Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Bài thu hoạch ccllct, môn qp an, giải pháp đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.48 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................3
PHẦN II................................................................................................................4
I. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CÔNG ƯỚC LUẬT BIỂN 1982..........................4
1. Khái niệm quốc gia ven biển, đảo và quần đảo.................................................4
2. Vùng biển Việt Nam theo Công ước Luật biển 1982........................................5
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA VIỆT NAM.8
1. Nắm vững và thực hiện nghiêm túc quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về giải
quyết các vấn đề trên Biển Đông.........................................................................11
2. Vận dụng linh hoạt, sáng tạo và kết hợp chặt chẽ các hình thức, phương pháp
đấu tranh, bảo vệ, giữ vững chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc...........................13
3. Ưu tiên nguồn lực cho phát triển kinh tế biển, đảo và thực hiện cỏ hiệu quả
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trên các vùng ven biển, hải đảo................15
4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo...............................17
7. Xây dựng lực lượng Quốc phịng mạnh tồn diện, đáp ứng yêu cầu bảo vệ
Biển đảo trong tình hình hiện nay.......................................................................20
PHẦN III. KẾT LUẬN.......................................................................................22


2
MỞ ĐẦU
Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Việt Nam là trách nhiệm thiêng
liêng không chỉ người Việt Nam ở trong nước mà trách nhiệm cả Kiều bào ta ở
nước ngoài đối với lịch sử dân tộc, là nhân tố quan trọng bảo đảm cho dân tộc ta
phát triển bền vững.
Với hơn 3200km đường Biển và hơn 3000 hòn đảo lớn nhỏ, Biển đảo là
một phần lãnh thổ thiêng liêng không thể tách rời của Tổ quốc Việt Nam. Trách
nhiệm của mỗi người dân là ra sức gìn giữ toàn vẹn phần lãnh thổ này như lời
Bác Hồ năm xưa đã dặn “các Vua Hùng đã có cơng dựng nước, Bác cháu ta
phải cùng nhau giữ nước”.
Các văn kiện của Đảng đã khẳng định điều đó, đặc biệt Nghị quyết Đại hội


XII của Đảng nhấn mạnh: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân
tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng
đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân
dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó là ý chí sắt đá, quyết tâm khơng gì lay
chuyển được của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong những năm qua, tình hình thế giới, khu vực và trên biển Đơng có
nhiều diễn biến phức tạp, thì nhiệm vụ này lại càng quan trọng căng go hơn bao
giờ hết đối với toàn Đảng, tồn qn và tồn dân, do vậy nhiệm vụ phịng thủ,
bảo vệ đất nước, nhất là an ninh trên biển gặp nhiều khó khăn, thách thức. Để
hồn thành nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, điều tiên quyết đặt
ra là phải không ngừng củng cố, tăng cường sức mạnh quốc gia, xây dựng thế
trận quốc phòng tồn dân trên biển. Trong đó, xây dựng thế trận lòng dân, đảm
bảo bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc là vấn đề
chiến lược, mang tính cấp bách.
Vì vậy em lựa chọn đề tài “Giải pháp đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển,
đảo trong giai đoạn hiện nay” cho bài tiểu luận thu hoạch mơn giáo dục Quốc
phịng - An ninh.

PHẦN II.


3
I. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CÔNG ƯỚC LUẬT BIỂN 1982
Trong Công ước Luật biển 1982 (UNCLOS) bao gồm 17 phần với 320 điều
khoản, 9 phụ lục với hơn 100 điều khoản và 4 nghị quyết kèm theo, chứa đựng
trên 1.000 quy phạm pháp luật quốc tế.
Đây là một văn kiện pháp lý quốc tế tổng hợp, toàn diện, bao hàm tất cả
những nội dung quan trọng nhất trong luật pháp và thực tiễn quốc tể về biển và
đại dương thế giới; trong đó quan trọng nhất là thống nhất phương pháp xác

định phạm vi và chế độ pháp lý của các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ
quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của các nước ven biển, quy
định rõ ràng các quyền và nghĩa vụ của mọi quốc gia, có biển và khơng có biển,
phát triển hay đang phát triển, trên nhiều lĩnh vực như an ninh, bảo vệ mơi
trường, thăm dị khai thác tài nguyên thiên nhiên, giao thông liên lạc, nghiên
cứu khoa học... trên các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia, cũng như các
vùng biển nằm ngoài phạm vi quyền tài phán quốc gia. Cơng ước cũng định ra
trình tự, thủ tục giải quyết các tranh chấp trên biển giữa các quốc gia bằng biện
pháp hịa bình...
Những nội dung quan trọng đã được quy định trong Công ước của LHQ về
Luật Biển năm 1982 bao gồm:
1. Khái niệm quốc gia ven biển, đảo và quần đảo
Quốc gia ven biển: là các quốc gia có bờ biển. Quốc gia khơng có biển là
các quốc gia khơng có bờ biển. Hiện trên thế giới có 46 quốc gia khơng có bờ
biển. Ví dụ, Lào, Afghanistan, Bolivia, Cộng hào Séc …là quốc gia khơng có
bờ biển.
Những quốc gia khơng có biển có quyền đi ra biển và đi từ biển vào để
thực hiện các quyền mà những quốc gia này được hưởng theo Công ước Luật
biển 1982
Đảo: theo cách hiểu thông thường là một vùng đất có nước bao quanh.
Theo cách hiểu này, ta có đảo nằm trong các sơng hồ và đảo nằm trong biển (hải
đảo). Đối với người đi biển thì đảo được hiểu là các hải đảo nói chung, bao gồm
các đảo, đá.


