Kinh tế vĩ mô GV: Trần Thị Bích Hạnh
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
MỞ ĐẦU 2
NỘI DUNG 3
1. Khái quát chung về lạm phát: 3
1.1. Định nghĩa 3
1.2. Phân loại: có 3 loại 3
2. Diễn biến lạm phát ở Việt Nam trong 10 năm trở lại đây: 3
2.1. Diễn biến chung 3
2.2. Nguyên nhân dẫn tới lạm phát 4
2.3. Diễn biến lạm phát theo từng giai đoạn 6
2.3.1. Giai đoạn 2002-2006 6
2.3.1.1. Lạm phát năm 2002 6
2.3.1.2 Lạm phát năm 2003: 6
2.3.1.3. Lạm phát năm 2004: 7
2.3.1.4. Lạm phát năm 2005: 7
2.3.1.5. Lạm phát năm 2006 8
2.3.2. Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007-2008 9
2.3.3. Lạm phát năm 2009 11
2.3.4. Lạm phát năm 2010 13
2.3.5. Lạm phát năm 2011 14
2.3.6. Lạm phát trong thời gian tới-2012 15
3. Nhận xét chung 16
KẾT BÀI 17
1
Kinh tế vĩ mô GV: Trần Thị Bích Hạnh
MỞ ĐẦU
Cơ chế thị trường rung lên hồi chuông cảnh báo về sự thay đổi nền kinh tế
Việt Nam trong những thập niên gần đây. Trong nền kinh tế thị trường hoạt động
đầy sôi động và cạnh tranh gay gắt để thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên
thương trường, các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp phải nhanh chóng tiếp
cận, nắm bắt những vấn đề của nền kinh tế mới. Bên cạnh bao vấn đề cần có để
kinh doanh còn là những vấn đề nổi cộm khác trong kinh tế. Một trong những vấn
đề nổi cộm đấy chính là lạm phát. Lạm phát như một căn bệnh của nền kinh tế thị
trường, nó là một vấn đề phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ mới
có thể mong muốn đạt được kết quả khả quan. Chống lạm phát không chỉ là việc
của các doanh nghiệp mà còn là nhiệm vụ của chính phủ và của tất cả chúng ta.
Lạm phát là một trong bốn yếu tố quan trọng nhất của mọi quốc gia (tăng
trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp thấp, cán cân thanh toán có số dư). Tình hình
lạm phát ở Việt Nam lên tới mức báo động hai con số, vượt qua ngưỡng lạm phát
cho phép tối đa là 9% của mỗi quốc gia. Điều này sẽ dẫn đến nhiều tiêu cực trong
đời sống kinh tế của chính phủ: làm suy vong nên kinh tế của một quốc gia. Bên
cạnh đó là sự tác động mạnh tới đời sống của mọi người dân, nhất là dân nghèo khi
vật giá ngày càng leo thang.
2
Kinh tế vĩ mô GV: Trần Thị Bích Hạnh
NỘI DUNG
1. Khái quát chung về lạm phát:
1.1. Định nghĩa
Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của
nền kinh tế. Trong một nền kinh tế,lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm
sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá
giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác.
Biểu hiện cụ thể là sự tăng giá chung một cách liên tục trong khoảng thời gian
xác định.
Ví dụ: năm 2010, giá một ổ bánh mì thịt là 6 nghìn thì năm 2011 là 10 nghìn.
1.2. Phân loại: có 3 loại
- Lạm phát thấp: Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá từ 0.3 đến dưới
10 phần trăm một năm.
- Lạm phát cao (lạm phát phi mã): Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng
giá trong phạm vi hai hoặc ba chữ số một năm thường được gọi là lạm phát phi mã,
nhưng vẫn thấp hơn siêu lạm phát. Việt Nam và hầu hết các nước chuyển đổi từ cơ
chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường đều phải đối mặt với lạm
phát phi mã trong những năm đầu thực hiện cải cách.
- Siêu lạm phát: là lạm phát "mất kiểm soát", một tình trạng giá cả tăng nhanh
chóng khi tiền tệ mất giá trị.
2. Diễn biến lạm phát ở Việt Nam trong 10 năm trở lại đây:
2.1. Diễn biến chung
Trong giai đoạn 2006 đến nay, lạm phát của Việt Nam nhìn chung đều ở mức 2
con số (ngoại trừ năm 2009) với mức tăng trung bình là 11,5%/năm, cao gấp hơn 2
lần mức tăng 5,2%/năm của giai đoạn 2001-2005. Nhìn vào đồ thị dưới đây có thể
3
Kinh tế vĩ mô GV: Trần Thị Bích Hạnh
thấy, lạm phát trong vòng hơn 10 năm trở lại đây phân chia thành hai giai đoạn khá
rõ nét.
