Bài tiểu luận kinh tế vĩ mô: GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN
1.1 Giảm phát và nguyên nhân gây ra giảm phát
Giảm phát là tình trạng mức giá chung của nền kinh tế giảm xuống liên tục. Giảm phát, do
đó, trái ngược với lạm phát. Cũng có thể nói giảm phát là lạm phát với tỷ lệ mang giá trị âm.
Trong các tài liệu thống kê tình hình kinh tế chính thức, khi đề cập đến giảm phát, người ta vẫn
đặt dấu âm kèm với con số ở mục tỷ lệ lạm phát. Giảm phát thường xuất hiện khi kinh tế suy
thoái hay đình đốn.
Có 2 nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng giảm phát.
Nguyên nhân thứ nhất thuộc tổng cầu, giảm phát xảy ra khi kinh tế suy thoái. Khi tổng cầu
xã hội giảm, thể hiện cụ thể là tổng vốn đầu tư nước ngoải giảm, đầu tư truong nước cũng giảm.
Thu nhập thực tế của người dân giảm làm cho sức mua chậm lại. có thể sức mua giảm là do tác
động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới hay trong nước. Giảm phát do tổng cầu giảm có
một tác động không tốt đến nền kinh tế. cụ thể qua mô hình tổng cung và tổng cầu ta sẽ thấy rõ
được điều này. Trong ngắn hạn, khi tổng cầu giảm, đường AD dịch chuyển xuống dưới, trong
khi đó đường tổng cung không đổi. điểm giao nhau giữa đường tổng cung và tổng cầu mới có
mức giá thấp hơn mức giá cân bằng ban đầu, đồng thời sản lượng cân bằng cũng giảm. như vậy
nền kinh tế vốn dĩ đã suy thoái nay càng suy thoái trầm trọng hơn.
Nguyên nhân thứ 2 thuộc tổng cung, trong trường hợp này giảm phát xảy ra khi có sự tăng
trưởng của nền kinh tế một cách nhah chóng. Lượng tiền cung ứng không đủ cho lưu thông.
Nguyên nhân là do sự phát triển của khoa học kĩ thuật làm tăng năng suất lao động, hàng hóa
được sản xuất nhiều hơn, đồng thời chi phí sản xuất được giảm lại. Gỉam phát có nguyên nhân
từ tổng cung là điều đáng khích lệ tuy nhiên rất ít khi xảy ra do sự phát triển của khoa học kĩ
thuật luôn chậm hơn so với nhu cầu của xã hôi. Có thể nhận biết được giảm phát do tổng cung
qua mô hình tổng cung tổng cầu. khi có sự gia tăng của tổng cung, đường AS dịch chuyển qua
phải trong khi đường tổng cầu không đổi. Giao điểm mới của đưởng tổng cung và tổng cầu thể
hiện giá cả thấp hơn nhưng mức sản lượng lại lớn hơn so với điểm cân bằng lúc đầu.
1.2 Bẫy thanh khoản và nguyên nhân của bẫy thanh khoản
Theo quan điểm Keynesian truyền thống, “bẫy thanh khoản” là một hiện tượng mà lãi suất
danh nghĩa ngắn hạn đạt ngưỡng rất thấp, thậm chí 0%. Theo mô hình IS-LM, chính sách tiền tệ
mở rộng sẽ vận hành thông qua việc giảm lãi suất và kích thích chi tiêu đầu tư. Nhưng khi lãi
suất đã giảm đến mức 0% thì CSTT có thể sẽ không còn tác dụng nữa. Vì khi lãi suất giảm tới
0% thì CSTT mở rộng sẽ làm tăng cung tiền để tăng thanh khoản cho nền kinh tế nhưng do lãi
suất không thể giảm hơn nữa nên thanh khoản tăng thêm sẽ không có tác dụng kích cầu. Do đó
tổng cầu, sản xuất và việc làm sẽ không tăng (Mankiw, 2003, tr. 303). Quan điểm hiện đại về
“bẫy thanh khoản” mở rộng hơn, theo đó tại mức lãi suất bằng 0%, CSTT nới lỏng vẫn có thể
có hiệu quả miễn là CSTT vẫn có thể làm giảm kỳ vọng lãi suất thực trong tương lai thông qua
tăng kỳ vọng lạm phát (Adam và Billi, 2006).
Nói một cách đơn giản, bẫy thanh khoản là hiện tượng trong đó chính sách tiền tệ được
nới lỏng bằng biện pháp giảm lãi suất để rồi lãi suất xuống thấp quá một mức nhất định khiến
cho mọi người quyết định giữ tài sản của mình dưới dạng tiền mặt và chính sách tiền tệ trở nên
bất lực. Dấu hiệu nhận biết của hiện tượng này là lãi suất Ngắn Hạn về gần bằng 0, và thanh
khoản trong ngắn hạn không thể làm lãi suất giảm. Trong giai đoạn này, gần như hoạt động đầu
tư bị gián đoạn, các doanh nghiệp sụp đổ hàng loạt, thất nghiệp tăng cao, và ngân hàng thừa tiền
ngắn hạn với lãi suất cực thấp, nhưng không thể đẩy vào nền kinh tế.
Nguyên nhân của hiện tượng bẫy thanh khoản là
Mong đợi giảm phát. Nếu xảy ra giảm phát hoặc mọi người mong đợi giả phát (giá
giảm) thì lãi suất thực sự có thể là khá cao ngay cả khi lãi suất danh nghĩa bằng không. Nếu giá
giảm 2%/năm, còn bạn thì giữ tiền mặt ở dưới gối nằm thì có nghĩa là tiền của bạn sẽ tăng về
giá trị. Khó khăn là ở trong việc có một lãi suất danh nghĩa âm (ngân hàng sẽ trả tiền cho bạn vì
bạn đã vay tiền). Đã có những nỗ lực để tạo ra lãi suất âm, (ví dụ như giảm lượng tiền trong lưu
thông), nhưng trong thực tế nó hiếm khi thực hiện.
Ưu tiên cho tiết kiệm. Bẫy thanh khoản xảy ra trong thời kỳ suy thoái và triển vọng về
kinh tế ảm đạm. Người tiêu dùng, các doanh nghiệp và các ngân hàng đang rất bi quan về tương
lai, vì vậy họ xem xét việc tăng những khoản tiết kiệm để phòng ngừa rủi ro và rất khó khăn để
buộc họ chi tiêu. Sự gia tăng trong tiết kiệm này đồng nghĩa với tiêu dùng sẽ giảm sút. Ngoài ra,
trong thời gian suy thoái, các ngân hàng càng tỏ ra không sẵn lòng cho vay. Thêm nữa, cắt giảm
lãi suất cơ bản xuống 0% không thể biến thành lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại thấp
hơn, vì vậy các ngân hàng không muốn cho vay.