4
Theo nghĩa pháp lý: Một đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi
thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước, (trích Điều 121, Công ước Luật
biển 1982). Định nghĩa trên đã đưa ra các điều kiện pháp lý để một vùng đất có
nước bao quanh được công nhận là đảo trước pháp luật: (1) một đảo phải được

hình thành một cách tự nhiên: “Vùng đất tự nhiên” này phải có sự gắn bó hữu
cơ với đáy biển; (2) có cùng độ nổi thường xuyên như đất liền, khi thủy triều lên
vẫn ở trên mặt nước, ở trên mực triều cường và (3) Đảo cần phải có nước bao
bọc xung quanh. Tuy nhiên, khi một đảo được nối với đất liền bởi cây cầu hoặc
đường hầm thì đương nhiên vẫn có giá trị như một đảo. Trong các quy định của
luật pháp quốc tế cũng như thực tiễn đời sống quốc tế đã chứng minh thành
phần vật chất cấu tạo nên đảo có thể từ bùn, san hô, cát, đất... mà không ảnh
hưởng đến chế độ pháp lý của các đảo. Với điều kiện phải tuân thủ Khoản 3,
lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa của một hòn
đảo được hoạch định theo đúng các quy định của Công ước áp dụng cho các
lãnh thổ đất liền khác (trích Điều 121 Cơng ước Luật biển 1982).
Quy định này khẳng định các đảo cũng có cùng các danh nghĩa và được đối
xử ngang bằng như các vùng lãnh thổ đất liền. Có nghĩa là, các đảo có lãnh hải,
vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa được hoạch định theo
đúng các quy định của Công ước áp dụng cho Việt Nam là một quốc gia ven
biển, với chiều dài bờ biển khoảng 3.260 km và rất nhiều các đảo ven bờ và xa
bờ.
Ngày 23 tháng 6 năm 1994, Việt Nam phê chuẩn Công ước Luật biển
1982. Về các đảo, chúng ta cũng như các quốc gia khác thường khơng có các
quy định cụ thể, chế độ pháp lý của các đảo.
2. Vùng biển Việt Nam theo Công ước Luật biển 1982
Việt Nam tuyên bố đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải vào
ngày 22- 11-1982. Theo Tuyên bố của Chính phủ ngày 12 tháng 11 năm 1982
(sau đây gọi là Tuyên bố 82), hệ thống đường cơ sở của Việt Nam gồm 11 điểm
có tọa độ xác định.
Hệ thống này thực tế là kiểu đường cơ sở thẳng và còn để ngỏ hai điểm:


5
điểm 0 nằm trên giao điểm giữa đường thẳng nối liền quần đảo Thổ Chu (Việt

Nam) và đảo Poulowai (của Campuchia) và đường phân định biên giới giữa hai
bên trong vùng nước lịch sử; và điểm kết thúc ở cửa vịnh Bắc Bộ là giao điểm
đường cửa vịnh với đường phân định biển trong vịnh Bắc Bộ.
Theo Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục
địa trong Vịnh Bắc Bộ giữa nước ta và CHND Trung Hoa ngày 25-12-2000,
đường phân định biển trong Vịnh Bắc Bộ và đường cửa vịnh đã được xác lập.
Tuy nhiên, đường phân định trong Vịnh Bắc Bộ chỉ là đường phân định lãnh hải
(các điểm từ 1 đến 9) hoặc đường phân định vùng đặc quyền về kinh tế và thềm
lục địa (các điểm từ 9 đến 21) giữa hai nước. Như vậy, theo tinh thần của Hiệp
định, Vịnh Bắc Bộ là vịnh chung giữa hai nước, không phải là vịnh lịch sử như
trong các tuyên bố năm 1977 và 1982 của ta. Đây là trường hợp hiếm thấy trong
tiền lệ phân định biển: Đường cơ sở được xác lập sau đường ranh giới bên ngoài
của lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, vì thơng thường các
đường ranh giới bên ngoài của lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
được xác lập sau khi đã xác lập được đường cơ sở.
Điều 3 - Luật Biển Việt Nam xác định: “Vùng biển Việt Nam bao gồm nội
thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam,
được xác định theo pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ
mà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và phù hợp với
Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982”. Như vậy, vùng biển của
Việt Nam hoàn toàn tuân theo quy định của UNCLOS.
Chương II (từ Điều 8 đến Điều 21) của Luật Biển Việt Nam quy định cụ
thể về cách xác định và chế độ pháp lý của từng vùng biển.
Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam là đường cơ sở
thẳng đã được Chính phủ cơng bố. Đường cơ sở ở những khu vực chưa có
đường cơ sở sẽ được Chính phủ xác định và cơng bố sau khi được Ủy ban
thường vụ Quốc hội phê chuẩn.
Nội thủy là vùng nước tiếp giáp với bờ biển, ở phía trong đường cơ sở và là



6
bộ phận lãnh thổ của Việt Nam.
Lãnh hải là vùng biển có chiều rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở ra phía
biển. Ranh giới ngồi của lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam.
Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển tiếp liền và nằm ngồi lãnh hải Việt
Nam, có chiều rộng 12 hải lý tính từ ranh giới ngồi của lãnh hải. Vùng đặc
quyền kinh tế là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, hợp với
lãnh hải thành một vùng biển có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở.
Thềm lục địa là vùng đáy biển và lịng đất dưới đáy biển, tiếp liền và nằm
ngồi lãnh hải Việt Nam, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất
liền, các đảo và quần đảo của Việt Nam cho đến mép ngồi của rìa lục địa.
Trong trường hợp mép ngồi của rìa lục địa này cách đường cơ sở chưa đủ 200
hải lý thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài đến 200 hải lý tính từ đường cơ sở.
Trong trường hợp mép ngồi của rìa lục địa này vượt quá 200 hải lý tính từ
đường cơ sở thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài khơng q 350 hải lý tính từ
đường cơ sở hoặc khơng q 100 hải lý tính từ đường đẳng sâu 2.500m.
Như vậy ta có thể nhận thấy rằng khái niệm Nội thủy, Lãnh hải, Vùng tiếp
giáp lãnh hải, Vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trong Luật Biển Việt Nam
đều dựa trên khái niệm nêu tại UNCLOS. Chế độ pháp lý đối với các vùng biển
Việt Nam cũng phù hợp với quy định của UNCLOS nhưng cụ thể, chi tiết và
đầy đủ hơn so với các Tuyên bố của Chính phủ ngày 12/5/1977 và 12/11/1982.
Đặc biệt, ngay từ Điều 1, Luật Biển Việt Nam quy định: “Luật này quy
định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần
đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt
Nam; hoạt động trong vùng biển Việt Nam; phát triển kinh tế biển; quản lý và
bảo vệ biển, đảo”; và khoản 2 - Điều 19, Luật Biển Việt Nam quy định: “Đảo,
quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam là bộ phận khơng thể tách rời của lãnh
thổ Việt Nam”. Điều đó thể hiện sự gắn bó, khơng thể chia cắt của một bộ phận

