Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Bài thu hoạch ccllct, môn khoa học lãnh đạo, thực trạng và giải pháp thực hiện chính sách công ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.64 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................2
NỘI DUNG.......................................................................................................3
1. Một số quan điểm về chính sách cơng.......................................................3
2. Chính sách cơng theo quan điểm của Việt Nam.......................................4
3. Đánh giá chính sách cơng ở Việt Nam: vấn đề và giải pháp................5
3.1. Đòi hỏi từ thực tiễn về đánh giá chính sách cơng...................................5
3.2. Các trở ngại trong đánh giá chính sách cơng hiện nay..........................6
3.3. Các giải pháp tăng cường đánh giá chính sách cơng.............................9
KẾT LUẬN....................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................14

1


MỞ ĐẦU
Chính sách cơng là một trong những cơng cụ cơ bản được Nhà nước sử
dụng để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chính sách cơng do nhà
nước ban hành để giải quyết một hoặc một số vấn đề liên quan lẫn nhau
đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo những mục tiêu xác định (tuy
nhiên không phải vấn đề nào nảy sinh trong đời sống kinh tế - xã hội cũng
cần có chính sách điều chỉnh). Việc giải quyết nhằm thay đổi hoặc duy trì
một hiện trạng nào đó. Ở mỗi giai đoạn phát triển, yêu cầu nâng cao chất
lượng, hiệu quả các chính sách cơng ln được đặt ra. Để có thể đi vào cuộc
sống, chính sách cơng được thể chế hóa thành các quy định pháp luật. Việc
đánh giá chính sách thường gắn với sự đánh giá những quy định pháp luật
này có phù hợp với những yêu cầu của cuộc sống hay không và chúng được
vận hành như thế nào trên thực tế.
Tuy nhiên, chính sách cơng khơng chỉ thể hiện trong các quy định pháp
luật, chúng còn nằm trong các chương trình, kế hoạch, chủ trương hoạt động
của nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề cấp thiết đặt ra trong thực tiễn


quản lý nhà nước. Thời gian qua, việc hoạch định chính sách cơng ở nước ta
đã cho ra đời nhiều chính sách phù hợp với thực tế, thực thi đem lại hiệu quả
mà biểu hiện cụ thể là đã góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước ta trong hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới. Cùng với hoạch
định và triển khai thực hiện, thì đánh giá chính sách là một khâu khơng thể
thiếu của quy trình chính sách. Vì nhiều nguyên nhân khách quan và chủ
quan khác nhau, mà khâu đánh giá chính sách chưa được thực sự coi trọng
trong thực tiễn Việt Nam. Vì vậy, rất cần thiết phải nghiên cứu việc đánh giá
chính sách cơng và đề xuất những giải pháp triển khai thực hiện chính sách
công ở Việt Nam hiện nay.

2


NỘI DUNG
1. Một số quan điểm về chính sách cơng
Ở các nước phát triển và các tổ chức kinh tế quốc tế, thuật ngữ “Chính
sách cơng” được sử dụng rất phổ biến. Có thể nêu ra một số quan niệm sau: 
Chính sách cơng bao gồm các hoạt động thực tế do chính phủ tiến hành
(Peter Aucoin, 1971). 
Chính sách cơng là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của
một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn
các mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó (William Jenkin, 1978). 
Chính sách cơng là cái mà chính phủ lựa chọn làm hay khơng làm
(Thomas R.Dye, 1984). 
Chính sách cơng là tồn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh hưởng
một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi cơng dân (B. Guy
Peter, 1990). 
Chính sách cơng là một kết hợp phức tạp những sự lựa chọn liên quan
lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan nhà

nước hay các quan chức nhà nước đề ra (William N. Dunn, 1992). 
Chính sách cơng bao gồm các quyết định chính trị để thực hiện các
chương trình nhằm đạt được những mục tiêu xã hội (Charle L. Cochran and
Eloise F. Malone, 1995). 
Nói cách đơn giản nhất, chính sách cơng là tổng hợp các hoạt động của
chính phủ/chính quyền, trực tiếp hoặc thơng qua tác nhân bởi vì nó có ảnh
hưởng tới đời sống của cơng dân (B. Guy Peters, 1999). 
Thuật ngữ chính sách cơng ln chỉ những hành động của chính
phủ/chính quyền và những ý định quyết định hành động này; hoặc chính sách
cơng là kết quả của cuộc đấu tranh trong chính quyền để ai giành được cái gì
(Clarke E. Cochran, et al, 1999). 
3


