Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người Dân tộc thiểu số của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (877.25 KB, 109 trang )







LUẬN VĂN:

Cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động kiểm
sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là
người Dân tộc thiểu số của VKSND cấp
huyện ở tỉnh Thái Nguyên







MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo
trong hơn 20 năm qua đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế,
đã đem lại cho đất nước một sự thay đổi cơ bản, toàn diện làm cho thế và lực của nước ta
không ngừng lớn mạnh trên trường quốc tế.
Trong những lĩnh vực đổi mới thì đổi mới hệ thống chính trị, trong đó đổi mới tổ
chức hoạt động của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng góp phần ngày càng hoàn thiện cơ
cấu và cơ chế tổ chức hoạt động, chất lượng hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp
ngày càng được bảo đảm. Nhà nước thực hiện quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội ngày càng hiệu quả, tính pháp quyền ngày càng rõ rệt phù


hợp với bối cảnh mới của đất nước thời đại.
Nhất quán đường lối đổi mới tại Đại hội Đảng IX, tại Đại hội X Đảng Cộng sản
Việt Nam đã tiếp tục chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
(XHCN) của dân, do dân, vì dân, thực hiện tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, đồng thời
gắn việc thực hiện chủ trương này với việc thực hiện ba cuộc cải cách lớn về bộ máy nhà
nước, gồm cải cách lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp. Thực hiện cải cách
tư pháp là nhằm “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh,
bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, kiện toàn các cơ quan tư pháp theo hướng nâng
cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả lấy cải cách tổ chức và hoạt động xét xử làm trung
tâm”.
Thực hiện mục tiêu trên các hoạt động cải cách tư pháp đã diễn ra mạnh mẽ, trên
tất cả các yếu tố cấu trúc của nền tư pháp, với nhiều chuyển biến tích cực, góp phần quan
trọng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần thực hiện công bằng xã hội, phục
vụ tích cực vào công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.


Tuy nhiên, những kết quả đó mới chỉ là bước đầu, và mới chỉ tập trung vào giải
quyết những vấn đề bức xúc nhất. Hoạt động tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Đối với
hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp, trong đó có hoạt động kiểm sát xét xử (KSXX)
sơ thẩm án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) còn có những hạn chế, chưa
đáp ứng được yêu cầu công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, trong thực tế còn xảy ra
tình trạng oan sai, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong xét xử, đội ngũ Kiểm sát
viên (KSV), kiểm sát xét xử án hình sự còn nhiều yếu kém về nhận thức pháp luật, về
năng lực trình độ, chưa phát huy được hết vai trò trách nhiệm khi thực hiện chức năng,
nhiệm vụ được giao. Việc nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị tài liệu, nội dung đề cương, thẩm
vấn tại phiên toà của KSV chưa được chú trọng. Hoạt động tranh tụng giữa KSV với luật
sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng chất lượng chưa cao. Những tồn tại
nêu trên do nhiều nguyên nhân, cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan đòi

hỏi phải có sự nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để có các quan điểm, giải pháp tháo gỡ có
tính đồng bộ, khả thi. Mặt khác, về phương diện lý luận, quan điểm của Đảng về những
định hướng lớn đổi mới tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp, nhất là việc chuyển
tổ chức Toà án theo đơn vị hành chính sang theo thẩm quyền xét xử, tiến tới Viện kiểm
sát sẽ trở thành Viện Công tố, thực hiện chỉ đạo điều tra đã và đang đặt ra những vấn đề
lý luận, đòi hỏi phải giải quyết để có những phương án cải cách mang tính khoa học và
thực tiễn.
Đối với VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên việc thực hiện cải cách tư pháp
những năm qua đã có nhiều đổi mới, chất lượng công tác kiểm sát hoạt động tư pháp và
thực hành quyền công tố trong giải quyết các vụ án hình sự, trong đó có các vụ án mà bị
cáo là người dân tộc thiểu số (DTTS) ngày càng được bảo đảm. Tuy nhiên, thực tế cho
thấy Thái Nguyên với dân số hơn 1 triệu người, có 10 dân tộc cùng sinh sống (Kinh, Tày,
Nùng, Dao, Cao Lan, Sán Chỉ, Sán chay, H'mông, Hoa), tình hình tội phạm hình sự vẫn
đang diễn ra hết sức phức tạp, đối tượng phạm tội là người DTTS chiếm tỷ lệ cao, nhiều
trường hợp phạm tội nghiêm trọng, như cướp tài sản, giết người, cố ý gây thương tích, hiếp
dâm, cưỡng đoạt tài sản ngày càng tăng. Chất lượng hoạt động KSXX án hình sự còn bộc
lộ nhiều hạn chế, thiếu sót, nhất là trong hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự mà đối tượng


phạm tội là người DTTS. Trước thực trạng và yêu cầu nghiên cứu lý luận trên, đề tài luận
văn Thạc sĩ nghiên cứu "Cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự
đối với bị cáo là người Dân tộc thiểu số của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên" là
hết sức cần thiết và cấp bách đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, đặc biệt là từ khi có Nghị quyết 08-NQ/TW ngày
02/1/2002 của Bộ Chính trị "về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp", vấn đề áp
dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật hình sự trong hoạt động kiểm sát xét xử
sơ thẩm án hình sự nói riêng của ngành kiểm sát luôn là đề tài thu hút sự quan tâm của
nhiều nhà khoa học pháp lý, và đã có nhiều công trình khoa học được công bố đến vấn đề
này, đáng chú ý là các công trình sau:

- VKSND tối cao "Những giải pháp xây dựng đội ngũ KSV cấp huyện đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp hiện nay" (2002). Đề tài khoa học cấp Bộ do Vụ Tổ chức cán bộ
chủ trì đề tài đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về đội ngũ KSV xác định những nguyên
nhân, tồn tại, đề ra biện pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ KSV cấp
huyện, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
- Trịnh Khắc Triệu, "Nâng cao trách nhiệm của KSV trong việc thực hành quyền
công tố tại các phiên toà xét xử án hình sự", Tạp chí Kiểm sát số 08 năm 2002. Bài viết
đã nghiên cứu làm rõ hoạt động thực hành quyền công tố của KSV tại phiên toà, những
vấn đề KSV cần thực hiện tốt trong kiểm sát tại các phiên toà xét xử án hình sự.
- Vũ Mộc, "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới thủ tục tranh luận tại phiên
toà" (2004) đề tài cấp Bộ, Viện Khoa học VKSND tối cao chủ trì đề tài làm rõ cơ sở lý
luận và thực tiễn vận dụng tranh tụng tại phiên toà, đề xuất một số giải pháp nhằm đổi
mới tranh tụng tại phiên toà hình sự theo tinh thần Nghị quyết 08/NQTW của Bộ Chính
trị khoá IX.
- Dương Thanh Biểu, "Tranh luận của KSV tại phiên toà hình sự, những vấn đề lý
luận và thực tiễn", Tạp chí Kiểm sát số 24 năm 2005. Bài viết đã tập trung trung nghiên
cứu những vấn đề lý luận và thực trạng hoạt động tranh luận của KSV tại phiên toà hình
sự và đề xuất phương hướng nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tranh luận của KSV tại


phiên toà hình sự. Luận văn đã phân tích những vấn đề lý luận về tố tụng hình sự trong
bảo đảm quyền con người, trong đó có những vấn đề lý luận liên quan đến vai trò của
KSV qua thực hiện quyền công tố và KSXX để bảo vệ có hiệu quả quyền con người của
bị can, bị cáo.
- Nguyễn Mạnh Hà, "Trách nhiệm của Kiểm sát viên VKSND trong thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp
ở Việt Nam hiện nay", Luận văn Thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(2008). Luận văn đã xây dựng khái niệm trách nhiệm của KSV, những yêu cầu đối với
KSV trong thực hiện trách nhiệm thực hành quyền công tố và KSXX trong các phiên toà
hình sự, các giải pháp bảo đảm trách nhiệm đó theo yêu cầu cải cách tư pháp.