lãnh thổ, khẳng định chủ quyền đầy đủ, toàn vẹn của nước ta đối với các đảo,
quần đảo; một lần nữa khẳng định lập trường nhất quán của hệ thống pháp luật


7
và quan điểm của Việt Nam về chủ quyền lãnh thổ đối với hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa. Điều này cũng phù họp với Hiến pháp năm 2013, Luật Biên
giới quốc gia năm 2003, các Tuyên bố năm 1977 và 1982 cũng như Nghị quyết
của Quốc hội năm 1994 phê chuẩn Cơng ước Luật biển 1982.
Vì vậy theo Công ước Luật biển 1982, Việt Nam là một quốc gia ven biển,
có tổng chiều dài bờ biển khoảng 3.260 km, phần diện tích biển nước ta chiếm
29% diện tích Biển Đơng, rộng gấp 3 lần diện tích lãnh thổ đất liền. Vùng biển
nước ta có hơn 3.000 hịn đảo lớn, nhỏ; hơn 50% số dân sống ở các tỉnh ven
biển; ngư dân ta có truyền thống khai thác đánh bắt thủy sản trên biển. Từ đặc
điểm biển, đảo nước ta được phân chia thành 3 vùng chính: Vùng Vịnh Bắc Bộ,
vùng Biển Đông và vùng Biển Tây - Nam; trong đó, vùng Biển Đơng có diện
tích trên 500.000km2, bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Xuất phát
từ đặc điểm địa lý và điều kiện khách quan, trở thành một quốc gia mạnh về
biển là mục tiêu chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
3. Quan điểm của Việt Nam về giải quyết tranh chấp biển và
thềm lục địa theo Công ước Luật biển 1982
Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) đã có hiệu
lực và hiện nay có 162 quốc gia thành viên tham gia, trong đó có các quốc gia
ven biển Đơng là Việt Nam, Trung Quốc, Malaysia, Philipine, Indonexia,
Singapore và Bruney.
Công ước là một công cụ rất quan trọng trong việc bảo vệ chủ quyền của
Việt Nam trong vấn đề biển Đông. Quan điểm của Việt Nam là tranh chấp biển
và thềm lục địa phải được giải quyết phù hợp với pháp luật quốc tế, trong đó có
UNCLOS.

II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO
CỦA VIỆT NAM
Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Việt Nam là trách nhiệm thiêng
liêng của mỗi công dân Việt Nam đối với lịch sử dân tộc, là nhân tố quan trọng


8
bảo đảm cho dân tộc ta phát triển bền vững. Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của
Đảng chỉ rõ: “Mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển, đảo,
biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN...”.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã có sự đổi mới tư duy so với Nghị
quyết Đại hội XI, trong đó nhấn mạnh: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp
của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ
của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó là ý chí sắt đá, quyết tâm khơng gì lay
chuyển được của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trước yêu cầu bức thiết của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện
nay, Đảng ta nhận thức sâu sắc và thể hiện rõ quan điểm về phát triển kinh tế
độc lập tự chủ, kinh tế biển, bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong quá trình phát
triển và hội nhập quốc tế. Quan điểm đó được thể hiện tập trung trong các nghị
quyết, chỉ thị như: Nghị quyết 03/- NQ/TW ngày 6-5-1993 của Bộ Chính trị
(khóa VII) về “Một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước
mắt”; Chỉ thị 20-CT/TW ngày 22-9-1997 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về “Đẩy
mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng CNH, HĐH”; nhất là kế thừa kết quả
10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới; đặc biệt là “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”
trong Nghị quyết TW 4 (khoá X): “Đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở
thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển”.

Trong thời đại ngày nay, sự phát triển khoa học và công nghệ cho phép con
người mở rộng khả năng khai thác tài nguyên biển vượt qua các giới hạn về độ
sâu và tiến tới khả năng sống ở môi trường biển. Tiến ra biển và bảo vệ chủ
quyền, tài nguyên biển trở thành một chiến lược lâu dài của nhiều nước trên thế
giới. Việt Nam là một quốc gia ven biển, có những lợi thế về vị trí địa lý tự
nhiên và tiềm năng kinh tế, nên tiến ra biển, khai thác và bảo vệ vững chắc toàn


