Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Cơ sở văn hóa việt nam- Lễ hội đền Hùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 36 trang )







Nguyễn Hoàng Hải
Email: FB: Fb.com/hainh.tmdt
Web: hoicudem.com/


Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Đền Hùng và lễ hội Đền Hùng là một di sản văn hóa mang tính bản sắc của dân tộc
Việt. Từ ngàn đời nay Đền Hùng là nơi tưởng nhớ, tôn vinh công lao các Vua Hùng, là
biểu tượng của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam. Từ bao đời nay, mỗi người dân Việt
Nam luôn nhớ về ngày giỗ Tổ qua câu ca được truyền tụng:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba
Khắp nơi truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non mình ngàn năm.”
Giỗ Tổ tức giỗ vua Hùng - vị vua Tổ của người Việt, người có công sáng lập nhà
nước Văn Lang và mở ra thời đại Hùng Vương trong lịch sử Việt Nam (từ khoảng thế kỷ
VII trước Công nguyên (TCN) đến thế kỷ III sau Công nguyên (SCN), cũng là nhà nước
hình thành sớm nhất ở khu vực Đông Nam Á cổ đại. Như vậy, từ Văn Lang đến Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - đất nước Việt Nam trải qua hàng ngàn năm lịch sử. Văn
hóa Việt Nam vì thế cũng không kém phần đặc sắc. Không phải tự nhiên mà một nhà
nghiên cứu ngoại quốc nhận định: Việt Nam là một dân tộc có bản sắc văn hóa rất riêng.
Và Văn Lang chính là cội nguồn lịch sử, cội nguồn văn hóa dân tộc Việt Nam.
Giỗ Tổ Hùng Vương - từ rất lâu đã trở thành ngày Giỗ trọng đại của cả dân tộc; đã in
đậm trong cõi tâm linh của mỗi người dân đất Việt. Dù ở phương trời nào, người Việt


Nam đều nhớ ngày giỗ Tổ, đều hướng về vùng đất Cội nguồn - xã Hy Cương – Việt Trì -
Phú Thọ. Nơi đây chính là điểm hội tụ văn hóa tâm linh của dân tộc Việt Nam. Có lẽ
không một dân tộc nào trên thế giới có chung một gốc gác tổ tiên - một ngày giỗ Tổ như
dân tộc ta. Từ huyền thoại mẹ Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, nửa theo cha xuống biển, nửa theo
mẹ lên rừng đã khơi dậy ý thức về dân tộc, nghĩa đồng bào và gắn kết chúng ta thành một
khối đại đoàn kết. Hai chữ đồng bào là khởi nguồn của yêu thương, đùm bọc, của sức
mạnh Việt Nam.
Lễ hội Đền Hùng ngày càng có vai trò quan trọng và có tác động lớn đến đời sống
người dân. Đời sống hiện đại, nhu cầu về tâm linh của người dân càng cao. Lịch sử như
một dòng chảy liên tục. Trải mấy nghìn năm, trước bao biến động thăng trầm, trong tâm
thức của cả dân tộc, lễ hội Đền Hùng vẫn là nơi của bốn phương tụ hội, nơi con cháu






Nguyễn Hoàng Hải
Email: FB: Fb.com/hainh.tmdt
Web: hoicudem.com/
phụng thờ công đức Tổ tiên. Do vậy việc tìm hiểu tác động của lễ hội Đền Hùng trong
đời sống người dân sẽ giúp chúng ta định vị được di sản trong lòng con người và xã hội
đương đại. Từ đó các cơ quan quản lý sẽ có những chính sách và biện pháp để bảo tồn
văn hóa phi vật thể này cho thế hệ trẻ sau này.
2. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở làm rõ mối quan hệ giữa lễ hội và tín ngưỡng, vai trò của lễ hội đối với bảo
tồn di sản trong giai đoạn hiện nay, đề tài nhằm phân tích, đánh giá thực trạng việc bảo
tồn phát huy di sản văn hoá lễ hội để phát triển kinh tế, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm
phát huy các giá trị của lễ hội trên địa bàn tỉnh Phú Thọ góp phần phát triển đời sống tín
ngưỡng và phát triển kinh tế xã hội.

- Đề tài góp phần đánh giá thực trạng của công tác bảo tồn và phát huy di sản lễ hội trên
địa bàn tỉnh Phú Thọ nhằm mục tiêu phát triển kinh tế.
- Làm rõ hơn những giá trị của các di sản văn hoá lễ hội Đền Hùng đối với tín ngưỡng
của nhân dân.
- Đề xuất các giải pháp về việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá lễ hội để phát triển du
lịch góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững.
Đã ai đó từng nói làng xã Việt Nam là cái nôi hình thành,bảo tồn,sản sinh văn
hóa,truyền thống của dân tộc nhất là trong hoàn cảnh bị xâm lược và đồng hóa.Trong các
làng xã nghèo nàn ấy,ngôi đình mái chùa ngôi đền và những lễ hội chính là tâm điểm của
cái nôi văn hóa đó.Không có lãng xã Việt Nam thì cũng không có văn hóa Việt
Nam.Điều này càng cực kì quan trọng trong điều kiện xã hội công nghiệp hóa,hiện đại
hóa và toàn cầu hóa hiện nay,khi mà sự nghiệp bảo tồn,làm giàu và phát huy văn hóa
truyền thống dân tộc trở nên quan trọng hơn bao giờ hết,thì làng xã và lễ hội Việt Nam lại
gánh một phần trách nhiệm là nơi bảo tồn,làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Chính vì vậy nhóm em tìm hiểu “Lễ hội Đền Hùng để thấy rõ ý nghĩa của lế hội đời
sốngtâm linh và kinh tế xã họi. Từ đó đưa ra 1 số giải pháp cho các cơ quan quản lý đã và
sẽ phải làm gì để bảo tồn văn hóa phi vật thể này.”


Nhóm thực hiện
Nguyễn Hoàng Hải







Nguyễn Hoàng Hải
Email: FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/
Chương 1:
Khái quát về lễ hội truyền thống Việt
Nam
1.1.Khái niệm lễ hội và lễ hội truyền thống
1. Khái niệm:
- Lễ hội: Lễ hội là một sự kiện văn hóa được tổ chức mang tính cộng đồng. "Lễ" là hệ
thống những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người với thần linh,
phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa
có khả năng thực hiện. "Hội" là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng,
xuất phát từ nhu cầu cuộc sống.
Lễ hội là hoạt động tập thể và thường có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo. Con
người xưa kia rất tin vào trời đất, thần linh. Các lễ hội cổ truyền phản ảnh hiện tượng
đó.Tôn giáo rất có ảnh hưởng tới lễ hội.Tôn giáo thông qua lễ hội đê phô trương thanh
thế, lễ hội nhờ có tôn giáo đề thần linh hóa những thứ trần tục. Nhưng trải qua thời gian,
trong nhiều lễ hội, tính tôn giáo dần giảm bớt và chỉ còn mang nặng tính văn hóa.[1]

Theo thống kê 2013, hiện cả nước Việt Nam có 7.966 lễ hội; trong đó có 7.039 lễ hội
dân gian (chiếm 88,36%), 332 lễ hội lịch sử (chiếm 4,16%), 544 lễ hội tôn giáo (chiếm
6,28%), 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài (chiếm 0,12%), còn lại là lễ hội khác (chiếm
0,5%).
- Lễ hội truyền thống: Lễ hội truyền thống ở Việt Nam thường diễn ra vào mùa Xuân
và số ít vào mùa Thu là hai mùa đẹp nhất trong năm, đồng thời cũng là lúc nhà nông có
thời gian nhàn rỗi. Trong số các lễ hội Việt Nam thì phải kể đến những lễ hội chi phối
hầu hết các gia đình trên mọi miền tổ quốc, đó là Tết Nguyên Đán, Lễ Vu Lan và tết
Trung Thu. Gần đây một số lễ hội được nhà nước và nhân dân quan tâm như: Lễ hội đền
Hùng,Lễ hội đền Trần, Giáng Sinh, Phật đản.v.v.
Một số lễ hội lớn ảnh hưởng cả một vùng rộng lớn, tiêu biểu như: hội Gióng (xứ Kinh
Bắc), lễ hội đền Hùng (Xứ Đoài), lễ hội chùa Bái Đính, lễ hội đền Trần, phủ Dày,(xứ Sơn
Nam), lễ hội Yên Tử, lễ hội bà chúa Xứ (An Giang), Lễ hội pháo hoa Quốc tế Đà Nẵng

(thành phố Đà Nẵng)
- Mối quan hệ giữa ‘’lễ’’ và ‘’ hội’’ :
Lễ trong lễ hội là 1 hệ thống các hành vi, động tác mang tính chất tâm linh, nghi thức
nhằm biểu hiện lòng tôn kính, tạ ơn cầu xin thần linh phù hộ và bảo trợ cho cuộc sống
của con ng.






