HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH
BI TH CN
TRáCH NHIệM GIảI TRìNH CủA CHíNH PHủ
TRONG HOạCH ĐịNH Và THựC THI CHíNH SáCH CÔNG
ở VIệT NAM HIệN NAY
LUN N TIN S
CHUYấN NGNH: CHNH TR HC
H NI - 2018
HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH
BI TH CN
TRáCH NHIệM GIảI TRìNH CủA CHíNH PHủ
TRONG HOạCH ĐịNH Và THựC THI CHíNH SáCH CÔNG
ở VIệT NAM HIệN NAY
LUN N TIN S
CHUYấN NGNH: CHNH TR HC
M S: 62 31 02 01
NGI HNG DN KHOA HC
1. PGS.TS V Hong Cụng
2. TS. Phm Th Lc
H NI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và
được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Bùi Thị Cần
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ......................................... 10
1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài.................................................. 10
1.2. Kế thừa kết quả nghiên cứu và những vấn đề đặt ra........................................... 30
CHƯƠNG 2: LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ
TRONG HOẠCH ĐỊNH VÀ THỰC THI CHÍNH SÁCH CÔNG ........... 34
2.1. Khái niệm hoạch định, thực thi chính sách công và trách nhiệm giải trình
của chính phủ................................................................................................... 34
2.2. Cơ sở chính trị - pháp lý của trách nhiệm giải trình của chính phủ trong
hoạch định, thực thi chính sách công................................................................ 40
2.3. Sự cần thiết thực hiện trách nhiệm giải trình của chính phủ trong hoạch
định, thực thi chính sách công .......................................................................... 47
2.4. Chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức thực hiện trách nhiệm giải trình
của chính phủ trong hoạch định, thực thi chính sách công ................................ 52
2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến trách nhiệm giải trình của chính phủ trong
hoạch định, thực thi chính sách công................................................................ 59
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ
TRONG HOẠCH ĐỊNH, THỰC THI CHÍNH SÁCH CÔNG Ở
VIỆT NAM ...................................................................................................... 68
3.1. Thực trạng cơ sở chính trị - pháp lý của trách nhiệm giải trình của chính
phủ trong hoạch định, thực thi chính sách công ................................................ 68
3.2. Thực trạng thực hiện trách nhiệm giải trình của chính phủ trong hoạch
định, thực thi chính sách công .......................................................................... 81
3.3. Đánh giá khái quát thực trạng và nguyên nhân .................................................. 96
CHƯƠNG 4: QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ TRONG
HOẠCH ĐỊNH, THỰC THI CHÍNH SÁCH CÔNG Ở VIỆT NAM ....... 111
4.1. Quan điểm định hướng.................................................................................... 111
4.2. Giải pháp......................................................................................................... 120
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CSC
:
Chính sách công
ĐBQH
:
Đại biểu Quốc hội
HĐCS
:
Hoạch định chính sách
Nxb
:
Nhà xuất bản
TNGT
:
Trách nhiệm giải trình
TTCS
:
Thực thi chính sách
VBQPPL
:
Văn bản quy phạm pháp luật
XHCN
:
Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trách nhiệm giải trình (accountability) đã trở thành một thuật ngữ thông dụng
trong phát triển các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung, lĩnh vực chính trị nói riêng
và được áp dụng như một công cụ để đánh giá năng lực của các thể chế điều hành, mà
chủ yếu là vai trò của chính phủ. Chính phủ là chủ thể giữ một vai trò quan trọng trong
quá trình hoạch định và thực thi chính sách công (CSC) gắn liền với việc thực hiện trách
nhiệm giải trình (TNGT) để đảm bảo tính hiệu lực, tính khả thi và dân chủ của quá trình
đó. Từ góc độ lý luận cũng như thực tiễn cho thấy, việc thực hiện TNGT của chính phủ
trong quá trình CSC mang tính khách quan và có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Trước hết, trách nhiệm giải trình được hình thành xuất phát từ những yêu cầu
đặt ra trong cơ chế ủy quyền, quyền lực đại diện và trong sự phân công, phối hợp,
kiểm soát quyền lực nhà nước, chống lại sự lạm quyền.
Trong các mô hình nhà nước hiện đại, quyền lực nhà nước có thể được phân
công làm ba nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các nhánh quyền lực này phải
thực hiện trách nhiệm giải trình lẫn nhau. Đó chính là thiết chế để giới hạn quyền lực
của bộ máy nhà nước, trước hết là giới hạn quyền lực của các cơ quan nhà nước và sự
kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan đó tạo ra sự kiềm chế, đối trọng về quyền lực
nhằm đảm bảo quyền lực được sử dụng đúng mục đích và hiệu quả, chống lại sự lạm
quyền. Đồng thời, xuất phát từ nguyên lý chủ quyền, quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân thì các nhánh quyền lực nhà nước không những phải có TNGT lẫn nhau mà
còn phải có TNGT với xã hội (công dân, các tổ chức xã hội độc lập và các doanh
nghiệp chịu ảnh hưởng bởi quyết sách nhà nước). TNGT sẽ làm cho hoạt động của
nhà nước trở nên minh bạch, hiệu quả làm cho người dân dễ dàng kiểm soát được
những gì nhà nước đang làm cho mình, góp phần thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả
quyền lực được trao. Theo Fukuyama (2011), nhà nước hiệu quả chỉ khi tạo ra được
cơ chế giải trình hiệu quả [126, tr.40].