9
vẹn lãnh thổ, trong đó có chủ quyền các vùng biển, đảo là một nhiệm vụ chiến
lược.
Lịch sử dân tộc ta còn ghi lại bao lời tuyên bố vang vọng mãi với non sơng
đất nước, thấm sâu trong tâm trí con người Việt Nam như lời thề non nước;
trong đó, có lời căn dặn của Bác Hồ khi về thăm Bộ đội Hải quân năm 1961:
“Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Biển
ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”. Lịch sử dân tộc cũng chứng tỏ rằng,
Việt Nam tuy là nước nhỏ nhưng vẫn có thể tạo nên sức mạnh để bảo vệ độc lập
dân tộc và chủ quyền quốc gia. Đó là chiến lược: “Dĩ đoạn chế trường” của Trần
Quốc Tuấn; “Dĩ đại nghĩa nhi hung tàn, dĩ chi nhân nhi địch cường bạo” theo lời
Nguyễn Trãi. Đặc biệt, để tạo nên sức mạnh to lớn trong cuộc kháng chiến 30
năm (1945 - 1975) của nhân dân ta chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược, chúng ta đã biết phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của dân tộc kết hợp
với sức mạnh của thời đại để đánh thắng kẻ thù.
Ngày nay, bối cảnh thế giới, khu vực và tình hình trong nước đã đổi thay so
với những thời kỳ trước, song Đảng và Nhà nước ta ln khẳng định: chủ quyền
tồn vẹn lãnh thổ, trong đó có các vùng biển, đảo là thiêng liêng, bất khả xâm
phạm. Nhân dân Việt Nam, đất nước Việt Nam có đủ ý chí quyết tâm và sức
mạnh tổng hợp của cả dân tộc để giữ gìn, bảo vệ các vùng biển và hải đảo của
mình.
Gần đây, tình hình Biển Đơng xuất hiện nhiều vấn đề phức tạp, nhạy cảm,

liên quan đến nhiều nước, đe dọa đến chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài
phán của nước ta. Ngư dân nước ta khi ra khơi xa đánh bắt hải sản ln phập
phồng, lo âu bị nước ngồi bắt giữ, chiếm đoạt tài sản, phạt tiền. Hoạt động
thăm dị và khai thác dầu khí, một trong những hoạt động kinh tế mũi nhọn
trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý, thuộc chủ quyền nước
ta, được luật pháp quốc tế thừa nhận, cũng có lúc bị nước ngồi ngăn chặn, xâm
hại. Trước tình hình đó, chúng ta phải phối hợp và tiến hành đồng bộ các biện
pháp để bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển. Trong đó, xây dựng thế
trận lòng dân, đảm bảo bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của


10
Tổ quốc là vấn đề chiến lược, mang tính cấp bách, then chốt.
Vì vậy, chúng ta cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề sau đây:
1. Nắm vững và thực hiện nghiêm túc quan điểm của Đảng, Nhà nước
ta về giải quyết các vấn đề trên Biển Đông.
Trong thời gần đây, tình hình Biển Đơng diễn biến hết sức phức tạp, đặc
biệt, các tranh chấp, xâm phạm chủ quyền và lợi ích từ biển của các bên trong
khu vực đối với chủ quyền biển, đảo nước ta đã và đang trở thành những vấn đề
“nhạy cảm” trong quan hệ khu vực và quốc tế. Do đó, đấu tranh quốc phòng
(ĐTQP) bảo vệ, giữ vững chủ quyền các vùng biển, đảo phải xuất phát từ quan
điểm của Đảng về giải quyết các vấn đề trên Biển Đông đã được thể hiện trong
các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 8 (Khoá IX) về
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Nghị quyết Trung ương 4
(Khoá X) về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 và Nghị quyết Đại hội
XII của Đảng để triển khai thực hiện. Trong đó, Đảng ta đã nhất quán nguyên
tắc “Tôn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, khơng can thiệp vào
cơng việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bình
đẳng và cùng có lợi” trong giải quyết các tranh chấp. Đây vừa là định hướng cơ
bản, vừa là cơ sở pháp lý để các cấp, các ngành, các lực lượng và toàn dân triển

khai đấu tranh bảo vệ chủ quyền và lợi ích hợp pháp của quốc gia trên các vùng
biển, đảo. Đồng thời, đó cũng là tiền đề để chúng ta mở rộng hợp tác quốc tế
theo hướng: thu hẹp bất đồng, hạn chế tranh chấp, tăng cường hiểu biết và tin
cậy lẫn nhau giữa các quốc gia, tạo mơi trường hồ bỉnh, ổn định để xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Với tinh thần ấy, các tranh chấp trên Biển Đông phải được các bên kiên trì
cùng bàn bạc, giải quyết bằng biện pháp hồ bình, bảo đảm phù hợp với Cơng
ước của Liên họp quốc về Luật biển năm 1982 và Tuyên bố ứng xử của các bên
về Biển Đông (DOC), trên cơ sở đồng thuận, cùng có lợi. Đồng thời, chúng ta
kiên quyết bác bỏ những yêu sách vô lý, thiếu chứng cứ lịch sử của các bên về
chủ quyền trên Biển Đông cũng như các tuyên bố về vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa của các quần đảo trái với tinh thần Công ước 1982 và thông lệ


11
quốc tế; tiếp tục cùng các bên liên quan tìm giải pháp cơ bản, lâu dài cho vấn đề
về chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong khi chờ một giải
pháp tổng thể, các bên cần duy trì ngun hiện trạng và khơng có bất cứ hành
động nào làm phức tạp thêm tình hình. Trong quá trình đấu tranh, cần giữ vững
nguyên tắc chiến lược, linh hoạt về sách lược, lấy đại cục làm trọng, lấy bảo vệ
chủ quyền, lợi ích quốc gia và giữ vững mơi trường hoà bĩnh, ổn định để phát
triển là mục tiêu cao nhất. Muốn vậy, trước hết phải không ngừng tăng cường
sức mạnh tổng hợp của quốc gia; trong đó, quan trọng nhất là tạo được sự đồng
thuận cao trong xã hội, sự ổn định, thống nhất trong Đảng và bộ máy Nhà nước,
sự vững vàng của các lực lượng vũ trang (LLVT) nhân dân và sự cố kết của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Việc giải quyết các tranh chấp phải thống nhất
quan điểm: kiên trì biện pháp chính trị, ngoại giao, pháp lý là chính.
Hiện nay, do tính chất phức tạp và nhạy cảm của các tranh chấp trên Biển
Đông đã tác động trực tiếp đến sự ổn định chính trị trong khu vực và quốc tế,
nên ĐTQP trên các vùng biển, đảo sẽ diễn ra quyết liệt, liên tục và lâu dài,

