Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Đề tài 3: Chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc giai đoạn 1939 1945 và bài học về công tác xây dựng Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam trong giai đoan hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.77 KB, 15 trang )

LƯU Ý: TẤT CẢ NHỮNG BÀI Ở ĐÂY ĐỀU LÀ BÀI MẪU NHẰM MỤC
ĐÍCH THAM KHẢO TỰ LÀM, NẾU MUỐN CÓ BÀI RIÊNG IB
0774220127 ZALO
Đề tài 3: Chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc giai đoạn 1939 1945 và bài học về công tác xây dựng Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam trong giai đoan hiện
nay.

MỤC LỤC (Lưu ý trang nhé chưa đúng chép xong điền trang )
PHẦM MỞ ĐÀU
...........................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG…………………………
CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ......................................................................2
1.1. Tình hình thế giới giai đoạn 1939 – 1945.....................................................2
1.2. Tình hình tại Việt Nam trước năm 1939.......................................................2
CHƯƠNG 2: SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG SỰ NGHIỆP GIẢI
PHÓNG DÂN TỘC TRONG GIAI ĐOẠN 1939 – 1945.......................................4
2.1. Quá trình lãnh đạo và sự chuẩn bị của Đảng cho Cách mạng tháng Tám.......
.....................................................................................................................4
2.2. Sự chuẩn bị cuối cùng trước ngày Tổng khởi nghĩa.....................................7
2.3. Cách mạng tháng Tám bùng nổ....................................................................8
CHƯƠNG 3: Bài học về công tác xây dựng Đảng cách mạng tiên phong của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam trong giai đoan hiện
nay …………….11
3.1. Vận dụng sáng tạo, và phát triển chủ nghĩa Mác – Lê nin gắn liền thực tiễn
và nắm bắt tình hình thế giới................................................................................11
3.2. Đại đồn kết dân tộc là sức mạnh bất diệt, đánh tan mọi kẻ thù.................12
3.3. Tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin tưởng vào sự thắng lợi của cách mạng
.................................................................................................14
3.4. Chớp lấy thời cơ để tiến tới thắng lợi.........................................................16
PHẦNKẾTLUẬN.............................................................................................. 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................19



1


PHẦN MỞ ĐẦU

1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Dân tộc Việt Nam đã trải qua những năm tháng cực kỳ khó khăn trong quá
khứ. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, mọi khó khăn đều
được giải quyết một cách tài tình. Đảng đã góp cơng lớn cho nền độc lập dân chủ
của nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam ngày nay.
Ở thời điểm hiện tại, sau ba làn sóng dịch bệnh Covid-19 tấn cơng ở khắp
các ngõ ngách trên thế giới, dưới sự lãnh đạo Đảng và Nhà nước, nước ta đã trở
thành một trong số ít những nước trên thế giới được đánh giá cao về phịng chống
dịch bệnh. Tuy nhiên, ở làn sóng dịch lần thứ tư, các nước châu Á nói chung và
Việt Nam nói riêng đã bị biến chủng Delta hồnh hành nặng nề. Một số kẻ đã đăng
tin giả, tin sai sự thật nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, và nhằm mục đích
bơi xấu Đảng, làm cho nhân dân mất lịng tin vào Nhà nước ta.
Tơi muốn viết bài này để nhắc lại một trong những giai đoạn khó khăn nhất
trong lịch sử Việt Nam là giai đoạn 1939 – 1945, Đảng đã chèo lái con đường
ViệtNam như thế nào để dành lấy thắng lợi. Đồng thời những bài học đã để lại của
thế thế hệ trước cho thế hệ sau này, và cách vận dụng nó cho cơng cuộc kiến thiết
đất nước trong bối cảnh toàn cầu đang biến động bởi cuộc chiến thương mại Mỹ Trung và dịch bệnh tấn cơng hiện nay. Chính vì vậy để làm sáng tỏ về vấn đề này
em xin tìm hiểu đề tài “Chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc giai
đoạn 1939 - 1945 và bài học về công tác xây dựng Đảng cách mạng tiên phong
của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và tồn dân tộc Việt Nam trong giai
đoan hiện nay.”
Do hạn chế về mặt kiến thức, lý luận cho nên bài tiểu luận khơng thể tránh
khỏi những thiếu xót. Rất mong nhận được sự góp của giảng viên để bài làm có thể
hồn thiện hơn.

2.Mục đích nghiên cứu
ĐỀ TÀI “Chủ trương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc giai đoạn 1939 1945 và bài học về công tác xây dựng Đảng cách mạng tiên phong của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam trong giai đoan hiện nay”
2


là một đề tài hay, thiết thực trong học tập tại các trường Đại học, góp phần giúp
sinh viên có kiến thức sâu sắc và nhận thức đầy đủ hơn về quá trình chuẩn bị, thời
cơ cách mạng và vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đơng Dương trong cuộc
Cách mạng tháng Tám năm 1945, và rút ra bài học về công tác xây dựng Đảng
cách mạng tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc
Việt Nam trong giai đoan hiện nay
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài.
Một số nội dung kiến thức chuyên sâu về cuộc vận động giải phóng dân tộc
1939-1945. Và bài học về cơng tác xây dựng Đảng cách mạng tiên phong của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam trong giai đoan hiện
nay
4. Cấu trúc của đề tài gồm các phần.
- Phần mở đầu
- Phần nội dung
CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ
CHƯƠNG 2: SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG SỰ NGHIỆP GIẢI
PHÓNG DÂN TỘC TRONG GIAI ĐOẠN 1939 – 1945
CHƯƠNG 3: Bài học về công tác xây dựng Đảng cách mạng tiên phong của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam trong giai đoan hiện
nay
- Phần kết luận