Để thực hiện tốt vai trò của mình, hầu hết các nhà nước đều sử dụng chính sách
công. Đó là chính sách của nhà nước, là tập hợp những quyết định của nhà nước có liên
quan với nhau do nhà nước ban hành để giải quyết một vấn đề công ảnh hưởng một
2
cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của người dân nhằm cung cấp những hàng
hóa và dịch vụ công tới người dân, thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng nhất
định. Nhà nước có nhiệm vụ thay mặt người dân, đại diện cho người dân soạn thảo và
thông qua chính sách. Mọi quyền lực mà nhà nước thực thi là nhân danh nhân dân. Một
nhà nước hiệu quả, trung tâm là chính phủ phải là một nhà nước xây dựng được cho
mình những chính sách tốt và bảo đảm tính hiệu lực của nó trong đời sống xã hội. Một
chính sách tốt phải được xây dựng trên nền tảng của sự đối thoại dân chủ, minh bạch và
có trách nhiệm giữa chính phủ với người dân và xã hội. Do đó, trong toàn bộ quá trình
này, chính phủ cần phải giải trình trước nhân dân về những việc mình đã, đang và sẽ
làm. Nói cách khác, với tư cách là chủ thể gốc của quyền lực, người dân có quyền được
biết những người đại diện của mình đang thực thi các quyền lực được ủy nhiệm như
thế nào, tức là chính phủ phải có TNGT trước nhân dân. Vì vậy, TNGT của chính phủ
trở thành một vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong nền dân chủ đại diện. Thực hiện
TNGT của chính phủ trong quá trình CSC, đặc biệt trong hai giai đoạn quan trọng
hoạch định chính sách (HĐCS) và thực thi chính sách (TTCS) góp phần quan trọng
trong tiến trình đẩy mạnh dân chủ và pháp quyền, xây dựng một chính phủ mạnh, năng
động, có trách nhiệm, giải quyết hiệu quả và kịp thời những vấn đề do thực tiễn đời
sống đặt ra, đảm bảo một chính phủ thực sự vì lợi ích của người dân.
Ở Việt Nam, việc thực hiện TNGT của Chính phủ trong thời gian qua đã có
những kết quả đáng ghi nhận. Tuy vậy, việc thực hiện TNGT của Chính phủ trong
hoạch định và thực thi CSC còn tồn tại những hạn chế đặt ra nhiều vấn đề nan giải.
Nhân dân Việt Nam - người chủ của quyền lực thông qua cơ quan đại diện là
Quốc hội - ủy quyền cho Chính phủ và mong muốn quyền lực đó được sử dụng đúng,
hiệu quả. Tuy nhiên, thực trạng hoạch định và thực thi CSC ở Việt Nam còn có những
hạn chế và chưa thiết lập được một hệ thống TNGT thuyết phục. Chính phủ Việt Nam
có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình chính sách, từ khâu HĐCS, TTCS cho đến
đánh giá chính sách. Do vậy, một chính sách tốt hay không, hiệu quả hay không phụ
thuộc rất lớn vào vai trò của Chính phủ, năng lực hoạch định và thực thi chính sách của
Chính phủ. Thực tiễn cho thấy, những thành tựu trong quá trình đổi mới và phát triển
mà Việt Nam đạt được trong hơn 30 năm qua là nhờ có những chính sách đúng đắn và
3
hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công ban đầu, quá trình chính sách nói
chung, vai trò của Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC nói riêng cũng còn
nhiều bất cập, hạn chế. Đồng thời, trong các loại hình tham nhũng ở Việt Nam hiện
nay, tham nhũng chính sách được coi là loại hình tham nhũng rất nguy hiểm bởi nó liên
quan đến các hoạt động tiêu cực làm “thay đổi mục tiêu chính sách”, méo mó, biến
tướng các CSC thành chính sách của riêng các nhóm lợi ích, các chính trị gia và các
nhà hoạch định, thực thi CSC, từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả của quá
trình chính sách. Và hậu quả là gây ra sự bảo hộ, độc quyền bất hợp lý, sự phân biệt đối
xử và không công bằng trong phân bổ các giá trị xã hội, cản trở lớn đối với quá trình
cải cách kinh tế và phát triển đất nước. Theo kết quả nghiên cứu được thừa nhận khá
phổ biến, tham nhũng dựa trên 3 yếu tố, mà mối liên hệ giữa chúng có thể được hình
thành theo công thức: tham nhũng = độc quyền + bưng bít thông tin – trách nhiệm giải
trình [41, tr.7]. Thực trạng này có thể thấy rất rõ trong các lĩnh vực nhạy cảm. Do đó,
để phòng, chống tham nhũng chính sách có hiệu quả, hạn chế các tác động tiêu cực của
các nhóm lợi ích thì việc nghiên cứu và làm rõ TNGT của Chính phủ trong hoạch định,
thực thi CSC ở Việt Nam hiện nay là rất cần thiết.
Trên thực tế, Chính phủ đã thực hiện việc giải trình dưới nhiều hình thức khác
nhau trước Quốc hội, nhân dân và trước xã hội nói chung. Tuy nhiên, kết quả thực
hiện TNGT theo những hình thức này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của nhân dân.