Chính sách là một q trình hành động có mục đích mà một cá nhân
hoặc một nhóm theo đuổi một cách kiên định trong việc giải quyết vấn đề
(James Anderson, 2003). 
Chính sách cơng là một q trình hành động hoặc khơng hành động của
chính quyền để đáp lại một vấn đề cơng cộng. Nó được kết hợp với các cách
thức và mục tiêu chính sách đã được chấp thuận một cách chính thức, cũng
như các quy định và thơng lệ của các cơ quan chức năng thực hiện những
chương trình (Kraft and Furlong, 2004). 
2. Chính sách cơng theo quan điểm của Việt Nam
Chính sách cơng là tập hợp những quyết định có liên quan đến nhau do
nhiều chủ thể quản lý Nhà nước ban hành để lựa chọn các mục tiêu và đưa ra
cách thức để đạt được mục tiêu nhằm giải quyết một vấn đề phát sinh hoặc
quan tâm trong đời sống xã hội và thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng
xã hội chủ nghĩa".
Ở nước ta, chính sách được hiến định tại Điều 26 Hiến pháp 1992, sửa
đổi năm 2001: "Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp

luật, kế hoạch, chính sách...". Như vậy, chính sách cơng là một trong những
cơng cụ cơ bản được Nhà nước sử dụng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ
quản lý nhà nước. Song hiện nay đang tồn tại cụm từ "chính sách của Đảng và
Nhà nước".
Thực tế, ở nước ta, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thông qua việc
vạch ra các cương lĩnh, chiến lược, các định hướng chính sách - đó chính là
những căn cứ chỉ đạo để nhà nước ban hành các chính sách cơng. Các chính
sách cơng là do Nhà nước ban hành. Các chính sách này là sự cụ thể hóa
đường lối, chiến lược và các định hướng chính sách của Đảng. (Do vậy việc
đề cập tới chính sách cơng ở đây được hiểu là các chính sách cơng do Nhà
nước ban hành). Hoạch định chính sách là tồn bộ q trình nghiên cứu, xây
dựng, ban hành đầy đủ một chính sách mới.
4


3. Đánh giá chính sách cơng ở Việt Nam: vấn đề và giải pháp
3.1. Đòi hỏi từ thực tiễn về đánh giá chính sách cơng
Chính sách cơng là một cơng cụ quan trọng của quản lý nhà nước.
Thông qua việc ban hành và thực thi các chính sách, những mục tiêu của Nhà
nước được hiện thực hóa.
Mỗi chính sách vận động theo một quy trình, bao gồm 3 giai đoạn cơ
bản: hoạch định chính sách, thực thi chính sách và đánh giá chính sách. Ở
Việt Nam, lâu nay Nhà nước đã chú trọng nhiều đến khâu hoạch định và thực
thi chính sách, song việc đánh giá chính sách thì dường như bị bỏ qua hoặc rất
ít được quan tâm.
Đánh giá chính sách là xem xét, nhận định về giá trị các kết quả đạt
được khi ban hành và thực thi một chính sách cơng. Để có thể đi vào cuộc
sống, chính sách cơng được thể chế hóa thành các quy định pháp luật. Việc
nhìn nhận và đánh giá chính sách do đó thường gắn với sự đánh giá những
quy định pháp luật này có phù hợp với những yêu cầu của cuộc sống hay