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ

1.1. Tình hình thế giới giai đoạn 1939 – 1945
Vào tháng 9-1939, Đức tấn công Ba Lan, Anh và Pháp buộc phải tuyên
chiến với Đức. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Tháng 4 -1940, Quân Đức
đánh thẳng vào Pháp. Nước Pháp bại trận sau 6 tuần chiến đấu và phải ký hiệp
định đình chiến vào ngày 20 – 6 – 1940. Theo đó, chính phủ Pháp, do Pê-Tanh
làm Quốc trưởng, nắm quyền tự trị và làm tay sai cho Đức.
3


Tại châu Á, Nhật Bản ráo riết chuẩn bị nhảy vào cuộc chiến, sau khi chiếm
được phần Đông Bắc Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên. Tháng 9 – 1940, quân
Nhật nhảy vào chiếm khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.
1.2. Tình hình tại Việt Nam trước năm 1939
Giai đoạn 1930 – 1939, Cách mạng Việt Nam đã có nhiều bước chuyển biến
quan trong trong sự nghiệp giải phóng dân tộc Năm 1930, Đảng Cộng Sản Việt
Nam được thành lập đã đánh dấu bước ngoặt to lớn trong lịch sử cách mạng nước
ta, đánh một nốt son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc. Năm 19301931, phong trào Xô Viết bùng nổ tại Nghệ An và Hà Tĩnh, nhân dân nổi dậy dành
lấy chính quyền, đã nguồn cổ vũ mạnh mẽ trong phòng trào dành độc lập trong
nước. Nhiều hội nghị được tiến hành như hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành
Trung ương lâm thời Đảng Cộng Sản Việt Nam (10-1930) đã đưa ra Cương lĩnh
chính trị và đề ra đường lối cách mạng của dân tộc, Đại hội đại biểu lần thứ nhất
Đảng Cộng Sản Đông Dương (3-1935) đã khôi phục được hệ thống tổ chức từ
trung ương đến địa phương, và các các chức quần chúng.
Nhìn chung đây là giai đoạn khó khăn của Đảng, thách thức một lực lượng
chính trị vừa thành lập, còn non trẻ trước sự đàn áp dã man cửa thực dân, Nguyễn
Ái Quốc bị cầm tù ở Trung Quốc và tình hình thế giới có nhiều biến động. Những
sự việc này đã tạo tiền đề cho việc thay đổi đường lối đấu tranh của Đảng ta , và
cũng là một cuộc tập duyệtt cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này.
CHƯƠNG 2: SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG SỰ NGHIỆP GIẢI
PHÓNG DÂN TỘC TRONG GIAI ĐOẠN 1939 – 1945

2.1. Quá trình lãnh đạo và sự chuẩn bị của Đảng cho Cách mạng tháng
Tám.
Năm 1939, chiến tranh thế giới nổ ra, cuốn khơng ít quốc gia dân tộc vào
vịng xốy của nó mà viễn cảnh hết sức ảm đạm. Khi đó, Đảng Cộng Sản Đơng
Dương vẫn kịp thời lui về hoạt động bí mật, chuyển trọng tâm về nông thôn, đồng
thời vẫn chú trọng thành thị. Khi phân tích cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai,Đảng
đã dự báo về một trào lưu cách mạng khi hết thảy dân chúng bị áp bức sẽ thừa cơ
nổi dậy bẻ xiềng nô lệ kéo dài đã hàng thế kỷ. Đảng Cộng sản Đơng Dương nhận
định chiến tranh chính là tác nhân thúc đẩy thời cơ cách mạng nhanh chóng chín
muồi, cần phải chuyển từ tích luỹ lực lượng sang đấu tranh trực diện đánh đổ
cường quyền.
Đối với cách mạng Việt Nam, cuộc chiến tranh này đã tác động mạnh mẽ và
trực tiếp, đặt ra nhiều vấn đề mới về chiến lược và sách lược. Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (11-1939) tại Bà Điểm (Hóc Mơn, Gia Định) phân tích tình
hình và chỉ rõ: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đơng Dương khơng có con
4


đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại
xâm vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập”. Đảng Cộng
sản Đông Dương coi việc làm cho mỗi cá nhân “có ý thức về sự tồn vong của dân
tộc và sự liên quan mật thiết của vận mạng dân tộc với lợi ích cá nhân mình; đặt
quyền lợi dân tộc lên trên các quyền lợi khác, thống nhất lực lượng dân tộc” là điều
kiện cốt yếu, là con đường duy nhất đánh đổ đế quốc Pháp, giành độc lập dân tộc.
Tuy nhiên, sau nhiều ý kiến trái chiều về đường lối cách mạng trong Đại hội
Trung ương 11-1940, Trung ương Đảng vẫn còn nhiều trăn trở, chưa thật dứt khoắt
với chủ trương đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Phải đến tháng 51941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì phiên họp lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương
Đảng đã tạo nên bước ngoặt quan trọng cả về nhận thức và chỉ đạo hoạt động thực
tiễn của Đảng Cộng Sản Đông Dương. Hội nghị đã nêu rõ những nội dung quan
trọng:

