một trong các quyết định cần thiết để đưa một vụ án
ra xét xử. Tuỳ theo tính chất của tội phạm là ít nghiêm trọng, nghiêm trọng,
rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng mà thời hạn ra một trong các quyết
định như: đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ vụ án, trả hồ sơ để điều tra bổ sung
hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử cũng khác nhau. Vì vậy KSV, kiểm sát
thời hạn chuẩn bị xét xử phải xác định chính xác thời điểm bắt đầu chuẩn bị
xét xử, nhất là đối với những trường hợp bị can tại ngoại, phải kiểm sát việc
tống đạt cáo trạng cho bị can và việc chuyển hồ sơ sang Toà án. Điều 176
BLTTHS quy định trong vòng 15 ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ án
ra xét xử Toà án phải mở phiên toà, trong trường hợp có lý do chính đáng thì
Toà án có thể mở phiên toà trong thời hạn 30 ngày. Khi kiểm sát thời hạn
chuẩn bị xét xử của Toà án KSV không chỉ có trách nhiệm kiểm tra xem thời
gian ra các quyết định có đúng theo qui định tại Điều 176 BLTTHS hay
không mà còn phải đôn đốc thẩm phán, chủ toạ phiên toà tuân thủ thời hạn
chuẩn bị xét xử để hoạt động được tiến hành nhanh chóng, đúng thời hạn
luật định.
Về thẩm quyền trong kiểm sát việc chuẩn bị xét xử, VKSND có quyền
yêu cầu TAND cùng cấp chuyển hồ sơ những vụ án sẽ xét xử theo thủ tục sơ
thẩm để tiến hành kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự, quyền yêu cầu Toà án
xét xử sơ thẩm đưa vụ án hình sự ra xét xử đúng thời hạn pháp luật qui định.
Theo Điều 16 Luật Tổ chức VKS (năm 2002) VKSND, kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm
pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, áp

dụng những biện pháp do bộ luật này qui định để loại trừ vi phạm pháp luật
của những cơ quan hoặc cá nhân này, đồng thời nhằm bảo đảm mọi hành vi
phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan, không lọt tội phạm.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử trong giai đoạn
này, KSV ngoài việc thực hiện các hoạt động kiểm sát, còn thực hành quyền
công tố tại phiên toà, buộc tội bị cáo, bảo vệ cáo trạng, đấu tranh cho quan
điểm pháp chế thống nhất tại phiên toà. Theo qui định tại Điều 16 Luật Tổ
chức VKSND (năm 2002) và các Điều 206, 207, 208, 217, 221 BLTTHS, tại
phiên toà xét xử vụ án hình sự theo thủ tục sơ thẩm, sau phần thủ tục phiên
toà, KSV đọc cáo trạng, trình bày những ý kiến bổ sung cáo trạng của VKS
nếu có, trình bày quan điểm của VKS về việc đánh giá tính chất, mức độ nguy
hiểm hành vi phạm tội của bị cáo, đề nghị Toà án xét xử vụ án đúng qui định
của pháp luật. Trình tự xét hỏi được thực hiện theo Điều 207 BLTTHS sau
khi Hội đồng xét hỏi, KSV tiến hành thẩm vấn, xét hỏi bị cáo, người bị hại,
những người có liên quan đến vụ án, khi kết thúc phần thẩm vấn, KSV trình
bày bản luận tội và tiến hành tranh luận tại phiên toà, kết luận của KSV có thể
đề nghị TAND kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng,
hoặc kết luận về một tội danh khác nhẹ hơn. Trường hợp qua xét xử công khai
tại phiên toà nếu xét thấy không có căn cứ để chứng minh hành vi phạm tội
của bị cáo thì KSV rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị HĐXX căn cứ
khoản 2 Điều 107 BLTTHS, tuyên bố hành vi không cấu thành tội phạm,
KSV phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những quyết định của mình và
có quyền thực hiện những biện pháp theo pháp luật qui định để thực hiện
chức năng kiểm sát hoạt động xét xử tại phiên toà sơ thẩm.
Trong trường hợp phát hiện có vi phạm thì KSV có quyền kiến nghị với
TAND cùng cấp khắc phục, đồng thời qua kiểm sát các hoạt động trên KSV
kiến nghị với các cơ quan hữu quan, tổ chức, khắc phục những vi phạm và áp
dụng những biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật. Điều 18
Luật Tổ chức VKSND (năm 2002) qui định, trong quá trình thực hiện kiểm