không thể chỉ một sớm, một chiều. Vì vậy, tiến hành đồng bộ các giải pháp
nhằm nâng cao năng lực đấu tranh cho các lực lượng là vấn đề rất quan trọng,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo thời kỳ mới.
Theo đó, cần đẩy mạnh cơng tác giáo dục QP-AN, nâng cao nhận thức,
trách nhiệm về biển, đảo cho các cấp, các ngành, LLVT và toàn dân, nhất là đối
với các lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ trên biển, đảo. Tiếp tục nghiên cứu sâu
hơn về chiến lược biển của các nước trong khu vực và thế giới để có đối sách
phù hợp trong ĐTQP bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Trên cơ sở nâng cao hiệu quả
kết hợp kinh tế với tăng cường QP-AN, tập trung củng cố tiềm lực, lực lượng và
thế trận QPTD trên biển, đảo ngày càng vững chắc, nhất là đối với lực lượng
Hải quân, Phịng khơng-Khơng qn, Cảnh sát biển, Biên phịng... bảo đảm đủ
sức quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Bên cạnh đó, chú trọng kiện tồn, nâng cao hiệu lực quản lý, điều hành các
hoạt động ĐTQP từ Trung ương đến các địa phương; đẩy mạnh hoạt động đối
ngoại quốc phòng; nâng cao hiệu quả phổi hợp, hiệp đồng giữa LLVT và các


12
lực lượng khác trong ĐTQP, góp phần bảo vệ, giữ vững chủ quyền biển, đảo
của Tổ quốc trong tình hình mới.
2. Vận dụng linh hoạt, sáng tạo và kết hợp chặt chẽ các hình thức,
phương pháp đấu tranh, bảo vệ, giữ vững chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc.
Xuất phát từ đặc điểm của ĐTQP bảo vệ chủ quyền biển, đảo có nhiều lực
lượng tham gia, diễn ra trên nhiều lĩnh vực, địa bàn rộng, đấu tranh với nhiều
loại đối tượng, trong nhiều tình huống khác nhau, nên tính chất, mục tiêu, yêu
cầu đấu tranh trong từng trường hợp cũng khác nhau. Trong đó, các tình huống
quốc phịng có thể diễn ra đan xen, kế tiếp hoặc chuyển hoá lẫn nhau; q trình
diễn biến, chuyển hố đó nhanh hay chậm phụ thuộc rất lớn vào âm mưu, thủ
đoạn và hành động cụ thể của đối tượng cũng như phương thức, biện pháp và

kết quả đấu tranh của ta. Vì vậy, để ĐTQP có hiệu quả, chúng ta phải căn cứ
vào tình hình cụ thể để vận dụng linh hoạt và kết hợp chặt chẽ các hình thức,
phương pháp đấu tranh phù hợp; thực hiện đấu tranh toàn diện trên tất cả các
lĩnh vực; kết hợp sức mạnh trong nước và quốc tế, tạo sức mạnh tổng hợp làm
thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hành động xâm phạm chủ quyền biển, đảo của
các đối tượng.
Trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kiên quyết đấu tranh bảo vệ quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng, làm thất bại thủ đoạn của các thế lực thù địch
hịng lợi dụng tình hình “nhạy cảm” trên biển, đảo để kích động, chia rẽ, gây
mất ổn định chính trị, phá hoại mối đồn kết nội bộ và làm tổn hại tới mối quan
hệ giữa nước ta với các nước trong khu vực; đồng thời, vạch trần âm mưu, thủ
đoạn và các hành động xâm phạm chủ quyền biển, đảo của đối phương trước dư
luận trong nước và quốc tế. Lực lượng quần chúng nhân dân và các tổ chức hoạt
động trên biển, đảo cùng LLVT kiên trì vận động, thuyết phục và kiên quyết
ngăn chặn các hoạt động xâm phạm của đối phương;
Trên lĩnh vực đối ngoại, các tổ chức ngoại giao chuyên trách, các tổ chức
chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội..., cần phối họp với lực lượng trên biển, đảo,
sử dụng mọi phương tiện, tranh thủ các diễn đàn quốc tế, kịp thời đấu tranh làm


13
cho mọi người thấy rõ hành động xâm phạm biển, đảo của đối phương là trái
với luật pháp quốc tế, là sự xâm hại một quốc gia có chủ quyền; đấu tranh phản
bác, vạch trần các luận điệu lừa bịp, xuyên tạc sự thật của chúng trước dư luận
quốc tế. Qua đó, làm rõ thiện chí và chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta
trong giải quyết các tranh chấp, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của chính phủ và
nhân dân các nước trên thế giới.
Cố gắng giải quyết các bất đồng, tranh chấp thông qua thương lượng hịa
bình, tơn trọng nhau, bình đẳng cùng có lợi. Đây là nguyên tắc cơ bản trong
quan hệ quốc tế, được ghi trong Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước Luật