Một là, hết sức nhấn mạnh mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết
cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc phát xít Pháp - Nhật, bởi
vì nhân dân ta đang chịu cảnh “một cổ ai trịng”, tình thế hết sức khó khăn dưới hai
tầng áp bức Pháp – Nhật, “quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân
tộc nguy vong không lúc nào bằng”. Từ đó, xác định rõ kẻ thù của cách mạng:
“Pháp - Nhật ngày nay không phải chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của cả
dân tộc Đơng Dương”.
Hai là, động viên, tổ chức và đồn kết lực lượng của toàn dân trong Mặt trận
dân tộc thống nhất và lựa chọn hình thức tổ chức Mặt trận Việt Minh. Hội nghị
quyết định thay đổi chính sách, giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, giải quyết
một cách nhuần nhuyễn quan hệ giữa cách mệnh phản đế và điền địa. Đặt nhiệm
vụ thu góp tồn lực đem tất cả ra quyết giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc,
Đảng Cộng Sản Đông Dương tập trung “lực lượng cách mạng tồn cõi Đơng
Dương, khơng phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, địa chủ, tư bản bản xứ”,
với tiêu chí duy nhất: u nước thương nịi, đồn kết là sức mạnh, chia rẽ là yếu –
trên quan điểm đó, một mặt, Đảng ra sức kêu gọi nhân dân đồn kết một lịng,
mn người như một cùng chung tay vì việc nghĩa; mặt khác, đánh giá đúng thái
độ của các lực lượng chính trị khác nhau trong xã hội để có chủ trương đồn kết,
tập hợp, “thêm bạn bớt thù”. ĐCSĐD nhất quán thực hiện chính sách hợp tác giữa
các lực lượng cách mạng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Đây là tư duy
mới xem tất cả những người dân Việt Nam yêu nước là thành phần nồng cốt, phục
vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc so với lối chủ trương cũ xem hai lực lượng
công – nơng là lực lượng chính.
Ba là, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương,
5


thi hành chính sách “dân tộc tự quyết”. Sau khi đánh đuổi Pháp - Nhật, các dân tộc
trên cõi Đông Dương sẽ “tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng
thành lập một quốc gia tùy ý”. “Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận

và coi trọng”. Từ quan điểm đó, Hội nghị quyết định thành lập ở mỗi nước Đông
Dương một mặt trận riêng, thực hiện đoàn kết từng dân tộc, đồng thời đoàn kết ba
dân tộc chống kẻ thù chung.
Bốn là, phương pháp cách mạng là "cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu
bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang". Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác
chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, khi thời cơ đến “với lực lượng sẵn có ta có thể lãnh
đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự
thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn". Những ước chuyển
biến lớn nhất mà hội nghị đã mang lại không chỉ là mang lại làn gió đổi mới trong
sự nghiệp cách mạng mà cịn là thống nhất về việc thành lập Việt Nam Độc lập
Đồng minh Hội, hay còn gọi là Việt Minh. Trong giai đoạn 1941-1943, Phát –
Nhật tăng cường đàn áp phong trào cách mạng Việt Nam, nhiều quyết định sai lầm
được đưa ra khiến các cuộc khởi nghĩa thất bại, nhiều chiến sĩ cấp cao tại mặt trận
Việt – Minh bị xử bắn, Hồ Chí Minh bị bắt giam tại Trung Quốc trong một năm,
tình thế rất khó khăn. Trước qn thù tàn bạo các chiến sĩ cộng sản đã nêu cao ý
chí kiên cường bất khuất và giữ vững niềm tin vào thắng lợi tất yếu của cách
mạng.
Dù trải qua nhiều khó khăn, nhưng với chủ trương “liên hiệp hết thảy các
giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân
biệt tôn giáo và xu hướng chính trị”, mặt trận Việt Minh nhanh chóng có được sự
ủng hộ không chỉ của hai giai cấp công nhân, nơng dân, mà cịn của tầng lớp trí
thức, địachủ yêu nước tiến bộ, tư sản dân tộc, tăng ni, giáo sĩ, phật tử Tầng lớp trí
thức tiến bộ ngả về phía Việt Minh, hoạt động trong các hội truyền bá chữ quốc
ngữ. Từ miền núi đến miền xuôi, từ ngoài Bắc vào trong Nam, một cao trào cứu
nước phát triển mạnh mẽ, khối đoàn kết dân tộc lớn mạnh chưa từng có, tạo bước
đột phá về chất cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Trên quan điểm “cuộc cách mạng Đông Dương phải được kết liễu bằng một
cuộc khởi nghĩa võ trang”, về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, Trung ương
Đảng quyết định duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn và chủ trương thành lập
những

đội du kích hoạt động phân tán, dùng hình thức vũ trang vừa chiến đấu bảo vệ nhân
dân, vừa phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc
Sơn, Vũ Nhai làm trung tâm. Tháng 11-1941, tiểu đội du kích thốt ly đầu tiên ở
6