Nguyễn Hoàng Hải
Email: FB: Fb.com/hainh.tmdt
Web: hoicudem.com/
+ Hội: cuộc vui đc tổ chức chung cho đông đảo ng tham dự theo phong tục hay nhân dịp
đặc biệt, đem lại lợi ích tinh thần cho các thành viên trong cộng đồng và có nhiều trò vui
+Lễ và hội là 1 tổng thể thống nhất, ko thể chia tách. Lễ là nội dung, hội là hình thức.Lễ
là phần Đạo, hội là phần đời.Lễ là cộng mệnh, hội là cộng cảm.Hội gắn liền với Lễ và
chịu sự quy định nhất định của Lễ.
- Phân loại lễ hội:
Khác với các di tích Việt Nam đã được kiểm kê và phân cấp theo quy định, các lễ hội ở
Việt Nam chưa được quy định phân cấp bài bản. Có những lễ hội bị biến tướng, trần tục
hoá, mở hội tràn lan nhiều ý kiến đề xuất việc kiểm kê các lễ hội trên toàn quốc để tiến
tới phân cấp lễ hội theo các cấp: lễ hội cấp quốc gia, lễ hội cấp tỉnh, lễ hội cấp huyện và
lễ hội cấp làng. Theo bà Lê Thị Minh Lý - Phó Cục trưởng Cục Di sản Văn hoá, điểm
yếu trong việc quản lý lễ hội hiện nay đó là chưa có cơ sở dữ liệu khoa học và quan điểm
tiếp cận đúng. Không nên đánh đồng giữa lễ hội và festival.
Tùy vào từng thời điểm, vào chủ thể mà lễ hội hiện nay được tổ chức ở nhiều cấp khác
nhau.Ví dụ như lễ hội đền Hùng được tổ chức ở quy mô quốc gia 5 năm/ lần.Những năm
số lẻ thì lại được tổ chức ở quy mô cấp tỉnh. Các lễ hội thường được tổ chức ở quy mô

cấp tỉnh như hội Lim, lễ hội Lam Kinh (Thanh Hóa), lễ hội đền Trần (Nam Định) Các
lễ hội ở quy mô cấp huyện tiêu biểu như lễ hội đền Nguyễn Công Trứ ở Kim Sơn (Ninh
Bình) và Tiền Hải (Thái Bình).Các lễ hội diễn ra ở đình Làng là lễ hội cấp nhỏ nhất, chỉ
với quy mô làng, xã.
- Thời gian địa điểm tổ chức:
Lễ hội ở Việt Nam được tổ chức nhiều nhất vào ba tháng mùa xuân và mùa thu. Hai
khoảng thời gian trên là lúc người dân nhàn rỗi. Mùa xuân tiết trời ấm áp, mùa thu tiết
trời mát mẻ, đều thuận lợi cho việc tổ chức lễ hội. Hai yếu tố cơ bản tạo nên sự thoải mái,
vui vẻ cho người đi dự hội.
1.2. Đặc điểm lễ hội truyền thống Việt Nam
Tính thiêng
Muốn hình thành một lễ hội, bao giờ cũng phải tìm ra được một lý do mang tính "thiêng"
nào đó. Đó là người anh hùng đánh giặc bị tử thương, ngã xuống mảnh đất ấy, lập tức
được mối đùn lên thành mộ. Đó là nơi một người anh hùng bỗng dưng hiển thánh, bay về
trời. Cũng có khi đó chỉ là một bờ sông, nơi có một xác người chết đuối, đang trôi bỗng
nhiên dừng lại, không trôi nữa; dân vớt lên, chôn cất, thờ phụng Cũng có khi lễ hội chỉ
hình thành nhằm ngày sinh, ngày mất của một người có công với làng với nước, ở lĩnh
vực này hay lĩnh vực khác (có người chữa bệnh, có người dạy nghề, có người đào
mương, có người trị thủy, có người đánh giặc ). Song, những người đó bao giờ cũng
được "thiêng hóa" và đã trở thành "Thần thánh" trong tâm trí của người dân.






Nguyễn Hoàng Hải
Email: FB: Fb.com/hainh.tmdt
Web: hoicudem.com/
Nhân dân tin tưởng những người đó đã trở thành Thần thánh, không chỉ có thể phù hộ

cho họ trong những mặt mà sinh thời người đó đã làm: chữa bệnh, làm nghề, sản xuất,
đánh giặc mà còn có thể giúp họ vượt qua những khó khăn đa dạng hơn, phức tạp hơn
của đời sống.
Chính tính "Thiêng" ấy đã trở thành chỗ dựa tinh thần cho nhân dân trong những thời
điểm khó khăn, cũng như tạo cho họ những hy vọng vào điều tốt đẹp sẽ đến.
Tính "cộng đồng"
Lễ hội chỉ được sinh ra, tồn tại và phát triển khi nó trở thành nhu cầu tự nguyện của một
cộng đồng. Cộng đồng lớn thì phạm vi của lễ hội cũng lớn. Bởi thế mới có lễ hội của một
họ, một làng, một huyện, một vùng hoặc cả nước.
Tính địa phương
Lễ hội được sinh ra và tồn tại đều gắn với một vùng đất nhất định.Bởi thế lễ hội ở vùng
nào mang sắc thái của vùng đó. Tính địa phương của lễ hội chính là điều chứng tỏ lễ hội
gắn bó rất chặt chẽ với đời sống của nhân dân, nó đáp ứng những nhu cầu tinh thần và
văn hóa của nhân dân, không chỉ ở nội dung lễ hội mà còn ở phong cách của lễ hội nữa.
Phong cách đó thể hiện ở lời văn tế, ở trang phục, kiểu lọng, kiểu kiệu, kiểu cờ, ở lễ vật
dâng cúng
Tính cung đình
Đa phần các nhân vật được suy tôn thành Thần linh trong các lễ hội của người Việt, là
các người đã giữ các chức vị trong triều đình ngày xưa.Bởi thế những nghi thức diễn ra
trong lễ hội, từ tế lễ, dâng hương, đến rước kiệu đều mô phỏng sinh hoạt cung đình. Sự
mô phỏng đó thể hiện ở cách bài trí, trang phục, động tác đi lại Điều này làm cho lễ hội
trở nên trang trọng hơn, lộng lẫy hơn.Mặt khác lễ nghi cung đình cũng làm cho người
tham gia cảm thấy được nâng lên một vị trí khác với ngày thường, đáp ứng tâm lý, những
khao khát nguyện vọng của người dân.
Tính đương đại
Tuy mang nặng sắc thái cổ truyền, lễ hội, trong quá trình vận động của lịch sử, cũng dần
dần tiếp thu những yếu tố đương đại. Những trò chơi mới, những cách bài trí mới, những
phương tiện kỹ thuật mới như rađio, cassete, video, tăng âm, micro đã tham gia vào lễ
hội, giúp cho việc tổ chức lễ hội được thuận lợi hơn, đáp ứng nhu cầu mới.
Tuy vậy, những sự tiếp thu này đều phải dần dần qua sự sàng lọc tự nguyện của nhân

dân, được cộng đồng chấp nhận, không thể là một sự lắp ghép tùy tiện, vô lý
Nghệ thuật diễn xướng







Nguyễn Hoàng Hải
Email: FB: Fb.com/hainh.tmdt
Web: hoicudem.com/
Có thể nói rằng, toàn bộ lễ hội là một sân khấu đặc biệt.Tại sân khấu này, có ba nhân vật
chính.Một nhân vật là ông Thầy cúng (Thầy Đồng đền ở Đền, Ông chủ tế ở đình ) người
có khả năng thông qua các Thần linh, sự nhập vai của các Thần linh (các hiện tượng lên
đồng). Nhân vật thứ hai là quần chúng nhân dân, những tín đồ của tôn giáo hay tín
ngưỡng, những người đã có sẵn những cảm xúc tôn giáo, tín ngưỡng nhạy bén, sẵn sàng
tham gia, nhập cuộc vào cuộc trình diễn này. Nhân vật thứ ba tuy không xuất hiện trên
sân khấu, nhưng lại có vai trò rất quan trọng trong Lễ hội, chính nhân vật này tạo ra cảm
hứng xuyên suốt cuộc Lễ hội, là động lực của Lễ hội. Đó là các Thần linh, đối tượng thờ
cúng của các Lễ hội.
Trong các lễ Hầu đồng, lên đồng là một nghi thức đặc biệt.Trong đó, người lên đồng
được các Thần linh "nhập" vào. Khi đó, những người lên đồng không còn giữ nguyên bản
thân, mà trở thành những nhân vật Thần linh được quy định là phù hợp với họ (hợp
"căn"). Người lên đồng múa, hát và nói năng hệt như tính cách các vị thần nhập vào họ,
theo quan niệm dân gian. Người nhập vai vào vai cô bé Thượng Ngàn, nhí nhảnh, ưa làm
dáng, hát theo những làn điệu miền núi. Người nhập vai ông Hoàng Bảy, một võ tướng
có nét mặt oai vệ, có giọng nói cương nghị, múa kiếm. Còn Ông Hoàng Mười, một ông
quan lớn, hào hoa phong nhã, đĩnh đạc, giọng nói sang sảng, thường mang theo bầu rượu
túi thơ và múa với cây hèo thúc ngựa

Nghệ thuật tạo hình và trang trí
Nghệ thuật tạo hình và trang trí tồn tại trong Lễ hội như một yếu tố tất yếu. Cờ hội với
năm sắc ngũ hành - năm màu tương ứng với năm yếu tố cơ bản của vũ trụ theo quan niệm
triết học cổ sơ, đặt cạnh nhau rất tương phản, gây sự chú ý. Các loại kiệu sơn son thếp
vàng lộng lẫy, chạm trổ tinh vi. Tượng gỗ với cách tạo hình dân gian và truyền thống. Và,
trong ngày hội làng, các đội tế với cách ăn mặc đặc biệt, đã gây ấn tượng đối với người
dự hội. Thực ra, trang phục của đội tế, từ chủ tế đến các thành viên của đội, là sự mô
phỏng sắc phục của quan lại khi lâm triều.Đó cũng là yếu tố tâm lý hấp dẫn đối với
những người trong đội tế.Dường như trong trang phục đó, họ cảm thấy một vinh dự đặc
biệt dành cho họ và họ được đứng ở một vị trí khác hẳn ngày thường.ở các Đền phủ, nghệ
thuật trang trí đặc biệt được coi trọng. Màu sắc và các đồ trang sức của người lên đồng
chính là yếu tố quan trọng để phân biệt các giá đồng. Nếu Cô Bé Thượng Ngàn chỉ dùng
trang phục sắc xanh (miền núi) với các loại trang sức như vòng bạc, hoa tai thường được
đồng bào các dân tộc thiểu số ưa dùng thì Ông Hoàng Mười, một vị quan văn hào hoa,
phong nhã, lại ăn mặc kiểu quan văn
Cách bài trí Điện thờ cũng đặc biệt.Khác với chùa chiền thường trang trí giản dị, gợi cảnh
thú nhàn, xa lánh thế tục, các đền phủ ưa trang hoàng lộng lẫy, rực rỡ gần với cảnh lộng
lẫy của các cung điện thế tục. Trong điện thờ, các vị Thánh được thờ ở một vị trí riêng,
vừa phù hợp với thứ bậc của họ trong hệ thống Thần linh của Đạo Mẫu, vừa phù hợp với
tính cách của các vị theo quan niệm truyền thống.
Nghệ thuật âm nhạc, ca hát và múa