Hình 1.1 Chỉ số lạm phát trong 10 năm qua
Trong suốt thời gian qua, lạm phát là vấn đề dai dẳng và gây tổn thương nhiều
nhất tới kinh tế Việt Nam khi thường xuyên cao hơn, kéo dài lâu hơn và dao động
mạnh hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
2.2. Nguyên nhân dẫn tới lạm phát
Lạm phát cao trong thời gian qua là kết quả của nhiều nguyên nhân, bao gồm:
Lạm phát nhập khẩu: Do là nền kinh tế có độ mở lớn nên những cú sốc giá
quốc tế, đặc biệt là giá nhiên liệu và lương thực thực phẩm, đã góp phần làm tăng
chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Việt Nam. Tuy nhiên, ảnh hưởng của giá thế giới đến
giá cả trong nước là có mức độ và chưa phải là nhân tố quyết định làm CPI tăng
cao. Bằng chứng là nhiều quốc gia trong khu vực cũng chịu chung tác động của giá
cả quốc tế nhưng mức độ lạm phát thấp hơn nhiều so với Việt Nam .
Lạm phát chi phí đẩy: Lạm phát trong nước chịu sự tác động của chi phí đẩy
bao gồm cả việc điều chỉnh tỷ giá (theo tính toán của Ủy ban Giám sát Tài chính,
việc điều chỉnh tăng tỷ giá 9,3% vào tháng 2/2011 có thể khiến CPI năm 2011 tăng
4
Kinh tế vĩ mô GV: Trần Thị Bích Hạnh
thêm 1,2%), điều chỉnh lương và điều chỉnh giá một số mặt hàng cơ bản (theo tính
toán của Ủy ban Giám sát Tài chính, việc điều chỉnh giá điện đầu năm 2011 (18%)
có thể khiến CPI năm 2011 tăng thêm 0,75%; giá xăng tăng thêm 20% khiến CPI
năm 2011 tăng thêm khoảng 0,5%).
Nhưng ảnh hưởng của chi phí đẩy ở vòng 1 đến lạm phát chỉ ở mức độ nhất định,
chưa phải là yếu tố quyết định làm lạm phát tăng cao.
Lạm phát cầu kéo: lạm phát cầu kéo ở Việt Nam biểu hiện ở việc tổng cầu
tăng quá nhanh, thể hiện qua hai khía cạnh.
Thứ nhất, tổng phương tiện thanh toán (M2) luôn duy trì tốc độ tăng cao (M2
tăng 22,8%/năm giai đoạn 2000-2005 và 29,5%/năm giai đoạn 2006-2010), khiến
“độ sâu tài chính” (tính bằng tỷ số M2/GDP) tăng vọt từ mức 97,6% năm 2006 lên
tới mức 133,8% năm 2010. Trong giai đoạn 2007-2010, M2 đã tăng 2 lần, trong khi
đó GDP danh nghĩa tăng 1,73 lần và GDP thực tế chỉ tăng 1,2 lần.
Thứ hai, sản lượng thực tế trong những năm gần đây đã tăng quá cao so với
tiềm năng, từ đó gây ra lạm phát.
Một số yếu tố đặc thù khác như: Tình trạng phát triển quá nóng của thị
trường bất động sản, thị trường chứng khoán, tình trạng đôla hóa, vàng hóa nghiêm
trọng khiến một lượng vốn lớn của xã hội không được đầu tư trực tiếp cho sản xuất;
“kỳ vọng lạm phát” cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực, tạo thành “lạm
phát tâm lý”.
Tóm lại, hiệu quả đầu tư giảm sút, hệ số ICOR tăng cao, do đó để duy trì tốc
độ tăng trưởng kinh tế buộc phải gia tăng đầu tư dẫn tới tăng tổng cầu, được biểu
hiện qua việc mở rộng M2 và tín dụng quá mức, vượt quá khả năng hấp thụ vốn của
nền kinh tế, nhất là sau khi thực hiện gói kích cầu.
Đây chính là nguyên nhân sâu xa và chủ yếu gây ra lạm phát ở Việt Nam.