sát xét xử sơ thẩm án hình sự phát hiện HĐXX có những vi phạm pháp luật
thì KSV yêu cầu HĐXX khắc phục và sửa chữa kịp thời, cũng trong hoạt
động kiểm sát xét xử, nếu phát hiện các cơ quan, tổ chức xã hội thiếu sót
trong việc quản lý, làm phát sinh vi phạm và tội phạm, thì VKS thực hiện
quyền kiến nghị với các cơ quan, các tổ chức xã hội, có những biện pháp khắc
phục sửa chữa những thiếu sót, trong việc quản lý chỉ đạo điều hành để loại
bỏ nguyên nhân, điều kiện phạm tội và vi phạm pháp luật.
Như phần mở đầu đã phân tích, trong giai đoạn KSXX án hình sự, KSV
đồng thời thực hiện cả hai chức năng thực hành quyền công tố và KSXX.
Trên thực tế đây là hai nhiệm vụ thống nhất và quan hệ chặt chẽ với nhau,
thực hành quyền công tố tốt sẽ giúp cho KSV kiểm sát xét xử tốt vụ án và
ngược lại.
Bốn là: Trong hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự, VKSND có
quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án và quyết định của
TAND chưa có hiệu lực pháp luật, khi phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm
trọng BLHS, BLTTHS.
Căn cứ Điều 19 Luật Tổ chức VKSND (năm 2002) và các Điều 232,
Điều 233, 234, 239 BLTTHS, sau khi kết thúc việc xét xử công khai thì
TAND ra một bản án, quyết định. Trong trường hợp bản án, quyết định của
Toà án đã tuyên có vi phạm và vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp
luật về định tội danh, lượng hình phạt, hoặc HĐXX khi tiến hành tố tụng vi
phạm pháp luật thì VKSND cùng cấp ra quyết định kháng nghị phúc thẩm
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm và kháng nghị trong thời
hạn 7 ngày kể từ ngày Toà án ra quyết định đối với vụ án. Những bản án,
quyết định của Toà án có vi phạm nhưng không nghiêm trọng, hậu quả xảy ra
không đáng kể, có thể khắc phục được thì VKSND kiến nghị yêu cầu TAND
khắc phục sửa chữa. Trong hoạt động xét xử án hình sự, VKSND thực hiện các
quyền hạn và nhiệm vụ nhằm bảo đảm phát hiện kịp thời những vi phạm, tội
phạm, phát hiện những nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Trong quá trình thực
hiện hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự, KSV phải chú trọng thực hiện đầy đủ