- Nguyễn Đức Phúc, "Đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự ở Việt Nam
hiện nay" Luận văn Thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004.
Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu được công bố trên các tạp chí chuyên
ngành, các sách chuyên khảo của các nhà khoa học pháp lý nghiên cứu những vấn đề lý
luận liên quan đến đề tài của luận văn. Tuy nhiên có thể thấy cho đến nay chưa có một
công trình khoa học nào nghiên cứu một cách có hệ thống, đầy đủ dưới góc độ lý luận
chung về nhà nước và pháp luật hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự đối với bị
cáo là người DTTS, nhất là lại ở một tỉnh có nhiều DTTS như tỉnh Thái Nguyên hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến
hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS của VKSND cấp huyện ở
tỉnh Thái Nguyên, từ đó đề xuất các luận chứng các quan điểm, giải pháp bảo đảm hoạt động
đó đáp ứng những yêu cầu đặt ra hiện nay.
- Nhiệm vụ: Phù hợp với mục đích trên luận văn có các nhiệm vụ sau
+ Phân tích cơ sở lý luận hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là
người DTTS, như khái niệm, đặc điểm và những yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động kiểm sát
xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS.


+ Xác định các yêu cầu và điều kiện bảo đảm cho hoạt động kiểm sát xét xử án
hình sự đối với bị cáo là người DTTS của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên đáp
ứng các yêu cầu đặt ra hiện nay.
+ Khảo sát thực tiễn hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người
DTTS của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên, thông qua hoạt động của KSV ở các
giai đoạn chuẩn bị xét xử; giai đoạn xét xử và giai đoạn kết thúc phiên toà, xác định
những nguyên nhân của những ưu điểm và tồn tại cần khắc phục.
+ Đề xuất luận chứng, quan điểm, và giải pháp nhằm bảo đảm hoạt động kiểm sát
xét xử sơ thẩm án hình sự đối với bị cáo là người DTTS của VKSND cấp huyện ở tỉnh
Thái Nguyên đáp ứng yêu cầu hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
của các quan điểm, giải pháp bảo đảm hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị
cáo là người DTTS theo BLHS, BLTTHS Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về mặt lý luận và thực
tiễn hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS của VKSND cấp
huyện ở tỉnh Thái Nguyên, và chỉ giới hạn ở giai đoạn xét xử (gồm: các hoạt động trước,
trong và sau xét xử). Về thời gian, trong khoảng thời gian 5 năm (2004 - 2008), cả về
phương diện lý luận và thực tiễn đều cho thấy hoạt động KSXX và hoạt động thực hành
quyền công tố của KSV tại phiên toà hình sự có quan hệ chặt chẽ với nhau không thể
tách rời. Vì lẽ đó, luận văn trong nhiều vấn đề không thể không đề cập đến việc thực
hành quyền công tố của KSV nhất là những vấn đề trực tiếp liên quan đến KSXX án hình
sự.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm mang tính lý luận của Đảng Cộng
sản Việt Nam về xây dựng nhà nước và pháp luật trong thời kỳ đổi mới, về cải cách tư
pháp và chính sách dân tộc. Luận văn cũng dựa trên cơ sở lý luận của các bộ môn khoa


học pháp lý chuyên ngành, trực tiếp là bộ môn lý luận chung về nhà nước và pháp luật,
khoa học luật hình sự, tố tụng hình sự Việt Nam.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của triết học
Mác - Lênin, trực tiếp sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể, kết
hợp giữa lý luận và thực tiễn. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số các phương pháp
của các bộ môn khoa học khác, như phương pháp của lý thuyết hệ thống, phương pháp
của khoa học thống kê, phương pháp xã hội học.
Các phương pháp của triết học Mác-Lênin có ý nghĩa phương pháp luận, được
luận văn sử dụng đồng thời để giải quyết các nhiệm vụ được đặt ra: phương pháp của
khoa học thống kê, xã hội học, được sử dụng chủ yếu trong khảo sát tình hình phạm tội

và đánh giá thực trạng, phương pháp lý thuyết hệ thống bảo đảm tính toàn diện, nhất
quán, sự cân đối và liên thông giữa các nội dung của luận văn.
6. Những điểm mới về mặt khoa học của luận văn
Từ kết quả đạt được luận văn có những điểm mới về mặt khoa học sau:
- Phân tích làm nổi bật các đặc điểm của hoạt động KSXX án hình sự đối với bị
cáo là người DTTS.
- Xác định các yếu tố ảnh hưởng, những yêu cầu, điều kiện bảo đảm hoạt động
kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS ở Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người
DTTS của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên, rút ra những hạn chế và nguyên nhân
dẫn đến hạn chế đó hiện nay.
- Luận chứng và đề xuất các quan điểm, giải pháp bảo đảm hoạt động kiểm sát xét
xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS của VKSND cấp huyện ở tỉnh Thái Nguyên
đáp ứng yêu cầu đặt ra hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên những cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt
động kiểm sát xét xử án hình sự đối với bị cáo là người DTTS của VKSND cấp huyện ở tỉnh
Thái Nguyên. Do vậy kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần phát triển cơ sở lý luận


nhằm bảo đảm cho hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự đối với các bị cáo là người DTTS,
có giá trị tham khảo trực tiếp cho VKSND tỉnh Thái Nguyên. Luận văn có thể được sử dụng
làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy tại các cơ sở đào tạo, nghiên cứu luật
ở tỉnh Thái Nguyên cũng như các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khác trên phạm vi cả nước.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT XÉT XỬ
ÁN HÌNH SỰ SƠ THẨM ĐỐI VỚI BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DÂN TỘC

THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM

1.1. HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT XÉT XỬ ÁN HÌNH SỰ VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA
HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT XÉT XỬ SƠ THẨM ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CÁO
LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.1.1. Khái niệm hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự
Hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự là hoạt động kế tiếp hoạt động kiểm sát điều
tra, là quá trình kiểm tra lại các kết quả của hoạt động điều tra và hoạt động kiểm sát điều
tra, nhằm bảo vệ quan điểm truy tố của VKSND. Hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án
hình sự được bắt đầu khi hồ sơ vụ án được chuyển đến Toà án nhân dân, TAND quyết
định đưa vụ án ra xét xử tại phiên toà, VKS thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án và thực hành quyền công tố nhà nước tại phiên
toà. Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố là loại hình hoạt
động đặc trưng của VKSND được Hiến pháp và pháp luật qui định.
Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam và Điều 16 Luật Tổ
chức VKSND (năm 2002) qui định: “Trong hoạt động kiểm sát xét xử các vụ án hình sự
VKSND có trách nhiệm thực hành quyền công tố đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng


tội, đúng pháp luật và kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự, nhằm bảo đảm xét xử đúng
pháp luật, nghiêm minh, kịp thời" [17].
Như vậy, trong giai đoạn kiểm sát xét xử án hình sự, VKSND thực hiện đồng thời
hai hoạt động là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động xét xử của Toà án nhân dân. Hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét
xử là truy tố người có hành vi phạm tội ra trước Toà án nhân dân, còn hoạt động kiểm sát
xét xử là bảo đảm việc thực hiện theo pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất theo đúng
qui định của pháp luật và đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Để làm rõ khái
niệm hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự, cần làm rõ một số vấn đề sau:
- Hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự là một trong các hoạt động kiểm

sát các hoạt động tư pháp của VKSND.Theo qui định tại Điều 137 Hiến pháp 1992 (sửa
đổi 2001), chức năng của VKSND đã được điều chỉnh, theo đó là VKSND không thực
hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính - kinh tế - xã
hội mà chỉ tập trung thực hiện chức năng "thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp". Luật Tổ chức VKSND (năm 2002) qui định kiểm sát hoạt động tư pháp
gồm:
+ Hoạt động kiểm sát điều tra.
+ Hoạt động kiểm sát xét xử.
+ Hoạt động kiểm sát thi hành án.
+ Hoạt động kiểm sát tạm giam, tạm giữ, cải tạo phạm nhân.
Như vậy, kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là chức năng hiến định
của VKSND, có nội dung giám sát mọi hoạt động của các cơ quan tư pháp trong quá
trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, nhằm đảm bảo cho pháp luật tố tụng
hình sự được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất [18, tr.62].
Khác với hoạt động thực hành quyền công tố nhà nước, kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong tố tụng hình sự của VKSND không chỉ được tiến hành trong giai đoạn điều
tra, truy tố, xét xử mà còn được tiến hành ở cả giai đoạn thi hành án, trong đó hoạt động
kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự có mục đích là nhằm phát hiện kịp thời những vi


phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham
gia tố tụng để bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời.
- Đối tượng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử sơ thẩm án hình sự là
kiểm sát việc tuân thủ pháp luật nghiêm chỉnh và thống nhất của cơ quan tiến hành tố
tụng (Toà án nhân dân), của người tiến hành tố tụng (thẩm phán, thư ký, hội thẩm nhân
dân), và những người tham gia tố tụng gồm: (bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, người bào
chữa, người giám định, người phiên dịch). Trong quá trình kiểm sát, VKSND ngoài việc
xem xét TAND có tuân thủ chấp hành các qui định của BLTTHS (năm 2003) như: các
qui định về thủ tục tố tụng ở giai đoạn chuẩn bị xét xử, các qui định tố tụng chung tại

phiên toà như: xét hỏi, tranh luận, nghị án mà còn xem xét việc áp dụng pháp luật hình
sự và đường lối xử lý của Toà án có đảm bảo đúng pháp luật qui định hay không, nếu có
vi phạm, thì tiến hành kiến nghị, kháng nghị nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của người tham gia tố tụng. BLTTHS (năm 2003) qui định trong giai đoạn xét xử các vụ
án hình sự có các trình tự thủ tục như: Xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, và việc xét lại
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Ở
những giai đoạn xét xử khác nhau thì nhiệm vụ quyền hạn và nội dung kiểm sát xét xử
của VKSND có những đặc điểm khác nhau, bởi do tính chất pháp lý của từng hình thức
phiên toà qui định.
- Phạm vi hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự
Phạm vi hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự đang là một vấn đề có
nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự
chỉ bắt đầu khi Toà án có quyết định đưa vụ án ra xét xử, tức là khi Toà án xác định một
vụ án đã có đủ điều kiện để đưa ra xét xử. Điều đó có nghĩa ở giai đoạn chuẩn bị xét xử
Toà án có thể đình chỉ vụ án hoặc VKS có thể rút quyết định truy tố, và đó không thuộc
phạm vi kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự. Có ý kiến lại cho rằng theo quy định tại
Điều 17 Luật Tổ chức VKSND (năm 2002) thì hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự chỉ bắt đầu khi TAND bắt đầu mở phiên toà xét xử, vì lúc này VKS mới có
điều kiện thực hiện hoạt động buộc tội đối với bị cáo và đồng thời kiểm sát các hoạt động


của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng một cách công khai. Như
vậy theo ý kiến này, phạm vi hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự còn hẹp hơn ý
kiến ban đầu, mặc dù vậy các ý kiến ấy điều cho thấy có sự hợp lý ở một góc độ nhất
định.
Để xác định chính xác phạm vi của hoạt động Kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự
đòi hỏi phải nhìn nhận một cách đầy đủ và toàn diện trên cơ sở các qui định của Hiến
pháp, pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND. Theo qui định của
BLTTHS xác định giai đoạn quyết định việc truy tố nằm trong giai đoạn hoạt động kiểm
sát điều tra các vụ án hình sự, khi cơ quan điều tra, kết thúc điều tra bằng bản kết luận và

chuyển hồ sơ cho VKS đề nghị truy tố, VKS xét thấy có đủ dấu hiệu phạm tội thì truy tố
bị can ra TAND bằng bản cáo trạng, hành vi pháp lý đó đã kết thúc giai đoạn hoạt động
kiểm sát điều tra, mở ra một giai đoạn tố tụng tiếp theo, đó là giai đoạn hoạt động kiểm
sát xét xử sơ thẩm án hình sự.
Như vậy theo các qui định này, có thể xác định phạm vi của hoạt động kiểm sát
xét xử sơ thẩm án hình sự được bắt đầu từ khi Toà án có thẩm quyền nhận và thụ lý hồ sơ
vụ án kèm theo quyết định truy tố của VKSND và kết thúc khi bản án, quyết định của
Toà án có hiệu lực pháp luật. Việc xác định giới hạn như trên chỉ hiểu là tương đối, bởi lẽ
hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND có thể bị chấm dứt ngay trong
quá trình xét xử khi có căn cứ qui định tại Điều 105 BLTTHS "khởi tố theo yêu cầu
người bị hại" khi người bị hại rút yêu cầu khởi tố trước khi mở phiên toà, thì Toà án phải
ra quyết định đình chỉ vụ án, hoặc khi VKS ra quyết định rút quyết định truy tố, hoặc khi
bản án, quyết định của TAND có kháng cáo hoặc bị kháng nghị theo trình tự phúc thẩm.
Quan điểm về phạm vi hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật như đã nêu
trên, được Điều 2 Qui chế thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc điều tra các vụ án hình sự (năm 2008) và Điều 3 Qui chế thực hành quyền
công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự ban hành năm 2007 thể hiện rõ với các nội
dung:


- Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
điều tra các vụ án hình sự bắt đầu từ khi phát hiện có dấu hiệu phạm tội xảy ra đến khi
kết thúc việc điều tra.
- Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử án hình sự được bắt đầu từ
khi chuyển bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn cùng với hồ sơ vụ
án sang TAND để xét xử và kết thúc khi bản án và quyết định của Toà án có hiệu lực
pháp luật không bị kháng cáo, kháng nghị.
- Theo qui định của BLTTHS (năm 2003) hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án
hình sự có một số vấn đề cần chú ý sau: Về thẩm quyền thực hiện hoạt động thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. Tại Điều 170 BLTTHS qui