Khủng hoảng tín dụng (Credit crunch). Các ngân hàng bị mất một khoản tiền đáng kể
do mua nợ dưới chuẩn (sub-prime debt) và vỡ nợ. Vì vậy, họ tìm nguồn để cải thiện bảng cân
đối kế toán của họ. Họ không sẵn lòng cho vay nên ngay cả nếu như các công ty và người tiêu
dùng muốn tận dụng lãi suất thấp để vay, các ngân hàng sẽ không cho họ vay tiền.
Sự không sẵn lòng nắm giữ trái phiếu. Nếu lãi suất bằng không, các nhà đầu tư sẽ
mong đợi lãi suất tăng lên vào một thời điểm nào đó. Nếu lãi suất tăng, giá trái phiếu sẽ giảm.
Vì vậy, các nhà đầu tư muốn giữ tiền tiết kiệm hơn là nắm trái phiếu.
Bẫy thanh khoản xảy ra khi chính sách tiền tệ trở nên không hiệu quả bởi vì mặc dù mức lãi
suất rất thấp, thậm chí bằng 0, mọi người vẫn muốn giữ tiền mặt hơn là chi tiêu hoặc mua các
tài sản kém thanh khoản.
Những người theo trường phái Keynes (Keynesians) lập luận rằng một khi vướng vào bẫy thanh
khoản, chính sách tài khoá (fiscal policy) trở nên cực kỳ quan trọng để vực dậy nền kinh tế khỏi
suy thoái. Bởi vì lãi suất bằng không nhưng tổng cầu vẫn đang giảm nên các chính phủ cần phải
can thiệp để quản lý các nguồn lực nhàn rỗi.
Lập luận này cho rằng sự gia tăng tiết kiệm của khu vực tư nhân cần phải được bù đắp bởi sự
gia tăng vay từ khu vực công. Vì vậy, sự can thiệp của chính phủ có thể lợi dụng sự gia tăng tiết
kiệm tư nhân để bơm thêm chi tiêu vào nền kinh tế. Hành động chi tiêu này của chính phủ sẽ
làm tăng tổng cầu và dẫn đến tăng trưởng kinh tế cao hơn.
Những người ủng hộ chính sách tiền tệ (monetarists) thì chỉ trích chính sách tài khoá. Họ cho
rằng hành động vay của chính phủ chỉ đơn thuần là chuyển tài nguyên từ khu vực tư nhân sang
khu vực công và không làm tăng tổng thể hoạt động kinh tế. Họ cũng cho rằng sự gia tăng trong
việc vay mượn của chính phủ sẽ đẩy lãi suất tăng và đẩy các khoản đầu tư của khu vực tư ra
ngoài. Họ chỉ ra kinh nghiệm của Nhật Bản trong những năm 1990; khi đó bẫy thanh khoản xảy
ra và việc vay mượn của chính phủ không phát huy tác dụng, còn nợ khu vực công thì phình to
ra.
Những người theo trường phái Keynes đáp lại rằng việc chính phủ vay cũng có thể gây ra hiện
tượng lấn át (crowding out) trong những hoàn cảnh bình thường. Tuy nhiên, trong một cái bẫy
thanh khoản, khoản dôi ra trong gia tăng tiết kiệm nghĩa là việc chính phủ vay mượn sẽ không
lấn át khu vực tư nhân bởi vì các nguồn tài nguyên khu vực tư nhân không được đầu tư, mà
được giữ lại. Bằng cách kích thích hoạt động kinh tế chính phủ có thể khuyến khích khu vực tư
nhân bắt đầu đầu tư và chi tiêu một lần nữa.
Ngoài ra, những người theo trường phái Keynes nói rằng cũng như các chính sách tài khoá
mở rộng, điều cần thiết là chính phủ, các cơ quan tiền tệ thực hiện một cam kết về lạm phát.
Nếu chính sách tài khoá mở rộng được áp dụng trong thời kỳ giảm phát có thể sẽ không làm
tăng tổng cầu về mặt tổng thể. Tổng cầu chỉ tăng khi mọi người mong đợi một thời kỳ lạm phát
vừa phải, lãi suất thực giảm và chính sách tài khóa sẽ có hiệu quả trong việc thúc đẩy chi tiêu.
1.3 Mối quan hệ kéo theo giữa giảm phát và bẫy thanh khoản
Bẫy thanh khoản và giảm phát có mối quan hệ chặt chẽ với nhau cụ thể
Từ bẫy thanh khoản sẽ dẫn đến giảm phát.
Khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, ngân hàng trung ương sẽ thực hiện nới lỏng tiền tệ bằng
cách giảm lãi suất, kích thích tiê dùng và đầu tư tư nhân, mục đích là gia tăng tổng cầu, đưa nền
kinh tế ra khỏi suy thoái. Tuy nhiên, nếu việc giảm lãi suất không theo một chính sách phù hợp
mà lại giảm quá nhanh và liên tục thì sẽ gây tâm lý bất an cho người gửi tiền. khi chi phí cơ hội
của việc giữ tiền và gửi tiền là ngang nhau, người dân có tâm lý giữ tiền nhiều hơn thay vì gửi
ngân hàng. Hậu quả là lãi suất giảm nhưng không thu hút được lượng tiền gửi và đầu tư tư nhân
cũng khó có thể được thúc đẩy. như vậy chính sách tiền tệ đã mất vai trò kích thích nền kinh tế
của minh mà ngược lại rơi vào bẫy thanh khoản. trong khi đó, chính sách tiền tệ mở rộng đã làm
cho người dân kì vọng vào một tương lai tươi sáng hơn khi giá cả giảm và vì vậy họ tiếp tục chờ
đợi giá sẽ giảm hơn nữa. và kết quả cuối cùng là nền kinh tế vửa phải rơi vào bẫy thanh khoản
đồng thời lại càng giảm phát nghiêm trọng hơn.
Mặt khác, giảm phát cũng kéo theo bẫy thanh khoản.
Giảm phát trong hầu hết các trường hợp đều xuất phát từ sự sụt giảm của tổng cầu. giảm
phát làm tổng chi tiêu giảm dẫn đến nền kinh tế bị suy thoái. Để giải quyết vần đề trên, ngân
hàng trung ương sẽ thực hiện nới rộng kinh tế để kích thích đầu tư tư nhân, kích thích sản xuất
cung ứng hàng hóa cho nền kinh tế. một trong những biện pháp đầu tiên và ưu tiên là giảm lãi
suất để kích cầu. tuy nhiên, khi thực hiện chính sách kích cầu bằng việc giảm lãi suất quá nhanh
và liên tục đến mức quá thấp làm cho chi phí cơ hội giữa việc giữ tiền và gửi tiết kiệm là như
nhau. Trong trường hợp này, người dân có xu hướng giữ tiền nhiều hơn. Như vậy chính sách
tiền tệ một lần nữa không thực hiện được vai trò của mình, trong khi trông đợi của người dân là
càng ngày lãi suất và giá cả càng giảm thì nhà đầu tư tư nhân lại khó có thể tiếp cận nguồi vốn
dù lãi suất đã giảm. kết quả là nền kinh tế lại rơi vào bẫy thanh khoản khi chính sách tiền tệ lại
trở nên bất lực.