không và chúng được vận hành như thế nào trên thực tế. Tuy nhiên, chính
sách cơng khơng chỉ thể hiện trong các quy định pháp luật, chúng cịn nằm
trong các chương trình, kế hoạch, chủ trương hoạt động của nhà nước. Do đó,
đánh giá chính sách cơng sẽ bao quát việc xem xét về tổng thể các quyết định
của nhà nước (chính phủ trung ương và chính quyền địa phương) trong việc
giải quyết một vấn đề cấp thiết đặt ra trong thực tiễn quản lý nhà nước. Đánh
giá chính sách cho phép xem xét, nhận định khơng chỉ về nội dung chính
sách, mà cịn về q trình thực thi chính sách, từ đó có biện pháp điều chỉnh
phù hợp với đòi hỏi thực tế để đạt các mục tiêu mong đợi.
Khi Việt Nam chuyển sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, địi hỏi ban hành các chính sách để tạo ra
những nhân tố, môi trường cho sự chuyển đổi trở thành cấp bách. Vì vậy,
trong một thời gian khá dài, Nhà nước tập trung cao vào việc xây dựng và ban
hành các thể chế, nhằm tạo các hành lang pháp lý cho mọi lĩnh vực kinh tế, xã
5


hội. Việc ban hành hàng loạt văn bản pháp luật trong khơng ít trường hợp dẫn
đến tình trạng chồng chéo, trùng lắp, thậm chí mâu thuẫn nhau giữa các quy
định pháp lý, mà cuối cùng là sự chi phối của chúng đối với các hoạt động
kinh tế - xã hội theo các chiều khác nhau, khiến cho những hoạt động này
khơng đạt được mục tiêu mong muốn. Nói cách khác, hàng loạt chính sách
được ban hành, có hiệu lực thi hành, song việc chính sách đó có hiệu lực thực
tế như thế nào và đáp ứng mục tiêu đặt ra đến đâu thì dường như khơng được
quan tâm. Đơi khi chính sách được ban hành chẳng những khơng giải quyết
được vấn đề đặt ra, mà còn gây ra những hiệu ứng phụ làm phức tạp thêm vấn
đề. Chẳng hạn, chính sách hạn chế ùn tắc giao thông trong các thành phố lớn
đã được triển khai với nhiều giải pháp khác nhau, song thực tế vẫn chưa giải
quyết được vấn đề ùn tắc, trong khi đó một số giải pháp đưa ra, như chặn các
ngã tư, thu phí chống ùn tắc lại gây ra các hiệu ứng phụ làm rắc rối thêm hiện

trạng. Hơn thế, việc hoạch định chính sách (thơng qua việc soạn thảo và ban
hành hàng loạt văn bản pháp luật) và việc tổ chức triển khai các chính sách đó
trên thực tế đã tiêu tốn tiền của của nhân dân và sức lực của khơng ít người,
song nhiều khi các chính sách này khơng đem lại lợi ích tương xứng với chi
phí đã bỏ ra. Do đó, đã đến lúc cần coi đánh giá chính sách như một khâu
khơng thể thiếu trong quy trình chính sách.
3.2. Các trở ngại trong đánh giá chính sách cơng hiện nay
Mặc dù là một khâu quan trọng trong quy trình chính sách, song ở nước
ta, nhiều chính sách khơng được quan tâm đánh giá. Tình trạng đó xuất phát
từ các lý do sau đây:
Thứ nhất, nhận thức về đánh giá chính sách cịn đơn giản. Điều đó
được biểu hiện:
- Đồng nhất chính sách với một văn bản đơn lẻ. Mặc dù chính sách
được thể chế hóa trong văn bản pháp luật, song khơng thể đồng nhất chính
sách với một văn bản đơn lẻ. Thậm chí có những chính sách lớn lại là tập hợp
của những chính sách bộ phận. Chẳng hạn, chính sách xóa đói, giảm nghèo
6


bao gồm chính sách hỗ trợ người nghèo thơng qua các chương trình mục tiêu
quốc gia, chính sách miễn giảm học phí cho người nghèo, chính sách khám,
chữa bệnh miễn phí cho người nghèo... Do đó, việc đánh giá chính sách
thường khá phức tạp, địi hỏi có cách nhìn tổng thể.
- Coi đánh giá chính sách là việc của cơ quan ban hành chính sách, nên
chờ đợi khi cơ quan này có chủ trương hoặc yêu cầu cụ thể mới tổ chức triển
khai đánh giá. 
- Tách biệt giữa đánh giá nội dung chính sách (thể hiện qua văn bản)
với đánh giá việc thực thi chính sách. Đơi khi, chúng ta rơi vào các nhận xét
phiến diện: hoặc cho rằng các chính sách ban hành là đúng đắn, thường chỉ
sai phạm trong khâu thực thi; nhưng có lúc lại che lấp các hạn chế trong thực