định,TAND cấp huyện được xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít
nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ một số tội phạm
khác theo qui định. TAND cấp tỉnh được xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những
tội phạm không thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện hoặc những vụ án thuộc thẩm
quyền của TAND cấp dưới mà cấp trên lấy lên để xét xử.
Như vậy, qua sự phân tích trên chúng ta có thể hiểu: Hoạt động kiểm sát xét xử sơ
thẩm án hình sự là việc VKSND sử dụng quyền năng pháp lý do pháp luật qui định để
kiểm tra, giám sát tính hợp pháp, tính có căn cứ, đúng pháp luật những hoạt động tố tụng
của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật,
nghiêm minh, kịp thời. Hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự theo quan niệm đó
được thực hiện trong cả giai đoạn chuẩn bị xét xử, giai đoạn xét xử công khai và giai
đoạn sau khi xét xử xong vụ án.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự đối với bị
cáo là người dân tộc thiểu số
Hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự đối với bị cáo là người DTTS có
những đặc điểm chung của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự, đồng thời còn
có những đặc điểm riêng, được qui định chủ yếu do bị cáo là người DTTS cụ thể như sau:


1.1.2.1. Các đặc điểm chung của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự
Theo qui định của BLTTHS, quá trình tiến hành tố tụng hình sự bao gồm nhiều
giai đoạn khác nhau gồm: giai đoạn khởi tố điều tra, giai đoạn truy tố và giai đoạn xét xử
các vụ án hình sự, các giai đoạn này đều thực hiện mục đích xử lý nghiêm minh đối với
người phạm tội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích pháp hợp của
công dân. Các giai đoạn tố tụng nêu trên tuy tương đối độc lập nhưng có mối quan hệ
khăng khít với nhau tạo thành một hoạt động thống nhất. Giai đoạn trước là tiền đề cần
thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ của giai đoạn sau và ngược lại, giai đoạn sau là sự kiểm
nghiệm kết quả khách quan đúng đắn của giai đoạn trước, mỗi giai đoạn tố tụng ấy đều
có một ý nghĩa quan trọng và mang tính đặc thù riêng trong pháp luật tố tụng hình sự.

Trong các giai đoạn tố tụng hình sự, giai đoạn xét xử được xác định là giai đoạn
quan trọng nhất, nó mang tính quyết định đối với vụ án, điều này được khẳng định tại
Điều 9 BLTTHS (năm 2003) với nội dung "không ai bị coi là có tội và phải chịu hình
phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật" [19].
Hoạt động tố tụng hình sự luôn có ba chức năng: gồm chức năng buộc tội, chức
năng bào chữa, chức năng xét xử. Chức năng tố tụng buộc tội thực chất là hoạt động truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Ở Việt Nam, Hiến pháp nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam qui định: VKSND là cơ quan duy nhất thay mặt Nhà nước thực hiện
chức năng buộc tội, có trách nhiệm và có quyền đưa ra lời cáo buộc đối với người phạm
tội và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên toà, nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải
được xử lý nghiêm minh, kịp thời, không bỏ lọt tội phạm, lọt người phạm tội và không
làm oan người vô tội. Những hoạt động đó được diễn ra tại phiên toà xét xử sơ thẩm hình
sự, bởi đây là xét xử lần đầu, do TAND có thẩm quyền tiến hành theo qui định của pháp
luật, tuy nhiên không phải mọi trường hợp xét xử sơ thẩm đều là xét xử lần đầu. Trong
thực tiễn có các trường hợp Toà án có thẩm quyền xét xử đã ra quyết định huỷ án để điều
tra hoặc xét xử lại dựa trên qui định pháp luật cụ thể là: theo các Điều 250 BLTTHS (Toà
án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại), Điều 287 BLTTHS
(Hội đồng giám đốc thẩm huỷ bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra
hoặc xét xử lại), Điều 300 BLTTHS (Hội đồng tái thẩm quyết định huỷ bản án hoặc


quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại vụ án) thì việc xét xử sơ
thẩm trong các trường hợp này không thể được coi là xét xử lần đầu. Thẩm quyền xét xử
sơ thẩm các vụ án hình sự trong các trường hợp trên theo BLTTHS qui định chủ yếu
thuộc về TAND cấp huyện, một số vụ án thuộc về TAND cấp tỉnh và tương đương.
Với quan niệm trên, hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự có những đặc
điểm sau:
Một là: Kiểm sát xét xử tại phiên toà sơ thẩm là buộc tội bị cáo, bảo vệ cáo trạng, đấu
tranh cho quan điểm pháp chế thống nhất tại phiên toà. VKSND, nhân danh Nhà nước thực
hiện quyền lực để truy tố người phạm tội ra trước TAND và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên

toà xét xử sơ thẩm án hình sự.
Hai là: Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử sơ thẩm án
hình sự của Toà án nhân dân, chỉ duy nhất thuộc về VKSND được thực hiện trên cơ
sở các qui định cụ thể của Hiến pháp và pháp luật hình sự, Tố tụng hình sự và Luật Tổ
chức VKSND, hoạt động đó được tiến hành thông qua hoạt động của KSV được giao
nhiệm vụ kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự.
Trong quá trình xét xử các vụ án hình sự theo trình tự sơ thẩm, sự tuân thủ pháp
luật của HĐXX và những người tham gia tố tụng là đối tượng của hoạt động kiểm sát.
Căn cứ vào các qui định của pháp luật, KSV thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong quá trình xét xử vụ án, nhằm bảo đảm xét xử của TAND được đúng ngư-
ời, đúng tội, đúng pháp luật, bảo đảm cho tất cả các chủ thể trong các quan hệ pháp luật
phát sinh trong quá trình xét xử đều thực hiện được đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của
mình theo qui định của pháp luật và đều bình đẳng trước pháp luật.
Mặt khác, hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự còn đảm bảo mọi trường
hợp oan sai đều phải được giải quyết kịp thời, có những biện pháp khắc phục nhanh
chóng những thiệt hại có thể xảy ra đúng theo Nghị quyết số 388/NQ/ Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội khoá X ngày 17 tháng 3 năm 2003 qui định về "bồi thường thiệt hại cho người
bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra".
Ba là: Về nội dung hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự gồm:


Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc chuẩn bị xét xử. Chuẩn bị xét xử là việc
chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đưa một vụ án ra xét xử theo đúng qui định của
pháp luật, thực hiện tốt việc chuẩn bị xét xử sẽ nâng cao chất lượng xét xử vụ án, trong
giai đoạn chuẩn bị xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng (Toà án nhân dân, VKSND) và
những người tiến hành tố tụng (thẩm phán, hội thẩm nhân dân, thư ký, KSV, phải tiến
hành các hoạt động nhất định, tuỳ theo chức năng tố tụng của mình theo pháp luật qui
định.
Đối với thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà, trong giai đoạn này phải
tiến hành các hoạt động như: nghiên cứu hồ sơ vụ án, giải quyết việc áp dụng, thay