Cuối cùng cái vòng luẩn quẩn chống giảm phát lại phát sinh bẫy thanh khoản, chống bẫy
thanh khoản lại phát sinh giảm phát cứ bám lấy nền kinh tế nếu ngân hàng trung ương cũng như
những nhà hoạch định chính sách không có một biện pháp thích hợp và hữu hiệu. trên thế giới
trong nhiều năm qua cũng đã có không ít quốc gia chệt vật với bài toán giảm phát và bậy thanh
khoản. nghiên cứu vấn đề của những quốc gia ấy sẽ là bài học kinh nghiệm cho chính Việt Nam
trong những năm tiếp theo dù hiện tại nguy cơ của chúng ta là chưa có.
CHƯƠNG 2: GIẢM PHÁT VÀ BẪY THANH KHOẢN Ở NHẬT BẢN VÀ MỸ
2.1 Tác động của giảm phát và bẩy thanh khoản đối với nên kinh tế.
2.1.1 Tác động của giảm phát:
Khi giảm phát diễn ra, giá cả giảm và đồng tiền có giá hơn, nhà đầu tư sẽ muốn giữ nhiều
tiền mặt và tiêu xài ít hơn. Điều này làm cho nền kinh tế bị thiếu vốn luân chuyển và các ngành
kinh doanh phải đấu tranh vì chuyện này. Điều này cũng không khuyến khích việc vay mượn
với viễn cảnh phải tốn nhiều tiền để trả lại số tiền đã vay mượn, do đồng tiền mạnh lên.
Giảm phát còn thúc đẩy giảm lương người lao động khi mà công ty kinh doanh cần phải
điều tiết trở lại cho những thua lỗ do việc giảm giá gây ra. Tất cả những vấn đề trên kết hợp gây
ra hiệu ứng xoáy xuống, khiến cho giảm phát mạnh lên. Khi mà giá cả giảm, tình trạng việc làm
thiếu và người tiêu dùng tích trữ tiền với dự đoán là giá cả còn tiếp tục giảm nên điều này sẽ
làm hại nền kinh tế, như kiểu truyền lực cho thói quen tiết kiệm và cứ thế xoáy xuống. Đại khái
như là “ việc giảm giá, nếu tồn tại, sẽ tạo ra một vòng xoáy xấu như việc giảm lợi nhuận, đóng
cửa các nhà máy, làm hại tình trạng việc làm và thu nhập và làm tăng việc vỡ nợ từ các khoản
vay của công ty và cá nhân” (theo investopedia)
2.1.2 Tác động của bẫy thanh khoản:
Về bản chất bẩy thanh khoản xảy ra khi đường LM trong mô hình IS-LM trở nên thoải
và song song với trục hoành. Trong trường hợp này bất kỳ biến động nào của lượng tiền cung
ứng cũng không gây ảnh hưởng tới lãi suất hoặc gây ảnh hưởng rất nhỏ. Kết quả là việc nới
rộng chính sách tiền tệ không có tác dụng làm dịch chuyển đường LM; lãi suất không giảm và
nhu cầu vay không tăng. Tình trạng này xảy ra khi mặt bằng lãi suất danh nghĩa ở mức rất thấp,
gần tới 0 khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái. Chính sách mở rộng chi tiêu chính phủ
trong điều kiện này lại có tác động rất mạnh tới thu nhập mà ít bị ảnh hưởng bởi hiệu ứng thoái
lui đầu tư.
Một biểu hiện khác của tình trạng “ bẫy thanh khoản” là khả năng hấp thụ vốn của nền
kinh tế và mức độ sẵn sàn cho vay của hệ thống NHTM. Trong nhiều trường hợp, việc mở rộng
chính sách tiền tệ chỉ dừng lại ở việc tăng dự trữ của các NHTM mà không dẫn tới tăng tổng dư
nợ tín dụng bởi các Ngân hàng khó tìm được khách hàng đủ điều kiện vay vốn và khách hàng
cũng không có nhu cầu vay do chưa tìm được dự án đầu tư và đầu ra cho sản phẩm.
2.2 Thời kỳ giảm phát ở Nhật Bản
Thời kì trì trệ kinh tế kéo dài của Nhật Bản suốt thập kỷ 1990 hay thường được gọi với tên
“Thập kỉ mất mát”. Sau khi bong bóng tài sản vỡ vào những năm 1990 -1991, tốc độ tăng
trưởng kinh tế của Nhật Bản thấp hẳn đi. Bình quân hàng năm trong suốt thập niên 1990, tổng
sản phẩm quốc nội thực tế của Nhật Bản lẫn tổng sản phẩm quốc dân bình quân đầu người chỉ
tăng 0,5%, thấp hơn so với hầu hết các nước công nghiệp tiên tiến khác. Tỷ lệ thất nghiệp gia
tăng nhanh qua từng năm.
Biểu đồ thiểu phát và giảm phát trong thập kỷ mất mát của Nhật Bản
2.2.1 Ảnh hưởng của giảm phát đến nền kinh tế Nhật Bản:
Nền kinh tế suy thoái, tốc độ tăng trưởng GDP giảm mạnh:
Biểu đồ tốc độ tăng trưởng GDP thực tế bình quân hàng năm của Nhật Bản trong thập kỳ
mất mát so với các thời kỳ trước (Đơn vị tính: %)
Biểu đồ tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người ở Nhật Bản trong thập kỷ mất mát so
với các thời kỳ trước (ĐVT: %)
Năng suất lao động giảm: Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của GDP trên đầu
người của Nhật Bản giảm xuống mức thấp trong những năm 1990 là do mức tăng của năng suất
các yếu tố tổng hợp (TFP) giảm. Mức tăng của TFP ở Nhật Bản thời kỳ 1991-2000 lại giảm
mạnh là do chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp hoạt động thiếu hiệu quả. Việc này khiến cho
các nhà sản xuất yếu kém lại được hỗ trợ để sản xuất nhiều hơn. Chính sách này còn hạn chế
đầu tư tăng năng suất. Từ khi Nhật Bản thực hiện các biện pháp tạm thời ổn định các ngành đặc
biệt khó khăn vào năm 1988, ngay năm đó mức tăng TFP chỉ ở mức vô cùng thấp 0,64%. Ba
năm trước đó, mức tăng TFP là 2,5%/năm thế mà sáu năm sau đó, mức tăng chỉ còn là
2,18%/năm. Năng suất lao động giảm một phần là do phân bổ nguồn lực giữa các ngành thiếu
hợp lý - nghĩa là các ngành có tiềm năng tăng trưởng mạnh lại không được đầu tư đúng mức.