Yếu tố tâm lý của người dân do nhiều nguyên nhân đã trở thành chất xúc tác rất
mạnh làm gia tăng mức độ lạm phát mỗi khi có một tác nhân dù nhỏ hay lớn (ví dụ
điều chỉnh giá, điều chỉnh lương…)
5
Kinh tế vĩ mô GV: Trần Thị Bích Hạnh
2.3. Diễn biến lạm phát theo từng giai đoạn
2.3.1. Giai đoạn 2002-2006
Nước ta đã kiểm soát được lạm phát giai đoạn 2002-2006, lạm phát chỉ dừng lại
ở 1 con số, tốc độ tăng GDP và tốc độ tăng CPI được thể hiện qua biểu đồ sau:
Hình 3.1 Tốc độ tăng trưởng GDP và CPI giai đoạn 2002-2006
2.3.1.1. Lạm phát năm 2002
Mặc dù năm 2002 tình hình kinh tế thế giới có nhiều khó khăn, nhưng nước ta
vẫn đạt tỉ lệ tăng trưởng kinh tế là 7,04%, tỉ lệ tăng trưởng cao thứ hai trong khu
vực Châu á chỉ sau có Trung Quốc(8%), các chỉ tiêu kinh tế khác chúng ta hầu hết
đều đạt và vượt chỉ tiêu đề ra. Lạm phát trong năm 2002 là 4%, một tỉ lệ lạm phát
chấp nhận được mặc dù cao hơn so với mục tiêu 35 của chúng ta đã đề ra.
Tình hình giá cả đầu năm 2002 của chúng ta đã tăng lên tương đối nhanh, 6
tháng đầu năm giá cả đã tăng 2,9%, khi đó rất nhiều nhà kinh tế đã lo ngại rằng nếu
chúng ta không kiểm soát được lạm phát thì rất có thể tỉ lệ lạm phát của nước ta sẽ
lên tới 6%. Trước tình hình đó nhà nước đã có những chính sách nhằm ổn định giá
cả trên thị trưòngmột cách hợp lý, nhờ đó, đến cuối năm tỉ lệ lạm phát của chúng ta
chỉ là 4%.
2.3.1.2 Lạm phát năm 2003:
6
Kinh tế vĩ mô GV: Trần Thị Bích Hạnh
Với chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12 tăng thêm 0,8%, chỉ số lạm phát (mức
tăng CPI) ở nước ta là 3,1%, đúng như chỉ tiêu Quốc hội đề ra. Trong năm này, có 4
tháng liên tục từ tháng 5 đến tháng 8, CPI giảm. Các tháng còn lại, mức tăng cũng
không đều, chẳng hạn tháng 2 tăng 2,2% thì tháng 9 chỉ tăng 0,1%.
Trong tháng 12, mặc dù có sự kiện SEA Games, chỉ số giá nhóm hàng thể thao,
giải trí chỉ tăng nhẹ dưới 1%, còn nhóm hàng lương thực, thực phẩm lại tăng tới
2%; giá vàng tăng 5%. Tính chung cả năm, nhóm hàng tăng giá cao nhất là vàng với
gần 30%; dược phẩm, y tế trên 20%.
Lạm phát thời gian này có giảm đi là do mặt bằng lãi suất tương đối cao,
trung bình trên 8%/năm; cơ bản thời kỳ giảm phát và thiểu phát 1999-2002 đã qua
đi. Vì vậy, khống chế một mức tăng giá tiêu dùng sẽ giúp nền kinh tế không phải
đối mặt với những cú sốc, tăng trưởng ổn định.
2.3.1.3. Lạm phát năm 2004:
Mức lạm phát hàng năm ở Việt Nam đột nhiên nhảy vọt lên 9,67% trong năm
2004 ngoài tầm ước đoán 3.5% - 4.5% của nhà nước và các cơ quan tài chính quốc
tế.
Năm 2004, đầu tư (hơn một nửa là vào quốc doanh) lên trên 35% GDP, khoảng
gần 16 tỷ USD, một tỷ lệ đầu tư ở mức cao nhất thế giới hiện nay, nhưng lại tràn
lan, thiếu chất lượng và hiệu quả đến mức mà ngay bản thân Bộ Kế hoạch Đầu tư
cũng phải kêu ca.
Những chuyên viên kinh tế trong và ngoài nước đều biết trước những nguyên
nhân hiện hữu làm tăng mức lạm phát tại Việt-Nam trong năm này là do cán cân
thương mại thiếu hụt, ngân sách quốc gia gập khó khăn, mức tiêu thụ trong nước
mạnh, số lượng tiền tệ và tín dụng tăng, giá dầu hỏa, vàng, và thực phẩm trên thị
trường quốc tế lên cao.
2.3.1.4. Lạm phát năm 2005:
Lạm phát năm 2005 ở mức 8.71% giảm so với năm 2004 (9,67%) nhưng vẫn ở
mức cao so với chỉ tiêu. Trong năm này thị trường xăng dầu có nhiều biến động
7
Kinh tế vĩ mô GV: Trần Thị Bích Hạnh
nhưng lạm phát tăng cao không thể đổ tội cho việc tăng giá dầu. Thứ nhất vì các
nước trong khu vực và Mỹ không có lạm phát cao như Việt Nam. Thứ hai giá dầu
thế giới vẫn tăng trong năm 2005 (21%) nhưng ở mức thấp hơn năm 2004 (55%).