Trong đời sống xã hội hàng ngày, hàng giờ vẫn đang xảy ra rất nhiều sự việc liên
quan đến sai phạm, thiếu sót của các cơ quan nhà nước nhưng lại không có cơ quan
nào đứng ra nhận trách nhiệm; các chính sách được hoạch định và thực thi kém hiệu
quả, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và đời
sống của người dân thì không ai chịu trách nhiệm, không ai giải trình, thậm chí giải
trình rồi nhưng không biết lỗi thuộc về ai. Trước thực trạng đó, rất cần thiết có một hệ
thống pháp lý quy định đầy đủ với cơ chế TNGT hữu hiệu để tăng cường việc thực
hiện TNGT của Chính phủ trước Quốc hội, trước người dân, xã hội và các bên liên
quan trong quá trình chính sách.
Hơn nữa, bối cảnh mới của đất nước và quốc tế với xu hướng xây dựng một
chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động đòi hỏi ngày càng cao sự gia tăng tiếng nói
4
người dân và cải thiện TNGT của chính phủ. Trước yêu cầu của sự phát triển đất nước,
sự tác động của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, quản trị quốc gia
hiệu quả là chìa khóa để đạt được sự phát triển kinh tế bền vững không ngừng đặt ra
yêu cầu bức thiết về TNGT của Chính phủ. Những thách thức mà Chính phủ hiện nay
phải đối mặt là không nhỏ từ nền kinh tế toàn cầu, công nghệ và thông tin mới cũng
như từ các đòi hỏi dân chủ, sự tham gia rộng rãi hơn của người dân. Chất lượng của
chính quyền, tính minh bạch và TNGT trong hoạt động công vụ ngày càng trở nên
quan trọng để xây dựng niềm tin công chúng thúc đẩy một chính quyền hiệu quả. Đối
với Việt Nam, tìm cách xây dựng các thể chế chính trị cởi mở hơn và có TNGT hơn sẽ
ngày càng trở thành yêu cầu quan trọng trước bối cảnh hội nhập và phát triển trong khi
các tổ chức quốc tế đánh giá “quản trị công xếp hạng Việt Nam ở mức độ khá thấp
trong góc nhìn về trách nhiệm giai trình của nền hành chính”. Sự phát triển kinh tế - xã
hội cần tới một chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động gắn liền với sự minh bạch và
chịu trách nhiệm. Do đó, thiết lập và tăng cường TNGT của Chính phủ vừa là điều kiện,
vừa là sự bảo đảm cho các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, thiếu điều kiện đó khó
có thể nói tới huy động và thu hút các dòng vốn đầu tư trong và ngoài nước.
Mặt khác, có thể nhận thấy các nghiên cứu về TNGT của Nhà nước nói chung
và TNGT của Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC nói riêng ở Việt Nam vẫn
còn là khoảng trống lớn. Cho đến nay, chưa có một công trình khoa học chính trị nào
nghiên cứu một cách có hệ thống về TNGT của Chính phủ trong hoạch định và thực
thi CSC ở Việt Nam.
Nhận thức được tầm quan trọng của đề tài dưới cả góc độ lý luận và thực tiễn,
nghiên cứu sinh đã lựa chọn nghiên cứu “Trách nhiệm giải trình của Chính phủ
trong hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận
án tiến sĩ, chuyên ngành chính trị học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm giải trình của
chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC và khảo sát thực trạng TNGT của Chính
phủ trong hoạch định, thực thi CSC ở Việt Nam, luận án đề xuất các giải pháp cơ bản
5
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện TNGT của Chính phủ trong hoạch định và thực thi
CSC ở Việt Nam trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa và đánh giá các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên
quan đến đề tài luận án.
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về TNGT; TNGT của Chính phủ trong
hoạch định, thực thi CSC.
- Phân tích, đánh giá thực trạng TNGT của Chính phủ trong hoạch định, thực
thi CSC ở Việt Nam
- Đề xuất quan điểm định hướng, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao TNGT của
Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là: Trách nhiệm giải trình của Chính phủ
trong hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam, cụ thể là TNGT về việc
thực hiện nhiệm vụ, chức năng trong quá trình hoạch định, thực thi CSC.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận án không nghiên cứu TNGT nói chung của Chính phủ Việt Nam về việc
thực hiện tất cả các nhiệm vụ, chức năng của Chính phủ mà chỉ tập trung nghiên cứu
TNGT của Chính phủ Việt Nam trong hoạch định và thực thi CSC từ các quy định của
pháp luật Việt Nam về TNGT và việc thực hiện TNGT của Chính phủ trên thực tế.
- Luận án tập trung nghiên cứu TNGT của Chính phủ Việt Nam, cụ thể là
TNGT của Chính phủ trước Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, trước Quốc hội và
trước nhân dân, xã hội nói chung đối với một số chính sách.
- Phạm vi về thời gian: từ 2008 đến nay (vì năm 2008 là năm ban hành Luật
ban hành văn bản quy phạm pháp luật), nhất là các chính sách điển hình trong nhiệm
kỳ Chính phủ 2011-2016.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
- Luận án được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực nhà nước, thực thi và kiểm soát quyền lực nhà nước.
6
- Luận án tiếp cận từ góc độ chính trị học. Cụ thể là lý luận về dân chủ, về tổ chức
và thực thi quyền lực nhà nước, về cơ chế ủy quyền và kiểm soát quyền lực ủy nhiệm.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử.