thi chính sách bằng cách đổ lỗi cho sự không phù hợp của các quy định pháp
luật.
Thứ hai, các cơ quan chức năng thường không quan tâm tổ chức đánh
giá chính sách. Trên thực tế, rất ít chính sách được tổ chức đánh giá một cách
nghiêm túc, bài bản. Nhiều cơ quan có thẩm quyền (cơ quan ban hành chính
sách hoặc chủ trì tổ chức thực hiện chính sách) khơng đưa việc đánh giá chính
sách vào chương trình hoạt động của mình. Có thể nêu ra nhiều ngun nhân
của tình trạng này: do khơng có đủ nhân lực, khơng có nguồn lực tài chính để
đánh giá, do chính sách được thực hiện rất “bình lặng” khơng gây ra vấn đề
gì, do bản thân các cơ quan này khơng muốn “tự phán xét” các chính sách do
mình ban hành và thực thi... Đương nhiên, việc đánh giá chính sách khơng chỉ
do các cơ quan nhà nước tiến hành. Các đánh giá chính sách có thể được phản
ánh qua công luận, qua ý kiến của nhân dân, của các tổ chức chính trị - xã hội.
Song sự đánh giá từ bên ngồi nhà nước sẽ chỉ có giá trị thực sự nếu được các
cơ quan nhà nước tiếp nhận, tổng hợp và rút kinh nghiệm. Trong khơng ít
trường hợp, sự đánh giá lẻ tẻ, tự phát của nhân dân bị bỏ qua. Nếu thiếu sự
chủ trì của các cơ quan chức năng, thì việc đánh giá cũng ít có tác động đến
các nhà hoạch định và thực thi chính sách.
7


Thứ ba, việc xem xét lại chính sách đơi khi chỉ được thực hiện khi xuất
hiện “vấn đề”. Trong một số trường hợp, các chính sách vẫn “bình n” trong
một thời gian dài, chỉ đến khi “vấp váp” trong thực tiễn, người ta mới nhận ra
được những “lỗ hổng”  của chính sách. 
Thứ tư, thiếu các tiêu chí để đánh giá chính sách một cách khoa học.
Khi đánh giá chính sách, người ta thường so sánh các kết quả đạt được với
mục tiêu chính sách ban đầu. Việc đánh giá chính sách sẽ dễ dàng nếu các
mục tiêu chính sách được thể hiện dưới dạng định lượng, chẳng hạn như tốc
độ gia tăng dân số, tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đi học được đến trường... Song,

trên thực tế đa số các mục tiêu chính sách được thể hiện dưới dạng định tính,
nhiều khi mục tiêu khơng rõ ràng, trong trường hợp đó việc đánh giá chính
sách theo mục tiêu đề ra có thể khơng phản ánh hết các giá trị của chính sách.
Để đánh giá chính sách, về nguyên tắc, phải có các bộ tiêu chí đánh giá được
thiết kế đối với từng loại chính sách. Việc thiếu các tiêu chí đánh giá khiến
cho việc đánh giá khơng tồn diện, đầy đủ, mang tính phiến diện. Chẳng hạn,
đánh giá về chính sách xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam, có thể thấy kết quả
rất khả quan với việc giảm tỷ lệ nghèo từ  22% năm 2005 xuống còn 10,7%
năm 2010 theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006 - 2010. Song, nếu đi vào đánh giá
tác động của các chính sách cụ thể tới người nghèo thì thấy cịn rất nhiều hạn
chế. Chẳng hạn, Chương trình 135 trong giai đoạn 2006 - 2010 tuy đã chi hơn
14.000 tỉ đồng, chưa tính đến giá trị cơng sức đóng góp của dân, nhưng đến
năm 2010, mới chỉ có 113 xã, chiếm 6% số xã được hưởng thụ Chương trình,
được “xóa tên” khỏi diện nghèo. Ở một số tỉnh có số xã cịn tỷ lệ nghèo cao,
như Lạng Sơn: 49%, Điện Biên: 50%, Quảng Bình: 49,34%, Quảng Nam:
48,78%, Quảng Ngãi: 49,94%.
Thứ năm, đánh giá chính sách đơi khi mang tính một chiều, chỉ phản
ánh nhận xét của các cơ quan nhà nước mà không quan tâm đủ mức đến sự
phản hồi từ xã hội, từ những đối tượng mà chính sách hướng vào. Mặc dù
đánh giá của các cơ quan nhà nước về chính sách có thuận lợi do họ nắm rất
8