Nợ đọng: (bao gồm nợ khó đòi và nợ xấu) đã làm phương hại nền kinh tế Nhật Bản theo
hướng làm cho việc phân phối nguồn lực bị bóp méo. Thêm vào đó, nợ đọng tự nó cũng mang
những nhân tố khiến cho tình trạng nợ kéo dài. Nợ đọng làm cho chức năng phân bổ nguồn lực
bị bóp méo qua nhiều con đường. Cho vay thêm khiến cho nguồn tài chính bị điều chỉnh về khu
vực không có hiệu quả, góp phần giữ lao động tại khu vực này, trong khi đó những khu vực có
hiệu quả cao và những ngành nghề mới không được phân bổ đầy đủ nguồn lực tài chính và lao
động nên gặp khó khăn trong phát triển hoạt động của mình. Tóm lại, nợ đọng vừa dẫn đến đầu
tư quá mức ở các xí nghiệp hoạt động kém hiệu quả, vừa dẫn đến đầu tư không đủ ở các xí
nghiệp có khả năng mở rộng sản xuất. Hai hiện tượng này che lấp lẫn nhau khiến cho tác hại
của nợ đọng khó nhận ra được. Và đây là một nguyên nhân nữa khiến nợ đọng lại sinh ra nợ
đọng.
Đầu tư tư nhân giảm: Nhu cầu đầu tư tư nhân giảm làm tổng cầu giảm có thể là nguyên
nhân kinh tế suy giảm. Còn nguyên nhân khiến nhu cầu đầu tư tư nhân giảm là tình trạng đói tín
dụng. Nợ xấu khiến cho các ngân hàng ngại cho vay; và điều này ảnh hưởng đến đầu tư. Các xí
nghiệp nhỏ - nhất là trong ngành chế tạo - phải đối mặt với tình trạng này nhiều hơn.
2.2.2 Nguyên nhân dẫn đến giảm phát nền kinh tế Nhật Bản:
Bẫy Thanh khoản:
Nhà kinh tế học Hoa Kỳ đoạt giải Nobel năm 2008 là Paul Krugman cho rằng chính bẫy
thanh khoản đã làm cho nền kinh tế Nhật Bản trì trệ kéo dài. Bẫy thanh khoản xảy ra khi năng
lực sản xuất tương lai thấp hơn năng lực sản xuất hiện tại. Già hóa dân số và sinh ít khiến cho
nhóm dân số trong độ tuổi lao động ở Nhật Bản giảm trung bình hàng năm 0,7%. Khi lực lượng
lao động giảm nhanh hơn dân số, thì năng lực sản xuất bình quân đầu người của tương lai được
dự tính là sẽ giảm đi so với hiện nay.
Mặt khác, vấn đề kinh tế dai dẳng của Nhật Bản là do người tiêu dùng muốn tiết kiệm nhiều
hơn doanh nghiệp muốn đầu tư. Dự tính về lực lượng lao động trong tương lai giảm sẽ làm
giảm lợi tức kỳ vọng của đầu tư. Ngoài ra, vấn đề nợ xấu của khu vực ngân hàng khiến cho họ
khắt khe hơn trong phê duyệt các khoản cho vay, nên sẽ có tác động tiêu cực đến đầu tư của xí
nghiệp.
Chính sách kích cầu kém:
Trong thập kỷ 1990, trước thực tế nền kinh tế trì trệ triền miên, một số biện pháp kích cầu
đã được thực hiện nhằm vực dậy nền kinh tế Nhật Bản. Nhưng, nền kinh tế vẫn tiếp tục trì trệ.
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy chính sách kích cầu của Nhật Bản có phát huy tác dụng, nhưng
mức độ hiệu quả lại thấp. Nguyên nhân khiến hiệu suất của chính sách kích cầu thấp có thể là:
Chi tiêu công của Chính phủ đã tập trung vào các công trình công cộng vô bổ.
Chính sách tài chính của Nhật Bản không được thiết kế với mục tiêu tối đa hóa tác động
vĩ mô của nó. Đáng lẽ, các gói kích cầu phải chủ yếu dành cho chi tiêu vào mạng lưới an sinh
xã hội và giảm thuế tiêu dùng, chứ không nên chi cho các công trình công cộng và giảm thuế
chung chung như chính phủ Nhật Bản đã thực hiện.
Phần chi tiêu công do các chính quyền địa phương triển khai không đủ mức đề ra do các
chính quyền này đã dùng một phần gói kích cầu để bù đắp thâm hụt ngân sách địa phương. Các
công trình công cộng địa phương đã không có tác dụng nâng cao năng suất của vốn đầu tư tư
nhân.
Giá trị các gói kích cầu nhỏ, không đủ vực dậy nền kinh tế.
Chính sách tiền tệ thiếu hợp lý:
Ngân hàng Nhật Bản chậm trễ trong việc nới lỏng chính sách tiền tệ (giảm lãi suất và
khi quyết định giảm lãi suất thì lại giảm không đủ mức; thậm chí còn vội vàng nâng lãi suất
ngay khi nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi vào cuối năm 1993.
Đến giữa năm 1995, lãi suất ngắn hạn từ mức trên 2% xuống còn 0,4~0,5%. Khi kinh tế
Nhật Bản lại rơi vào suy thoái từ đầu năm 1997, Ngân hàng Nhật Bản đã không còn khả năng
giảm lãi suất. Từ năm 1998, nền kinh tế chính thức rơi vào trạng thái giảm phát. Khu vực tư
nhân bắt đầu hình thành dự tính rằng xu hướng giảm phát sẽ tiếp tục (tức là dự tính lạm phát
mang dấu âm). Hai điều này dẫn đến lãi suất thực tăng lên, vì lãi suất thực bằng lãi suất danh
nghĩa trừ đi dự tính lạm phát. Đầu tư và tiêu dùng tư nhân bắt đầu giảm càng làm cho khoảng
cách giữa tổng cầu và tổng cung càng tăng, từ đó làm cho giảm phát càng nghiêm trọng hơn, và
đây chính là "bẫy giảm phát" mà Nhật Bản mắc phải. Giảm phát làm cho gánh nặng nợ của xí
nghiệplớn thêm vì nợ quá hạn gia tăng, làm cho lợi nhuận của xí nghiệp giảm vì lãi suất thực tế
và tiền công thực tế trở nên cao hơn. Do đó, xí nghiệp trở nên dè dặt trong đầu tư thiết bị khiến
cho nhu cầu đầu tư tư nhân giảm làm tổng cầu giảm theo.