- Các phương pháp cụ thể:
Thứ nhất, sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp trong quá trình
thực hiện luận án, đặc biệt để làm rõ lý luận căn bản về trách nhiệm giải trình
(TNGT) của chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC ở chương 1 và chương 2
như: Khái niệm, mục đích, chủ thể, đối tượng, cơ sở chính trị - pháp lý, nội dung,
hình thức, những nhân tố ảnh hưởng... Các tài liệu thứ cấp được sử dụng bao gồm các
tài liệu trong nước và nước ngoài đã nghiên cứu về TNGT nói chung và TNGT của
Chính phủ nói riêng; về quá trình chính sách công (CSC) ở Việt Nam, cụ thể là giai
đoạn HĐCS, TTCS. Sử dụng phương pháp nghiên cứu này, tác giả đã tiến hành lập
kế hoạch xác định nhóm vấn đề tương ứng với các nhóm tài liệu cần tìm, cần nghiên
cứu. Sau đó, tiến hành thu thập các nhóm tài liệu; đọc, phân tích và chọn lọc, ghi
chép lại các nội dung quan trọng; so sánh và đối chiếu với mục đích, định hướng
nghiên cứu của luận án kết hợp với kiến thức đã có để bước đầu đánh giá, khái quát
và đưa ra những nhận định riêng của tác giả luận án.
Thứ hai, sử dụng phương pháp phỏng vấn chuyên gia, đặc biệt để làm rõ thực
trạng thực hiện TNGT của Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC ở chương 3 và
đề xuất giải pháp ở chương 4. Các chuyên gia được phỏng vấn là những người nghiên
cứu, am hiểu trong các lĩnh vực CSC, luật học, hành chính học, chính trị học... với
những hiểu biết và kinh nghiệm trong nghiên cứu khoa học về một số vấn đề liên
quan đến đề tài luận án. Các chuyên gia đã đưa ra những quan điểm, những nhận định
khoa học quan trọng về nhận thức lý luận và đánh giá thực trạng TNGT của Chính
phủ trong hoạch định và thực thi CSC ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, các chuyên
gia cũng gợi mở những ý tưởng về giải pháp để nâng cao hiệu quả việc thực hiện
TNGT của Chính phủ ở chương 4 của luận án. Bên cạnh đó, tác giả luận án còn tiến
hành phỏng vấn xin ý kiến của các nhà lãnh đạo ở các cấp và một số đại biểu Quốc
7
hội đại diện ở một số tỉnh thành có chức năng giám sát Chính phủ, trực tiếp với hoạt
động thực hiện TNGT của Chính phủ cũng đưa ra rất nhiều ý kiến quan trọng thiết
thực, khách quan về TNGT và TNGT của Chính phủ Việt Nam.
Sử dụng phương pháp nghiên cứu này, tác giả đã tiến hành lập kế hoạch xác định
các chuyên gia ở các lĩnh vực liên quan đến luận án cần phỏng vấn. Sau đó, lập bảng
phỏng vấn với các nội dung câu hỏi và kế hoạch liên lạc với chuyên gia, nhà lãnh đạo, đại
biểu Quốc hội để tiến hành phỏng vấn. Sau phỏng vấn, tác giả tập hợp ý kiến, phân tích,
đánh giá khái quát ý kiến đã tiếp nhận được. Kết quả phỏng vấn và khảo sát được tác giả
sử dụng trong quá trình phân tích đánh giá thực trạng, nguyên nhân và đề xuất giải pháp.
Thứ ba, sử dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp trong phân tích làm rõ
thực trạng TNGT của Chính phủ trước Đảng Cộng sản Việt Nam, trước Quốc hội và
trước nhân dân, xã hội. Nghị định số 116/2010/NĐ-CP của Chính phủ (gọi tắt là Nghị
định 116): Về chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức và người hưởng lương
trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn là một trường hợp chính sách được lựa chọn để nghiên cứu.
Sử dụng phương pháp nghiên cứu này, tác giả đã tiến hành thu thập tài liệu,
thông tin liên quan đến chính sách theo Nghị định 116, xem lại các phiên giải trình
xoay quanh việc hoạch định, thực thi chính sách đó. Tiếp đến, phân tích và chọn lọc,
ghi chép lại các nội dung quan trọng theo các vấn đề thuộc TNGT của Chính phủ; so
sánh và đối chiếu với mục đích, định hướng nghiên cứu của luận án kết hợp với tìm
hiểu các đánh giá của các cơ quan giám sát, truyền thông... về Nghị định 116. Từ đó,
tác giả bước đầu đánh giá, khái quát và đưa ra những nhận định riêng.
Thứ tư, phương pháp phân tích hệ thống, phân tích cấu trúc - chức năng được
sử dụng để xem xét và đánh giá vị trí, vai trò của chính phủ trong việc tổ chức và
thực thi quyền lực nhà nước nói chung cũng như trách nhiệm, thẩm quyền của Chính
phủ trong quá trình hoạch định và thực thi CSC nói riêng.
Sử dụng kết hợp các phương pháp lịch sử và logic, phân tích và tổng hợp, so
sánh, khái quát hóa, hệ thống hóa; các phương pháp thực nghiệm, dựa trên bằng
chứng... trong quá trình thực hiện luận án để làm rõ luận cứ, luận chứng; các trường
hợp chính sách được lựa chọn nghiên cứu; các nhận định, đánh giá; các giải pháp
được đề xuất.
8
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Đóng góp khoa học của luận án được thể hiện ở những điểm mới:
Thứ nhất, đây là công trình nghiên cứu một cách hệ thống dưới góc độ chính
trị học về TNGT của Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC ở Việt Nam.