biển năm 1982. Đối với các bất đồng, tranh chấp trên Biển Đông, chủ trương
nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là: Không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ
lực, giải quyết mâu thuẫn thông qua thương lượng hịa bình trên cơ sở tơn trọng
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thố, phù họp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là
Công ước về Luật biển năm 1982 của Liên hợp quốc, Tuyên bố về cách ứng xử
của các bên ở Biển Đơng (DOC), nhằm sớm tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu
dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của các bên, tiến tới xây dựng Biển Đơng thành
vùng biển hịa bình, hợp tác và phát triển.
Trên lĩnh vực pháp lý, các cơ quan luật pháp, các tổ chức chính trị-xã hội
chủ động thu thập đầy đủ các chứng cứ lịch sử, các bằng chứng về những vi
phạm luật pháp quốc tế về biển, đảo của đối phương; trên cơ sở đó, củng cố các
cơ sở pháp lý cần thiết, chuẩn bị đội ngũ chuyên gia pháp lý về biển, đảo, thống
kê các thiệt hại mà đối phương gây ra cho nhân dân, đất nước ta và các tổ chức
quốc tế đang hoạt động hợp pháp trên vùng biển Việt Nam, để đưa ra đấu tranh
công khai trên các diễn đàn quốc tế, buộc đối phương phải thừa nhận và từ bỏ
hành động xâm phạm, đánh chiếm biển, đảo của ta.
Trên lĩnh vực kinh tế, tăng cường công tác quản lý kinh tế, nhất là lĩnh vực
tài chính, thương mại; chủ động đấu tranh ngăn chặn các thủ đoạn lợi dụng mở
cửa, hợp tác để phá hoại kinh tế, mua chuộc cán bộ hòng làm suy yếu hệ thống
chính trị của ta và gây mất ổn định chính trị-xã hội. Đồng thời, có biện pháp
hữu hiệu bảo vệ lợi ích hợp pháp của các cơng ty, tổ chức kinh tế nước ngoài


14
đang làm ăn trên vùng biển, đảo của ta, nhất là vơ hiệu hố thủ đoạn gây sức ép,
phá hoại hợp đồng kinh tể của ta với các đối tác nước ngoài.
Trên lĩnh vực quân sự, chủ động chuẩn bị các phương án tác chiến, xây
dựng các cơng trình phịng thủ; kết hợp chặt chẽ thế trận của các đảo, cụm đảo
với thế trận của lực lượng cơ động trên biển, thế trận ven biển, thế trận phịng
khơng-khơng qn, thế đấu tranh chính trị, ngoại giao, pháp lý... tạo thế trận

quốc phịng tồn dân (QPTD) vững chắc, góp phần răn đe, ngăn ngừa xảy ra
xung đột vũ trang và chiến tranh. Tăng cường phối hợp tuần tra, kiểm soát giữa
các lực lượng: Hải qn, Khơng qn, Biên phịng, Cảnh sát biển, dân quân tự
vệ b i ể n . . v à với các lực lượng khác để bảo vệ chủ quyền và các hoạt động của ta
trên biển, đảo, nhất là hoạt động thăm dò, khai thác tài nguyên biển. Khi xảy ra
xung đột, cần bình tĩnh kiềm chế, kiên trì đấu tranh; đồng thời, triển khai lực
lượng và các hoạt động trên biển, tạo thế hỗ trợ, phối họp với đấu tranh chính
trị, ngoại giao, pháp lý..., khơng để đối phương lợi dụng tạo cớ, gây xung đột vũ
trang và chiến tranh đánh chiếm biển, đảo của ta. Trường hợp buộc phải đấu
tranh vũ trang, cần hành động kiên quyết, nhanh, mạnh, gọn, kết hợp với các
mặt đấu tranh khác không để xung đột lan rộng, kéo dài, mở rộng thành chiến
tranh.
3. Ưu tiên nguồn lực cho phát triển kinh tế biển, đảo và thực hiện cỏ
hiệu quả chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trên các vùng ven biển, hải
đảo
Biển Việt Nam chứa đựng nhiều tiềm năng to lớn về kinh tế. Vì vậy, để
khai thác, sử dụng hiệu quả và biến các tiềm năng ấy thành nguồn lực, động lực
đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, Đảng và Nhà nước cần tập trung đầu
tư nguồn lực thích đáng cho các ngành kinh tế mũi nhọn, có thế mạnh ở các
vùng ven biển, trên các đảo và quần đảo như: khai thác, chế biến dầu khí; hệ
thống cảng và dịch vụ vận tải biển; khai thác, chế biến hải sản, du lịch... Trong
đó, ưu tiên xây dựng các trung tâm dịch vụ, thành lập các tập đồn kinh tế mạnh
có đủ khả năng vươn xa, kết hợp phát triển kinh tế với làm chủ biển, đảo; tập
trung nguồn vốn, khoa học, công nghệ, nguồn lao động để khai thác có hiệu quả


15
các tiềm năng của biển; ưu tiên phát triển hạ tầng cơ sở kinh tế - xã hội và quốc
phòng - an ninh trên khu vực quần đảo Trường Sa và các đảo lớn xa bờ, tạo điều
kiện thuận lợi đẩy nhanh tốc độ sản xuất của nhân dân đang sinh sống trên các

đảo và quần đảo.
Phát triển kinh tế biển phải gắn với quản lý vùng trời, bảo vệ biển, đảo, xây
dựng thế trận quốc phịng tồn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, thực chất
là quan điểm chỉ đạo: Kết hợp kinh tế với QP-AN, tăng cường sức mạnh QPAN bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới. Mục đích kết họp giữa kinh
tế với quốc phòng, giữa xây dựng thế trận quốc phòng với thế trận an ninh là
làm cho kinh tế và quốc phịng đều mạnh, khơng làm cản trở nhau, tạo ra sức
mạnh tổng họp thực hiện thắng lợi mục tiêu Chiến lược biển Việt Nam mà Đảng
ta đã xác định.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn
hố, xã hội với quốc phịng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn
hoá, xã hội trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội,
chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo".
Như vậy, nội dung của sự kết hợp đó phải được triển khai tổ chức thực hiện
cụ thể ở tất cả các cấp, trong quy hoạch tổng thể của quốc gia, kế hoạch phát
triển kinh tế-xã hội, kế hoạch tăng cường lực lượng, tiềm lực, thế trận QP-AN,
trong nhiệm vụ, trong phương án, kế hoạch tác chiến và đấu tranh bảo vệ chủ
quyền biển, đảo. Trong quy hoạch xây dựng các vùng biển, đảo ở địa bàn chiến
lược, các phương án bảo vệ cần làm tốt ngay từ khâu thẩm định các khu công
nghiệp, kinh tế tập trung, các dự án ven biển, trên đảo; quy hoạch, xây dựng kết
cấu hạ tầng gắn với xây dựng thế trận QP- AN, bao gồm các tuyến đường giao
thông, hệ thống các sân bay, bến cảng, kho, hệ thống thơng tin... khơng để ảnh
hưởng đến thế bố trí qn sự, thế trận QP-AN.
Quá trình thu hút nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội biển, đảo đòi hỏi
nghiên cứu, khảo sát tổng thể, xác định rõ tiềm năng, thế mạnh của từng vùng,
từng khu vực, đánh giá đúng, đủ các yếu tố tự nhiên cũng như xu thế phát triển.
Việc quy hoạch phải tính đến sự kế thừa, phát triển, tính liên kết giữa các vùng