2.2.3 Các biện pháp của Nhật Bản nhằm thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế:
Ban đầu, Ngân hàng Trung ương Nhật đưa ra chính sách tiền tệ đó là cắt giảm lãi suất tái
chiết khấu. Ngoại trừ một lần ngắt quãng vào năm 1994, Ngân hàng Trung ương Nhật đều đặn
hạ lãi suất trong khoảng giữa năm 1991 đến giữa năm 1995. Lãi suất đã được hạ đến 8 lần trong
khoảng thời gian trên. Ngân hàng Trung ương Nhật sau đó chuyển mục tiêu sang lãi suất cơ
bản, mức lãi suất mục tiêu là 0,5%.
Năm 1997, việc một số tổ chức tài chính lớn sụp đổ cho thấy rõ hơn về quy mô khủng
hoảng và cho thấy cần đưa ra thêm nhiều biện pháp để làm giảm căng thẳng điều kiện tín dụng.
Môi trường kinh tế vĩ mô đi xuống nhanh chóng, điều kiện tín dụng thắt chặt. Tuy nhiên Ngân
hàng Trung ương không còn có thể tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ. Để tiếp tục hỗ trợ thanh
khoản và đóng vai trò thay thế cho thị trường liên ngân hàng đang gặp khó khăn, Ngân hàng
Trung ương Nhật mở rộng biên độ và sự linh hoạt của các công cụ tiền tệ: tăng bảo đảm trái
phiếu doanh nghiệp, thương phiếu đảm bảo bằng tài sản và một số loại hình chứng khoán đảm
bảo bằng tài sản khác, cung cấp thanh khoản trong dài hạn.
2.3 Thời kỳ giảm phát ở Mỹ
Đại khủng hoảng là thời kỳ suy thoái kinh tế toàn cầu diễn ra từ năm 1929 đến hết các năm
1930 và lấn sang đầu thập kỷ 1940, bắt đầu sau sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Phố Wall
vào 29 tháng 10 năm 1929 (còn được biết đến như Thứ Ba Đen tối). Bắt đầu ở Hoa Kỳ và
nhanh chóng lan rộng ra toàn Châu Âu và mọi nơi trên thế giới, phá hủy cả các nước phát triển.
Thương mại quốc tế suy sụp rõ rệt, từ thu nhập cá nhân, thuế, lợi tức đều bị ảnh hưởng và suy
thoái.
2.3.1 Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nền kinh tế Mỹ
Ảnh hưởng của việc đầu cơ ồ ạt:
Thập niên 1920 là thập niên tăng trưởng tại Mỹ. Từ năm 1921 đến 1929, sản lượng công
nghiệp tăng khoảng 40%, ngành nông nghiệp bắt đầu đi vào hiện đại hóa, người nông dân vay
mượn để đầu tư sản xuất, đưa sản lượng nông nghiệp đến tình trạng sản xuất thừa. Thập niên
1920 đưa nước Mỹ đến xã hội tiêu thụ, Ngân hàng phát triển tín dụng, cho phép người dân mua
sắm hàng hóa tiêu dùng lâu bền, xe hơi, nhà ở. Đây cũng là thời kỳ thị trường chứng khoán phát
triển mạnh. Đầu tư chứng khoán không phải là không có cơ sở, nó gắn liền với viễn tưởng phồn
thịnh do nền kinh tế thực mang lại. Tuy nhiên, nhà đầu tư nhanh chóng trở thành nhà đầu cơ:
những cổ đông lúc này không quan tâm đến cổ tức được chi trả bao nhiêu và chỉ quan tâm vào
giá bán cổ phiếu được bao nhiêu.
Đầu cơ được đẩy lên cao trào vào năm 1929. Chỉ trong năm 1929, đã có một lượng cổ
phần kỷ lục là 1,124,800,410 được giao dịch trên sàn NYSE. Từ đầu năm 1928 đến tháng
9/1929, chỉ số công nghiệp Dow Jones tăng từ 191 điểm lên trên 381 điểm. Không một nhà đầu
tư nào có thể bỏ qua mức lợi nhuận như vậy. Nguy hiểm hơn, với sự tăng ổn định của giá cổ
phiếu, người ta bắt đầu vay để mua chứng khoán. Chẳng hạn nhà đầu tư A có 10 USD và vay
thêm 75 USD từ người môi giới của mình để mua 1 cổ phiếu. Nếu anh ta bán cổ phiếu khi giá là
420$ ở thời điểm một năm sau, anh ta đã biến từ 10 USD đầu tư ban đầu thành 341.25 USD
(420$ trừ 75$ và 5% lãi suất trả cho người môi giới). Tức là lợi suất lên đến 3.400%.
Đến giữa năm 1929, tổng dư nợ cho vay của những đơn vị môi giới là hơn 7 tỷ USD, ba
tháng sau con số này là 8,5 tỷ USD. Lãi suất thanh toán cho các khoản vay này cũng tăng nhanh
không kém, đạt mức 20% vào năm 1929. Cơn bùng nổ đầu cơ này hoàn toàn chỉ dựa trên những
niềm tin vô căn cứ, và nó trái ngược với sự sụp đổ khủng khiếp vài tháng sau đó cũng chính ở
cơ sở, sụp đổ bắt nguồn từ sự sợ hãi.
Vào tháng 4/1929, lãi suất bắt đầu tăng dần, khiến lợi nhuận từ đầu cơ chứng khoán yếu
đi, và kéo theo đó, những người đi vay để đầu cơ mất dần khả năng trả nợ. Khi lợi nhuận từ việc
đầu cơ vào cổ phiếu không còn, các nhà đầu cơ lần lượt bán tháo cổ phiếu làm giá cổ phiếu
giảm mạnh trên thị trường. Hiện tượng ồ ạt bán cổ phiếu hàng loạt diễn ra từ ngày 18 đến
23/10/1929. Đến ngày 24/10 thì thị trường chứng khoán ở New York tuột dốc tự do, gây ra
hoảng loạn.
Sự sụp đổ của thị trường chứng khoán đã đẩy Mỹ vào suy thoái. Tiêu dùng và đầu tư bị
ảnh hưởng trực tiếp. Người dân bắt đầu lo lắng về thu nhập, họ tiêu dùng ít hơn trước. Các ngân
hàng đua nhau phá sản nguyên nhân do người vay vốn đầu cơ không còn khả năng trả nợ, cổ
phiếu đầu cơ không còn giá trị, còn những người gửi tiền lo lắng và rủ nhau ồ ạt rút tiền gửi ra
khỏi ngân hàng. Chỉ vài tháng sau, khủng hoảng chứng khoán biến thành khủng hoảng ngân
hàng. Điều này khiến các công ty không thể tiếp cận nguồn vốn vay để đầu tư, khiến cho hoạt
động sản xuất kinh doanh bị đình trệ.
Chính sách tiền tệ không hợp lý: Chính sách tiền tệ và chi tiêu đã làm cho sự việc thêm
nghiêm trọng. Chính quyền Mỹ lúc đó chỉ quan tâm đến cân bằng ngân sách hơn việc chấp nhận
thâm hụt ngân sách để duy trì việc làm và sản lượng.