Thứ hai, trong phần nghiên cứu lý luận, luận án đã chỉ rõ được nội hàm cơ bản
của khái niệm TNGT của chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC; chỉ rõ được mối
quan hệ giữa vai trò, vị trí của chính phủ - chủ thể quan trọng trong việc đề xuất, khởi
xướng và điều hành CSC - với tính tất yếu của việc thực hiện TNGT của chính phủ trong
quá trình hoạch định, thực thi CSC. Đây chính là điểm mới bước đầu được luận án khai
thác khi luận giải một cách khoa học về TNGT của Chính phủ trong hoạch định, thực thi
CSC ở Việt Nam. Đồng thời, luận án đã trình bày khái quát và hệ thống được các cơ sở
khác để lý giải cho việc chính phủ phải thực hiện TNGT trong quá trình hoạch định, thực
thi CSC là: Nguồn gốc quyền lực của chính phủ, yêu cầu về nguyên tắc phân quyền
trong kiểm soát quyền lực của chính phủ, bản chất của CSC. Đặc biệt, trong chương 2,
luận án đã có đóng góp khi phân tích được mục đích, các nội dung, hình thức giải trình
của Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC, từ đó xác định cụ thể về chủ thể giải
trình, đối tượng giải trình cũng như khái quát được các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực
hiện TNGT của chính phủ trong quá trình hoạch định và thực thi CSC.
Thứ ba, ở phần nghiên cứu thực trạng, công trình đã có những đóng góp đáng
kể. Cụ thể là làm rõ được những nét căn bản nhất của thực trạng cơ sở chính trị - pháp
lý và thực trạng giải trình của Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC ở Việt
Nam. Trong đó, luận án đã tập trung phân tích mối quan hệ chính trị giữa Chính phủ
với Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, giữa Chính phủ với Quốc hội và xã hội. Từ
đó, xác định được cơ chế TNGT giữa các chủ thể với các đối tượng đó. Đồng thời,
luận án đã hệ thống được các quy định pháp lý về TNGT của Chính phủ trong hoạch
định, thực thi CSC ở Việt Nam để hình thành được bộ khung cơ bản về TNGT của
Chính phủ xuyên qua các quy định hiện hành.
Trong phần thực trạng giải trình của Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC
ở Việt Nam, luận án đã phân tích, làm rõ được giải trình của Chính phủ trước Đảng
Cộng sản Việt Nam cầm quyền, trước Quốc hội và trước xã hội nói chung; tìm ra
9
nguyên nhân của các thành tựu và hạn chế của việc giải trình của Chính phủ trong
hoạch định, thực thi CSC làm cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu, đề xuất giải pháp.
Thứ tư, ở chương 4 về quan điểm định hướng và giải pháp nâng cao TNGT
của Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC, công trình đã có những đóng góp
quan trọng. Luận án trình bày khái quát các quan điểm định hướng và xây dựng được
hệ thống các giải pháp để nâng cao hiệu quả việc thực hiện TNGT của Chính phủ
trong hoạch định, thực thi CSC ở Việt Nam. Hệ thống giải pháp đó là: Nâng cao nhận
thức; hoàn thiện quy định của pháp luật; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, sự giám sát của các cơ quan Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội đối với
Chính phủ; đẩy mạnh việc thực hiện trách nhiệm giải trình của Chính phủ trong hoạch
định, thực thi chính sách công trên thực tế một cách hiệu quả. Điều đáng ghi nhận là
trong từng giải pháp, luận án đã chỉ rõ được các biện pháp mẫu chốt, chìa khóa quan
trọng để có thể tập trung góp phần nâng cao TNGT của Chính phủ trong hoạch định
và thực thi CSC ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần bổ sung những
hiểu biết, những luận cứ, luận chứng, những quan điểm khoa học về TNGT của
Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC ở Việt Nam.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận án bước đầu cung cấp những
cơ sở khoa học để nâng cao TNGT của Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC ở
Việt Nam và góp phần xây dựng Nhà nước liêm chính, kiến tạo, phục vụ... Đồng thời,
với kết quả nghiên cứu, luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy và đào tạo chuyên ngành chính trị học, hành chính học, khoa
học CSC ở khía cạnh TNGT, TNGT của chính phủ trong quá trình chính sách.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết
cấu 4 chương 12 tiết.
10
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.1. Các công trình nghiên cứu lý luận về trách nhiệm giải trình của
chính phủ trong hoạch định, thực thi chính sách công
- Quan niệm về trách nhiệm giải trình của chính phủ trong hoạch định, thực
thi chính sách công
Các công trình nghiên cứu về khái niệm TNGT của chính phủ, có thể kể đến:
Adam Przeworski, Susan C. Stokes, Democracy, Accountability and Representation
(Dân chủ, trách nhiệm giải trình và đại diện) [115]; David Dearly and Andrew
Thomas, Managing by Accountability: What every Leader needs to know about
responsibility, integrity and result, (Quản lý bởi trách nhiệm giải trình: Điều mà
những người lãnh đạo cần biết về trách nhiệm, tính toàn vẹn và kết quả) [119]; Minh
Võ, “Trách nhiệm giải trình: định nghĩa, các loại hình và cơ chế” [204]; Đinh Văn
Minh, “Bàn về trách nhiệm giải trình”, [189]; Phạm Duy Nghĩa, “Cải cách thể chế:
Góc nhìn xác lập trách nhiệm giải trình” [192];...