Cao Bằng (gồm 13 người) được thành lập. Cuối 1944, trước địi hỏi gấp rút của
tình hình, khi ngày khởi nghĩa đang đến gần, căn cứ vào điều kiện thực tiễn,
ĐCSĐD thành lập lực lượng vũ trang làm đòn bẩy cho cao trào cách mạng toàn
quốc bùng nổ. Chọn trong hàng ngũ những đội du kích Cao - Bắc - Lạng số cán
bộ, đội viên kiên quyết, hăng hái nhất, tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội
chủ lực, tháng12-1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân ra đời. Vài
ngày sau khi thành lập, Đội Việt Nam tun truyền giải phóng qn đã lập hai
chiến cơng vang dội hạ đồn Phai Khắt (ngày 25-12) và đồn Nà Ngần (ngày 26-12).
Lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta có một quân đội kiểu mới do Đảng Cộng Sản
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện; Một
đội quân cách mạng từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, mang bản chất
giai cấp cơng nhân, tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc; chiến đấu vì mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
2.2. Sự chuẩn bị cuối cùng trước ngày Tổng khởi nghĩa
Đầu năm 1945,Thế chiến thứ hai đang dần khép lại, quân Đồng Minh thắng
chỉ còn là vấn đề thời gian. Ở Việt Nam, Pháp ráo riết chuẩn bị, chờ quân Đồng
Minh vào Đơng Dương đánh Nhật thì sẽ khơi phục lại quyền thống trị cho Pháp.
Nhật đã tiên liệu trước điều này, ngày 9-3-1945, Nhật nổ súng đảo chính Pháp, độc
chiếm Đơng Dương, dựng chính phủ Bảo Đại – Trần Trọng Kim lên làm bù nhìn,
phục vụ cho nền thống trị của chủ nghĩa phát xít.
Đang lúc Nhật đảo chính Pháp, Ban thường vụ Trung ương Đảng họp ngày
12- 3- 1945 đưa ra chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Chỉ
thị nhận định: cuộc đảo chính đã tạo nên khủng hoảng chính trị sâu sắc, song
những điều kiện của cuộc tổng khởi nghĩa vẫn chưa chín muồi. Phát xít Nhật trở

thành kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương. Khẩu hiệu “Đánh đuổi Pháp –
Nhật” được thay bằng “Đánh đuổi phát xít Nhật”. Ở khu căn cứ địa Cao – Bắc –
Lạng, Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp lại
thành một lực lượng chính trị của quần chúng giải phóng hàng loạt xã, châu,
huyện. Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh rời Pác Bó về Tân Trào (Tuyên Quang) làm
trungtâm chỉ đạo phong trào cách mạng cả nước. Ngày 15-5-1945, Việt Nam Cứu
quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thống nhất thành Việt Nam
Giải phóng qn.
Dựa vào tình hình thế giới và trong nước, Trung ương Đảng đã ra sức tổ
chức một cách bài bản, quy mô rộng lớn, thống nhất từ Bắc xuống Nam, và chỉ đợi
thời cơ chín mùi để lần đầu tiên thốt khỏi ách thống chính của chủ nghĩa thực dân
– phát xít.
2.3. Cách mạng tháng Tám bùng nổ
7


Giữa tháng 8-1945, cục diện thế chiến thứ hai đã ngã mũ, quân đồng minh
tiến công mạnh mẽ vào các vị trí của quân đội Nhật Bản ở Châu Á – Thái Bình
Dương. Giữa trưa 15-8-1945, Nhật hồng tun bố đầu hàng Đồng minh vơ điều
kiện trên sóng phát thanh của Nhật bản.
Tuy nhiên, thách thức mới lại đến, Hội nghị Ianta tháng 2 – 1945 và Hội
nghị Posdam tháng 7-1945 đều thống nhất cho Pháp tiếp tục cai quản Đông Dương
và quân Đồng minh sẽ vào Việt Nam để áp giải lính Nhật. Sau khi vào được Việt
Nam, quân Đồng minh sẽ phối hợp với Pháp đặt lại chế độ thực dân cũ là rất cao.
Như vậy, thời cơ cách mạng chỉ tồn tại trong khoảng thời gian nhất định: từ khi
Nhật đầuhàng Đồng minh đến trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Ngày
12-8-1945, Ủy ban lâm thời khu giải phóng hạ lệnh khởi nghĩa trong khu. Ngày
13-8-1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban Khởi nghĩa
toàn quốc. 23 giờ cùng ngày, Ủy ba Khởi nghĩa toàn quốc ban bố “Quânlệnh số 1”,
phát đi lệnh tổng khởi nghĩa trong toàn quốc.