Duy trì tỷ giá cố định:
Chính phủ Mỹ muốn duy trì bản vị vàng – một dạng của chính sách tỷ giá cố định, FED đã
không thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ cần thiết. Chính sách này đã góp phần gây ra giảm
phát, mức giá chung trong giai đoạn 1929-1933 giảm và dẫn đến tình trạng giảm phát nợ. Mức
giá tiêu dùng giảm đồng nghĩa với giá trị thực của nợ tăng. Các món nợ quá hạn và nợ xấu tăng
lên khiến các ngân hàng phải bán tài sản của họ. Điều này càng làm cho tình hình tài chính ở
các ngân hàng càng trở nên tồi tệ. Tình trạng giảm phát nợ một mặt đẩy các ngân hàng yếu ớt
nhanh chóng sụp đổ, làm giảm lượng tín dụng, thu hẹp đầu tư và tiêu dùng, mặt khác vì không
có lợi cho người đi vay nên cũng không kích thích vay để đầu tư.
Tất cả tạo nên một ảnh hưởng dây chuyền mạnh mẽ làm tổng cầu sụt giảm nặng nề. Khủng
hoảng ngân hàng đưa nước mỹ đến khủng hoảng kinh tế năm 1931 và đi vào đại suy thoái: sản
lượng công nghiệp giảm 50%, tỷ lệ thất nghiệp lên đến 25% trong giai đoạn 1930 – 1932.
2.3.2 Ảnh hưởng của Đại khủng hoảng đến nền kinh tế thế giới:
Mỹ Anh Pháp Đức
Sản xuất Công
nghiệp
-46 -23 -24 -41
Giá bán buôn -32 -33 -34 -29
Mua bán ngoại
thương
-70 -60 -54 -61
Tỷ lệ thất
nghiệp
606 129 214 232
Bảng chỉ số kinh tế 1929 – 1932 (Đơn vị tính %)
Giữa năm 1930, tỷ lệ lãi suất đã giảm xuống mức thấp. Tháng 5/1930, doanh số bán ô tô đã
giảm dưới mức năm 1928. Giá cả nói chung bắt đầu giảm, mặc dù mức lương vẫn ổn định vào
năm 1930 và tình trạng giảm phát bắt đầu vào năm 1931 trong khu vực nông nghiệp, giá cả
hàng hóa giảm, trong khai thác mỏ và khai thác gỗ nơi có tỷ lệ thất nghiệp cao và có ít việc làm
khác. Sự suy giảm trong nền kinh tế Mỹ là nhân tố kéo theo sự suy giảm kinh tế của hầu hết các
nước khác. Đến cuối năm 1930, tình trạng giảm phát xuất hiện khắp các nước trên thế giới.
Sản xuất Công nghiệp: sản xuất công nghiệp của thế giới trung bình giảm 38% , riêng
Mỹ giảm 46%, Đức giảm 47%, riêng ở Mĩ đã có 130.000 công ty bị phá sản.
Biểu đồ sản lượng công nghiệp Mỹ (1928 – 1939)
Tài chính: hàng ngàn ngân hàng đóng cửa, riêng ở Mỹ có 5.000 ngân hàng phá sản
chiếm 40% số ngân hàng phá sản trên thế giới.
Tình trạng thất nghiệp: Hàng chục triệu công nhân bị thất nghiệp. Ở Mỹ, năm 1929 tỷ
lệ thất nghiệp là 3%, đến năm 1933 đã lên tới 25%. Hàng triệu nông dân bị phá sản, đời sống
của những người lao động hết sức cơ cực.
Biểu đồ tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ (1910 – 1960)
2.3.3 Các biện pháp nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế của Chính phủ Mỹ:
Ban đầu các nhà hoạch định chính sách cố gắng khôi phục lòng tin cho thị trường bằng các
bài phát biểu trấn an người dân, tổng thống Herbert Hoover làm yên lòng người Mỹ rằng kinh tế
nước này vẫn phát triển tốt. Mọi thứ chỉ thay đổi sau khi Franklin D Roosevelt lên làm tổng
thống năm 1932, chính phủ can thiệp vào để khởi động lại chương trình trợ cấp thất nghiệp cho
người dân, ổn định thị trường bằng cách hạn chế sản xuất, khuyến khích phát triển chương trình
an sinh xã hội. Tuy nhiên, chính quyền của ông Roosevelt không có nhiều thành công trong hồi
phục tăng trưởng kinh tế và lòng tin người tiêu dùng vẫn ở mức thấp.
Cuộc Đại Khủng Hoảng kéo dài bất chấp một loạt các biện pháp mới nhằm giảm nhẹ thiệt
hại cho người dân, cụ thể là cung cấp thêm việc làm mới, hỗ trợ hay bảo vệ các khoản thế chấp.
Mãi đến đầu Chiến tranh Thế giới thứ Hai, khi chính phủ Mỹ áp dụng lý thuyết kinh tế học
Keynes với trọng tâm chính là nêu bật vai trò tăng trưởng tiền lương (để tăng tổng cầu) và vai
trò của nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế, nền kinh tế mới hồi phục. Sản lượng sản xuất
tăng gấp đôi trong chiến tranh, tình trạng thất nghiệp biến mất khi phụ nữ và người da đen được
kêu gọi tham gia vào lực lượng lao động thay cho hàng triệu người đã tham gia vào quân ngũ.
CHƯƠNG 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ KHỦNG HOẢNG CỦA MỸ -
NHẬT, BIỆN PHÁP NGĂN NGỪA GIẢM PHÁT VÀ BẨY THANH KHOẢN TẠI VIỆT
NAM.
3.1 Bài học rút ra từ khủng hoảng nền kinh tế Mỹ - Nhật:
Phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ linh hoạt. Năm 2000, NHTW Nhật Bản
dỡ bỏ chính sách lãi suất 0% và năm 2001 thực hiện hạ lãi suất bằng cách áp dụng chính sách
nới lỏng định lượng (tăng cung tiền thông qua nghiệp vụ thị trường mở).
Quốc hữu hóa một số ngân hàng , giải cứu các tổ chức tài chính và tín dụng nhỏ để giảm
thiểu áp lực cho hệ thống.
Lành mạnh hóa ngành ngân hàng bằng việc giải quyết triệt để các khoản nợ xấu. Hệ thống
tài chính ngân hàng được cải thiện, các doanh nghiệp có khả năng vay vốn với chi phí thấp,
giảm nợ, có điều kiện mở rộng khả năng sản xuất, tạo thêm nhiều công ăn việc làm.
Thực hiện các chương trình hồi sinh ngành tài chính (Financial Revitalization Program) và
thành lập các tập đoàn, công ty hỗ trợ các ngành quan trọng như Tập đoàn hồi sinh ngành công
nghiệp (Industrial Revitalization Corporation – IRCJ).