Thế nhưng giá cả ở Việt Nam vẫn tăng cao, đó là vì việc tiếp tục chính sách kích
cầu.
Khi đồng đô la Mỹ không tăng giá, đưa giá trị đồng Việt Nam tăng, làm tăng giá
hàng nội địa (tăng giá do lạm phát) khi tính bằng đô la Mỹ và do đó làm giảm sức
cạnh tranh của hàng Việt Nam. Chính điều này đã góp phần làm cán cân thương
mại với nước ngoài tiếp tục thiếu hụt lớn. Năm 2005 thiếu hụt là 4.6 tỷ USD (9%
GDP), so với năm 2004 là 5.5 tỷ USD (12% GDP). Xuất khẩu năm 2005 tăng 29%
(không kể dầu thô, xuất khẩu chỉ tăng 19.3%), và nhập khẩu tăng ở mức thấp hơn là
15%.
Thiếu hụt cao như vậy sẽ đưa đến khủng hoảng kinh tế nếu như không có nguồn
kiều hối khoảng 4 tỷ USD chuyển về. Nguồn này sẽ không tăng như mức tăng nhập
khẩu.
2.3.1.5. Lạm phát năm 2006
Chỉ số lạm phát (CPI=6,57%) trong năm này giảm mạnh so với năm trước, điều
này cho thấy nền kinh tế nước nhà đã có những bước chuyển to lớn từ năm 2006.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, CPI tháng 12 chỉ tăng 0,5% so với tháng
11, đưa mức tăng chung cả năm lên 6,6%. Trong tháng 12, ngoài nhóm hàng lương
thực, thực phẩm tăng cao, hầu hết các nhóm hàng còn lại đều tăng nhẹ dưới 1%;
riêng nhóm hàng bưu chính viễn thông đưng yên và nhóm hàng đồ uống thuốc là
giảm 0,1%.
Từ trung tuần tháng 12, giá vàng bắt đầu sụt giảm theo diễn biến của thị trường
thế giới.Tuy nhiên, tính chung tháng 12, giá vàng vẫn tăng 3,2% và cả năm giá vàng
đã tăng 27,2%.
8
Kinh tế vĩ mô GV: Trần Thị Bích Hạnh
Như vậy, mục tiêu kiềm chế mức tăng CPI của Ngân hàng nhà nước năm 2006
đã hoàn thành. Mức 6,57% cũng là mức khả quan nhất trong vòng ba năm qua (năm
2005 là 8,71%; năm 2004 là 9,67%).
2.3.2. Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007-2008
Sau 12 năm kiềm chế lạm phát (1995-2006), lạm phát thật sự bùng nổ tới
ngưỡng 2 con số vào năm 2007 (12,75%) và tăng vọt lên 19,87% vào năm 2008.
Hình 3.2. Chỉ số giá tiêu dùng giai đoạn 2007-2008
Năm 2007
Trong tháng cuối cùng của năm, CPI đã lập một lúc hai kỷ lục, chỉ số giá tăng
cao nhất trong tháng và tổng chỉ số giá cả năm cao nhất trong vòng 12 năm lại đây.
Chỉ riêng tháng 12, mức tăng giá đã gần bằng một nửa của những năm thông
thường trước đây.
Chỉ số giá tiêu dùng một số mặt hàng tăng vọt trong năm 2007: giá lương thực,
thực phẩm tăng cao đạt mức 18,9%, trong đó nhóm lương thực tăng 15,5%, nhóm
thực phẩm tăng 21,16%.
9
Kinh tế vĩ mô GV: Trần Thị Bích Hạnh
Đây là hậu quả tất yếu của đợt tăng giá xăng dầu với biên độ tăng giá cao nhất từ
trước đến nay được thực hiện từ cuối tháng 11. Hàng loạt các mặt hàng khác có
mức tăng cao là đồ uống và thuốc lá 1,33%, may mặc và giày dép 1,16%, các đồ
dùng khác tăng 1,61%. Các nhóm hàng hóa khác tăng dưới 1%.
Như vậy, có thể nói nỗ lực kiềm chế giá đã không đạt được như mong muốn.
Trong khi chỉ tiêu phát triển kinh tế chưa đạt con số 8,5% thì chỉ số CPI đã tăng đến
12,75% vượt quá xa so với mức kỳ vọng dưới tốc độ phát triển kinh tế.
Năm 2008:
Chỉ số giá tiêu dùng một số mặt hàng tăng vọt trong các quý đầu năm 2008.