Adam Przeworski, Susan C. Stokes, Democracy, Accountability and
Representation (Dân chủ, trách nhiệm giải trình và đại diện) [115]. Đây là công trình
bàn khá sâu về thuật ngữ TNGT và mối quan hệ giữa TNGT với vấn đề dân chủ và đại
diện. Cơ sở cho việc xác định TNGT đó là sự ủy quyền của người dân và tính đại diện
của bộ máy nhà nước. Với tư cách là người chủ, người dân phải có quyền được biết
chính quyền đã, đang và sẽ làm gì cho mình thông qua các thủ tục về tiếp cận thông tin,
công khai minh bạch hoạt động của bộ máy công quyền, cơ chế giám sát quyền lực,
v.v.. Công trình này còn cho rằng, TNGT của chính phủ thể hiện trách nhiệm của chính
quyền trước người dân và góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền
trong công việc, theo đó TNGT của Chính phủ được nhìn nhận ở 2 góc độ chủ yếu: (i)
Giải trình chính trị - giải trình của các chính khách trước người dân về trách nhiệm
chính trị của mình đối với các vấn đề liên quan; (ii) Giải trình pháp lý: giải trình của
công chức, viên chức khi để xảy ra các sự việc ảnh hưởng đến tính đúng đắn trong thực
11
thi nhiệm vụ, công vụ. Giải trình của các chính khách, là giải trình trước cử tri, trước
nhân dân; giải trình của cán bộ, công chức trong thực thi nhiệm vụ, công vụ là giải
trình trước người lãnh đạo, người giao nhiệm vụ và cả với những người có liên quan,
chịu sự ảnh hưởng bởi các quyết định, hành vi của cán bộ, công chức.
Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) xây dựng hệ thống TNGT được
cấu thành từ khung TNGT và chính sách giám sát. UNDP sử dụng khái niệm TNGT của
Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế (OECD). Theo đó, TNGT là nghĩa vụ (i) chứng minh
rằng công việc đã được thực hiện phù hợp với những nguyên tắc và tiêu chuẩn đã đồng
thuận và (ii) báo cáo đầy đủ, chính xác kết quả thực hiện nhiệm vụ và kế hoạch theo nhiệm
kỳ. Theo www.vocabulary.com, TNGT là một danh từ mô tả việc nhận trách nhiệm, có thể
được thực hiện hoặc công khai thực hiện như: Chính phủ phải chịu trách nhiệm về các
quyết định, các hoạt động tác động đến công dân của mình; cá nhân công chức phải có
trách nhiệm về hành động và hành vi thực thi pháp luật của mình. Việc nhận trách nhiệm
còn có nghĩa là thừa nhận việc làm sai và có thể dẫn đến hình phạt [168].
Theo tài liệu của Ngân hàng phát triển châu Á, Phục vụ và duy trì: Cải thiện
hành chính công trong một thế giới cạnh tranh, TNGT có nghĩa là khả năng yêu cầu
quan chức nhà nước phải chịu trách nhiệm về hành động của mình, bao gồm hai yếu
tố: khả năng giải đáp và chịu trách nhiệm về hậu quả xảy ra [61, tr.12-13]. Theo đó,
quan chức phải có khả năng giải đáp theo định kỳ những vấn đề liên quan đến việc họ
đã sử dụng thẩm quyền của mình như thế nào, những nguồn lực nào được sử dụng
vào đâu, với các nguồn lực đó đã đạt kết quả gì. Cần phải dự đoán (dự báo khoa học,
căn cứ vào các dữ liệu, thông tin giải trình để dự báo, để quy kết trách nhiệm) được
những hậu quả có thể xảy ra từ hành động của quan chức công quyền.
Như vậy, các công trình trong và ngoài nước đã đưa ra những quan điểm về
TNGT tương đối đa dạng nhưng về cơ bản có sự tương đồng ở một số khía cạnh liên
quan đến nội dung khái niệm TNGT của chính phủ. Có thể khái quát: Trách nhiệm
giải trình của chính phủ là một phương thức giám sát, kiểm soát quyền lực nhằm đáp
ứng yêu cầu của người ủy quyền đối với người được ủy quyền. Đó là sự giải trình và
sự chịu trách nhiệm của chính phủ, trước tiên là sự chịu trách nhiệm về việc công
khai, minh bạch thông tin gắn liền với nghĩa vụ báo cáo, giải thích một cách chính
12
xác, đầy đủ về các công việc liên quan trong thực hiện quyền lực đã được ủy nhiệm
và sự chịu trách nhiệm của chính phủ về kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ (bao
gồm sự gánh chịu hình phạt khi để xảy ra hậu quả tiêu cực trong các công việc, các
hành động của Chính phủ).
Một số công trình nghiên cứu trong và ngoài nước bước đầu có những phân
tích về mục đích, sự cần thiết TNGT của chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC.