rõ về chính sách và q trình thực hiện chính sách, nhưng cách làm này có thể
dẫn đến chỗ các kết quả đánh giá chịu sự chi phối của chính những người làm
ra và vận hành chính sách đó, việc chỉ ra các sai sót của bản thân họ sẽ gặp
phải rào cản tâm lý mạnh mẽ và nhiều khi bị bóp méo theo ý muốn chủ quan.
Vì vậy, khi đánh giá chính sách, ít cơ quan tổ chức các cuộc khảo sát lấy ý
kiến phản hồi từ nhân dân hay các đối tượng hưởng lợi một cách rộng rãi,
công khai. Trong một số trường hợp các cơ quan chức năng đã tổ chức thu

thập ý kiến phản hồi từ các phương tiện truyền thơng, hay tổ chức các buổi
đóng góp ý kiến thơng qua các đồn thể chính trị - xã hội. Tuy nhiên, không
phải lúc nào các ý kiến này cũng phản ánh đầy đủ và chính xác những vấn đề
mà thực tiễn đang đặt ra liên quan đến chính sách được đánh giá. 
Thứ sáu, thiếu kinh phí dành cho việc đánh giá chính sách. Các cơ
quan thường dành nguồn kinh phí có hạn của mình để triển khai các công việc
mới (nhằm tạo ra những kết quả mới) hơn là dùng kinh phí đó để xem xét lại
những gì đã làm.
3.3. Các giải pháp tăng cường đánh giá chính sách cơng
Một là, đưa việc đánh giá chính sách thành một nội dung bắt buộc đối
với một số chính sách quan trọng của Nhà nước. Cần nhận thức rõ, những
chính sách quan trọng, liên quan đến những vấn đề cấp thiết nhất của đời
sống, đến lợi ích của nhiều người thì việc đánh giá chính sách là rất cần thiết
để hồn thiện chính sách, tránh các rủi ro hay lãng phí xảy ra, đặc biệt là tránh
những phản ứng ngược lại với mong muốn của Chính phủ. Cần có kế hoạch
đánh giá chính sách và xây dựng lịch trình đánh giá cụ thể. Trong kế hoạch
đánh giá cần xác định rõ mục tiêu, phạm vi, chủ thể tham gia, các đối tượng,
nội dung, các phương pháp và tiêu chí đánh giá. Cần tổng kết việc đánh giá,
công bố công khai kết quả đánh giá ở phạm vi cần thiết. Tổ chức rút kinh
nghiệm nghiêm túc đối với những sai sót về nội dung chính sách và những
hạn chế, vướng mắc trong thực thi chính sách.  
9


Hai là, xây dựng các tiêu chí đánh giá chính sách một cách đầy đủ và
đúng đắn. Tùy theo từng lĩnh vực, sẽ có các tiêu chí đánh giá chính sách khác
nhau. Thơng thường, các tiêu chí đánh giá tập trung vào những phương diện
sau đây:
- Tính hiệu lực của chính sách phản ánh mức độ tác động, ảnh hưởng
của chính sách đó trên thực tế, làm biến đổi hoặc duy trì thực tế theo mong