Trong 4 tháng đầu năm, giá LT-TP đã tăng 18,01%, cao gấp rưỡi mức 11,6% của
lạm phát CPI và cao tương đương bằng mức tăng giá LT-TP của cả năm 2007, trong
đó lương thực tăng 25%, còn thực phẩm tăng 15,6%.
**Ảnh hưởng của lạm phát:
Lạm phát mạnh trong thời gian này làm giảm chỉ tiêu tăng trưởng từ 8.5%
xuống 7%, làm giảm tốc độ phát triển tiền mặt trong xã hội không đưa được vào
đầu tư gây ứ đọng vốn nguy cơ gây ra lạm phát ở các chu kỳ sau. Tuy nhiên, trong
tình hình hiện nay tốc độ tăng trưởng có thể sẽ được giảm xuống 6%- 6.5%.
Sức tiêu thụ hàng hóa trong nước đang có dấu hiệu yếu dần, sản xuất công
nghiệp bước vào tháng đầu quý 4 năm nay lại tăng chậm hơn các tháng trước, đây là
một xu hướng ngược lại quy luật mọi năm.
Giá trị sản xuất công nghiệp 10 tháng ước tính đạt 330.121 tỷ đồng tăng
12,1% so với cùng kỳ 2007, thấp hơn mức tăng trung bình của 9 tháng đầu năm là
12,4%.
**Nguyên nhân của tăng lạm phát:
Ngày 22/5/2008, tăng giá xăng dầu từ 13.000đ lên 14.500đ (tương đương
11.5%).
10
Kinh tế vĩ mô GV: Trần Thị Bích Hạnh
- Cuối tháng 3 đầu tháng 4, tình trạng thiếu lương thực trầm trọng trên thế
giới làm cho giá gạo trong nước tăng nhanh có thời điểm từ 50% đến 100%.
- Kể từ tháng 5 giá gạo đã có xu hướng giảm nhưng mức tăng vẫn 15%-20%
so với trước khi sốt gạo. Trong hai quý đầu năm, giá các loại nguyên vật liệu tăng
mạnh trên thế giới khiến nước ta ảnh hưởng bởi NK lạm phát.
**Sau đợt làm phát tăng mạnh kể từ năm 2007, Chính phủ đã ban hành các
biện pháp cả gói về chống lạm phát của Việt Nam từ quý II năm 2008:
Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ.
- Ngân hàng phát hành trái phiếu kho bạc trong 2008: 20.300 tỉ VNĐ
- Thay đổi lãi suất huy động tiền gửi để thu hút tiền trong lưu thông
- Kiểm soát chặt chẽ, nâng cao hiệu quả chi tiêu công
- Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ bảo
đảm cân đối cung cầu về hàng hóa.
- Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu và giảm nhập siêu. Triệt
để thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng.
- Tăng cường công tác quản lý thị trường chống đầu cơ buôn lậu và gian lận
thương mại, kiểm soát việc chấp hành pháp luật về giá.
- Tăng cường các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất của nhân dân,
mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội.
- Đẩy mạnh công tác thông tin và tuyên truyền.
(Theo nghị quyết 10/2008/NQCT-17/04/08 Nghị quyết về các biện pháp kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững).
2.3.3. Lạm phát năm 2009
Nếu cuối năm 2008, mục tiêu giữ lạm phát dưới 15% đã là lý tưởng cho năm
2009 sau một năm lạm phát (CPI) xấp xỉ tới 20% thì đến giữa năm chúng ta lại hoàn
11
Kinh tế vĩ mô GV: Trần Thị Bích Hạnh
toàn yên tâm là CPI sẽ dưới 7% và thực tế con số đó là 6,52% so với tháng 12/2008
và bình quân cả năm chỉ tăng 6,88% so với năm trước.
Có thể nói lạm phát năm 2009 nằm trong dự tính và kiểm soát được lạm phát là
một thành công của Việt Nam trong năm này. Thành công đó càng đặc biệt hơn khi
đi đôi với tốc độ tăng trưởng kinh tế 5,2% và thất nghiệp không tới mức nguy hiểm
như dự đoán.
Cũng trong năm 2009, chủ trương phát triển thị trường trong nước, khuyến
khích người Việt dùng hàng Việt đã góp phần tích cực giải quyết khó khăn cho
nhiều doanh nghiệp trong tiêu thụ sản phẩm. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ
tăng 18,6% so với năm 2008, nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì vẫn tăng hơn 10%. Thị
trường trong nước phát triển không những là một trong những yếu tố quyết định
duy trì tăng trưởng kinh tế năm 2009 mà còn cho thấy đây là một thị trường rất tiềm
năng, có khả năng và triển vọng phát triển nhanh, bền vững nếu chúng ta có những
chiến lược và kế hoạch, cách thức khai thác hiệu quả.