Diễn biến cuộc tổng khởi nghĩa
Tại miền Bắc, chiều 16 – 8 – 1945, theo lệnh của Uỷ ban Khởi nghĩa, một
đơn vị Giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp chỉ huy, xuất phát từ Tân Trào tiến về
giải
phóng thị trấn Thái Nguyên. Ngày 18-8-1945, nhân dân Bắc Giang, Hải Dương,
Hà Tĩnh, Quảng Nam giành được chính quyền tỉnh luỹ sớm nhất cả nước.
Uỷ ban Khởi nghĩa Hà Nội quyết định giành chính quyền vào ngày 19-81945, hàng vạn dân nội, ngoại thành xuống đường biểu tình. Quần chúng cách
mạng đã lần lượt chiếm được Phủ Khâm sai Bắc Bộ, Sở Cảnh Sát Trung ương, Sở
Bưu điện, … Tối cùng ngày, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội dành
thắng lợi. Ở Huế, ngày 20 – 8, Uỷ ban Khởi nghĩa tỉnh được thành lập. Ngày 23-8,
Uỷ ban lãnh đạo quần chúng nhân dân đã chiếm chính quyền thành cơng. Tại Sài
Gịn, Xứ uỷ Nam Kì quyết định khởi nghĩa ở Sài Gòn và các tỉnh vào ngày 25-8.
Các đơn vị “Xung phong cơng đồn”, “Thanh niên tiền phong”, cơng nhân, nơng
dân các tỉnh Gia Định, Biên Hoà, Thủ Dầu Một, kéo về thành phố. Quần chúng
chiếm Sở Mật thám, Sở Cảnh sát, Bưu điện,… giành được chính quyền ở Sài Gịn
Nhiều nơi, từ rừng núi, nông thôn, thành thị tiếp nối nhau khởi nghĩa. Đồng Nai
Thượng và Hà Tiên là các tỉnh giành lấy chính quyền sau cùng vào ngày 28 – 8.
Ngày 2 – 9 – 1945, tại Quảng trường Ba Đình Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thay mặt Chính phủ lầm thời Việt Nam, trịnh trọng tuyên bố với toàn thể
quốc dân và thế giới: nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà thành lập.Sự kiện này đã
mở ra một bước ngoặc lớn cho lịch sử dân tộc ta. Nó đã phá tan xiềng xích nơ lệ
của thực dân Pháp hơn 80 năm và ách thống trị của phát xít Nhật trong 5 năm, lật
8


nhào ngai vàng phong kiến ngự trị hàng chục thế kỷ và lập nên nhà nước Việt
Nam – nhà nước do nhân dân lao động làm chủ.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương trong giai đoạn 1939 – 1945
đã chứng tỏ đường lối cách mạng đúng đắn dựa trên cơ sở lý luận Mác – Lênin
được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh ở Việt Nam. Các cán bộ Đảng và Việt

Minh từ trung ương đến địa phương đã linh hoạt, sáng tạo chỉ đạo khởi nghĩa,
chớp thời cơ phát động quần chúng dành chính quyền. Do đó, Cách mạng tháng
Tám là một chiến thắng tất yếu và có tính lịch sử, mở ra một kỷ ngun mới cho
dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên nhân dân lao động nắm chính quyền, làm chủ đất
nước, vận mệnh dân tộc; kỷ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã
hội.
CHƯƠNG 3: Bài học về cơng tác xây dựng Đảng cách mạng tiên phong
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam trong
giai đoan hiện nay.
3.1. Vận dụng sáng tạo, và phát triển chủ nghĩa Mác – Lê nin gắn liền
thực tiễn và nắm bắt tình hình thế giới
Trong giai đoạn 1930-1938, chủ trương đường lối của Đảng cịn mang tính
rập khn, đặt nặng lý thuyết, khơng nhìn thấy được thực tiễn của xã hội. Khác với
Liên Xô – trước cách mạng tháng Mười, dù người dân Nga vẫn bị bốc lột nặng nề
nhưng nước Nga vẫn là nước độc lập, do người Nga làm chủ. Nhiệm vụ của họ cấp
thiết là phải lật độ giai cấp thống trị là phong kiến – tư sản, đưa giai cấp công nhân
lao động Nga lên nắm quyền. Do đó mâu thuẫn chính của nhà nước Xã hội chủ
nghĩa đầu tiên là mâu thuẫn giai cấp. Trong khi đó, người dân Việt Nam khơng chỉ
bị bốc lột bởi giai cấp địa chủ phong kiến, mà còn bởi đế quốc thực dân. Luận
cương chính trị tháng 10- 1930 muốn giải quyết hai mâu thuẫn đó đồng thời. Tuy
nhiên, với lực lượng còn mỏng, ta yếu địch mạnh thì khơng thể tiến hành theo chủ
trương đã đề ra. Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, Đảng ta đã thấy được thực
tiễn của Việt Nam, xem độc lập dân tộc là trên hết, đoàn kết tất cả các tầng lớp yêu
nước Việt Nam lại và đi đến thắng lợi cuối cùng.
Trước mắt, trong giai đoạn cơng nghiệp hố – hiện đại hoá hiện nay, Đảng ta
nên đặt mục tiêu theo tình hình thực tiễn xã hội, đổi mới và hồn thiện hệ thống
chính trị. Dựa vào thực tiễn cho thấy nước ta không thể bỏ qua giai đoạn tư bản
chủ nghĩa mà tiến thẳng lên xã hội chủ nghĩa được, mà phải dựa vào tư bản chủ
nghĩa đểcó bước nhảy lên chủ nghĩa xã hội. Chính phủ đã vận dụng kết hợp giữa
chủ nghĩa Mác – lênin và thực tiễn bằng cách cho phép nền kinh tế nhiều thành

phần được hoạt động, thu hút FDI từ khác nơi trên thế giới, không chỉ làm bạn với
các nước xã hội chủ nghĩa mà còn chủ động giao lưu học hỏi, chuyển giao công
9