các nhiệm vụ và quyền hạn theo luật định nhằm bảo đảm tính thống nhất của
pháp chế XHCN trong hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự, đặc biệt là cấp
huyện hiện nay đã được tăng thẩm quyền theo Điều 170 BLTTHS.
1.1.2.2. Đặc điểm riêng của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình
sự đối với bị cáo là người dân tộc thiểu số
Cộng đồng dân tộc Việt Nam gồm 54 dân tộc anh em được hình thành
trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. Dựa trên quan điểm của chủ
nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng ta luôn coi
trọng vấn đề dân tộc và đề ra đường lối chính sách dân tộc đúng đắn tạo sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần xây dựng đất nước Việt Nam
XHCN. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: "vấn đề dân tộc và
đoàn kết các dân tộc luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng Việt
Nam" [7].
Quan điểm và định hướng dân tộc của Đảng đã được thể chế hoá trong
Hiến pháp và pháp luật. Điều 5 Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam xác định: "Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam, Nhà nước
thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm
cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói
chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục tập quán truyền
thống văn hoá tốt đẹp của mình". Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về
mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào
DTTS. Trong BLTTHS qui định "Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng
hình sự là tiếng Việt" [19]. Điều này có nghĩa là người tham gia tố tụng có
quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình. Tại Điều 10 Luật Trợ giúp
pháp lý qui định: "người được trợ giúp pháp lý, là người DTTS thường trú ở
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn". Mặc dù quyền bình
đẳng giữa các dân tộc và chính sách tương trợ giúp đỡ đồng bào DTTS được
Đảng, Nhà nước chỉ đạo thực hiện kiên quyết song thực tế đến nay cuộc sống
và sinh hoạt của đồng bào DTTS còn chịu sự chi phối mạnh mẽ của rất nhiều

yếu tố khác nhau, bởi đa phần họ cư trú ở vùng rừng núi, vùng sâu, vùng xa,
vùng đặc biệt khó khăn, địa hình phức tạp với nhiều nhóm địa phương, xa
trung tâm văn hoá, phương tiện đi lại khó khăn, vẫn còn có những dân tộc
sống du canh, du cư, trình độ văn hoá thấp thậm chí còn không biết chữ, các
phương tiện thông tin đại chúng như đài phát thanh, truyền hình, báo chí,
phim ảnh, văn hoá văn nghệ nhìn chung ít được tiếp cận, công tác tuyên
truyền giáo dục pháp luật của các cơ quan chức năng không được thường
xuyên, chất lượng hạn chế. Trong đời sống và sinh hoạt của đồng bào dân tộc
luật tục vừa là một hiện tượng văn hoá phản ánh bản sắc văn hoá của dân tộc
đồng thời vừa là qui tắc ứng xử phổ biến truyền thống trong quan hệ con
người với con người, con người với cộng đồng, thêm vào đó tín ngưỡng, tôn
giáo cũng tác động rất mạnh mẽ đối với đời sống của họ. Không ít những
hành vi được xử theo luật tục, tín ngưỡng, trái với yêu cầu của pháp luật. Vì lẽ
đó, bên cạnh việc thực hiện chính sách ưu tiên, ưu đãi, nhằm phát triển nâng
cao đời sống kinh tế, văn hoá của đồng bào dân tộc, đặc biệt là đồng bào vùng
sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải quan
tâm công tác giáo dục vận động đồng bào, giúp đỡ các DTTS ở vùng sâu,
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn từ bỏ những tập tục lạc hậu, xây dựng đời
sống văn hoá mới phù hợp với đạo đức truyền thống, pháp luật, đồng thời
tuyên truyền giáo dục pháp luật để mọi người dân hiểu và tự giác thực hiện
bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất.
Tuy nhiên, cùng với quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật trong đồng bào DTTS còn xảy
ra nhiều, nhất là ở các vùng Tây Bắc, Việt Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ.
Những đối tượng tội phạm là người DTTS có những đặc điểm riêng như sau:
- Do trình độ văn hoá thấp, nhận thức rất hạn chế, hạn chế
trong quan hệ xã hội, trong giao tiếp, bản chất thật thà.
- Cuộc sống không ổn định, đa phần đời sống khó khăn và
chịu ảnh hưởng nặng nề của các luật tục, tập quán lạc hậu.
- Không hiểu biết pháp luật nói chung, nhất là không biết rõ