CPI năm 2009 có mức tăng chậm hơn so với các năm trước; không có những
“cơn sốt giá”; hầu hết các mặt hàng thiết yếu đến đời sống người dân có tốc độ tăng
giá chậm (ngoại trừ các mặt hàng đường, sữa ). Có 10/11 nhóm hàng hoá và dịch
vụ tăng giá, chỉ một nhóm giảm giá là nhóm Bưu chính viễn thông giảm 5,27%. Các
nhóm hàng thường tăng giá mạnh trong các năm trước như Hàng ăn và dịch vụ ăn
uống năm nay tăng chậm hơn (+3,64%). Nhóm hàng tăng giá mạnh nhất là nhóm
nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 11,02%, so với mức tăng chung 5,07%.
Riêng chỉ số giá vàng trong tháng qua đã tăng cao 10,49%, đưa cả năm tăng
19,16% so với năm 2008. Chỉ số đô la Mỹ tháng 12 tăng 3,19% đưa con số cả năm
2009 lên 9,17% so với năm 2008.
Một số chuyên gia nhận định, chỉ số giá năm 2009 đang nằm trong mức như
mong đợi, tuy nhiên vẫn còn một số lo ngại bởi, so với cùng kỳ năm ngoái một số
mặt hàng thiết yếu vẫn đang có xu hướng tăng cao, từ 8,53 đến 9,56%.
12
Kinh tế vĩ mô GV: Trần Thị Bích Hạnh
2.3.4. Lạm phát năm 2010
Cuối tháng 12/2010, chỉ số CPI tăng 11,75% so với cuối tháng 12/2009, cao
hơn nhiều mục tiêu Quốc hội đề ra (7%).
Tốc độ tăng chỉ số CPI của năm 2010 thuộc diện cao so với các năm trước
đây. Tốc độ tăng CPI cuối kỳ của năm 2010 cao gấp hơn 1,25 lần so với năm 2006
và 2009
Biểu đồ: Tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) theo tháng năm 2010
Chỉ số CPI tăng cao trong năm 2010 do một số yếu tố sau đây:
- Nhóm hàng giáo dục có tốc độ tăng cao nhất ở mức 19,38%, do tác động của tăng
học phí từ học kỳ I năm học 2010 - 2011;
- Nhóm lương thực, thực phẩm và ăn uống ngoài gia đình tăng ở mức 16,18% do
thiên tai, bệnh dịch liên tiếp xảy ra và giá lương thực, thực phẩm xuất khẩu tăng
cao;
- Giá một số hàng hóa thiết yếu, nguyên liệu đầu vào của sản xuất tăng như nước
sạch, than, điện (bình quân +6,9%), xăng dầu, tiền lương (+12,3-22,5%), xi măng,
sắt thép.
Lạm phát cao năm 2010 xuất phát từ nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân
sâu xa đó là mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam không có hiệu quả cao, đặc
biệt mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn được đặt ở vị trí ưu tiên, khiến cho nền kinh
tế tăng trưởng “nóng”, vượt sản lượng tiềm tăng.
13
Kinh tế vĩ mô GV: Trần Thị Bích Hạnh
Năm 2010, chính sách tiền tệ được điều hành chủ động, thận trọng, linh hoạt
nhằm góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm
phát. Tuy nhiên, những vấn đề kinh tế vĩ mô năm 2010 đẩy khu vực tiền tệ - ngân
hàng vào những khó khăn mới như lãi suất cao, VND chịu áp lực mất giá lớn, rủi ro
hoạt động ngân hàng gia tăng.
So với năm 2009, tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng và huy động vốn năm
2010 đều thấp hơn. Lạm phát tăng cao trong bối cảnh phục hồi tăng trưởng kinh tế
nhanh, nhu cầu vốn của nền kinh tế lớn, do đó, mặc dù lãi suất lãi tăng cao trong
những tháng cuối năm 2010 nhưng cũng không làm giảm tăng trưởng tín dụng.