đổi, huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn, các yêu cầu, khiếu nại của những người tham
gia tố tụng, đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án nếu có các căn cứ theo luật định và tiến hành
các công việc cần thiết khác cho việc mở phiên toà.
Đối với KSV khi được phân công thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án
hình sự thì việc kiểm sát các hoạt động chuẩn bị xét xử của Toà án là một trong những
nhiệm vụ quan trọng. Hoạt động này được bắt đầu từ khi Toà án nhận được hồ sơ vụ án
và kết thúc khi vụ án được đưa ra xét xử tại phiên toà. Căn cứ vào Qui chế công tác thực
hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, ban hành kèm theo Quyết định
số 960 ngày 17 tháng 9 năm 2007 của VKSND tối cao, thì trong giai đoạn này KSV phải
kiểm sát việc tuân theo pháp luật các việc sau: Đó là về kiểm sát thẩm quyền xét xử, việc
chuyển vụ án, về thời gian chuẩn bị xét xử, việc ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết
định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án, việc giao các quyết định này cho bị cáo, người đại
diện hợp pháp của họ và người bào chữa chậm nhất là mười ngày trước khi mở phiên toà
theo Điều 182 BLTTHS.
Khi thực hiện những công việc trên, KSV có quyền yêu cầu Toà án khắc phục vi
phạm hoặc báo cáo Viện trưởng VKSND cùng cấp đề xuất việc kiến nghị Toà án khắc
phục những vi phạm trong khi chuẩn bị xét xử, hoặc đề xuất kháng nghị các quyết định
của Toà án cấp sơ thẩm khi có vi phạm nghiêm trọng BLTTHS.
Thông thường ngay từ khi kiểm sát việc khởi tố vụ án, KSV đã phải xác định ngay
thẩm quyền tiến hành tố tụng của VKSND và tương ứng là thẩm quyền của cơ quan điều


tra và Toà án nhân dân. Sau khi kết thúc giai đoạn truy tố, VKS chuyển hồ sơ sang Toà
án có thẩm quyền theo qui định. Tuy nhiên nhiều khi việc xác định chính xác thẩm quyền
tố tụng nói chung và thẩm quyền xét xử nói riêng cũng rất phức tạp, nhiều trường hợp
không xác định được ngay bởi có thể còn có các quan điểm khác nhau xung quanh việc
Toà án nào là cơ quan có thẩm quyền xét xử vụ án. Do vậy, trong thực tiễn còn có những
trường hợp xảy ra việc khi nhận hồ sơ, thụ lý vụ án mà không thuộc thẩm quyền xét xử
của Toà án cấp mình mà phải chuyển hồ sơ cho TAND khác giải quyết theo thẩm
quyền.Trong trường hợp này theo qui định tại Điều 174 BLTTHS trong thời hạn hai ngày

kể từ ngày Toà án ra quyết định chuyển vụ án, Toà án có trách nhiệm thông báo cho
VKSND cùng cấp biết. Khi nhận được thông báo về việc chuyển vụ án, KSV phải kiểm
tra lại hồ sơ vụ án, kiểm tra lại các căn cứ xác định thẩm quyền việc chuyển vụ án theo
thẩm quyền xét xử có đúng pháp luật qui định hay không, đồng thời kiểm sát việc quyết
định chuyển vụ án đã được gửi tới bị can, bị cáo và những người có liên quan.
Trong giai đoạn kiểm sát thời hạn chuẩn bị xét xử đây là khoảng thời gian luật định
để TAND tiến hành các hoạt động chuẩn bị cần thiết cho việc xét xử, thời hạn chuẩn bị
xét xử cũng là thời hạn để thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà ra một trong các
quyết định cần thiết để đưa một vụ án ra xét xử. Tuỳ theo tính chất của tội phạm là ít
nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng mà thời hạn ra một
trong các quyết định như: đình chỉ vụ án, tạm đình chỉ vụ án, trả hồ sơ để điều tra bổ
sung hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử cũng khác nhau. Vì vậy KSV, kiểm sát thời hạn
chuẩn bị xét xử phải xác định chính xác thời điểm bắt đầu chuẩn bị xét xử, nhất là đối với
những trường hợp bị can tại ngoại, phải kiểm sát việc tống đạt cáo trạng cho bị can và
việc chuyển hồ sơ sang Toà án. Điều 176 BLTTHS quy định trong vòng 15 ngày kể từ
ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử Toà án phải mở phiên toà, trong trường hợp có
lý do chính đáng thì Toà án có thể mở phiên toà trong thời hạn 30 ngày. Khi kiểm sát
thời hạn chuẩn bị xét xử của Toà án KSV không chỉ có trách nhiệm kiểm tra xem thời
gian ra các quyết định có đúng theo qui định tại Điều 176 BLTTHS hay không mà còn
phải đôn đốc thẩm phán, chủ toạ phiên toà tuân thủ thời hạn chuẩn bị xét xử để hoạt
động được tiến hành nhanh chóng, đúng thời hạn luật định.


Về thẩm quyền trong kiểm sát việc chuẩn bị xét xử, VKSND có quyền yêu cầu
TAND cùng cấp chuyển hồ sơ những vụ án sẽ xét xử theo thủ tục sơ thẩm để tiến hành
kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự, quyền yêu cầu Toà án xét xử sơ thẩm đưa vụ án hình
sự ra xét xử đúng thời hạn pháp luật qui định. Theo Điều 16 Luật Tổ chức VKS (năm
2002) VKSND, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm
phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành
tố tụng, áp dụng những biện pháp do bộ luật này qui định để loại trừ vi phạm pháp luật

của những cơ quan hoặc cá nhân này, đồng thời nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều
phải được xử lý kịp thời, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không oan, không lọt tội phạm.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử trong giai đoạn này, KSV
ngoài việc thực hiện các hoạt động kiểm sát, còn thực hành quyền công tố tại phiên toà,
buộc tội bị cáo, bảo vệ cáo trạng, đấu tranh cho quan điểm pháp chế thống nhất tại phiên
toà. Theo qui định tại Điều 16 Luật Tổ chức VKSND (năm 2002) và các Điều 206, 207,
208, 217, 221 BLTTHS, tại phiên toà xét xử vụ án hình sự theo thủ tục sơ thẩm, sau phần
thủ tục phiên toà, KSV đọc cáo trạng, trình bày những ý kiến bổ sung cáo trạng của VKS
nếu có, trình bày quan điểm của VKS về việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm hành
vi phạm tội của bị cáo, đề nghị Toà án xét xử vụ án đúng qui định của pháp luật. Trình tự
xét hỏi được thực hiện theo Điều 207 BLTTHS sau khi Hội đồng xét hỏi, KSV tiến hành
thẩm vấn, xét hỏi bị cáo, người bị hại, những người có liên quan đến vụ án, khi kết thúc
phần thẩm vấn, KSV trình bày bản luận tội và tiến hành tranh luận tại phiên toà, kết luận
của KSV có thể đề nghị TAND kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo
trạng, hoặc kết luận về một tội danh khác nhẹ hơn. Trường hợp qua xét xử công khai tại
phiên toà nếu xét thấy không có căn cứ để chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo thì
KSV rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị HĐXX căn cứ khoản 2 Điều 107
BLTTHS, tuyên bố hành vi không cấu thành tội phạm, KSV phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về những quyết định của mình và có quyền thực hiện những biện pháp theo
pháp luật qui định để thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động xét xử tại phiên toà sơ
thẩm.