nghệ với tất cả các nước trên thế giới. Trong bối cảnh mới, Việt Nam cần phát huy
sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời
đại Cách mạng công nghiệp 4.0. Theo đó, Việt Nam cần phát huy vị thế chiến lược
về địa - chính trị, địa - kinh tế, địa - công nghệ... để xây dựng chiến lược tăng
cường kết nối, như kết nối hạ tầng “cứng” (về giao thông, cảng biển,...) và hạ tầng
“mềm” (về kỹ thuật số, dữ liệu, nhân lực...). Kết nối giữa các nhóm nước, tiểu
vùng trong ASEAN và các nước trong Liên Hiệp Quốc
Tuy nhiên, Chính phủ cho phép nền kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ
nhưngkhơng nên để một số tập đồn trong và ngoài nước làm lũng đoạn nền kinh
tế, ảnh hướng đến chính trị Việt Nam để phục vụ mục đích các nhân của họ . Chính
phủ nên và sẽ là một trong những đầu tàu dẫn dắt các thành phần kinh tế đi theo
một định hướng xã hội chủ nghĩa chung, đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu.
Thực tiễn đã cho thấy, sau 30 năm đổi mới, Việt Nam từ một trong những
quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. Từ
2002 đến 2018, GDP đầu người tăng 2,7 lần, đạt trên 2.700 USD năm 2019, với
hơn 45 triệu người thoát nghèo. Chịu ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch COVID-19,
nhưng dưới sự chỉ đạo của Đảng, nền kinh tế tăng trưởng GDP ước đạt 2,9% năm
2020. Việt Nam là một trong số ít quốc gia trên thế giới tăng trưởng kinh tế dương.
Ngay thời kỳ đầu của dịch bệnh, Covid-19 chỉ mới lây lan sang một vài nước
và chủ yếu tại Trung Quốc, ngay lúc các nước còn chủ quan và xem thường loại
Virus này, Đảng và Chính phủ đã chủ động phịng ngừa dịch bệnh, cách ly tồn bộ
các trường hợp F0, F1, F2, xây dựng mạng lưới y tế vững vàng trước dịch bệnh,
tuyên truyền cho toàn bộ người dân biết về độ nguy hiểm , các triệu chứng của loại
bệnh này. Không những thế, khi dịch mới xuất hiện ở một vài địa phương, nhưng
chính phủ vẫn chủ trương dãn cách toàn bộ xã hội toàn nước Việt Nam. Kết quả,

dảiđất hình chữ S đã là một trong những nước phòng chống dịch tốt nhất năm
2020, tạo điều kiện ổn định kinh tế - chính trị xã hội. Một phần của những chính
sách này được lấy từ bài học lịch sử sau sắc giai đoạn 1939-1945 , thời kỳ mà
Trung ương Đảng ln ln nắm bắt tình hình của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai
mà đưa ra những quyết định chủ trương phù hợp.
3.2. Đại đoàn kết dân tộc là sức mạnh bất diệt, đánh tan mọi kẻ thù.
Bài học lịch sử vẫn cịn đó, khi dân tộc Việt Nam đồng lịng lại, có thể đánh
đuổi bất cứ quân xâm lược nào, cho dù đó có là những cường quốc Pháp, Nhật,…
Sức mạnh của dân tộc Việt Nam có thể “kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ,
to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và
lũ cướp nước”.
10


Mỗi người dân Việt Nam phải nhận thức được rằng Đại đoàn kết dân tộc
trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức dưới sự lãnh đạo của Đảng thực sự là nguồn sức mạnh, là động lực chủ yếu và
là nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Khi nước ta đang có sự phát triển vượt bậc, từng bước tiến lên chủ nghĩa xã
hội, nhưng vẫn cịn đâu đó những thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta,
những chiêu trị “diễn biến hồ bình”. Khi mạng xã hội đang phát triển như vũ bão,
người trẻ chưa đủ kiến thức đang chê bai các chính sách của Nhà nước, lợi dụng
nhiều kẻ hở chưa được giải quyết, các thế lực phản động ra sức đăng những bài
viết,video bịa đặt ,cóp nhặt hoặc tự dựng lên để xun tạc tình hình, chia rẽ khối
đại đồn kết tồn dân tộc. Đây là vấn đề nhức nhối cần được giải quyết nhất trong
thời bình để bảo vệ nền độc lập và sự đoàn kết của dân tộc Việt Nam.
Năm 2020, lũ lụt ở miền trung diễn ra triền miên, lợi dụng tình hình khó
khăn đang diễn ra, đã có hành vi chia sẻ bài viết mang tính cóp nhặt những hình
ảnh lấy từ những nguồn thơng tin khơng chính xác trên mạng và đổ lỗi cho đồng