Theo đó, các công trình đã phân tích, chỉ ra mặt trái của nhóm lợi ích và vận động
hành lang đối với quá trình chính sách. Theo các nghiên cứu này, sự lớn mạnh của
các nhóm lợi ích, nhất là các nhóm lợi ích về kinh tế, đã dẫn đến tình trạng các quyết
định, chính sách được ban hành chủ yếu phục vụ cho các lợi ích nhóm chứ không
phải phục vụ cho những lợi ích công như đúng bản chất của nó. Biểu hiện cụ thể đó là
sự cấu kết giữa các nhóm lợi ích với quyền lực nhà nước để thao túng chính sách
nhằm tối đa hóa lợi ích cho mình. Chính vì vậy, để hạn chế những tác động tiêu cực
trong hoạt động vận động hành lang của các nhóm lợi ích, thì việc xây dựng cơ chế
TNGT trong HĐCS là hết sức cần thiết. Đó là phương tiện để thúc đẩy dân chủ, minh
bạch hóa quá trình ra quyết định cũng như hạn chế sự lạm dụng quyền lực của chính
phủ trong quá trình chính sách. Một chính phủ tốt phải có trách nhiệm cung cấp bằng
chứng, giải thích cho người dân hiểu được bản chất của một chính sách, một quyết
định mà mình có trách nhiệm ban hành. Sự minh bạch và TNGT phải xuất phát từ sự
liêm chính của các nhà HĐCS, các thể chế cung cấp và trao đổi thông tin/quyền tiếp
cận thông tin, sự phản biện và giám sát từ phía dư luận thông qua các thể chế xã hội
như truyền thông và báo chí độc lập. Tiêu biểu có thể kể đến các công trình: Kathe
Callahan, Elements of Effective Governance: Measurement, Accountability and
Participation (Các yếu tố của quản trị hiệu quả: cách đo lường, trách nhiệm giải trình
và sự tham gia) [141]; Roger H Davidson, Walter J Oleszek, Frances E Lee, Congress
and Its Members (Quốc hội và các thành viên) [157]; Mark J. Green, James M.
Fallows, David Zwick, Ai chỉ huy Quốc hội (Sự thật về Quốc hội Mỹ) [59]; Arik Hart,
Group Interest in Decision Making: Yes We Can!? (Lợi ích nhóm trong hoạch định
chính sách: Điều chúng ta có thể?) [117]; Kevin W. Hula, Lobbying Together:
Interest Group Coalitions in Legislative Politics (Cùng nhau vận động: Liên minh
nhóm lợi ích trong nền chính trị lập pháp), [144];...
13
Một số công trình đã phân tích mối quan hệ giữa nhóm lợi ích kinh tế (mà cụ thể
là các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty, các doanh nghiệp nhà nước) với các chủ thể
hoạch định và thực thi CSC trong bộ máy nhà nước. Qua đó, đã chỉ ra sự cần thiết của
việc thực hiện TNGT: Nếu thiếu việc giải trình của các chủ thể HĐCS, TTCS thì vấn đề
tham nhũng chính sách ở Việt Nam sẽ càng có cơ hội lan rộng, tinh vi và phức tạp. Tham
nhũng chính sách ở Việt Nam có thể nhìn thấy về mặt hiện tượng nhưng rất khó để phát
hiện và xử lý. Nguyên nhân chủ yếu của tham nhũng chính sách được nhắc đến đó là:
Chính phủ chưa tách rời được chức năng quản lý kinh tế của nhà nước với chức năng sản
xuất kinh doanh, nhiều lĩnh vực vẫn còn cơ chế xin-cho, vẫn còn chiếm vị thế độc quyền
và được bảo hộ lớn từ phía nhà nước; luật phòng, chống tham nhũng thực thi nhưng kém
hiệu quả; các chính sách kinh tế hoạch định trong tình trạng thiếu dân chủ và minh bạch,
cơ chế kiểm soát quyền lực còn lỏng lẻo, v.v.. Các công trình nghiên cứu nhiều về vấn đề
này là: Văn Thường Nguyễn, Tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Những lực cản cần phải
vượt qua [70]; Phan Xuân Sơn, Phạm Thế Lực, Nhận diện tham nhũng và các giải pháp
phòng, chống tham nhũng ở việt nam hiện nay [90];...
- Về cơ sở chính trị - pháp lý của trách nhiệm giải trình của chính phủ trong
hoạch định, thực thi chính sách công
Các tác giả Dennis D. Riley, Bryan E. Brophy - Baermann, trong cuốn sách có
tiêu đề: Bureaucracy and the Policy Process: Keeping the Promises (Bộ máy quan
liêu và quá trình chính sách: Việc giữ lời hứa) [123] đã phân tích vai trò của bộ máy
quan liêu trong quá trình chính sách, đặc biệt là quá trình hoạch định và thực thi CSC.
Trong cuốn sách này, các tác giả đã phân tích các khái niệm như: bộ máy quan liêu,
quyền lực hành pháp và điều kiện cơ cấu của nó; mối quan hệ giữa trách nhiệm,
thông tin và truyền thông; vai trò của các thể chế để thúc đẩy trách nhiệm của bộ máy
quan liêu trong quá trình chính sách; cơ chế và công cụ để huy động công luận thúc
đẩy TNGT. Một số trường hợp nghiên cứu trên thế giới được sử dụng nhằm minh họa
cho lập luận chính của các tác giả như: bộ máy quan liêu vừa có ảnh hưởng tích cực,
vừa có ảnh hưởng tiêu cực đối với quá trình chính sách, và chính TNGT của bộ máy
quan liêu trong HĐCS là phương tiện chắc chắn nhất để đem lại lợi ích cho người
dân, nhất là ở các nước đang phát triển. Cuốn sách luận giải cơ sở chính trị - pháp lý
14
TNGT của chính phủ từ việc nhấn mạnh vị trí, vai trò quan trọng của chính phủ trong
hoạch định và thực thi CSC. Đây là cuốn sách được thiết kế cho các nhà làm chính
sách và các chuyên gia quản trị làm việc trong cộng đồng phát triển quốc tế, chính
phủ các nước, các tổ chức cơ sở, các nhà hoạt động, và các học giả tham gia trong
việc tìm hiểu, phân tích sự tương tác giữa TNGT của bộ máy quan liêu với chất lượng
của chính sách và vấn đề thúc đẩy dân chủ, minh bạch trong quá trình chính sách.