Trong trường hợp phát hiện có vi phạm thì KSV có quyền kiến nghị với TAND
cùng cấp khắc phục, đồng thời qua kiểm sát các hoạt động trên KSV kiến nghị với các cơ
quan hữu quan, tổ chức, khắc phục những vi phạm và áp dụng những biện pháp phòng
ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật. Điều 18 Luật Tổ chức VKSND (năm 2002) qui
định, trong quá trình thực hiện kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự phát hiện HĐXX có
những vi phạm pháp luật thì KSV yêu cầu HĐXX khắc phục và sửa chữa kịp thời, cũng

trong hoạt động kiểm sát xét xử, nếu phát hiện các cơ quan, tổ chức xã hội thiếu sót trong
việc quản lý, làm phát sinh vi phạm và tội phạm, thì VKS thực hiện quyền kiến nghị với
các cơ quan, các tổ chức xã hội, có những biện pháp khắc phục sửa chữa những thiếu sót,
trong việc quản lý chỉ đạo điều hành để loại bỏ nguyên nhân, điều kiện phạm tội và vi
phạm pháp luật.
Như phần mở đầu đã phân tích, trong giai đoạn KSXX án hình sự, KSV đồng thời
thực hiện cả hai chức năng thực hành quyền công tố và KSXX. Trên thực tế đây là hai
nhiệm vụ thống nhất và quan hệ chặt chẽ với nhau, thực hành quyền công tố tốt sẽ giúp
cho KSV kiểm sát xét xử tốt vụ án và ngược lại.
Bốn là: Trong hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự, VKSND có quyền
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án và quyết định của TAND chưa có hiệu
lực pháp luật, khi phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng BLHS, BLTTHS.
Căn cứ Điều 19 Luật Tổ chức VKSND (năm 2002) và các Điều 232, Điều 233, 234,
239 BLTTHS, sau khi kết thúc việc xét xử công khai thì TAND ra một bản án, quyết
định. Trong trường hợp bản án, quyết định của Toà án đã tuyên có vi phạm và vi phạm
nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật về định tội danh, lượng hình phạt, hoặc
HĐXX khi tiến hành tố tụng vi phạm pháp luật thì VKSND cùng cấp ra quyết định kháng
nghị phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm và kháng nghị trong
thời hạn 7 ngày kể từ ngày Toà án ra quyết định đối với vụ án. Những bản án, quyết định
của Toà án có vi phạm nhưng không nghiêm trọng, hậu quả xảy ra không đáng kể, có thể
khắc phục được thì VKSND kiến nghị yêu cầu TAND khắc phục sửa chữa. Trong hoạt động
xét xử án hình sự, VKSND thực hiện các quyền hạn và nhiệm vụ nhằm bảo đảm phát hiện
kịp thời những vi phạm, tội phạm, phát hiện những nguyên nhân và điều kiện phạm tội.


Trong quá trình thực hiện hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự, KSV phải chú trọng thực
hiện đầy đủ các nhiệm vụ và quyền hạn theo luật định nhằm bảo đảm tính thống nhất của
pháp chế XHCN trong hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự, đặc biệt là cấp huyện hiện nay
đã được tăng thẩm quyền theo Điều 170 BLTTHS.
1.1.2.2. Đặc điểm riêng của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự đối với

bị cáo là người dân tộc thiểu số
Cộng đồng dân tộc Việt Nam gồm 54 dân tộc anh em được hình thành trong quá
trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin, t-
ư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng ta luôn coi trọng vấn đề dân tộc và đề ra
đường lối chính sách dân tộc đúng đắn tạo sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần
xây dựng đất nước Việt Nam XHCN. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định:
"vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách
mạng Việt Nam" [7].
Quan điểm và định hướng dân tộc của Đảng đã được thể chế hoá trong Hiến pháp
và pháp luật. Điều 5 Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác
định: "Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân
tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam, Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng,
đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các
dân tộc có quyền dùng tiếng nói chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những
phong tục tập quán truyền thống văn hoá tốt đẹp của mình". Nhà nước thực hiện chính
sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng
bào DTTS. Trong BLTTHS qui định "Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự là
tiếng Việt" [19]. Điều này có nghĩa là người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và
chữ viết của dân tộc mình. Tại Điều 10 Luật Trợ giúp pháp lý qui định: "người được trợ
giúp pháp lý, là người DTTS thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn". Mặc dù quyền bình đẳng giữa các dân tộc và chính sách tương trợ giúp đỡ đồng
bào DTTS được Đảng, Nhà nước chỉ đạo thực hiện kiên quyết song thực tế đến nay cuộc
sống và sinh hoạt của đồng bào DTTS còn chịu sự chi phối mạnh mẽ của rất nhiều yếu tố
khác nhau, bởi đa phần họ cư trú ở vùng rừng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó


khăn, địa hình phức tạp với nhiều nhóm địa phương, xa trung tâm văn hoá, phương tiện
đi lại khó khăn, vẫn còn có những dân tộc sống du canh, du cư, trình độ văn hoá thấp
thậm chí còn không biết chữ, các phương tiện thông tin đại chúng như đài phát thanh,
truyền hình, báo chí, phim ảnh, văn hoá văn nghệ nhìn chung ít được tiếp cận, công tác

tuyên truyền giáo dục pháp luật của các cơ quan chức năng không được thường xuyên,
chất lượng hạn chế. Trong đời sống và sinh hoạt của đồng bào dân tộc luật tục vừa là một
hiện tượng văn hoá phản ánh bản sắc văn hoá của dân tộc đồng thời vừa là qui tắc ứng xử
phổ biến truyền thống trong quan hệ con người với con người, con người với cộng đồng,
thêm vào đó tín ngưỡng, tôn giáo cũng tác động rất mạnh mẽ đối với đời sống của họ.
Không ít những hành vi được xử theo luật tục, tín ngưỡng, trái với yêu cầu của pháp luật.
Vì lẽ đó, bên cạnh việc thực hiện chính sách ưu tiên, ưu đãi, nhằm phát triển nâng cao đời
sống kinh tế, văn hoá của đồng bào dân tộc, đặc biệt là đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng
đặc biệt khó khăn đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải quan tâm công tác giáo dục vận động
đồng bào, giúp đỡ các DTTS ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn từ bỏ những
tập tục lạc hậu, xây dựng đời sống văn hoá mới phù hợp với đạo đức truyền thống, pháp
luật, đồng thời tuyên truyền giáo dục pháp luật để mọi người dân hiểu và tự giác thực
hiện bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất.
Tuy nhiên, cùng với quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, tình
hình tội phạm và vi phạm pháp luật trong đồng bào DTTS còn xảy ra nhiều, nhất là ở các
vùng Tây Bắc, Việt Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Những đối tượng tội phạm là người
DTTS có những đặc điểm riêng như sau:
- Do trình độ văn hoá thấp, nhận thức rất hạn chế, hạn chế trong quan hệ xã hội,
trong giao tiếp, bản chất thật thà.
- Cuộc sống không ổn định, đa phần đời sống khó khăn và chịu ảnh hưởng nặng nề
của các luật tục, tập quán lạc hậu.
- Không hiểu biết pháp luật nói chung, nhất là không biết rõ được hành vi phạm tội
là hành vi mà pháp luật hình sự nghiêm cấm.