Nguyễn Hoàng Hải
Email: FB: Fb.com/hainh.tmdt
Web: hoicudem.com/

Trong lễ hội có diễn ca, trống chiêng và múa.Có thể suy đoán, các điệu múa cờ, múa
chiêng, múa trống.
Âm nhạc, ca hát và múa không chỉ xuất hiện ở phần hội.Ngay ở phần lễ, các loại nghệ
thuật biểu diễn này đã có mặt như một yếu tố không thể thiếu được, và ở một số lễ hội,
các loại hình nghệ thuật này đã chiếm vai trò chủ đạo.Chẳng hạn, ở huyện Quốc Oai, tỉnh
Hà Tây, có một loại sinh hoạt ca hát đã trở thành ngày hội làng. Đó là hội Dô, với loại hát
Dô độc đáo. Với các quy định chặt chẽ về lề lối sinh hoạt, hát Dô là một hình thức hát
thờ, hát nghi lễ được tổ chức khá quy củ với các làn điệu, bài bản phong phú. Loại hình
hát nghi lễ còn khá phổ biến trên khắp địa bàn vùng đồng bằng Bắc Bộ.
1.3 Giá trị của lễ hội truyền thống
Khi nước ta cũng như ở nhiều nước khác đã bước vào công nghiệp hóa,hiện đại hóa
nhưng lễ hội cổ truyền vẫn tồn tại thậm chí còn phát triển mạnh mẽ.Phải chăng lễ hội cổ
truyền vẫn thu hút và lôi cuốn con người trong xã hội hiện đại?Nói cách khác,lễ hội cổ
truyền vẫn đáp ứng nhu cầu của con người không chỉ trong xã hội cổ truyền mà cả trong
xã hội hiên đại.Có được điều đó là do lễ hội cổ truyền hội tụ được những giá trị sau
-Giá trị cố kết và biểu dương sức mạnh cộng đồng.Lễ hội nào cũng là của và thuộc
về một cộng đồng người nhất định,có thể đó là cộng đồng làng xã(hội làng),cộng đồng
nghề nghiệp(hội nghề),cộng đồng tôn giáo(hội chùa,hội đền, hội nhà thờ),cộng đồng dân
tộc(hội đền Hùng-quốc tế) đến cộng đồng nhỏ hẹp hơn,như gia tộc họ hàng…Chính lễ
hội là dịp biểu dương sức mạnh của cộng đồng và là chất kết dính tạo nên sự kết nối cộng
đồng.Mỗi cộng đồng hình thành và tồn tại trên cơ sở của những nền tảng gắn kết,như gắn
kết trên cùng một lãnh thổ,gắn kết về sở hữu tài nguyên và lợi ích kinh tế,gắn kết bởi nhu
cầu và sự đồng cảm trong các hoạt đông sáng tạo và hưởng thụ văn hóa…
Ngày nay,trong điều kiện xã hội hiên đại,con người ngày càng khẳng định”cái cá
nhân”,”cá tính”của mình thì không vì thế cái cộng đồng bị phá vỡ.mà nó chỉ biến đổi các
sắc thái và phạm vi,con người vẫn phải nương tựa vào cộng đồng,có nhu cầu cố kết cộng
đồng.Trong điều kiện như vậy,lễ hội vẫn giữ nguyên giá trị biểu tượng của sức mạnh
cộng đồng và tạo nên sự cố kết cộng đồng ấy.
-Giá trị hướng về cội nguồn: tất cả mọi lễ hội cổ truyền đều hướng về nguồn.Đó là cội
nguồn tự nhiên mà con người vốn từ đó sinh ra và nay vẫn là một bộ phận hữu cơ;nguồn

cội cồng đồng như dân tộc,đất nước,làng xóm,tổ tiên,nguồn cội văn hóa…Hơn thế
nữa,hướng về nguồn đã trở thành tâm thức của con người Việt Nam-“uống nước nhớ
nguồn,ăn quả nhớ người trồng cây”.Chính vì thế lễ hội bao giờ cũng gắn với hành hương
du lịch.Ngày nay trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật,tin học hóa toàn cầu
hóa,con người bừng tỉnh về tình trạng tách rời giữa bản thân mình với tự nhiên,môi
trường,với lịch sử xa xưa,với truyền thống văn hóa dân tộc độc đáo đang bị mai
một.Chính trong môi trường tự hiên và xã hội như vậy,hơn bao giờ hết con người càng có
nhu cầu hướng về,tìm lại cái nguồn cội tự nhiên của mình,hòa mình vào môi trường thiên
nhiên;trở về,tìm lại và khẳng định cái nguồn gốc cộng đồng và bản sắc văn hóa của mình
trong cái chung của văn hóa nhân loại.Chính nền văn hóa truyền thống,trong đó có lẽ lễ
hội cổ truyền là một biểu tượng,có thể đáp ứng nhu cầu bức xúc ấy.






Nguyễn Hoàng Hải
Email: FB: Fb.com/hainh.tmdt
Web: hoicudem.com/
-Giá trị cân bằng đời sống tâm linh:bên cạnh đời sống vật chất đời sống tinh thần tư
tưởng còn hiện hữu trong đời sống tâm linh.Đó là đời sống của con người hướng về cái
cao cả thiêng liêng-chân thiện mỹ-cái mà con người ngưỡng mộ,ước vọng tôn thờ,trong
đó có niềm tin tôn giáo tín ngưỡng.Như vậy,tôn giáo tín ngưỡng thuộc về đời sống tâm
linh,tuy nhiên không phải tất cả đời sống tâm linh là tôn giáo tín ngưỡng.Chính tôn giáo
tín ngưỡng,các nghi lễ lễ hội góp phần làm thỏa mãn nhu cầu về đời sống tâm linh của
con người,đó là “cuộc đời thứ hai”,đó là trạng thái “thăng hoa”từ đời sống trần tục,hiện
hữu.
Xã hội hiện đại với nhịp sống công nghiệp,các hoạt động của con người dường như
được “chương trình hóa”theo nhịp hoạt động của máy móc,căng thẳng và đơn điệu,ồn ào

chật chội nhưng vẫn cảm thấy cô đơn.Một đời sống như vậy tuy có đầy đủ về vật chất
nhưng vẫn khô cứng về đời sống tinh thần và tâm linh một đời sống chỉ có dồn nén,”trật
tự”mà thiếu sự cởi mở xô bồ… tất cả những cái đó hạn chế khả năng hòa đồng của con
người,làm thui chột những khả năng sáng tạo văn hóa mang tính đại chúng.Một đời sống
như vậy không có “thời điểm mạnh” ”cuộc sống thứ 2”,không có sự “bùng cháy” và
“thăng hoa”.
Trở về với văn hóa dân tộc,lễ hội cổ truyền con người hiện đại dường như được tắm
mình trong dòng nước mát đầu nguồn của văn hóa dân tộc,tận hưởng những giây phút
thiêng liêng,ngưỡng vọng những biểu tượng siêu việt cao cả-chân thiện mỹ,được sống
những giờ phút giao cảm hồ hởi đầy tinh thần cộng đồng,con người có thể phô bày tất cả
những gì là tinh túy đẹp đẽ nhất của bản thân thông qua các cuộc thi tài,qua các hình thức
diễn nghệ thuật,cách thức ăn mặc lộng lẫy,đẹp đẽ khác hẳn ngày thường …Tất cả đó là
trạng thái thăng hoa từ đời sống hiện thực vượt lên trên đời sống hiện thực.Nói cách
khác,lễ hội đã thuộc về phạm trù cái thiêng liêng của đời sống tâm linh,đối lập và cân
bằng với cái trần tục của đời sống hiện thực.
-Giá trị sáng tạo và hưởng thụ văn hóa:Lễ hội là một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng-
văn hóa cộng đồng của nhân dân ở nông thôn cũng như ở đô thị.Trong các lễ hội đó nhân
dân tự đứng ra tổ chức,chi phí,sáng tạo và tái hiện các sinh hoạt văn hóa cộng đồng và
hưởng thụ các giá trị văn hóa và tâm linh,do vậy lễ hội bao giờ cũng thấm đượm tinh thần
dân chủ và nhân bản sâu sắc.Đặc biệt trong “thời điểm mạnh”của lễ hội,khi mà tất cả mọi
người chan hòa trong không khí linh thiêng,hứng khởi thì các cách biệt xã hội giữa cá
nhân ngày thường dường như được xóa nhòa,con người cùng sáng tạo và hưởng thụ
những giá trị văn hóa của mình.Điều này có phần nào đối lập với đời sống thường nhật
của những xã hội phát triển,khi mà phân công lao động xã hội đã được chuyên môn
hóa,nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của con người đã phần nào tách biệt.đấy là
chưa kể trong xã hội nhất định một lớp người có đặc quyền có tham vọng “cướp đoạt”
các sáng tạo văn hóa cộng đồng để phục vụ cho lợi ích riêng của mình.Đến những nhu
cầu giao tiếp với thần linh của con người cũng tập trung vào một lớp người có “khả năng
đặc biệt”.Như vậy con người,đứng từ góc độ quảng đại quần chúng,không còn thực sự là
chủ thể của quá trình sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa một cách bình đẳng như

xưa.Xu hướng đó phần nào xói mòn tinh thần nhân bản của văn hóa,làm tha hóa chính
bản thân con người.Do vậy con người trong xã hội hiện đại,cùng với xu hướng dân chủ
hóa về kinh tế xã hội thì cugx diễn ra quá trình dân chủ hóa về văn hóa.Chính nền văn
hóa truyền thống,trong đó có lễ hội cổ truyền là môi trường tiềm ẩn những nhân tố dân
chủ trong sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa ấy.