Lý thuyết chính sách là sự cụ thể hóa các quyết định hành chính. Đặc điểm
chung của những tư tưởng hành chính công kinh điển và kinh điển kiểu mới trong thời
cận đại cho tới nay là sự tách hành chính công khỏi việc đề ra chính sách thông qua lập
pháp. Đại diện tiêu biểu có thể kể đến các tác giả như: J. Dewey với tác phẩm Logic,
Theory of Inquiry (Logic, Lý luận về nghiên cứu điều tra), H. D. Laswell, The Policy
Sciences (Khoa học chính sách) [129]; F. Morstein Marx, The Social Function of
Public Administration (Chức năng xã hội của hành chính công) [125];... Đây là những
quan điểm được hình thành ở những năm giữa thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu có sự
thống nhất với nhau khi khẳng định: Chính sách không chỉ là việc riêng của ngành lập
pháp, mà nó còn có sự tham dự rất quan trọng của hành pháp; là sự cụ thể hóa các
quyết định chính trị và hành chính. Chính sự tham dự rất quan trọng của hành pháp
trong HĐCS, TTCS là cơ sở để hành pháp thực hiện trách nhiệm, TNGT về quá trình
HĐCS, TTCS.
Nhiều công trình đã khẳng định trung tâm của bộ máy nhà nước là bộ máy
hành pháp, do vậy TNGT của bộ máy hành pháp phải được đề cao. TNGT của chính
phủ bao gồm hai yếu tố: khả năng giải đáp và chịu trách nhiệm về hậu quả xảy ra.
Chính quyền phải chịu trách nhiệm về việc sử dụng thẩm quyền, các nguồn lực công
và giải trình kết quả thu được thông qua ý kiến phản hồi của người sử dụng dịch vụ
và của mọi người dân. Tác giả Adam Przeworski, Susan C. Stokes, trong cuốn sách
Democracy, Accountability and Representation (Dân chủ, trách nhiệm giải trình và
đại diện) [115] cũng đã chỉ rõ cơ sở cho việc xác định TNGT là sự ủy quyền của
người dân và tính đại diện của bộ máy nhà nước. Với tư cách là người chủ, người dân
phải có quyền được biết chính quyền đã, đang và sẽ làm gì cho mình thông qua các
thủ tục về tiếp cận thông tin, công khai minh bạch hoạt động của bộ máy công quyền,
15
cơ chế giám sát quyền lực, v.v.. Và, với tư cách là người được ủy quyền, chính phủ
phải thực hiện TNGT nhằm thể hiện trách nhiệm của chính quyền trước người dân và
góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền trong công việc.
Các công trình nghiên cứu trong nước ít nhiều góp phần luận giải về cơ sở chính
trị - pháp lý TNGT của Chính phủ trong HĐCS, TTCS ở Việt Nam. Từ việc lý giải
Chính phủ có trách nhiệm rất lớn trong việc đề xuất, khởi xướng CSC và gắn liền với
việc thực hiện TNGT của Chính phủ trong quá trình đó, đặc biệt trước xu hướng dân
chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền, kiến tạo sự phát triển. Các công trình có thể kể
đến như: Nguyễn Đăng Dung, Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước [17]; Báo cáo
phát triển Việt Nam 2010, Các thể chế hiện đại [63]; Đào Trí Úc, “Vấn đề trách nhiệm
giải trình trong cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam” [104]; Nguyễn Hữu
Hải, Cải cách hành chính nhà nước - Lý luận và thực tiễn [38]...
Tác giả Nguyễn Đăng Dung, trong cuốn sách Ý tưởng về một nhà nước chịu
trách nhiệm nhấn mạnh những nghiên cứu về cách thức làm cho nhà nước luôn có xu
hướng phục vụ cuộc sống cho con người, để cho cuộc sống ngày càng công bằng hơn,
bình đẳng và bác ái hơn, luôn là một vấn đề cấp thiết. Sự hiện diện khách quan của
nhà nước đại diện đặt ra những yêu cầu bắt buộc nhà nước phải chịu trách nhiệm,
trong đó có TNGT. Tác giả đã luận giải về các tiêu chuẩn của một chính quyền có
trách nhiệm, cho đến các nội dung, hình thức chính quyền chịu trách nhiệm trong đó
phân tích sâu sắc cơ sở cho sự chịu trách nhiệm rõ ràng của hai loại chủ thể hành
pháp chính trị và hành chính công vụ trong hoạt động của các cơ quan nhà nước; sự
phân chia trách nhiệm ở chiều dọc trung ương và địa phương; bầu cử là một hình thức
quan trọng để nhân dân thực hiện sự đánh giá trách nhiệm; Hiến pháp là hình thức
chứa đựng những nội dung sự phân định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước. Công
trình đã trình bày những vấn đề lý luận gắn liền với thực tiễn về trách nhiệm của
chính quyền nhà nước Việt Nam với sự lập luận logic từ vai trò của Chính phủ, sự
phân quyền và chỉ rõ Chính phủ Việt Nam phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội Việt
Nam, tiêu điểm của vấn đề trách nhiệm của Nhà nước Việt Nam - Chính phủ chịu
trách nhiệm là Chính phủ phải biết HĐCS đến những đảm bảo cho vị trí, vai trò chịu
trách nhiệm hiện nay của Chính phủ - cơ quan hành pháp... Công trình đã chỉ rõ
Luận án đầy đủ ở file: Luận án full