16
và các khu vực; phải gắn bờ, biển, đảo và quần đảo trong một không gian sinh

tồn về kinh tế và quốc phịng. Vì vậy, nếu khơng khảo sát đầy đủ, đánh giá một
cách khoa học thì kết quả sẽ thấp, thậm chí khơng mang lại hiệu quả mà cịn phá
vỡ tính cân bằng trong phát triển kinh tế biển.
Phát triển kinh tế biển phải gắn với giải quyết tốt các vấn đề xã hội và nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, coi đó như một vấn đề then chốt
trong xây dựng thế trận lòng dân trên biển. Lịch sử đã chứng minh, ở bất cứ thời
đại, chế độ nào, nguyện vọng sâu xa của nhân dân vẫn là đời sống vật chất và
tinh thần được đảm bảo, “khoan thư sức dân” - cách thức tốt nhất để quy tụ lòng
dân, làm cơ sở, nền tảng để xây dựng thế trận lịng dân.
Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta thời gian qua rất chú trọng xây dựng cơ sở hạ
tầng, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần cho nhân dân các vùng ven
biển và hải đảo, nhất là ở các vùng biển, đảo giữ vai trò quan trọng về quốc
phòng, an ninh của đất nước.
4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo
Công tác tuyên truyền cần bám sát thực tiễn tình hình, khơng ngừng đổi
mới nội dung, đa dạng hóa hình thức, phương pháp tun truyền phù hợp với
trình độ nhận thức của từng đối tượng, đồng thời tận dụng có hiệu quả các
phương tiện kỹ thuật và chú trọng mở rộng phạm vi tuyên truyền.
Công tác tuyên truyền về chủ quyền quốc gia trên biển địi hỏi có sự phối
hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành và các địa phương; phải có sự chỉ đạo
thống nhất, chặt chẽ từ Trung ương tới cơ sở về nội dung và phương pháp.
Tuyên truyền về các điều khoản và nghĩa vụ cần phải chấp hành các quy định
của luật pháp Việt Nam khi hoạt động hoặc tham gia giao thông trong phạm vi
lãnh hải, các vùng nội thuỷ, vùng đảo, quần đảo và khu vực đặc quyền kinh tế
trên biển Việt Nam; về các quan điểm chủ đạo và nhất quán của Đảng và Nhà
nước Việt Nam trong thực thi quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo,
quần đảo và các khu vực đặc quyền kinh tế biển.
Đặc biệt, chú trọng nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành, nhất là các
cấp, ngành ở địa phương ven biển, nhận thức rõ tính chất phức tạp của nhiệm vụ



17
bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong bối cảnh mở cửa, hội nhập quốc tế; khẳng
định, củng cố niềm tin cho nhân dân cả nước, cộng đồng quốc tế về chủ quyền
của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; làm chuyển biến ý thức,
trách nhiệm của mỗi người... Qua đó phát huy sức mạnh của tồn Đảng, tồn
qn, tồn dân và của cả hệ thống chính trị, kết hợp sức mạnh trong và ngoài
nước, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo yệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Công tác tuyên truyền phải được tiến hành sâu rộng trong và ngoài nước,
phải gắn kết giữa lịch sử với hiện tại để người dân thấy được ý nghĩa và tầm
quan trọng của biển, đảo trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước; làm
cho mỗi công dân Việt Nam thấy được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối với
chủ quyền biển, đảo quốc gia. Từ đó đồn kết, chung sức đồng lòng quyết tâm
làm chủ, bảo vệ biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
5. Kết hợp chặt chẽ giữa thúc đẩy nhanh q trình dân sự hóa trên biển với
xây dựng thế trận quốc phòng - an ninh trên biển vững mạnh, đủ khả năng bảo
vệ chủ quyền quốc gia trên biển
Dân sự hóa các vùng biển, đảo vừa là cơ sở để chúng ta khai thác có hiệu
quả các nguồn tài nguyên trên biển, vừa là tiền đề để xây dựng, củng cố và phát
huy lực lượng tại chỗ phục vụ chiến lược quốc phòng - an ninh trên biển. Đảng
ta đã khẳng định trong Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020: “Thực hiện
quá trình dân sự hóa trên biển, đảo gắn với tổ chức dân cư, tổ chức sản xuất và
khai thác biển. Có chính sách đặc biệt để khuyến khích mạnh mẽ nhân dân ra
định cư ổn định và làm ăn dài ngày trên biển; thí điểm xây dựng các khu quốc
phịng - kinh tế tại các đảo, quần đảo Trường Sa, vùng biển, đảo của Tổ quốc”.
Đây là một chủ trương chiến lược có ý nghĩa vơ cùng quan trọng đối với sự
nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước. Chủ trương này đã và đang
được hiện thực hóa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế biển đi đôi với bảo đảm
quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền của Việt Nam trên biển.
Quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước, công tác dân sự

hóa trên các vùng biển, đảo, nhất là ở những vùng biển, đảo chiến lược đã được
đẩy mạnh, ảnh hưởng tốt đến sự phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện thuận