Nguyễn Hoàng Hải
Email: FB: Fb.com/hainh.tmdt
Web: hoicudem.com/
-Giá trị bảo tồn và trao truyền văn hóa:Lễ hội không chỉ là tấm gương phản chiếu
nền văn hóa dân tộc mà còn là môi trường bảo tồn làm giàu và phát huy nền văn hóa dân
tộc ấy.Cuộc sống của con người Việt Nam không phải lúc nào cũng là ngày hội mà trong
chu kì một năm,với bao ngày tháng nhọc nhằn vất vả ,lo âu để rồi “xuân thu nhị kì”
“tháng tám giỗ cha,tháng ba giỗ mẹ”,cuộc sống thôn quê vốn tĩnh lặng ấy vang dậy tiến
trống chiêng,người người tụ hội nơi đình chùa mở hội.Nơi đó con người hóa thân thành
văn hóa,văn hóa làm biến đổi con người,”một bảo tàng sống” về văn hóa dân tộc được
hồi sinh, sáng tạo và trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.Tự hỏi nếu như không có
nghi lễ và hội hè thì làm sao các làn điệu dân ca như quan họ,hát xoan…,các điệu múa
xanh tiền,múa rồng múa lân…;các hình thức sân khấu chèo,rối nước cải lương…;các trò
chơi trõ diễn: đánh cờ người, chọi gà,chơi đu,đánh vật sẽ ra đời và duy trì như thế nào
trong lòng dân tộc suốt hàng nghìn năm qua.Và như vậy thì dân tộc và văn hóa dân tộc sẽ
đi đâu, về đâu,sẽ còn mất ra sao?

1.4 Chức năng và vai trò của lễ hội truyền thống
Lễ hội là một loại hình sinh hoạt cộng đồng được tổ chức theo phương pháp cảnh

diễn hóa (sân khấu hóa) với nhiều nội dung, hình thức phong phú nhằm vừa tôn vinh
những giá trị thiêng liêng, vừa thỏa mãn các nhu cầu văn hóa tinh thần của con người và
góp phần thắt chặt các quan hệ xã hội. Là một hình thức sinh hoạt văn hóa tổng hợp, lễ
hội được cấu thành bởi hai yếu tố lễ và hội, tương ứng với các mặt: tinh thần, tôn giáo -
tín ngưỡng, linh thiêng là yếu tố lễ; vật chất, văn hóa-nghệ thuật, đời thường là yếu tố
hội, cả hai yếu tố gắn bó, hòa quyện với nhau không thể bỏ đi một yếu tố nào mà không
làm mất đi bản thân nó. Lễ và hội hướng con người tới “cái thiêng” và gắn bó con người
lại với nhau, có sức hấp dẫn lôi cuốn các tầng lớp xã hội, trở thành một nhu cầu, một khát
vọng của nhân dân trong nhiều thế kỷ.
Thứ nhất, lễ hội truyền thống thực hiện chức năng liên kết cộng đồng, dù dưới hình
thức nào lễ hội truyền thống vẫn là một kiểu sinh hoạt tập thể của nhân dân, là “cuộc vui
chơi đông người” được tổ chức sau thời gian lao động, sản xuất hay nhân dịp kỷ niệm
một sự kiện xã hội quan trọng liên quan đến sự tồn tại của một cộng đồng hoặc để quần
chúng tìm đến một cái gì đó. Người đi hội không cảm thấy mình là người ngoài cuộc,
chính điều đó đã đem lại niềm an ủi, sự xúc động thật sự và là nguồn động viên sâu sắc
cho những thân phận nhỏ bé ngày thường trong xã hội phong kiến xa xưa.
Thứ hai, lễ hội truyền thống có chức năng phản ánh, bảo lưu và truyền bá các giá trị
văn hóa truyền thống, thể hiện ở sự ngưỡng mộ tổ tiên, ôn lại truyền thống đã qua (như lễ
hội Đền Hùng, lễ hội Gióng…).
Thứ ba, lễ hội truyền thống còn thể hiện chức năng đáp ứng nhu cầu đời sống tinh
thần, tâm linh, giải quyết những khát khao, những ước mơ của cộng đồng các dân tộc ở






Nguyễn Hoàng Hải
Email: FB: Fb.com/hainh.tmdt
Web: hoicudem.com/

địa phương … Thông qua đó, lễ hội truyền thống tạo cho con người niềm lạc quan yêu
đời, yêu chân lý, trọng cái thiện và làm cho tâm hồn, nhân cách mỗi con người như được
sưởi ấm tình nhân đạo, nhân văn để rồi thẩm thấu vào cuộc sống đời thường, đáp ứng nhu
cầu đời sống văn hóa tinh thần, tâm linh về giao lưu, làm cho đời sống có ý nghĩa hơn, tốt
đẹp hơn.
Thứ tư, chức năng hưởng thụ và giải trí là chức năng cuối cùng của lễ hội truyền thống.
Đến với lễ hội truyền thống ngoài sự “hòa nhập” hết mình trong các hoạt động của lễ hội,
được “hóa thân” đóng một vai trong hội hay “nhập thân” vào một trò chơi, tất cả mọi
người đều được hưởng những lễ vật mà mình dâng cúng, đều được tham gia vào các hoạt
động vui chơi, giải trí trong quá trình tổ chức hoạt động lễ hội. Trong lễ hội truyền thống,
người dân không chỉ hưởng thụ mà còn là người sáng tạo văn hóa, là chủ nhân thực sự
trong đời sống văn hóa của chính bản thân mình.
Hiện nay do phát huy tốt vai trò, chức năng nêu trên, các lễ hội truyền thống đã tiếp
tục thu hút được hàng vạn, thậm chí hàng chục vạn quần chúng nhân dân tham gia, tạo
nên một không khí náo nhiệt, hào hứng giữa đời sống lao động sản xuất của nhân dân.
Chiều sâu của tinh thần lễ hội truyền thống là bảo lưu cội nguồn, là thứ vũ khí tư tưởng
rất sắc bén cho mọi thời đại của mỗi dân tộc; do đó, thực hiện tốt các chức năng của lễ
hội truyền thống là góp phần giáo dục truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, làm lành
mạnh, phong phú đời sống tinh thần của xã hội và cũng để nhằm góp phần “xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đề ra trong Nghị quyết lần thứ 5
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII).















Nguyễn Hoàng Hải
Email: FB: Fb.com/hainh.tmdt
Web: hoicudem.com/




















Nguyễn Hoàng Hải
Email: FB: Fb.com/hainh.tmdt

Web: hoicudem.com/
Chương 2:
Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng
10 - 3 Âm lịch - Phú Thọ
2.1 Nội Dung của lễ hội.
a, Lịch sử hình thành.
Lễ hội Đền Hùng còn gọi là Giỗ tổ Hùng Vương, là một lễ hội lớn mang tầm vóc quốc
gia ở Việt Nam, tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn công lao lập nước của các vua Hùng, những
vị vua đầu tiên của dân tộc .
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”
Câu ca dao đậm đà tình nghĩa ấy đã đi vào lòng mỗi người dân Việt Nam từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Hàng ngàn năm nay, Đền Hùng - nơi cội nguồn của dân tộc, của đất
nước luôn là biểu tượng tôn kính, linh nghiêm quy tụ và gắn bó với dân tộc Việt Nam.
Theo truyền thuyết thì Lạc Long Quân và Âu Cơ được xem như là Thủy Tổ người
Việt, cha mẹ của các Vua Hùng. Lễ hội diễn ra vào ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch tại
Đền Hùng, Việt Trì, Phú Thọ. Từ xa xưa lễ hội Đền Hùng đã có vị thế đặc biệt trong tâm
thức của người Việt Nam. Bản ngọc phả viết thời Trần, năm 1470 đời vua Lê Thánh
Tông và đời vua Lê Kính Tông năm 1601 sao chép đóng dấu kiềm để tại Đền Hùng, nói
rằng: “ Từ nhà Triệu, nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần đến triều đại ta bây giờ là
Hồng Đức Hậu Lê vẫn cùng hương khói trong ngôi đền ở làng Trung Nghĩa. Những
ruộng đất sưu thuế từ xưa để lại dùng vào việc cúng tế vẫn không thay đổi ”. Như vậy,
có thể hiểu từ thời Hậu Lê trở về trước các triều đại đều quản lý Đền Hùng theo cách giao
thẳng cho dân sở tại trông nom, sửa chữa, cúng bái, làm Giỗ Tổ ngày 10 tháng 3 âm lịch.
Bù lại họ được miễn nộp thuế 500 mẫu ruộng, miễn đóng sưu, miễn đi phu đi lính. Đến
đời nhà Nguyễn vào năm Khải Định thứ 2 (1917), Tuần phủ Phú Thọ Lê Trung Ngọc đã
trình bộ Lễ định ngày mùng Mười tháng Ba âm lịch hàng năm làm ngày Quốc tế (Quốc
lễ, Quốc giỗ). Điều này được tấm bia Hùng Vương từ khảo do Tham tri Bùi Ngọc Hoàn,