- Không biết khi phạm tội họ được bảo đảm các quyền và nghĩa vụ theo Hiến pháp
và pháp luật qui định như quyền yêu cầu luật sư bào chữa, quyền dùng tiếng nói, chữ
viết, quyền được trợ giúp pháp lý.
Với những đặc điểm trên, việc giải quyết các vụ án hình sự mà đối tượng phạm tội
là DTTS trong hoạt động kiểm sát xét xử án hình sự có những đặc điểm riêng như sau:

- Những đặc điểm trong nghiên cứu, kiểm tra hồ sơ vụ án:
Để tham gia phiên toà có kết quả, trước hết người KSV, phải kiểm tra, nghiên cứu
hồ sơ vụ án một cách toàn diện, từ các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đến việc áp dụng
các thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra, đến quyết định truy tố, nắm vững các tài liệu
của vụ án là yêu cầu thường xuyên đối với người KSV. Trong mọi trường hợp, đặc biệt là
đối tượng phạm tội là người DTTS, KSV phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, các tài liệu trong vụ
án, các thủ tục tố tụng, các quyền và nghĩa vụ mà các bị cáo được đảm bảo thực hiện như,
thủ tục mời luật sư, việc tống đạt hợp lệ các quyết định của cơ quan điều tra, cơ quan truy
tố, cơ quan xét xử, các chứng cứ, các lời khai, đảm bảo thu thập theo trình tự tố tụng,
KSV luôn tính đến những khả năng việc điều tra công khai tại phiên toà không được
thuận lợi, dễ dàng, thậm chí tính đến những tình tiết mới phát sinh trong khi đang tiến
hành xét xử làm thay đổi một phần hoặc toàn bộ bản chất của vụ án hình sự.
KSV phải kiểm tra sự có mặt của những người tham gia tố tụng, kiểm tra xem việc
mở phiên toà xét xử có đúng qui định của pháp luật hay không, trên cơ sở đó phát biểu về
việc vụ án có được đưa ra xét xử hay không khi vắng mặt của bị cáo, người bị hại, người
làm chứng hoặc những người tham gia tố tụng khác như người giám định, đặc biệt là
người phiên dịch do bị cáo là người DTTS, không hiểu biết tiếng Việt, hoặc có biết chút
ít nhưng không thông thạo, nếu vắng người phiên dịch thì phải hoãn phiên toà. Người
phiên dịch là người do cơ quan Điều tra, VKS hoặc Toà án yêu cầu trong trường hợp có
người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng việt, người phiên dịch phải có mặt theo
giấy triệu tập của cơ quan Điều tra, VKS, Toà án và phải dịch trung thực, không được tiết
lộ bí mật điều tra, nếu dịch gian dối thì người phiên dịch phải chịu trách nhiệm hình sự
theo Điều 307 BLHS. Ý kiến của KSV được nêu lên trong việc kiểm sát hoạt động xét xử
là bảo đảm đúng pháp luật do đó đòi hỏi người KSV phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án một


cách đầy đủ, toàn diện và khách quan, việc nghiên cứu kỹ tất cả các lời khai của bị cáo,
người bị hại, người làm chứng, người phiên dịch trong hồ sơ vụ án, kết luận của giám
định viên , cho phép KSV chủ động đánh giá chứng cứ vụ án. Trong thực tiễn trường
hợp quá tin vào lời khai nhận tội của bị cáo thông qua phiên dịch viên tại cơ quan điều

tra, không chú ý nghiên cứu một cách toàn diện trên cơ sở các tài liệu khác nên không
phát hiện ra các mâu thuẫn trong hồ sơ, dẫn đến việc đánh giá vụ án bị sai lệch. Một hồ
sơ vụ án gồm nhiều tài liệu, được thu thập theo một trình tự tố tụng nhất định, trong đó có
những tài liệu mâu thuẫn với nhau như các lời khai của người làm chứng mâu thuẫn với
các lời khai của bị cáo hoặc lời khai của bị cáo mâu thuẫn với các tài liệu khác như biên
bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi. Vì vậy khi nghiên cứu các tài liệu
này, KSV phải đối chiếu, so sánh, chắt lọc các nội dung hợp lý để phân tích, đánh giá một
cách tổng hợp về các tình tiết của vụ án, do vậy đòi hỏi người KSV không những nghiên cứu
hồ sơ một cách toàn diện mà còn biết phân tích, so sánh, tổng hợp để xác định những tình tiết
có thực của vụ án, để loại trừ các tình tiết không có thực trong vụ án để xem xét. Do đối
tượng bị cáo phạm tội là người DTTS, khi nghiên cứu hồ sơ cần tập trung sâu vào những vấn
đề như xem xét các chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội, xem xét có hành vi phạm tội xảy ra
hay không, hậu quả của hành vi phạm tội đó đến mức độ nào, các tình tiết tăng nặng, giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự, động cơ, mục đích phạm tội, nhân thân, hoàn cảnh điều kiện phạm
tội. Đặc biệt chú ý đối với bị cáo là người DTTS chưa thành niên phạm tội thì cần kiểm tra
giấy khai sinh và các giấy tờ khác liên quan để xác định tuổi của bị cáo khi phạm tội theo qui
định của BLTTHS. Thông qua việc kiểm tra hồ sơ vụ án để xem xét việc chấp hành các thủ
tục tố tụng hình sự từ giai đoạn khởi tố vụ án, khởi tố bị can, đến việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn, thu giữ tang vật nhằm bổ sung đầy đủ trước khi mở phiên toà, đồng thời yêu
cầu Toà án đưa vụ án ra xét xử bảo đảm đúng thời hạn luật định. Đặc biệt là những trường
hợp phải có người bào chữa, người giám hộ, người phiên dịch, cần bảo đảm được triệu tập
đến phiên toà để việc tiến hành xét xử công khai vụ án, dân chủ và khách quan.
- Đặc điểm trong việc chuẩn bị đề cương tham gia xét hỏi và chuẩn bị bản luận tội
đối với vụ án