bào miền Trung. Họ cho rằng, đồng bào miền Trung đã quay lưng một cách đáng
trách với những việc làm từ thiện của nhân dân cả nước (vứt quần áo, bánh chưng
cứu trợ...).
Mục đích của việc này là để tạo nên sự kì thị, vẽ nên bức tranh rất xấu về
hình ảnh người dân vùng lũ, nhằm khoét sâu vào tâm lý, tư tưởng, thái độ và cách
nhìn nhận của những người đã và đang có ý định làm từ thiện sẽ suy nghĩ lại, thậm
chí dừng hành động cứu trợ của mình. Việc này gây mất đồn kết trong nhân dân.
Do đó, nếu cứ tiếp tục để điều này diễn ra thì hậu quả sau này sẽ khơn
lường. Chính phủ đã đưa ra nhiều chính sách về phòng chống tin giả, tin sai sựthật,
phạt nhiều cá nhân có dấu hiệu vi phạm cụ thể như :thành lập Đội xử lý tin trên
không gian mạng phục vụ công tác đảm bảo an ninh trật tự Đại hội Đảng XIII;
thành lập Đội phản ứng nhanh để kịp thời ứng phó đối với tình hình dịch bệnh
COVID-19, góp phần thực hiện tốt các nhiệm vụ công tác của đơn vị. Thường
xuyên trao đổi thông tin với Ban Chỉ đạo 35, Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ
Thông tin và Truyền thông xử lý các thông tin xấu, độc.
Hơn nữa, Đảng cần phải tuyên truyền, chia sẻ thông tin về mục đích của
những thơng tin giả, sai sự thật nhằm tác động trực tiếp vào tư tưởng, tâm lý tò mị,
đổ lỗi cho chính quyền và một bộ phận người dân. Thơng qua việc kích động, phá
hoại tư tưởng, gây chia rẽ này, các đối tượng ý đồ tập hợp một bộ phận quần chúng
nhân dân thiếu hiểu biết, nhận thức sai lệch để hình thành những lực lượng chống
Đảng, Nhà nước sau này.
11


Tinh thần đồn kết dân tộc khơng chỉ thế hiện trong chiến tranh dành độc
lập, mà còn trải dài ở tất cả lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội ,đời sống,… từ trung
ương đến địa phương. Muốn đất nước giàu mạnh, nhân dân ấm no, việc nâng cao
khối đạiđoàn kết đang là điều hết sức quan trọng. Vì thế, Mặt trận Tổ quốc phải
tiếp tục phảilàm tốt hơn vai trò tập hợp, lắng nghe ý kiến nhân dân để phản ánh với
các cơ quan đảng và nhà nước ở Trung ương cũng như các địa phương. Chủ động

phối hợp với chính quyền giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc ngay
tại cơ sở, gópphần bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Luôn đối
thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết khó khăn, vướng mắc và u
cầu chính đáng của nhân dân; tin dân và tôn trọng dân; đồng thời, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng.
3.3. Tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin tưởng vào sự thắng lợi của
cách mạng
Giai đoạn 1939-1945, con đường cách mạng đang lúc đầy cam go, thử thách
nhất, trong lúc Đảng vẫn là một tổ chức chưa nhiều người dân biết đến, đến tận
cuốinăm 1944 mới thành lập một đội qn với vũ khí thơ sơ, lạc hậu và phải đối
phó vớinhững bọn thực dân phát xít hùng mạnh, nhưng Đảng ta vẫn luôn vững
vàng chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua bao phong ba bão táp, qua
bao thác ghềnh để đi tới bến bờ vinh quang.
Trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta, niềm tin của nhân dân vào vai trò
lãnh đạo của Đảng được tạo dựng từ năng lực hoạch định và thực thi các quyết
sách chính trị đúng đúng đắn và những thắng lợi to lớn đạt được trong cách mạng
dân tộcdân chủ nhân dân và trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng với tất cả sự khiêm tốn của người cách mạng, có thể nói rằng,
đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, uy tín và vị thế như ngày nay.
Trong bối cảnh tồn cầu hố, khoảng cách của các quốc gia đang ngày càng bị
thu hẹp và xố nhồ, tiến trình giao lưu, học hỏi lẫn nhau đang diễn ra nhanh
chóng.sự bùng nổ thơng tin đã ảnh hưởng nhất định đến đội ngũ cán bộ, đảng viên
và nhândân ta. Không vì thế mà nhân dân Việt Nam đã quên nhưng công lao của
Đảng, đặc biệt phần lớn thế hệ trẻ, sinh viên vẫn đang có niềm tin tuyệt đối vào
Đảng. Tuy nhiên, hiện nay một bộ phận thanh niên đang giảm sút niềm tin, phai
nhạt lý tưởng cách mạng, sống thực dụng, xa rời truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Thậm chí, một số ít thanh niên bị lơi kéo, có những việc làm đi ngược truyền thống
của Đồn, trái với mục tiêu của Đảng, của dân tộc.Để giải quyết vấn đề cần phải
phối hợp nhiều ban ngành đoàn thể lại với nhau:
Một là, tập trung xây dựng, mở rộng mạng lưới các trung tâm hoạt động

thanh niên, nhà văn hóa thiếu nhi... trên cơ sở nguồn đầu tư từ ngân sách Nhà nước
12