Nguyễn Hoàng Hải
Email: FB: Fb.com/hainh.tmdt
Web: hoicudem.com/
Tuần phủ tỉnh Phú Thọ, lập năm Bảo Đại thứ 15 (1940) cũng đang đặt ở Đền Thượng
trên núi Hùng, xác nhận: “Trước đây, ngày Quốc tế lấy vào mùa thu làm định kỳ. Đến
năm Khải Định thứ hai (dương lịch là năm 1917), Tuần phủ Phú Thọ là Lê Trung Ngọc
có công văn xin bộ Lễ ấn định ngày mồng Mười tháng Ba hằng năm làm ngày Quốc tế,
tức trước ngày giỗ tổ Hùng Vương đời thứ 18 một ngày. Còn ngày giỗ (11 tháng Ba) do
dân sở tại làm lễ”.
Kể từ đây, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương 10 tháng 3 âm lịch hàng năm được chính thức
hóa bằng luật pháp. Sau cách mạng tháng Tám (1945) Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm
tới Đền Hùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đều về
thăm viếng.
Kế tục truyền thống cao đẹp của cha ông, nhất là đạo đức “uống nước nhớ nguồn”,
ngay sau cách mạng thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh của Chủ Tịch
nước số 22/SL - CTN ngày 18 tháng 2 năm 1946 cho công chức nghỉ ngày 10 tháng 3 âm
lịch hàng năm để tham gia tổ chức các hoạt động Giỗ Tổ Hùng Vương - hướng về cội
nguồn dân tộc. Trong ngày Giỗ Tổ năm Bính Tuất (1946) - năm đầu tiên của Chính phủ
mới được thành lập, cụ Huỳnh Thúc Kháng - Quyền Chủ tịch nước đã dâng 1 tấm bản đồ
Tổ quốc Việt Nam và 1 thanh gươm quý nhằm cáo với Tổ tiên về đất nước bị xâm lăng
và cầu mong Tổ tiên phù hộ cho quốc thái dân an, thiên hạ thái bình cùng nhau đoàn kết,
đánh tan giặc xâm lược, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
2 lần về thăm Đền Hùng (19/9/1954 và 19/8/1962). Tại đây Người đã có câu nói bất hủ:
“Các Vua Hùng đã có công dựng nước - Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.

Người còn nhắc: “Phải chú ý bảo vệ, trồng thêm hoa, thêm cây cối để Đền Hùng ngày
càng trang nghiêm và đẹp đẽ, thành công viên lịch sử cho con cháu sau này đến tham
quan”.“ Năm 1995, ngày Giỗ Tổ Hùng Vương đã được Ban Bí thư ghi trong thông báo là
ngày lễ lớn trong năm. Ngành Văn hóa thông tin - thể thao phối hợp với các ngành chức
năng đã tổ chức lễ hội trong thời gian 10 ngày (từ 1/3 đến 10/3 âm lịch).
Tại Nghị định số 82/2001/NĐ-CP ngày 06/11/2001 về Nghi lễ Nhà nước, trong đó có
nội dung quy định cụ thể về quy mô tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương, cụ thể như sau: -
“Năm chẵn” là số năm kỷ niệm có chữ số cuối cùng là “0”; Bộ Văn hoá - Thông tin và
Ủy ban Nhân dân tỉnh Phú Thọ tổ chức Lễ hội; mời đại diện lãnh đạo Đảng, Nhà nước,
Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể dự
Lễ dâng hương. - “Năm tròn” là số năm kỷ niệm có chữ số cuối cùng là “5”; Ủy ban
Nhân dân tỉnh Phú Thọ tổ chức lễ hội; mời đại diện lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội,
Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể dự Lễ dâng
hương. - “Năm lẻ” là số năm kỷ niệm có các chữ số cuối cùng còn lại. Ủy ban Nhân dân
tỉnh Phú Thọ tổ chức lễ hội; mời lãnh đạo Bộ Văn hoá - Thông tin dự lễ dâng hương và tổ
chức các hoạt động trong lễ hội. Ngày 02/4/2007, Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ






Nguyễn Hoàng Hải
Email: FB: Fb.com/hainh.tmdt
Web: hoicudem.com/
nghĩa Việt Nam đã phê chuẩn sửa đổi, bổ sung Điều 73 của Luật Lao động cho người lao
động được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương ngày Giỗ Tổ Hùng Vương (10/3 âm lịch).
Kể từ đây, ngày 10/3 âm lịch hàng năm đã trở thành ngày lễ lớn - QUỐC LỄ mang ý
nghĩa bản sắc văn hóa dân tộc. Trong ngày này, nhân dân cả nước có điều kiện để tham
gia vào các hoạt động văn hóa thể hiện lòng thành kính tri ân các Vua Hùng đã có công

dựng nước và các bậc tiền nhân đã vì dân giữ nước.
Lễ hội đền Hùng còn gọi là Giỗ tổ Hùng Vương là một lễ hội lớn mang tầm vóc quốc
gia ở Việt Nam, tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn công lao lập nước của các vua Hùng, những
vị vua đầu tiên của dân tộc. Lễ hội diễn ra vào ngày 10 tháng 3 âm lịch, tuy nhiên, lễ hội
thực chất đã diễn ra từ hàng tuần trước đó với những phong tục như đâm đuống (đánh
trống đồng) của dân tộcMường, hành hương tưởng niệm các vua Hùng, và kết thúc vào
ngày 10 tháng 3 âm lịch với lễ rước kiệu và dâng hương trên đền Thượng. Lễ hội đền
Hùng hiện được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nâng lên thành giỗ quốc
Tổ tổ chức lớn vào những năm chẵn.
Lễ hội Đền Hùng là lễ hội truyền thống của dân tộc Việt Nam, và có một đặc thù riêng
là: Phần lễ nặng hơn phần hội. Tâm tưởng người về dự hội là hướng về tổ tiên, cội nguồn
với sự tôn kính và lòng biết ơn sâu sắc (Ẩm hà tư nguyên - Uống nước nhớ nguồn).
b,Nội dung lễ hội:
Phần Lễ sẽ được tổ chức trang nghiêm, trọng thể và có sự tham gia tổ chức của cộng
đồng 41 làng xã thuộc tỉnh Vĩnh Phú tham gia rước kiệu lễ dâng Tổ. Từ ngàn xưa, trên
các cổ kiệu có bày lễ vật, đi kèm có phường bát âm tấu nhạc, cờ quạt, bát bửu, lọng che
cùng chiêng trống
Những làng ở xa thường phải rước 2-3 ngày mới tới" . "Xưa kia, việc cúng Tổ (cử
hành) vào ngày 12 tháng 3 (âm lịch) hằng năm. Thường khi con cháu ở xa về làm giỗ
trước một ngày, vào ngày 11 tháng 3 (âm lịch) Đến thời nhà Nguyễn định lệ 5 năm mở
hội lớn một lần (vào các năm thứ 5 và 10 của các thập kỷ), có quan triều đình về cúng tế
cùng quan hàng tỉnh và người chủ tế địa phương cúng vào ngày 10 tháng 3 (âm lịch)
Những năm hội chính thì phần lễ gồm: Tế lễ của triều đình sau đó là phần lễ của dân.
Có 41 làng được rước kiệu từ đình làng mình tới Đền Hùng. Đó là những cuộc hành lễ
thể hiện tính tâm linh và nhân văn sâu sắc. Các kiệu đều sơn son thếp vàng, chạm trổ tinh
vi, được rước đi trong không khí vừa trang nghiêm vừa vui vẻ với sự tham gia của các
thành phần chức sắc và dân chúng trong tiếng chiêng, trống, nhạc bát âm rộn rã một
vùng. Đám rước kiệu với màu sắc sặc sỡ của bạt ngàn cờ, hoa, lọng, kiệu, trang phục
truyền thống xuất phát từ dưới chân núi rồi lần lượt qua các đền để tới đền Thượng, nơi







Nguyễn Hoàng Hải
Email: FB: Fb.com/hainh.tmdt
Web: hoicudem.com/
làm lễ dâng hương. Đám rước như một con rồng uốn lượn trên những bậc đá dưới những
tán lá cây để tới đỉnh núi Thiêng.
Người hành hương tới đền Hùng chủ yếu vì nhu cầu của đời sống tâm linh. Mỗi người
đều thắp lên vài nén hương khi tới đất Tổ để nhờ làn khói thơm nói hộ những điều tâm
niệm của mình với tổ tiên. Trong tâm hồn người Việt thì mỗi nắm đất, gốc cây nơi đây
đều linh thiêng và chẳng có gì khó hiểu khi nhìn thấy những gốc cây, hốc đá cắm đỏ
những chân hương.
Mấy nghìn năm trông coi và gìn giữ, đánh giặc và dựng xây, Đền Hùng đã trở thành
biểu tượng của tinh thần dân tộc, là cội nguồn của sức mạnh, niềm tin, chói sáng của một
nền văn hóa.
Từ trong ý thức tâm linh cả dân tộc luôn hướng về:
"Nước mở Văn Lang xưa
Dòng vua đầu viết sử
Mười tám đời nối nhau
Ba sông đẹp như vẽ
Mộ cũ ở lưng đồi.
Đền thờ trên sườn núi
Muôn dân đến phụng thờ
Khói hương còn mãi mãi"
Trong đó, Lễ giỗ Tổ Lạc Long Quân, Lễ dâng hương Tổ mẫu Âu Cơ vào ngày 27-3
(6-3 âm lịch) và Lễ dâng hương tưởng niệm các Vua Hùng vào ngày 31-3 (10-3 âm lịch)








Nguyễn Hoàng Hải
Email: FB: Fb.com/hainh.tmdt
Web: hoicudem.com/

Sau phần lễ là đến phần hội. Ở lễ hội đền Hùng năm nào cũng tổ chức cuộc thi kiệu
của các làng xung quanh. Với sự xuất hiện của các đám rước linh đình mà không khí lễ
hội trở nên tưng bừng náo nhiệt hơn. Các cỗ kiệu của các làng phải tập trung trước vài
ngày thì mới kịp cuộc thi. Nếu như cỗ kiệu nào đoạt giải nhất của kỳ thi năm nay, thì đến
kỳ hội sang năm được thay mặt các cỗ kiệu còn lại, rước lên đền Thượng để triều đình cử
hành quốc lễ. Vì vậy, cỗ kiệu nào đoạt giải nhất thì đó là niềm tự hào và vinh dự lớn lao
của dân làng ấy. Bởi họ cho rằng, đã được các vua Hùng cùng các vị thần linh phù hộ cho
nhiều may mắn, nhân khang, vật thịnh Tuy nhiên, để có được đám rước các cỗ kiệu đẹp
lộng lẫy phải chuẩn bị rất công phu và chu đáo từ trước. Những khó khăn vất vả của dân
làng đã thôi thúc họ vượt qua được để đến với cái linh thiêng cao thượng và hướng về Tổ
tiên giống nòi. Đó là đời sống tâm linh của dân chúng, được biểu hiện rõ nét qua một
hình thức sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng dân gian cổ truyền mang tính cộng cảm với cộng
mệnh sâu sắc. Sinh hoạt văn hóa dân gian này đã thành nhu cầu không thể thiếu được đối
với các cộng đồng làng xã cư trú quanh đền Hùng.