được hành vi phạm tội là hành vi mà pháp luật hình sự nghiêm cấm.
- Không biết khi phạm tội họ được bảo đảm các quyền và
nghĩa vụ theo Hiến pháp và pháp luật qui định như quyền yêu cầu luật
sư bào chữa, quyền dùng tiếng nói, chữ viết, quyền được trợ giúp
pháp lý.
Với những đặc điểm trên, việc giải quyết các vụ án hình sự mà đối tượng
phạm tội là DTTS trong hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự có những đặc
điểm riêng như sau:
- Những đặc điểm trong nghiên cứu, kiểm tra hồ sơ vụ án:
Để tham gia phiên toà có kết quả, trước hết người KSV, phải kiểm tra,
nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách toàn diện, từ các chứng cứ có trong hồ sơ vụ
án đến việc áp dụng các thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, đến quyết
định truy tố, nắm vững các tài liệu của vụ án là yêu cầu thường xuyên đối với
người KSV. Trong mọi trường hợp, đặc biệt là đối tượng phạm tội là người
DTTS, KSV phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, các tài liệu trong vụ án, các thủ tục tố
tụng, các quyền và nghĩa vụ mà các bị cáo được đảm bảo thực hiện như, thủ
tục mời luật sư, việc tống đạt hợp lệ các quyết định của cơ quan điều tra, cơ
quan truy tố, cơ quan xét xử, các chứng cứ, các lời khai, đảm bảo thu thập
theo trình tự tố tụng, KSV luôn tính đến những khả năng việc điều tra công
khai tại phiên toà không được thuận lợi, dễ dàng, thậm chí tính đến những
tình tiết mới phát sinh trong khi đang tiến hành xét xử làm thay đổi một phần
hoặc toàn bộ bản chất của vụ án hình sự.
KSV phải kiểm tra sự có mặt của những người tham gia tố tụng, kiểm
tra xem việc mở phiên toà xét xử có đúng qui định của pháp luật hay không,
trên cơ sở đó phát biểu về việc vụ án có được đưa ra xét xử hay không khi
vắng mặt của bị cáo, người bị hại, người làm chứng hoặc những người tham
gia tố tụng khác như người giám định, đặc biệt là người phiên dịch do bị cáo
là người DTTS, không hiểu biết tiếng Việt, hoặc có biết chút ít nhưng không
thông thạo, nếu vắng người phiên dịch thì phải hoãn phiên toà. Người phiên
dịch là người do cơ quan Điều tra, VKS hoặc Toà án yêu cầu trong trường

hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng việt, người phiên
dịch phải có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan Điều tra, VKS, Toà án và
phải dịch trung thực, không được tiết lộ bí mật điều tra, nếu dịch gian dối thì
người phiên dịch phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 307 BLHS. Ý kiến
của KSV được nêu lên trong việc kiểm sát hoạt động xét xử là bảo đảm đúng
pháp luật do đó đòi hỏi người KSV phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án một cách
đầy đủ, toàn diện và khách quan, việc nghiên cứu kỹ tất cả các lời khai của bị
cáo, người bị hại, người làm chứng, người phiên dịch trong hồ sơ vụ án, kết
luận của giám định viên , cho phép KSV chủ động đánh giá chứng cứ vụ án.
Trong thực tiễn trường hợp quá tin vào lời khai nhận tội của bị cáo thông qua
phiên dịch viên tại cơ quan điều tra, không chú ý nghiên cứu một cách toàn
diện trên cơ sở các tài liệu khác nên không phát hiện ra các mâu thuẫn trong
hồ sơ, dẫn đến việc đánh giá vụ án bị sai lệch. Một hồ sơ vụ án gồm nhiều tài
liệu, được thu thập theo một trình tự tố tụng nhất định, trong đó có những tài
liệu mâu thuẫn với nhau như các lời khai của người làm chứng mâu thuẫn với
các lời khai của bị cáo hoặc lời khai của bị cáo mâu thuẫn với các tài liệu
khác như biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi. Vì vậy khi
nghiên cứu các tài liệu này, KSV phải đối chiếu, so sánh, chắt lọc các nội
dung hợp lý để phân tích, đánh giá một cách tổng hợp về các tình tiết của vụ án,

×