18
lợi để củng cố và xây dựng thế trận lòng dân trên biển. Cơ sở hạ tầng trên nhiều
đảo ở Trường Sa được xây dựng ngày càng khang trang, đời sống của nhân dân
từng bước đi vào ổn định. Nhân dân Trường Sa hồn tồn tin tưởng vào chủ
trương, chính sách của Đảng.
Cùng với q trình dân sự hóa ở các vùng biển, đảo, việc bảo vệ chủ quyền
biển đảo và duy trì lợi ích quốc gia trên biển giai đoạn hiện nay cần kết họp chặt
chẽ hơn nữa giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an
ninh. Việc quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở các khu vực ven biển, trên
biển và các đảo phải tuân thủ các yêu cầu đặt ra trong kế hoạch tổng thể của khu
vực phòng thủ địa phương, phải mang tính hệ thống, bảo đảm sự liên kết chặt
chẽ giữa biển, đảo với đất liền; kết hợp chặt chẽ giữa thế trận “tĩnh” của đảo và
bờ với thế “động” của lực lượng tác chiến cơ động trên biển tạo nên thể trận liên
hoàn, vững chắc.
Trang bị kỹ thuật phục vụ cho mục đích kinh tế-xã hội phải phù hợp với hệ
thống trang bị kỹ thuật quốc phòng - an ninh trong hệ thống các cụm lực lượng
trên biển, thực hiện kiểm soát, giám sát, báo động, chi viện, hỗ trợ nhau trong
đấu tranh phòng chống các hoạt động xâm phạm chủ quyền, lợi ích quốc gia.
Các cơ sở hậu cần, kỹ thuật kinh tế - xã hội ven bờ, trên biển và trên các đảo
phải sẵn sàng huy động cho nhiệm vụ quốc phòng, ưu tiên xây dựng các đảo
tiền tiêu xa bờ có cơng sự kiên cố, trang bị hoả lực mạnh, có khả năng tác chiến
dài ngày. Quá trình thiết kế, xây dựng hạ tầng cơ sở trên biển, đảo phải mang
tính lưỡng dụng cao, không chỉ bền vững trước tác động của mơi trường biển
mà cịn phải bền vững khi chuyển sang phục vụ mục đích quốc phịng - an ninh.
Bên cạnh đó, cần xây dựng một lực lượng kiểm ngư đủ mạnh để bảo vệ
việc khai thác, đánh bắt hải sản của ngư dân trên biển, sẵn sàng thực hiện nhiệm

vụ cứu hộ, cứu nạn trên biển; đồng thời kiểm tra, giám sát, phát hiện, ngăn chặn
các hành động khai thác hải sản trái phép của nước ngoài trên vùng biển của
Việt Nam. Các địa phương ven biển, huyện đảo phải có lực lượng dân quân tự
vệ vừa tham gia sản xuất, khai thác hải sản, vừa làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh
trật tự trên biển, kịp thời phát hiện, đấu tranh ngăn chặn các hành động xâm


19
phạm lợi ích, chủ quyền quốc gia.
6. Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chỉnh trị ở các
huyện đảo đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc
Hệ thống chính trị ở các huyện đảo, nhất là những huyện đảo xa bờ - vừa là
“cầu nối” đưa chủ trương, chính sách của Đảng đến với quần chúng, vừa là chủ
thể trực tiếp tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện các chủ trương của Đảng
trên các địa bàn biển, đảo. Vì vậy, xây dựng hệ thống chính trị ở các huyện đảo
vững mạnh là một giải pháp quan trọng để củng cố thế trận quốc phịng tồn
dân trên biển đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền biển đảo Tổ quốc hiện nay.
Quy trình thực hiện là phải hồn thiện hệ thống chính trị với các thiết chế đầy
đủ, cơ cấu họp lý và cơ chế hoạt động hiệu quả, phù hợp với điều kiện hoạt
động đặc thù trên các địa bàn biển, đảo. Trong đó phát huy vai trị và chức năng
hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là tổ chức đảng; thực
hiện tốt các chính sách xã hội đối với các huyện đảo xa bờ và các địa bàn trọng
điểm, chiến lược; coi trọng giải quyết tốt mối quan hệ và sự phối hợp hoạt động
giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị ở mỗi huyện đảo và giữa các huyện
đảo với nhau, tạo ra thế trận liên hoàn trên biển để có thể nhanh chóng tập hơp
và sử dụng hiệu quả sức mạnh của các lực lượng tại chỗ phục vụ cho quốc
phòng - an ninh trên biển.
7. Xây dựng lực lượng Quốc phịng mạnh tồn diện, đáp ứng u cầu
bảo vệ Biển đảo trong tình hình hiện nay.
Việt nam với phương châm là không sử dụng vụ lực, hoặc đe dạo dùng vụ

lực khi giải quyết tranh chấp ,bất đồng, càng không dùng vụ lực hoặc liên minh
quân sự với nước ngoài để chống lại nước khác. Như đã khẳng định ở trên, bảo
vệ Biển đảo là một yêu cầu cấp bách hơn bao giờ hết, thực tế trong thời gian
qua tình hình tranh chấp Biển đảo trên thể giới và khu vực đang diễn ra ngày
càng phức tạp, nguy cơ xảy ra chiến tranh và trách chấp biển đảo là một vấn đề
hiện hữu đối với mọi quốc gia có biển, các quốc gia ngày càng tăng cường cho
Quốc phòng – An ninh để bảo về Biển đảo trở thành chiến lược quốc gia. Việt
Nam là một nước có đường biên giởi về biển dài, là nơi có vì trí chiến lược quan


20
trọng về biển, chính sách của các nước lớn đàng ngày càng quan tâm và can dự
đển Biển Đông, Trung Quốc với âm mưu độc chiếm Biển Đơng . Vì vậy, Việt
nam muốn bảo vệ Biển đảo, độc lập chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ khơng có
con đường nào khác là phải xây dựng nền quốc phòng mạnh, phát triển Hải
Quân, Không Quân ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới, có
thể đương đầu với mọi hành vi xâm lược từ bên ngoài.



×