Nguyễn Hoàng Hải
Email: FB: Fb.com/hainh.tmdt
Web: hoicudem.com/

Mỗi một đám rước kiệu có 3 cỗ kiệu đi liền nhau. Chúng đều được sơn son thiếp vàng,
chạm trổ rất tinh xảo. Sự bày biện trang trí trên cỗ kiệu cũng rất khéo léo và đẹp mắt. Cỗ
kiệu đi đầu bày hương hoa, đèn nhang, trầu cau, chóe nước và bầu rượu. Cỗ kiệu thứ 2 có
đặt hương án, bài vị của Thánh, có lọng và quạt cho với nhiều sắc màu trang hoàng tôn
nghiêm. Cỗ thứ 3 rước bánh chưng và bánh dày, 1 cái thủ lợn luộc để nguyên, đi sau 3 cỗ
kiệu này là các vị quan chức và bô lão trong làng. Các vị chức sắc thì mặc áo thụng theo
kiểu các bá quan triều đình, còn các cụ bô lão cũng mặc áo thụng đỏ, hoặc mặc quần
trắng, áo the, đầu đội khăn xếp. Trong hội đền Hùng, nhân ngày giỗ Tổ có tiến hành nghi
lễ hát thờ (tục gọi là hát Xoan). Đây là một lễ thức rất quan trọng và độc đáo. Dân gian
truyền rằng hát Xoan xưa kia gọi là hát Xuân và điệu múa hát Xoan có từ thời Hùng
Vương và được lưu truyền rộng rãi trong dân cư của các làng xã quanh vùng. Điệu múa
hát Xoan này được nhiều người ưa thích, đặc biệt là bà Lan Xuân, vợ của vua Lý Thần
Tông. Bà đã cảm nhận được âm hưởng dân ca đặc biệt và độc đáo của nó, nên bà đã cho
sưu tầm và cải biên thành điệu hát thờ tại một số đền, đình làng thờ các vua Hùng.
Mở đầu, ông trùm phường Xoan Kim Đức - phường nổi tiếng - cùng chủ tế đứng trước
hương án hát chúc bằng bài khấn nguyện. Sau đó là một kép trẻ đeo trống nhỏ trước ngực
ra làm trò giáo trống, giáo pháo. Tiếp theo, bốn cô đao ra hát thơ nhang và dâng hương
bằng giọng hát lề lối. Rồi đến những bài ca ngợi thánh thần kết thúc phần nghi lễ của
Xoan.
Ở đền Hạ có hát ca trù (gọi là hát nhà tơ, hát ả đào) Đây cũng là loại hát thờ trước cửa
đinh, mừng dâng thành trong dịp hội làng, do phường hát Do Nghĩa trình diễn.
Ngoài sân đền Hạ, ở nơi thoáng đãng có đu tiên. Mỗi bàn đu có hai cô tiên (cô gái
Mường trẻ mặc đẹp) ngồi. Đu quay được là do các cô luân phiên lấy chân đạp đất. Đu







Nguyễn Hoàng Hải
Email: FB: Fb.com/hainh.tmdt
Web: hoicudem.com/
tiên là trò chơi đẹp mắt, nhịp nhàng của phụ nữ. Xung quanh khu vực dưới chân núi
Hùng là các trò diễn và trò chơi dân gian cổ truyền, diễn ra rất sôi động, được nhiều
người tham dự như trò chơi ném côn, chơi đu, đầu vật, chọi gà, Những trò đánh cờ
người và tổ tôm điếm được các cụ cao niên tâm đắc. Còn các đám trai gái tụm năm, tụm
ba trên các đồi đó trổ tài hát ví, hát trống quân hoặc hát đối đáp giao duyên…Tối đến có
tổ chức hát chèo, hát tuồng ở các bãi rộng ngay cửa đền Hạ hoặc đền Giếng…
Lễ hội Đền Hùng là phong tục đẹp trong truyền thống của người dân đất Việt. Và từ rất
lâu đời trong tâm thức dân gian, vùng đất Tổ đã trở thành "Thánh địa linh thiêng” của cả
nước, nơi phát nguyên nguồn gốc dân tộc. Trải qua bao thời đại lịch sử tuy có lúc thịnh,
lúc suy nhưng lễ hội đền Hùng vẫn được tổ chức. Điều này đã thể hiện rõ bản lĩnh phi
thường và nền văn hiến rực rỡ, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Người dân hành hương
về đất Tổ không hề có sự phân biệt tôn giáo, chỉ cần là người Việt Nam thì trong tâm
khảm họ đều có quyền tự hào là con cháu muôn đời của vua Hùng. Bởi vậy, hễ ai là
người Việt Nam nếu có sẵn tâm thành và lòng ham muốn hành hương về đất Tổ thì tự
mình có thể thực hiện ước nguyện chính đáng đó một cách dễ dàng và thuận tiện.
Hội đền Hùng hay giỗ tổ Hùng Vương là ngày hội quần tụ, ca ngợi sự hưng thịnh của nòi
giống, là biểu tượng của tinh thần cộng đồng. Người đến hội mang theo lòng ngưỡng mộ
sâu đậm về quê cha đất tổ, một tín ngưỡng đã ăn sâu vào tâm thức người Việt Nam cho
dù họ sống ở bất cứ phương trời nào.
2.2 ý nghĩa của lễ hội đền hùng
Lễ hội Đền Hùng còn gọi là Giỗ tổ Hùng Vương, là một lễ hội lớn mang tầm vóc quốc
gia ở Việt Nam, tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn công lao lập nước của các vua Hùng, những
vị vua đầu tiên của dân tộc.
a, Đối với địa phương:

-Lễ hội diễn ra trong 5 ngày, từ ngày mùng 6 - 10/3 âm lịch (tức là từ ngày 5 - 9/4/2014),
trong phạm vi Khu di tích lịch sử Đền Hùng, thành phố Việt Trì và các xã, phường vùng
ven Đền Hùng; các di tích thờ Hùng Vương và các danh nhân, danh tướng thời Hùng
Vương trên địa bàn toàn tỉnh, trong đó các hoạt động chính chủ yếu diễn ra là ở Khu di
tích lịch sử Đền Hùng và thành phố Việt Trì (Phú Thọ).
-Ngoài các nghi lễ truyền thống, Lễ hội Đền Hùng năm 2014 còn có nhiều hoạt động văn
hóa, nghệ thuật đặc sắc, nhằm giới thiệu, quảng bá giá trị các di sản phi vật thể đã được
UNESCO vinh danh.
-Với mong muốn khơi dậy những giá trị cội nguồn, sức mạnh của tình đoàn kết của người
dân Việt Nam, điểm nhấn quan trọng xuyên suốt trong Lễ hội Đền Hùng chính là việc tôn






Nguyễn Hoàng Hải
Email: FB: Fb.com/hainh.tmdt
Web: hoicudem.com/
vinh các giá trị văn hóa thời đại Hùng Vương. Một chương trình nghệ thuật đặc sắc với
chủ đề “Về miền quê di sản” diễn ra tại Quảng trường Hùng Vương, thành phố Việt Trì,
đã giới thiệu, quảng bá hình ảnh, thiên nhiên, đất nước, con người và bản sắc văn hóa của
tỉnh Phú Thọ - miền đất có 2 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO vinh danh, đó là
“Tín ngưỡng Thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ” và “Hát Xoan Phú Thọ”. Liên hoan hát
xoan thanh thiếu nhi lần thứ nhất năm 2014, một trong những hoạt động văn hóa mở đầu
cho các hoạt động Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng năm 2014, với sự tham gia
của trên 40 diễn viên từ 6 - 18 tuổi, đến từ 4 phường xoan gốc ở thành phố Việt Trì là: An
Thái, Kim Đức, Phù Đức và Thét. Liên hoan nhằm tôn vinh các di sản văn hóa đặc sắc
của đất Tổ, giáo dục tình yêu nước, nhớ ơn Vua Hùng đã có công dựng nước…
-Việc tổ chức liên hoan cũng góp phần thực hiện cam kết chương trình hành động của