Khi áp lực suy giảm chững lại, khả năng giảm phát tăng, NHTW không nên tránh các biện
pháp can thiệp mạnh tay mà nên đưa ra các giải pháp táo bạo kể cả khi khủng hoảng đã dịu bớt.
Chính phủ nên có các thông điệp rõ ràng đến thị trường về các mục tiêu ngắn hạn và tuyên
bố tiếp tục hỗ trợ thị trường cho đến khi nền kinh tế phục hồi.
3.2 Thực trạng kinh tế tại Việt Nam:
3.2.1 Tình hình tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam:
Tình hình tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam những năm qua cho thấy một bước chùng sâu
sắc. Nếu như năm 2007 tăng trưởng tín dụng tăng quá cao ở mức 51.39% thì tới năm 2012 có
những tháng trong năm là tăng trưởng âm.
Thực tế cho thấy, việc nới lỏng tín dụng quá mức trong 6 tháng cuối năm 2007 và 2009 đã
đẩy tín dụng tăng vọt, vượt xa chỉ tiêu kế hoạch.
Trong năm 2010, việc chạy theo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng 25% đã dồn áp lực lên giai
đoạn cuối năm và đã gây nhiều hệ lụy cho năm tiếp theo.
Cụ thể, trong hai năm 2008 và 2011, sau khi đã “tháo” tăng trưởng tín dụng trước đó,
NHNN đã phải thắt chặt chính sách tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát và giữ tăng trưởng tín dụng
cả năm thậm chí còn cách xa chỉ tiêu đã được điều chỉnh.
Chính những điều này đã tạo nên một chính sách điều hành tiền tệ “giật cục” được giới
chuyên gia đề cập nhiều lần trong quá khứ.
.
3.2.2 Tình hình nợ xấu Ngân hàng tại Việt Nam:
Tình hình nợ xấu tăng nhanh khiến các ngân hàng mất một kho ản lớn trong việc rích lập
dự phòng rủi ro : đến ngày 31/5/2012, nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng theo số liệu của
các tổ chức tín dụng (TCTD) tự công bố là 117,723 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 4.47% tổng dư nợ
tín dụng. Trong đó, nợ xấu của nhóm NHTM nhà nước là 4.6 ngàn tỷ đồng, chiếm 3.96% dư
nợ nhóm này; nhóm NHTM cổ phần là 41ngàn tỷ đồng, chiếm 4.54% dư nợ của nhóm này.
Nhóm đối tượng DNNN được cho là đang chiếm tỷ lệ nợ xấu cao của hệ thống Ngân
hàng khoảng hơn 1 nghìn tỷ đống đầu tháng 7/2012 ( chiếm ½ tổng dư nợ toàn hệ thống) điều
này dẫn đến tỷ lệ nợ xấu ở các NHTM nhà nước là rất cao – vì các gân hàng này thường có
chính sách ưu tiên cho các DNNN khi tiến hành thẩm định cho vay . Bên cạnh đó , Nhiều
NHTM cổ phần được thành lập để phục vụ một số nhóm khách hàng ưu tiên. Đây là các doanh
nghiệp có mối quan hệ mật thiết với các cổ đông lớn, việc cho vay các doanh nghiệp này cũng
khá dễ dãi , khiến cho tình hình n ợ xấu của nhóm NHTM cũng rất phức tạp. Ngoài ra, bình
quân nợ xấu của 8 ngân hàng niêm yết cuối năm 2011 là 1.58%, hiện sau 6 tháng đầu năm con
số này đang ở mức 2.34% .
Việc giải quyết vấn dề nợ xấu của ngân hàng hiện không có gì tiến triển và vẫn sẽ là vấn
đề quan ngại trong thời gian tới : chủ trương thành lập công ty mua bán nợ vẫn đang dừng lại ở
việc xem xét , hiện vẫn còn nhiều ý kiến tranh cãi về nguồn tiền dành cho công ty này cũng như
những băn khoăn về hiệu quả hoạt động của nó. Phương án giải quyết hiện tại vẫn là các ngân
hàng tự xử lý nợ, tự trích lập dự phòng rủi ro ; về phía ngân hàng nhà nước đã thay đổi lại cơ
bản các văn bản quy định về hoạt động tín dụng và sẽ ban hành đầy đủ trong quý 3 năm nay và
có hiệu lực từ 2013. Đồng thời NHNN cũng sắp xếp lại cơ quan thanh tra giám sát hoạt động
các NH; phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa như đẩy nhanh chi tiêu công giúp
giải phóng lượng hàng tồn kho đặc biệt trong lĩnh vực vật liệu xây dựng, giám sát các tổ chức
tín dụng.
Tình hình nợ xấu của Ngân hàng tại Việt Nam
3.2.3 Nhận xét :
Giảm lãi suất nhưng doanh nghiệp không tiếp cận được vốn
Đứng trên quan điểm các NHTM cũng là các doanh nghiệp thì trước hết họ cũng phải vì lợi ích
của chính mình.Vì thế kinh tế càng khó khăn, doanh nghiệp càng khó tiếp cận với vốn vay ngân
hàng do hàng loạt các rào cản, các chuẩn tín dụng mới được đưa ra dù đã có những hỗ trợ từ
việc nới lỏng các quy định cho vay từ phía NHNN
Do đó, vấn đề doanh nghiệp không tiếp cận được vốn hiện nay không nằm ở vấn đề lãi suất mà
nằm ở việc xử lý nợ xấu.
Nền kinh tế đang có dấu hiệu rơi vào giảm phát, sản xuất trì trệ
Dấu hiệu nền kinh tế đi xuống, rơi vào giảm phát đang ngày càng lộ rõ khi lạm phát giảm nhưng
hàng loạt doanh nghiệp phá sản, dừng hoạt động, thất nghiệp gia tăng.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4.2012 chỉ tăng 0,05%, mức thấp nhất trong 2 năm qua và
giảm tháng thứ 9 liên tiếp, riêng Hà Nội và TP.HCM thì CPI có mức tăng trưởng âm.
Tính đến cuối tháng 4/2012, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống giảm 0,66% so với cuối năm
2011. Tín dụng giảm cũng là một trong những nguyên nhân khiến tốc độ tăng trưởng GDP trong
4 tháng đầu năm chỉ đạt 4%, đe dọa mục tiêu tăng trưởng GDP 6-6,5% của năm 2012, dẫn tới
hàng loạt nguy cơ mất việc làm và an sinh xã hội.
Tính tới 30/4/2012, trong tổng số hơn 600.000 doanh nghiệp, đã có gần 82.000 doanh nghiệp
giải thể, hơn 16.000 doanh nghiệp đăng ký dừng hoạt động. Riêng 4 tháng đầu năm 2012 đã có
gần 18.000 doanh nghiệp phá sản, tăng gần 9,5% so với cùng kỳ 2011.