muốn của Nhà nước. Tính hiệu lực của chính sách thể hiện ở mức độ đạt được
các mục tiêu đề ra.
- Tính hiệu quả của chính sách phản ánh tương quan so sánh giữa kết
quả do chính sách đưa lại với chi phí đã bỏ ra. Phương pháp phân tích chi phí
- lợi ích thường được sử dụng để xác định hiệu quả của chính sách. Nếu
khơng quan tâm tính tốn hiệu quả sẽ dẫn đến lãng phí, thất thốt tiền của và
kinh phí từ ngân sách nhà nước.
- Tính cơng bằng của chính sách thể hiện ở chỗ thơng qua chính sách,
Nhà nước thực hiện phân phối lại thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, đồng
thời trợ giúp cho các đối tượng dễ bị tổn thương, như người nghèo, người già,
trẻ em và người tàn tật để khắc phục tình trạng bất bình đẳng về thu nhập giữa
các nhóm xã hội. Tính cơng bằng của chính sách cịn thể hiện ở sự phân bổ
hợp lý các chi phí và lợi ích, các quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia
hoạch định, thực thi chính sách và các nhóm đối tượng liên quan đến chính
sách.
- Chú trọng đánh giá tác động của chính sách đến các đối tượng hưởng
lợi từ chính sách. Tác động của chính sách phản ánh kết quả đầu ra hay kết
quả cuối cùng của chính sách. Đây là một tiêu chí rất quan trọng trong đánh
giá chính sách cơng. Song việc đánh giá tác động của chính sách cũng là khâu
khó khăn nhất trong đánh giá chính sách, bởi lẽ các tác động này đơi khi rất
khó đo lường. Chẳng hạn, để đánh giá chính sách giảm nghèo đã tác động đến
đối tượng người nghèo như thế nào, cần xem xét việc người nghèo được
hưởng những lợi ích gì từ chính sách của Chính phủ và các lợi ích đó đã giúp
10


họ thoát nghèo đến đâu. Việc đánh giá tác động này không thể căn cứ vào
những ý kiến chủ quan của các cấp chính quyền, mà phải được đo lường bằng
mức độ hài lòng của người dân về các lợi ích được hưởng. Cần tổ chức các
cuộc khảo sát lấy ý kiến đánh giá của người dân, đối tượng hưởng lợi từ chính

sách. Kinh nghiệm thành cơng của các cuộc khảo sát lấy ý kiến khách hàng về
việc cung cấp các dịch vụ công thiết yếu tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đà
Nẵng là những minh chứng có giá trị trong việc đánh giá mức độ hưởng lợi
của các đối tượng chính sách.
- Mức độ giải quyết vấn đề chính sách. Mỗi chính sách được xây dựng
khởi nguồn từ việc xác định vấn đề chính sách - đó là nhu cầu xã hội hay mâu
thuẫn trong xã hội đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng quyền lực công để giải
quyết nhằm đạt tới mục tiêu hiệu quả, ổn định và công bằng xã hội. Nhu cầu
giải quyết vấn đề của chính sách thường thể hiện ở các mục tiêu của chính
sách. Tuy nhiên, đơi khi mục tiêu được đề ra q rộng, chung chung, khơng rõ
ràng, khi đó dù các chính sách có được thực thi trên thực tế theo mục tiêu đề
ra, thì cũng rất khó xác định vấn đề chính sách đã được giải quyết đến đâu.
Hơn nữa, vấn đề chính sách thường có ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh kinh
tế, xã hội khác nhau. Do đó, mức độ giải quyết vấn đề chính sách có thể đo
lường được bằng một loạt tiêu chí liên quan đến các khía cạnh kinh tế - xã hội
này. Chẳng hạn, để đánh giá mức độ giải quyết vấn đề đói, nghèo, sẽ không
thể chỉ đưa ra chỉ tiêu nghèo đã giảm xuống bao nhiêu phần trăm, mà còn
phải xem xét các khía cạnh khác, như người nghèo được tiếp cận như thế nào
đến các dịch vụ công thiết yếu, như y tế, giáo dục, nước sạch; việc tạo điều
kiện cho người nghèo trong thực hiện các quyền lợi của công dân...
Ba là, quan tâm đến dư luận xã hội, ý kiến, nguyện vọng của nhân dân
để thấy được các bất cập trong hoạch định và q trình thực thi chính sách.
Việc đánh giá chính sách theo những tiêu chí nêu trên đã phản ánh được thực
trạng các thành công và yếu kém của chính sách. Song, khơng chỉ chờ đến khi
các cơ quan chức năng tổ chức đánh giá thì các hạn chế của chính sách mới
11


bộc lộ ra. Các phương tiện thông tin đại chúng, dư luận xã hội và ý kiến đóng
góp của các tổ chức quần chúng là các kênh phản hồi quan trọng về chính