tỉnh Phú Thọ với tổ chức UNESCO về bảo tồn và phát huy giá trị hát xoan, từng bước
đưa hát xoan Phú Thọ ra khỏi tình trạng cần bảo vệ khẩn cấp và trở thành di sản văn hóa
phi vật thể đại diện của nhân loại vào năm 2015. Đây cũng là dịp để các phường xoan
trong thành phố có điều kiện giao lưu học hỏi, tạo niềm yêu thích hát xoan cho các thế
hệ, đặc biệt là lứa tuổi thanh thiếu nhi, qua đó bảo tồn và phát huy trong đời sống cộng
đồng.
b,Đối với kinh tế-xã hội
-Nhà nước và nhân dân ta từ đời Lê đến đời Nguyễn luôn luôn quan tâm đến việc tu sửa,
tôn tạo Khu Di tích Lịch sử Đền Hùng và tổ chức giỗ Tổ Hùng Vương và lễ hội Đền
Hùng vào dịp mùng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm. Ngoài việc miễn thuế cho dân Hy
Cương để dùng tiền thuế vào việc đèn nhang, sắm lễ vật thờ cúng, nhà nước Phong kiến
Việt Nam còn chú ý đến việc tổ chức giỗ Tổ và lễ hội Đền Hùng hàng năm. Nhất là khi
nhà Nguyễn lên trị vì đất nước (thế kỷ XVIII) năm Minh mạng thứ 4 (1823) đã cho xây
Miếu Lịch Đai Đế Vương mở địa phận xã Phú Xuân về phía Nam kinh thành (nay là xóm
Lịch Đợi, phường Phường Đúc, thành phố Huế). Miếu thờ các vị minh quân tiêu biểu và
những danh tiếng của Việt Nam – Trung Hoa, trong đó có thờ Kinh Dương Vương, Lạc
Long Quân và Hùng Vương. Các vua nhà Nguyễn theo thông lệ cứ 5 năm (vào những
năm chẵn 5, chẵn 10), Nhà nước đứng ra tổ chức lễ hội giỗ Tổ, những năm lẻ do địa
phương đăng cai tổ chức. Diễn trường trung tâm của lễ hội là núi Hùng và xung quanh
dưới chân núi Hùng. Tới năm Khải Định thứ hai (1917), quan tuần phủ Lê Trung Ngọc
trình bộ Lễ ấn định ngày Quốc lễ vào ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch (trước ngày huý của
Vua Hùng một ngày), ngày 11 tháng 3 âm lịch để dân sở tại làm lễ. Thời gian tổ chức lễ
hội thường bắt đầu từ ngày mùng 8 đến ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch.
-Không chỉ người Việt chúng ta tự hào về Đền Hùng, mà tìm vào những dòng lưu bút của
các đoàn đại biểu quốc tế và bạn bè khắp năm châu bốn biển từng đến thăm viếng Đền
Hùng, chúng ta thật sự xúc động khi được biết Đền Hùng và các di tích trên Nghĩa Lĩnh







Nguyễn Hoàng Hải
Email: FB: Fb.com/hainh.tmdt
Web: hoicudem.com/
đã làm cho cả thế giới phải cúi đầu vị nể ý thức cội nguồn dân tộc của chúng ta. Nhiều
dòng lưu bút thừa nhận. "Đền Hùng là nơi đặt nền móng cho lịch sử Việt Nam Đền
Hùng là một di tích vô giá của nhân dân Việt Nam. Đây là biểu tượng của tổ tiên dân tộc
Việt Nam - một dân tộc đã có truyền thống dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm".
Cùng với hoạt động Giỗ Tổ Hùng Vương, như mọi năm thì lần đầu tiên chương trình "Về
miền lễ hội cội nguồn dân tộc Việt Nam năm 2007" được kết hợp và được coi là cơ hội
để quảng bá du lịch.

-Vùng đất của những lễ hội
Điểm nhấn của chương trình "Về miền lễ hội cội nguồn dân tộc Việt Nam 2007" sẽ được
mở đầu bằng lễ hội "Những tháng lễ hội về miền đất Tổ Hùng Vương, bắt đầu bằng Lễ
hội Đền Mẫu Âu Cơ (ngày 6-7 tháng Giêng năm Đinh Hợi), kết thúc bằng Lễ hội Đền
Hùng (ngày 10 tháng 3 năm Đinh Hợi).
Trong "Những tháng lễ hội về miền đất Tổ Hùng Vương", ở các huyện, thành thị sẽ diễn
ra các lễ hội truyền thống tiêu biểu như: Hội phết Hiền Quan (Tam Nông), Hội Trò Trám
(xã Tứ Xã, Lâm Thao), Lễ hội rước voi Đào Xá (Thanh Thủy), Lễ hội đình làng Thổ
Khối, đình Cả xã Phương Xá (Cẩm Khê), Hội làng Hùng Lô (Phù Ninh), Lễ hội dân tộc
Cao Lan (xã Ngọc Quan, Đoan Hùng)
Trước ngày diễn ra khai mạc, nhiều hoạt động như: Hội chợ hàng thủ công mỹ nghệ
truyền thống Việt Nam; Triển lãm mỹ thuật dân gian truyền thống vùng đất Tổ; Hội báo
xuân đất Tổ và các loại hình dân ca truyền thống như: hát xoan, hát ghẹo, ca trù, chèo
cổ sẽ được tổ chức; trên địa bàn các xã, phường có các trò chơi dân gian: Rước kiệu,
múa lân, sư tử, thi giã bánh dày
Chương trình được kéo dài tới hai tháng. Không gian lễ hội là không gian mở. Phần lễ và
phần hội không chỉ diễn ra ở thành phố trung tâm Việt Trì mà được "phân bổ" xuống tận

huyện, xã với nhiều trò chơi dân gian truyền thống mang bản sắc riêng của từng địa
phương. Vì thế, không chỉ khách tham quan được thưởng thức mà chính người dân vừa là
chủ nhân vừa là người trực tiếp tham gia vào lễ hội.
-Gắn lễ hội với quảng bá du lịch
Cùng với việc bảo vệ, gìn giữ các lễ hội truyền thống của mình, mục tiêu của chương
trình về nguồn lần này được tỉnh Phú Thọ nhắm đến là gắn các hoạt động lễ hội với
quảng bá, giới thiệu sản phẩm du lịch.
Việc quảng bá du lịch sẽ gắn với nhân dân, du lịch sinh thái, du lịch nhà vườn.






Nguyễn Hoàng Hải
Email: FB: Fb.com/hainh.tmdt
Web: hoicudem.com/
Bên cạnh đó sẽ phối kết hợp với các tỉnh lân cận để hình thành các tour du lịch, đặc biệt
nhấn mạnh đến lợi thế của Phú Thọ là du lịch tâm linh.
Từ trước đến nay, khách tham quan đến với Phú Thọ là để tham gia Lễ hội Đền Hùng với
ý nghĩa là hướng về cội nguồn, chứ chưa thực chất là đến để du lịch, thư giãn nghỉ ngơi.
Phú Thọ chưa có những sản phẩm truyền thống mang đặc trưng của vùng đất Tổ, cơ sở
vật chất phục vụ khách du lịch vẫn còn thiếu
c,Đối với đời sống tâm linh
-Thần Núi và tục thờ Thần Núi là lớp văn hóa tín ngưỡng ban đầu trên Núi Hùng (còn gọi
là Núi Cả). Đó là một loại hành trình văn hóa tín ngưỡng đầu tiên thờ Thần tự Nhiên
trong buổi đầu hình thành các tín ngưỡng dân gian của dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy,
trước khi thờ tự các Vua Hùng là những người có công dựng nước, trên núi Nghĩa Lĩnh
có đền thờ Trời theo tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp trồn lúa nước để cầu cho “mưa
thuận gió hòa”, cho cây cối mùa màng quanh năm xanh tốt bội thu. Vì vậy, ngôi đền

Thượng trên núi Nghĩa Lĩnh có tên “Kính Thiên lĩnh điện” (Điện thờ Trời trên núi Nghĩa
Lĩnh). Truyền thuyết kể rằng: Đây là nơi các Vua Hùng vẫn lên để tiến hành các nghi lễ
cúng tế trời đất, thờ Lúa Thần để cầu cho “Mưa thuận, gió hòa”, an dân hạnh phúc. Núi
Nghĩa Lĩnh (hay còn gọi là Núi Cả), ngọn chủ sơn trong hệ thống “Tam Sơn cấm địa”,
trước khi thành tín ngưỡng thờ cúng các Vua Hùng là nơi đã hội tụ những hình thức tín
ngưỡng thờ Thần tự nhiên của các cư sân Lạc Việt trong vùng. Nhờ có điều này đã tạo
thuận lợi cho những tư duy tín ngưỡng về sau có cơ sở để phát triển thành tín ngưỡng thờ
cũng các Vua Hùng là những người có công tạo dựng đất nước. Trong quá trình phát triển
của tín ngưỡng ấy, luôn luôn có sự đan xen và tồn tại tín ngưỡng nguyên thủy và tín
ngưỡng thờ tự các Vua Hùng cho đến tận thế kỷ thứ XIX tại khu vực Đền Thượng, trước
khi tiến hành trùng tu di tích năm 1917 vẫn còn dấu tích thờ một hạt lúa Thần có kích
thước rất lớn (to bằng chiếc thuyền ba cắng mà người dân Phú Thọ thường dùng trong
màu nước lụt), có hình giống như một hạt thóc khổng lồ.
Cư dân Việt Cổ vào thời đại Hùng Vương tại khu vực quanh núi Nghĩa Lĩnh đã sớm thực
hiện những nghi thức của tín ngưỡng phồn thực và tổ chức lễ hội theo tín ngưỡng phồn
thực. Đây chính là những tiền đề điều kiện để ký ức hồi cố và tái hiện các sự kiện lịch sử
truyền thống ở các giai đoạn về sau, căn cứ vào những di sản ấy mà tạo nên tín ngưỡng
thờ cúng Tổ tiên – thờ cúng các Vua Hùng để xây dựng nên khu di tích tưởng niệm có ý
nghĩa vô cùng to lớn trong đời sống tâm linh của cộng đồng dân tộc, cùng với nó là lễ hội
Đền Hùng được kế thừa và phát triển từ những lễ hội dân gian mang tính chất nguyên
thủy để nâng tầm thành một Lễ hội lớn với nhiều ý nghĩa sâu sắc của đạo lý và bản sắc
truyền thống đặc biệt Việt Nam.
-Giỗ Tổ Hùng Vương và lễ hội Đền Hùng đã hình thành từ rất sớm và sự tồn tại của nó
luôn gắn chặt với quá trình phát triển của lịch sử dân tộc. Với truyền thống “Uống nước