2.3.5. Lạm phát năm 2011
Theo thông lệ, hàng năm mức tăng giá tiêu dùng (CPI) thường đạt đỉnh vào
những tháng trước hoặc ngay sau Tết Nguyên Đán, và hạ dần vào cuối quý 1 cho
đến hết quý 2 và 3 Tuy nhiên, CPI trong 5 tháng đầu năm tăng liên tục với tốc độ
cao dần một cách đáng ngại, với, trong đó riêng tháng 3/2011 tăng vọt tới 2,17%,
tức cao hơn tốc độ tăng 2,09% của tháng 2/2011 và mức tăng 1,74% của tháng
1/2011). Đây cũng là mức cao nhất so với tốc độ tăng của 32 tháng trước đó (tính
từ tháng 6.2008) và còn là mức cao thứ 2 so với tốc độ tăng CPI tháng 3 hàng năm
trong vòng 20 năm qua (chỉ sau tháng 3.2008). Vì vậy, CPI tháng 3/2011 so với
tháng 12/2010 đã tăng 6,12%, nghĩa là bằng 87,4% chỉ tiêu lạm phát 7% đề ra cho
cả năm; nếu so với tháng 3.2010, CPI đã tăng 13,89%; còn tính bình quân 3 tháng
năm 2011 so với cùng kỳ năm trước (còn gọi là mặt bằng giá) thì CPI đã tăng
12,79%.
Chỉ số CPI tháng 3/2011 tiếp tục tăng cao với tốc độ khác nhau giữa các
nhóm hàng hóa, dịch vụ Mức tăng cao nhất thuộc về các nhóm hàng lương thực,
thực phẩm; và xu hướng tăng giá đang lan tỏa rộng khắp các lĩnh vực và nhóm
hàng, trừ hàng điện tử, như máy tính, điện thoại và một số hàng CNTT khác.
Trong 4 tháng cuối năm, lạm phát có dấu hiệu giảm tốc, chỉ dưới 1% mỗi
tháng. Tuy nhiên, lạm phát tháng 12 lại có dấu hiệu nhích lên so với 2 tháng trước
14
Kinh tế vĩ mô GV: Trần Thị Bích Hạnh
đó. Cụ thể, lạm phát tháng 10 và tháng 11 chỉ là 0,36% và 0,39% nhưng lạm phát
tháng 12 lên 0,53%.
Tình trạng tăng giá hàng hoá và dịch vụ chung trên cả nước trong những
tháng đầu năm có nguyên nhân truyền thống, trực tiếp và dễ nhận thấy chính là sự
gia tăng đột ngột vượt trội mọi thời điểm khác trong cả năm về nhu cầu và sức tiêu
thụ các hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng, sự lợi dụng đẩy giá lên cao do khả năng
thanh toán và tâm lý dễ dãi trong tiêu dùng, mua sắm gắn với dịp Tết cổ truyền dân
tộc, nhất là ở các đô thị tập trung dân cư và có quy mô thị trường tiêu thụ lớn, như
các TP. Hà Nội và Hồ Chí Minh.
Đặc biệt, sự hội tụ tập trung trong thời gian ngắn các cú sốc tăng tỷ giá (tăng
9,3% từ ngày 11/2/2011), và tăng giá xăng dầu (tăng từ 17 - 24%) và từ 1/3/2011 là
giá điện tăng 15,2% càng làm bùng phát các xung lực tiêu cực làm tăng hệ quả lạm
phát của chúng.
CPI tăng đã làm giảm mức sống thực tế của người tiêu dùng, nhất là những
người có thu nhập thấp, những đối tượng chính sách xã hội và dễ bị tổn thương.
2.3.6. Lạm phát trong thời gian tới-2012
Tổng cục Thống kê cho biết, mặc dù tháng 1 là tháng trùng với Tết Nguyên
đáng Nhâm Thìn nhưng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 1/2012 chỉ tăng 1% so với
tháng trước và tăng 17,27% so với cùng kỳ năm 2011.
Với mức tăng này, CPI tháng 1/2012 tăng thấp thứ hai so với các tháng đầu
năm từ năm 2004 đến nay (sau CPI tháng 1/2009 tăng 0,32%). Đây cũng là mức
tăng phản ánh thực tế thắt chặt chi tiêu của đại bộ phận người dân trong bối cảnh
kinh tế chung khó khăn.
CPI tháng 1 tăng ở 10/11 nhóm trong rổ hàng hóa chung với mức tăng từ
0,02-1,97%. Riêng nhóm bưu chính viễn thông tiếp tục giảm 0,01%. CPI tháng
1/2012 chỉ tăng nhẹ là nhờ nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống ngoài gia đình (nhóm
chiếm tỷ trọng cao nhất trong rổ hàng chung và có ảnh hưởng mạnh nhất tới CPI)
chỉ tăng 1,01%.