Bán lẻ vốn là ngành rất sôi động cũng đã trầm lắng, rơi xuống vùng tăng trưởng âm trong những
tháng gần đây và các nhà bán buôn, bán lẻ cũng là đối tượng phá sản nhiều nhất.
Đi sâu vào những vấn đề cụ thể, các chuyên gia kinh tế chỉ ra nguy cơ đáng lo ngại của tình
trạng giảm phát “ẩn” trong những biểu hiện tưởng chừng như tích cực.Lạm phát giảm, nhập
siêu được kiềm chế, xuất khẩu ổn định nhưng nhập siêu giảm bởi vì doanh nghiệp phần lớn
không tiếp tục nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất, đem lại kết quả xuất siêu cho nền kinh tế.
Doanh nghiệp không sử dụng ngoại tệ để nhập khẩu khiến quỹ ngoại tệ tăng lên.
“Nền kinh tế tăng trưởng thì lạm phát có thể được giải quyết, nhưng không có tăng trưởng thì
vấn đề trở nên nghiêm trọng hơn. Vì từ đây sẽ xuất hiện sản xuất đình đốn, thất nghiệp tràn lan,
việc làm thiếu thốn và gây ra các hậu quả khó lường về mặt xã hội”, TS. Lê Đăng Doanh –
Chuyên gia kinh tế cao cấp nói.
Tín dụng giảm trong 4 tháng đầu năm là bất thường trong những năm trở lại đây. Nó thể hiện
nền kinh tế đang đình đốn và chuyển sang giảm phát. Căn bệnh giảm phát sẽ khó chữa hơn lạm
phát bởi khi giảm phát các doanh nghiệp “đã chết” thì không thể cho uống thuốc gì để cứu sống
được.
3.3 Những giải pháp được đề ra để ngăn chặn tình trạng bẫy thanh khoản tại Việt Nam:
Đứng trước hiện trang nền kinh tế với những dấu hiệu của giảm phát, tăng trưởng kinh tế thấp,
và dựa trên bài học của Nhật Bản trong thập kỷ 90 với các dấu hiệu tương tự, một số giải pháp
được đưa ra là:
3.3.1 Xử lý mạnh tay với các khoản nợ xấu trong ngân hàng
Có chính sách hỗ trợ đúng đối tượng là các doanh nghiệp gặp một số khó khăn, có phương án
hoạt động kinh doanh đem lại hiệu quả và có khả năng mở rộng, phát triển sản xuất. Hiện nay,
NHNN mới có một công văn duy nhất có nội dung cho phép doanh nghiệp gia hạn nợ, xem xét
giảm lãi suất. Nhưng trên thực tế, quy định này dường như vô nghĩa đối với các doanh nghiệp
đã không thể trả được nợ. Do đó, điều quan trọng là phải giải quyết tận gốc vấn đề nợ xấu.
Chính phủ mua lại toàn bộ nợ xấu thông qua công ty mua bán nợ, hoặc qua các ngân hàng
TMCP có vốn Nhà nước chi phối để giúp giảm bớt gánh nặng cho các NHTM và doanh nghiệp
cũng như làm sạch bản cân đối kế toán.
Chính sách tín dụng cũng cần được mở rộng cho tất cả các đối tượng khách hàng đáp ứng đủ
điều kiện. Đồng thời, trần lãi suất cho vay 15%/năm cần mở rộng hơn ở các lĩnh vực khác trong
thời gian tới.
Chính phủ bơm tiền cho nền kinh tế thông qua việc phát hành trái phiếu hoặc lấy tín phiếu ngắn
hạn tại các ngân hàng sau đó hoán đổi thành các kỳ trung và dài hạn. Câu hỏi về nguồn vốn và
nỗi lo lạm phát sẽ quay trở lại. Tuy nhiên, việc này cần phải được tiến hành ngay vì càng tiến
hành chậm thì giá phải trả trong tương lai có thể càng đắt.
3.3.2 Thành lập Quỹ hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Miễn thuế GTGT, nhận thế chấp hàng tồn kho. Đây được cho là một trong những giải pháp để
hãm đà giảm phát hiện nay. Theo các chuyên gia, giải pháp thời gian qua như gói cứu trợ về
chính sách thuế 29.000 tỉ đồng, giảm lãi suất chưa đánh trúng vào khó khăn của doanh nghiệp.
Hàng tồn kho phải giải quyết để doanh nghiệp tiếp tục quay vòng vốn sản xuất thông qua miễn
thuế GTGT chứ không chỉ là hoãn. Bởi giảm giá bán rất quan trọng, nó có thể thúc đẩy được
phần nào tiêu thụ. Nếu thuế GTGT chỉ giãn ra thì 4-5 tháng sau cũng không thể giảm giá bán
được. Ngoài ra, Ngân hàng chấp nhận lấy hàng tồn kho làm tài sản thế chấp cho doanh nghiệp
vay tiếp, giúp họ có đầu ra thì mới tiếp tục sản xuất, và tạo điều kiện sản xuất với chi phí rẻ hơn
song song với việc kéo lãi vay xuống thấp hơn nữa.
Hỗ trợ cho xuất khẩu mạnh hơn nữa. Vừa qua, Trung Quốc hỗ trợ toàn diện cho xuất khẩu từ
hoàn thuế giá trị gia tăng, giảm lãi suất, tạo điều kiện xây dựng nhà xưởng, kho hàng, giảm phí
vận tải,…nhờ đó hàng hóa xuất khẩu giá thành rẻ, cạnh tranh được thị trường nước ngoài.
Chính phủ cần nhìn nhận thẳng thắn về sự trì trệ của nền kinh tế và đưa ra các biện pháp hữu
hiệu để giúp nền kinh tế thoát khỏi tình trạng trì trệ này.
Nguồn tài liệu tham khảo:
- />%A5t_m%C3%A1t_(Nh%E1%BA%ADt_B%E1%BA%A3n)#cite_note-
HayashiPrescott-1
- Hayashi, Fumio and Prescott, Edward C. (2002), "The 1990s in Japan: A Lost
Decade,"Review of Economic Dynamics, vol. 5, no. 1, pp. 206-235.
- Krugman, Paul (1998), "It's Baaack: Japan's Slump and the Return of the Liquidity
Trap,"Brookings Papers on Economic Activity, No. 2, pp. 137-205.
- />- John A. Garraty, The Great Depression (1986)
- "Commodity Data". US Bureau of Labor Statistics. Retrieved 2008-11-30.
- Jerome Blum, Rondo Cameron, Thomas G. Barnes, The European world: a history (2nd
ed 1970) page 885
- Frank, Robert H.; Bernanke, Ben S. (2007). Principles of Macroeconomics (3rd ed.).
Boston: McGraw-Hill/Irwin. p. 98.ISBN 0-07-319397-6.
- !"#" !$%&'!(!"##%$')
- *+'$+',-$.,./01'+