sách. Việc quan tâm theo dõi và tiếp nhận những thông tin này sẽ giúp các cơ
quan chức năng của Nhà nước định hướng việc đánh giá chính sách. Những ý
kiến nói trên cũng sẽ tạo cơ sở đề hình thành các đề xuất nhằm tiếp tục hồn
chỉnh, bổ sung chính sách.
Bốn là, tổ chức nhóm đánh giá độc lập, gồm các thành viên hoạt động
với tư cách chuyên gia đánh giá, có thể từ cơ quan nhà nước hoặc ngoài nhà
nước, song tất cả các thành viên sẽ thực hiện việc đánh giá một cách độc lập,
khách quan theo mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể của nhóm.
Năm là, dành nguồn kinh phí thỏa đáng cho việc đánh giá chính sách.
Việc bỏ ra một khoản kinh phí cần thiết và sử dụng có hiệu quả kinh phí đó
cho đánh giá chính sách sẽ đem lại lợi ích đáng kể cho q trình tiếp tục vận
hành chính sách trong giai đoạn tiếp theo, khắc phục những hạn chế, bất cập
của chính sách và bảo đảm cho chính sách đáp ứng các yêu cầu của cuộc
sống.

12


KẾT LUẬN
Chính sách cơng do Nhà nước ban hành để giải quyết một số vấn đề liên
quan lẫn nhau đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo những mục tiêu
xác định (tuy nhiên không phải vấn đề nào nảy sinh trong đời sống kinh tế-xã
hội cũng cần có chính sách điều chỉnh). Việc giải quyết nhằm thay đổi hoặc
duy trì một hiện trạng nào đó. Khi nói tới chính sách cơng bao gồm những dự
định của nhà hoạch địch chính sách và các hành vi thực hiện những dự định
đưa lại kết quả thực tế. Vì vậy, chính sách cơng được hiểu là “những chính
sách về sự ứng xử của nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng
đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội
phát triển theo định hướng”.
Đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, các chính sách

cơng bị nhiều chi phối, ảnh hưởng không chỉ ở phạm vi nhất định trong lãnh
thổ của một quốc gia mà còn bị chi phối bởi các yếu tố mang tính tồn cầu.
Như vậy, chính sách cơng của một quốc gia cũng đang phải chịu nhiều sự chi
phối ở mức độ và phạm vi rộng lớn hơn. Trong một xã hội đang phát triển
theo xu hướng dân chủ hóa, việc đánh giá các chính sách cơng ngày càng trở
thành địi hỏi chính đáng và cấp thiết. Đánh giá chính sách cơng giúp Nhà
nước xác định được các bất cập trong đời sống kinh tế - xã hội và tìm cách
khắc phục các bất cập đó. Chính sách cơng phản ánh rõ nét nhất các mục tiêu
của Nhà nước và các giải pháp mà Nhà nước sử dụng để đạt tới các mục tiêu
này. Đánh giá chính sách cho phép Nhà nước nhìn nhận lại năng lực thể chế
và năng lực thực thi chính sách của mình. Trong một mơi trường khơng
ngừng biến đổi, việc đánh giá các chính sách cơng sẽ tạo cơ sở vững chắc cho
sự phát triển quản lý nhà nước trong giai đoạn tiếp theo, hướng đến một Nhà
nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình mơn Khoa học lãnh đạo quản lý của Viện lãnh đạo học và
chính sách cơng
2. Sự cần thiết hồn thiện quy trình hoạch định chính sách cơng của
Việt Nam thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế - ThS. Trịnh Thị Kiều Anh. 
3. Giáo trình mơn hoạch định chính sách cơng, Học viện Hành chính
Quốc gia.
4. PGS.TS. Đoàn Thị Thu Hà, PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền
(đồng chủ biên): Giáo trình Chính sách kinh tế-xã hội, Nxb Khoa học và
Kỹ thuật, H, 1999. 
5. Một số thuật ngữ hành chính, Nxb Thế giới, 2000. 
6. Giáo trình Hoạch định và phân tích chính sách cơng - Học viện

Hành chính, NXB khoa học kỹ thuật, Hà Nội 2010. 
7. Tạp chí Kinh tế và dự báo: www.mpi.gov.vn 
8. Các website:
- www.tapchicongsan.org.vn
- www.dangcongsan.org.vn
-
- www.khoahoc.com.vn

14



×