15
Kinh tế vĩ mô GV: Trần Thị Bích Hạnh
Kinh tế VN năm 2012 đứng trước những cơ hội, thách thức vừa cũ vừa mới
đan xen, không dễ dàng vượt qua nếu chúng ta không có tư duy đổi mới thật sự về
chính sách, chiến lược để có cách làm khác. Nếu chúng ta không kịp thời nắm bắt
cơ hội, thay đổi tư duy, chính sách, có chính sách, biện pháp kinh tế phù hợp thay
cho các biện pháp hành chính đơn thuần thì sẽ khó vượt qua những thách thức và
đạt được kết quả mong muốn. Cơ hội lớn nhất, bao trùm trong năm 2012 là: ổn định
kinh tế vĩ mô, thay đổi tư duy và chính sách.
Mục tiêu của chúng ta trong năm 2012 là kéo chỉ số giá tiêu dùng (CPI) từ
18% xuống dưới 10% thật sự là một thách thức lớn, trong khi các điều kiện, yếu tố,
giải pháp, chính sách và mọi việc còn đang ở phía trước. Tuy nhiên, giá điện, giá vé
máy bay đã tăng có thể tác động cộng hưởng đến việc tăng giá nhiều mặt hàng khác,
gây khó khăn cho việc kéo CPI xuống. Có lẽ đây là một trong những thách thức lớn
nhất trong năm 2012.
Trong điều kiện lạm phát cao, chúng ta phải siết chặt tín dụng, thi hành chính
sách tài chính thắt lưng buộc bụng thì không ai có thể mơ tưởng đến tốc độ tăng
trưởng cao nữa, nhưng ngay đến mục tiêu 6-6,5% cũng sẽ là thách thức không dễ
dàng vượt qua trong điều kiện những yếu kém của nội tại nền kinh tế.
Vì chưa xác định đúng đắn và hợp lý vai trò chủ đạo, dẫn dắt nền kinh tế của
doanh nghiệp nhà nước (DNNN) nên chúng ta đã tỏ ra lúng túng trong việc quản lý,
kiểm soát hoạt động đầu tư, kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh tế của DNNN trong
khi ban phát cho nó quá nhiều đặc quyền, đặc lợi. Nếu chúng ta chưa xác định đúng
đắn, phù hợp vai trò chủ đạo, dẫn dắt nền kinh tế của DNNN thì việc tái cấu trúc
DNNN lần này có nguy cơ rơi vào tình trạng “bình mới rượu cũ” như các lần sắp
xếp trước đây
3. Nhận xét chung
Trong 10 năm qua (2002-2011), tình hình kinh tế nước ta có nhiều biến
động. Giai đoạn 2002-2006, chỉ số giá tiêu dùng ở nước ta đang ở mức ổn định đủ
để kích thích nền kinh tế phát triển, nhưng đến năm 2007-2008 thì đây là một vấn
đề đáng để lo ngại. CPI ở Việt Nam tăng chủ yếu vì những lý do nội tại của nền
16
Kinh tế vĩ mô GV: Trần Thị Bích Hạnh
kinh tế, trong đó quan trọng nhất là nguyên nhân tiền tệ. Nhờ những biện pháp kịp
thời và trọn gói của chính phủ trong những năm 2008-2009 mà chỉ số CPI năm
2009 giảm xuống đáng kể và được xem là một thành công vang dội của nước ta
trong việc kiềm chế lạm phát. Nhưng không được bao lâu thì chỉ số lạm phát lại
vượt lên 2 con số (CPI=11,75%) làm cho giá cả trong nước ngày càng leo thang,
ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội. CPI năm 2011 (18,13%) làm cho các
nhà kinh tế học lo ngại rằng chúng ta sẽ quay về điểm xuất phát.
KẾT BÀI
Lạm phát có tác động rất lớn đến mỗi quốc gia cũng như tình hình phát triển
kinh tế xã hội của nước đó. Chính vì thế,chúng ta cần nắm vững nguyên nhân,tác
động của lạm phát,những ảnh hưởng của nó ở tầm vi mô và vĩ mô để có các biện
pháp linh hoạt,nhanh chóng,hạn chế các nguy cơ và tác động của nó. Giảm thiểu
các tác động tiêu cực của lạm phát là một vấn đề mang tính chất vĩ mô, đặc biệt đối
với một nền kinh tế mới bước vào ngưỡng cửa của hội nhập kinh tế như nước ta. Sự
hi sinh tăng trưởng năm 2008 để kiềm chế lạm phát như quyết sách của Chính phủ
Việt Nam đã đủ nói lên tầm quan trọng của vấn đề. Trong thời gian tới, nền kinh tế
của nước ta cũng đang có những thách thức, khó khăn cần phải vượt qua, và vấn đề
lạm phát vẫn còn tiếp tục diễn biến hết sức phức tạp,cần phải nghiên cứu và có
17
Kinh tế vĩ mô GV: Trần Thị Bích Hạnh
những biện pháp phù hợp để giữ vững tăng trưởng kinh tế,góp phần thực hiện mục
tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
18