Việc tham gia xét hỏi của KSV tại phiên toà vừa là quyền, vừa là trách nhiệm, do
vậy trước khi tham gia phiên toà, KSV cần dự thảo đề cương tham gia xét hỏi sao cho
đơn giản, mạch lạc, dễ hiểu phù hợp với trình độ nhận thức hạn chế của bị cáo là người
DTTS, nhất là trong trường hợp bị cáo không biết tiếng Việt hoặc chỉ biết vài tiếng đơn

thuần mà vẫn đạt được mục đích của luận tội. Trong trường hợp bị cáo được xác định là
không biết tiếng Việt và không biết chữ, KSV cần chú ý thái độ, tâm lý của bị cáo, khả
năng khai báo, sự thay đổi lời khai, cách khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên toà
đồng thời dự báo trước những vấn đề luật sư sẽ hỏi. Đối với những vụ án nghiêm trọng
phức tạp KSV phải gặp bị cáo, nhân chứng, người phiên dịch để tìm hiểu tâm lý, thái độ
khai báo trước toà. Trong thực tế khi nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử, bị cáo th-
ường có những diễn biến tâm lý, tư tưởng nhiều khi có sự thay đổi đột biến tạo lời khai
tại phiên toà không được thống nhất. Nếu KSV không nắm bắt kịp thời thì dễ dẫn đến sự
bị động, lúng túng trong quá trình xét xử công khai tại toà.
Do bị cáo là người DTTS, bản luận tội phải đảm bảo từ ngữ pháp lý dễ hiểu, cụ thể,
rõ ràng. Phân tích rõ nguyên nhân, điều kiện phạm tội của bị cáo, yếu tố xã hội, hoàn
cảnh gia đình, nhận thức xã hội và nhận thức pháp luật, từ đó phân tích các tình tiết tăng
nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vận dụng chính sách, đường lối xử lý của Đảng và
Nhà nước trong việc áp dụng pháp luật, đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo, việc đề
nghị áp dụng hình phạt chính, hình phạt bổ sung, bồi thường thiệt hại và các biện pháp tư
pháp khác. Đề nghị của KSV phải bảo đảm chính xác theo các điều, khoản, điểm của
BLHS, BLTTHS và các văn bản Thông tư hướng dẫn của ngành, liên ngành Công an -
Toà án - Kiểm sát và các nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi
hành BLHS, BLTTHS.
- Đặc điểm trong hoạt động kiểm sát tại phiên toà
Theo qui định Luật Tổ chức VKSND và BLTTHS, khi thực hiện hoạt động kiểm
sát xét xử tại phiên toà, KSV có nhiệm vụ và quyền hạn "kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong hoạt động xét xử của HĐXX, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những
người tham gia tố tụng tại phiên toà". Phiên toà sơ thẩm là phiên toà đầu tiên đưa một vụ
án ra xét xử công khai, trên cơ sở đó HĐXX ra một bản án đối với bị cáo. Do vậy KSV


được phân công thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự phải kiểm sát
việc chấp hành các thủ tục tố tụng tại phiên toà như: bảo đảm việc xét xử trực tiếp, bằng
lời nói và liên tục theo đúng qui định tại Điều 184 BLTTHS, do bị cáo là người DTTS,

KSV phải chú ý kiểm sát chặt chẽ lời khai của bị cáo thông qua người phiên dịch hoặc
người bào chữa cho bị cáo, nhằm bảo đảm việc xét xử chính xác, khách quan để HĐXX
ra những bản án, quyết định trên cơ sở những chứng cứ đã được điều tra, tranh luận công
khai tại phiên toà, HĐXX phải xác định các tình tiết của vụ án, kiểm tra xem xét đầy đủ
các chứng cứ kể cả chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án cũng như chứng cứ, tài liệu mới đ-
ược đưa ra tại phiên toà. Đối với những chứng cứ chưa được đưa ra xem xét tại phiên toà
thì không được làm căn cứ để ra bản án. Việc xét xử của HĐXX phải bằng cách hỏi và
nghe ý kiến của những người tham gia tố tụng như: lời khai của bị cáo tại phiên toà,
người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án…, nếu trong trường hợp người tham gia
tố tụng vắng mặt tại phiên toà thì HĐXX chỉ được tiến hành xét xử trong những trường
hợp pháp luật cho phép và sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc chứng minh
xác định sự thật khách quan của vụ án, và không trở ngại cho việc xét xử. Việc xét xử
phải được tiến hành liên tục từ khi bắt đầu phiên toà đến khi tuyên án, trừ thời gian nghỉ
để hội ý hoặc lý do khách quan khác, khi chưa kết thúc phiên toà thì thẩm phán, Hồi đồng
xét xử không được tiến hành tố tụng đối với những vụ án khác. Tại phiên toà, KSV phải
kiểm sát chặt chẽ sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia tố tụng như bị cáo,
người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ, người làm chứng,
người giám định, người phiên dịch theo đúng qui định tại các Điều 187, 190, 191, 192,
193 BLTTHS.
KSV phải kiểm sát việc tuân theo pháp luật của HĐXX về thủ tục bắt đầu phiên toà
như đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử, thư ký báo cáo kết quả triệu tập những người
tham gia tố tụng đến phiên toà, ai có mặt, vắng mặt lý do, kiểm tra căn cước lý lịch đối
với những người tham gia tố tụng, giải thích quyền và nghĩa vụ của họ tại phiên toà. Bởi
bị cáo là người DTTS, KSV phải chú ý việc kiểm tra kỹ căn cước đối với họ và nghe các


ý kiến yêu cầu, đề đạt của họ trong phần thủ tục để yêu cầu HĐXX thực hiện thủ tục bắt
đầu phiên toà theo qui định tại Điều 201 BLTTHS.

Trường hợp tại phiên toà, những người tham gia tố tụng như bị cáo, bị hại luật sư
bào chữa, yêu cầu thay đổi thẩm phán, hội thẩm, thư ký phiên toà, người giám định,
người phiên dịch, thì KSV phải căn cứ vào những qui định tại các Điều 42, 43, 46
BLTTHS để xem xét và đề nghị HĐXX quyết định. KSV cần đề nghị hoãn phiên toà
trong các trường hợp
Một là: Bị cáo vắng mặt tại phiên toà. Do bị cáo là người DTTS có một số trường
hợp bị cáo được tại ngoại nhưng có lý do chính đáng như, ốm có xác nhận của cơ sở y tế,
hoặc không nhận được giấy triệu tập của Tòa án hoặc có nhận được song do thiên tai lũ
quét, lở đường, giao thông bị ách tắc, đường xá đi lại khó khăn trở ngại không thể đến
phiên toà được.
Hai là: Sự vắng mặt của một trong số những người tham gia tố tụng. Sự vắng mặt
những người này sẽ không bảo đảm khách quan và gây trở ngại cho việc xét xử vụ án như
người bào chữa, người phiên dịch. Đây là điều hết sức quan trọng do bị cáo là người DTTS
trình độ văn hóa thấp, tiếng Việt không thông thạo thậm trí không biết tiếng Việt nên không
tự bào chữa cho chính mình được, để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của bị cáo thì cần phải
hoãn phiên tòa.
Ba là: Sự vắng mặt của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc đại diện hợp pháp của họ vắng mặt tại phiên
toà và sự vắng mặt đó gây trở ngại cho việc xét xử như về các chứng cứ, lời khai có mâu
thuẫn, về phần bồi thường dân sự do bị hại yêu cầu quá cao mà không thoả thuận được
trong quá trình giải quyết vụ án, hoặc yêu cầu các khoản bồi thường trái với qui định của
pháp luật. Người giám định vắng mặt tại phiên toà, mà kết luận giám định về các tình tiết
có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết vụ án, nhưng chưa rõ ràng hoặc mâu thuẫn
với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án mà không thể khắc phục được như vụ án cố ý
gây thương tích, hoặc vụ án hiếp dâm, vụ án giao thông.
Bốn là: Thành phần HĐXX không đúng với qui định tại Điều 185 BLTTHS, hoặc
việc giao quyết định đưa vụ án ra xét xử không đúng qui định tại Điều 182 BLTTHS

×