và kinh phí xã hội hóa; tổ chức các điểm văn hóa thanh niên theo cụm dân cư; tổ
chức các hội thi, hoạt động văn hóa dân gian; tổ chức các cuộc vận động sáng tác
tác phẩm văn học, nghệ thuật dành cho thanh niên.
Hai là, làm tốt công tác truyền thơng của Đồn. Trong đó, tận dụng ưu thế
tích cực của các mạng xã hội trong việc tiếp cận và truyền đạt nội dung tuyên
truyền, định hướng giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hoá cho
đồn viên, thanh niên.
Ba là, Phát huy vai trị “tự phát hiện và tự chữa bệnh” của mỗi thanh
niên.Bởi suy đến cùng, mọi phương thức tác động của các chủ thể “chữa bệnh” chỉ
có hiệu quả khi và chỉ khi “người bệnh” chủ động tiếp nhận, biến quá trình “điều
trị” thành q trình “tự điều trị”. Theo đó, cần khuyến khích và tạo mọi điều kiện
tốt nhất cho thanh niên nâng cao năng lực tự nhận thức và chỉ ra những biểu hiện
“lâm sàng” đốivới bạn bè, đồng chí, đồng đội; đồng thời, cần có cơ chế để khuyến
khích thanh niên tích cực, chủ động phịng ngừa “bệnh” ở mọi lúc, mọi nơi, trong
mọi điều kiện, hoàn cảnh với tinh thần xung kích của tuổi trẻ.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có vai trị quyết định thực hiện
thắng lợi các chủ trương, đường lối của Đảng cũng như chính sách, pháp luật của
Nhà nước; đồng thời, quyết định vị trí, vai trị của Đảng đối với Nhà nước và xã
hội.
3.4. Chớp lấy thời cơ để tiến tới thắng lợi
Đảng ta đã rất khôn ngoan khi lựa chọn thời cơ giữa lúc quân Phát xít đầu
hàng và quân đồng minh chưa tiến vào nước ta. Cuộc khởi nghĩa chỉ diễn ra 15
ngàynhưng đã dành lấy chính quyền ở toàn Việt Nam mà chưa cuộc khởi nghĩa
nào lúc trước thực hiện được.
Nếu biết vận dụng, nắm bắt tốt cơ hội và ln nỗ lực vượt qua khó khăn, thử
thách thì sẽ biến điều bất lợi thành có lợi.Tình hình thế giới và trong nước đều có

những thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đang xen lẫn nhau. Chiến tranh
thương mại Mỹ - Trung, dịch bệnh Corona hoành hành, đều tạo động lực cho nền
kinh tế, thúc đẩy chuyển đổi số, bên cạnh đó, cũng tạo ra áp lực, rào cản cho chính
phủ và các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chúng ta cần nhìn nhận và xác định minh bạch những khó khăn, thách thức,
rào cản cần phải phá bỏ và vượt nó từ đó bắt thêm được nhiều cơ hội mới, biệt là
thực trạng nhiều cán bộ, Đảng viên có xu hướng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối
sống được nhân dân phản ánh qua những phương tiện truyền thống đại chúng, gây
xói mịn lịng tin của nhân dân đối với nhà nước. Nếu phá bỏ được những rào cản
này, cũng chính là cơ hội để chúng ta tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn, thách
thức, nâng cao sức chiến đấu của Đảng, hiệu quả quản lý của Nhà nước, thực hiện
13


thắng lợi mục tiêu cao cả “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”,
vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”.
Từ bài học về sự lãnh đạo Đảng, đối với những cá nhân, đặc biệt là sinh
viên, có thể tự mình nâng cao ý thức, chủ động học tập, rèn luyện một phẩm chất
đạo đứccách mạng, để có thể nắm bắt được thời cơ, đưa bản thân mình lên tầm cao
mới thơng qua những chương trình, cuộc thi mà Trường, xã hội tổ chức. Từ đó,
sinh viên có nền tảng phục vụ cho cơng việc sau này, góp phần xây dựng một nước
Việt Nam vững mạnh.

PHẦN KẾT LUẬN
Giai đoạn 1939 – 1945 đã thể hiện tài thao lược, tính tốn xuất chúng của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là một giai đoạn cực kỳ khó khăn, trước sự
biến động liên tục trên thế giới nói chung, và Việt Nam nói riêng. Nhiều chính sách
sai lầm của giai đoạn trước đã được khắc phục, chỉnh sửa một cách hiệu quả ở
trong thời kỳ này.
Đảng đã tổ chức nhiều hội nghị nhằm thay đổi đường lối của cách mạng

Việt
Nam dựa trên thực tiễn xã hội. Với sự chuẩn bị chu đáo cộng với sự hy sinh của
các đồng chí cán bộ, Đảng đã hợp nhất nhân dân Việt Nam lại làm một, tiến tới
Tổng khởi nghĩa toàn quốc. Chứng minh được chiến thắng của cách mạng tháng
Tám là chiến thắng mang tính tất yếu của lịch sử. Cách mạng tháng Tám cũng là
niềm tự hào của Đảng, Nhà nước và toàn thể dân tộc Việt Nam.
Trong thời kỳ này đã đánh dấu nhiều sự kiện trọng đó là : Sự thành lập của
Mặt trận Việt Minh và Đội tuyên truyền giải phóng quân – tiền thân của quân đội
nhân dân Việt Nam. Từ lịch sử đã để lại cho Đảng và cá nhân mỗi người nhiều bài
học tuy cũ nhưng vẫn quý báu dù trong thời đại công nghệ kỹ thuật tân tiến.
Những điều này đã dạy cho chúng ta biết rằng luôn nắm vững lý thuyết nhưng
phải nhìn nhận vào thực tiễn, nắm bắt thời cơ để vươn mình, trở thành một nước
văn mình, giàu mạnh.
Đồng thời, nhấn mạnh sức mạnh của sự đoàn kết dân tộc và sự tin tưởng vào
Đảng và Nhà nước của nhân dân. Bên cạnh đó,ln ln cảnh giác với những thế
lực thù địch, âm thầm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc và suy giảm niềm tin của
nhân dân vào Đảng ta.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo 2017, Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam,
14


NXB chính trị Quốc gia, Hà Nội
2. Đảng Cộng sản Việt Nam 2000, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội
3. Đảng Cộng sản Việt Nam 2000, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.

15




×