Nguyễn Hoàng Hải
Email: FB: Fb.com/hainh.tmdt
Web: hoicudem.com/
nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây”, các Vua Hùng cùng các vợ, con, các tướng
lĩnh của thời kỳ Hùng Vương luôn được nhân dân ở các làng xã trên phạm vi cả nước tôn
thờ.
-Tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng và tổ chức lễ hội giỗ Tổ Hùng Vương đã trở thành lễ
hội mang tính văn hóa tâm linh lớn nhất ở nước ta. Đến ngày giỗ Tổ và tổ chức lễ hội,
con cháu trên mọi miền Tổ quốc nườm nượp kéo về với tấm lòng thành kính dâng lên Tổ
tiên, tỏ lòng biết ơn công lao dựng nước của các Vua Hùng và các bậc tiền nhân của dân
tộc.
-Tín ngưỡng thờ cúng các Vua Hùng xuất phát từ đạo lý, từ truyền thống của dân tộc Việt
Nam vốn giàu lòng yêu nước và truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất, nhưng
cũng rất thủy chung, có trước, có sau, nhân hậu, luôn luôn biết ơn những người đi trước.
Lễ hội Đền Hùng đã trở thành động lực tinh thần của dân tộc Việt Nam. Năm 1943, mặt
trận Việt Minh đã treo cờ Đảng, cở Tổ quốc trên gác chuông trước cửa chùa Thiền Quang
để tuyên truyền cách mạng kêu gọi toàn dân đoàn kết đánh đổ Nhật – Pháp để cứu nước
trước đông đảo quần chúng về dự lễ hội. Sau khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành
công, trong dịp lễ hội Đền Hùng năm 1946, quyền Chủ tịch nước VIệt Nam dân chủ cộng
hòa, cụ Huỳnh Thúc Kháng được Chủ tịch Hồ Chí Minh ủy quyền thay mặt Chính phủ về
dự lễ hội Đền Hùng, khi Lễ Tổ dâng một thanh gươm và một tấm bản đồ Việt Nam cẩn
cáo với các Vua Hùng (Tư liệu của nhà sử học Dương Trung Quốc công bố). Năm 1954,
đoàn quân đi Nam tiến theo tiếng gọi thiêng liêng của Đảng để giải phóng miền Nam,
tiến tới thống nhất đất nước đã về tuyên thệ tại Đền Hùng. Ngày 19/9/1954 trước khi về
tiếp quản thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gặp gỡ và căn dặn các cán bộ, chiến sĩ
Đại đoàn quân tiên phong tại Đền Hùng với câu nói bất hủ:
“ Các Vua Hùng đã có công dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước ”

2.3 Những vấn đề nảy sinh và tồn tại bất cập tại lễ hội Đền Hùng

Lễ hội Đền Hùng – Giỗ tổ Hùng Vương đã thu hút hàng vạn, thậm chí hàng chục vạn
nhân dân tham gia, tạo nên một không khí náo nhiệt, hào hứng trong đời sống của người
dân. Được tổ chức với nhiều nội dung, hình thức phong phú, phần lễ đảm bảo tính truyền
thống, phần hội với nhiều hoạt động văn hóa hấp dẫn, kết hợp giữa yếu tố truyền thống
và hiện đại. Thông qua các lễ hội, các nhu cầu văn hóa tinh thần của con người được
nâng lên, góp phần thắt chặt các mối quan hệ trong xã hội.
Tuy nhiên bên cạnh các mặt tích cực thì vẫn còn những hạt sạn cần được khắc phục và
chỉnh đốn. Mặc dù các địa phương đã có kế hoạch chi tiết cho từng lễ hội nhưng do triển
khai không đúng kế hoạch, sự phối hợp và ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân chưa cao






Nguyễn Hoàng Hải
Email: FB: Fb.com/hainh.tmdt
Web: hoicudem.com/
nên vẫn tồn tại cảnh ùn tắc, chen lấn xô đẩy tại Đền Hùng ở Phú Thọ trong ngày chính
hội. Công tác đảm bảo an ninh trật tự ở lễ hội chưa được thực hiện tốt, vẫn còn hiện
tượng trộm cắp, móc túi…tình trạng ăn xin, nạn cờ bạc dưới mọi hình thức vẫn diễn
ra; người dân bán hàng quán rất đông với nhiều loại hàng hóa không đẹp mắt, tình trạng
chủ quán chèo kéo khách vẫn thường xuyên xảy ra; các dịch vụ bán hàng rong vẫn tấp
nập.







Nguyễn Hoàng Hải
Email: FB: Fb.com/hainh.tmdt
Web: hoicudem.com/
Thương mại hóa lễ hội:
Từ xưa, trong lễ hội cổ truyền không thể thiếu việc mua bán sản phẩm độc đáo của địa
phương và các món ăn đặc sản.Các hoạt động mua bán đó vừa mang ý nghĩa văn hóa,
phong tục vừa góp phần quảng bá những sản phẩm của địa phương. Tuy nhiên, hiện nay
các hoạt động này chỉ nhằm tới việc thu lợi. Khi coi lễ hội là dịp làm ăn, người ta bày ra
đủ kiểu, đủ chiêu trò để thu tiền của khách thập phương. Hàng quán, nơi trông giữ xe,
cho thuê phương tiện đi lại mọc lên như nấm, giá cả tăng vô tội vạ rồi còn ép buộc, bắt
chẹt khách, người dân bán hàng quán rất đông với nhiều loại hàng hóa không đẹp mắt,
tình trạng chủ quán chèo kéo khách vẫn thường xuyên xảy ra; các dịch vụ bán hàng rong
vẫn tấp nập Nguy hại nhất là lợi dụng tín ngưỡng để "buôn thần bán thánh" như "đặt lễ
thuê", "khấn vái thuê", bói toán, đặt các hòm công đức tràn lan, tạo dựng các di tích mới
để thu tiền công đức.
Bên cạnh công tác chuẩn bị đón khách của Ban tổ chức lễ hội đền Hùng khá tốt thì tại
đây vẫn còn tồn tại nhiều điều chưa đẹp, ảnh hưởng đến du khách bốn phương về
thăm.Trước hết phải kể đến các cò mồi ngay tại bãi đỗ xe. Theo “chỉ dẫn” của các cò mồi
này, mỗi xe khách sẽ được đi theo tới bãi đỗ ngay trước cổng chính vào đền Hùng với giá
gửi xe cao gấp 2 đến 3 lần so với giá niêm yết tại các bãi đỗ. Tuy nhiên, không ít đoàn
khách vẫn vô tư móc túi trả tiền để tránh phải đi bộ một đoạn đường dài trước khi lên
đền. Đặc biệt, các gian hàng được phép bán trong khuôn viên Lễ hội Đền Hùng còn khiến
khách tham quan trẩy hội không khỏi bức xúc bởi hình thức quảng cáo bằng loa đài với
đủ các kích cỡ, công suất và những giọng đọc đủ loại cung bậc được phát ra từ các quầy
hàng. Hơn thế nữa, các quầy hàng còn thi nhau mở loa hết công suất, nhiều quầy muốn
thu hút sự chú ý của khách thập phương còn dùng cả hai loa với công suất lớn để quảng
cáo thương hiệu cho sản phẩm của mình. Tất cả những âm thanh được phát ra tại các gian
hàng khiến khu vực trung tâm lễ hội tạo thành một thứ âm thanh hỗn tạp ầm ĩ: “Ăn thoải
mái, nếm triền miên mà không phải trả tiền…” hay “cu đơ, bánh đậu xanh… thích thì
mua, không thích thì thôi…”







Nguyễn Hoàng Hải
Email: FB: Fb.com/hainh.tmdt
Web: hoicudem.com/


Trần tục hoá lễ hội:
Lễ hội gắn với tín ngưỡng dân gian, do vậy nó thuộc về đời sống tâm linh nó mang “tính
thiêng”. Tất nhiên, tính thiêng là cái vĩnh hằng, nhưng trong mỗi xã hội nó được biểu
hiện ở những hình thức khác nhau. Lễ hội cổ truyền tuy nảy mầm, bén rễ từ đời sống hiện
thực, trần tục, nhưng bản thân nó là sự thăng hoa từ đời sống hiện thực và trần tục ấy.
“Ngôn ngữ” biểu hiện của lễ hội là ngôn ngữ biểu tượng. Ví dụ, 3 trận đánh giặc Ân của
ông Gióng trong hội Gióng là 3 trận đánh mang tính biểu trưng. Giặc Ân cũng biểu trưng
hoá thành yếu tố “âm” của 28 cô gái. Để nói vận hành của trời đất liên quan đến canh tác
nông nghiệp của người nông dân, thì trong hội vật cầu hay hội đánh phết, người xưa đã
biểu trưng hoá quả cầu hay quả phết thành màu đỏ biểu tượng cho mặt trời, được đánh
theo hướng đông tây là chuyển động của mặt trời…
Ngày nay, trong phục hồi và phát triển lễ hội, do chưa nắm được ý nghĩa thiêng liêng, đặc
biệt là cách diễn đạt theo cách “biểu trưng”, “biểu tượng” của người xưa, nên lễ hội đang
bị trần tục hoá, tức nó không còn giữ được tính thiêng, tính thăng hoa và ngôn ngữ biểu
tượng của lễ hội và như vậy lễ hội không còn là lễ hội đích thực nữa.
Nhiều người nghĩ rằng đến lễ hội là để cầu xin thánh thần phù hộ phát tài, phát lộc,
thăng quan tiến chức vì vậy khi đến với lễ hội Đền Hùng cũng vậy. Người ta đua nhau
sắm lễ thật to, đốt thật nhiều vàng mã. Cảnh tượng chen lấn đặt lễ mâm cao cỗ đầy,
chồng chất trước bàn thờ, hương khói ngột ngạt, vái cả vào lưng nhau diễn ra ở hầu hết

các đền, các phủ. Lại xảy ra tình trạng rất phản cảm khi nhiều người cài tiền, rải tiền lẻ
lên tay tượng Phật, thả tiền xuống giếng, ao, hồ. Việc đổi tiền lẻ ở các lễ hội diễn ra rất

×