Tải bản đầy đủ (.pdf) (198 trang)

NGHIÊN CỨU CÁC PHƯƠNG THỨC CẤU TẠO HỆ THUẬT NGỮ KHOA HỌC TỰ NHIÊN TIẾNG VIỆT (trên tư liệu thuật ngữ Toán - Cơ - Tin học, Vật lí)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 198 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH




NGÔ PHI HÙNG





NGHIÊN CỨU CÁC PHƯƠNG THỨC CẤU TẠO
HỆ THUẬT NGỮ KHOA HỌC TỰ NHIÊN TIẾNG VIỆT

(trên tư liệu thuật ngữ Toán - Cơ - Tin học, Vật lí)





LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN







NGHỆ AN - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH



NGÔ PHI HÙNG




NGHIÊN CỨU CÁC PHƯƠNG THỨC CẤU TẠO
HỆ THUẬT NGỮ KHOA HỌC TỰ NHIÊN TIẾNG VIỆT

(trên tư liệu thuật ngữ Toán - Cơ - Tin học, Vật lí)


Chuyên ngành: Lí luận ngôn ngữ
Mã số: 62 22 01 01


LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN



Người hướng dẫn khoa học:
1. GS. TS. LÊ QUANG THIÊM
2. PGS. TS. HOÀNG TRỌNG CANH



NGHỆ AN - 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kì công trình nào khác.

Tác giả luận án



Ngô Phi Hùng



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TT Quy định viết tắt Nghĩa
1.

A Thành tố độc lập
2.

B Thành tố có nghĩa, không độc lập
3.

D Danh từ
4.

Đg Động từ
5.


KHTN Khoa học Tự nhiên
6.

MH Mô hình


DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ SỐ LIỆU

Bảng 1.1. Các kí hiệu thường dùng trong Toán học 17
Bảng 1.2. Các tiêu chuẩn của thuật ngữ tiếng Việt 22
Bảng 2.1. Phân bố các kiểu thuật ngữ (từ) trong Từ điển KHTN 46
Bảng 2.2. Thuật ngữ KHTN là từ ghép 49
Bảng 2.3. Thuật ngữ KHTN là từ ghép đẳng lập 51
Bảng 2.4. Số lượng mô hình thuật ngữ KHTN là từ ghép đẳng lập 59
Bảng 2.5. Thuật ngữ KHTN là từ ghép chính phụ 60
Bảng 2.6. Thuật ngữ KHTN là từ ghép chính phụ trật tự xuôi 61
Bảng 2.7. Số lượng mô hình cấu tạo thuật ngữ KHTN là từ ghép
chính phụ trật tự xuôi 67
Bảng 2.8. Thuật ngữ KHTN là từ ghép chính phụ trật tự ngược 69
Bảng 2.9. Số lượng mô hình cấu tạo thuật ngữ KHTN là từ ghép
chính phụ trật tự ngược 72
Biểu đồ 2.10. Tỉ lệ các mô hình cấu tạo thuật ngữ KHTN là từ ghép
đẳng lập 76
Biểu đồ 2.11. Tỉ lệ các mô hình cấu tạo thuật ngữ KHTN là từ ghép
chính phụ trật tự xuôi 77
Biểu đồ 2.12. Tỉ lệ các mô hình cấu tạo thuật ngữ KHTN là từ ghép
chính phụ trật tự ngược 78
Bảng 2.13. Các thành tố độc lập (đứng trước) có tần số xuất hiện
cao trong thuật ngữ KHTN 79

Bảng 2.14. Các thành tố không độc lập (đứng trước) có tần số xuất
hiện cao trong thuật ngữ KHTN 81
Bảng 3.1. Thuật ngữ KHTN có cấu tạo là ngữ 90
Bảng 3.2. Thuật ngữ KHTN có cấu tạo là danh ngữ 94
Bảng 3.3. Thuật ngữ KHTN có cấu tạo là động ngữ 118
Bảng 3.4. Số lượng mô hình cấu tạo thuật ngữ KHTN là động ngữ 134
Bảng 3.5. Số lượng thuật ngữ là danh ngữ thuộc mô hình: Phần
phụ trước + Phần trung tâm 136
Bảng 3.6. Số lượng thuật ngữ là danh ngữ thuộc mô hình: Phần
phụ trước + Phần trung tâm + Phần phụ sau 136
Bảng 3.7. Số lượng thuật ngữ là danh ngữ thuộc mô hình: Phần
trung tâm + Phần phụ sau 137
Biểu đồ 3.8. Tỉ lệ thành tố tham gia cấu tạo thuật ngữ KHTN là
danh ngữ 139
Bảng 3.9. Số lượng thuật ngữ là động ngữ thuộc mô hình: Phần
phụ trước + Phần trung tâm 140
Bảng 3.10. Số lượng thuật ngữ là động ngữ thuộc mô hình: Phần
phụ trước + Phần trung tâm + Phần phụ sau 140
Bảng 3.11. Số lượng thuật ngữ là động ngữ thuộc mô hình: Phần
trung tâm + Phần phụ sau 141
Biểu đồ 3.12. Tỉ lệ thành tố tham gia cấu tạo thuật ngữ KHTN là
động ngữ 142


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5

4. Phương pháp nghiên cứu 6
5. Đối tượng và tư liệu nghiên cứu 7
6. Đóng góp của luận án 7
7. Bố cục của luận án 8
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN 9
1.1. Khái niệm thuật ngữ 9
1.2. Thuật ngữ trong văn bản 12
1.3. Phân biệt thuật ngữ và danh pháp khoa học 19
1.4. Phương châm xây dựng thuật ngữ khoa học tiếng Việt 21
1.5. Về hệ thuật ngữ khoa học tự nhiên và tình hình nghiên cứu ở Việt Nam 27
1.6. Phương thức cấu tạo thuật ngữ 34
1.7. Tiểu kết chương 1 37
Chương 2. PHƯƠNG THỨC VÀ MÔ HÌNH CẤU TẠO THUẬT NGỮ
KHOA HỌC TỰ NHIÊN Ở BẬC TỪ 39
2.1. Quan niệm từ - từ điển và các kiểu loại cấu trúc từ tiếng Việt 39
2.1.1. Quan niệm từ - từ điển 39
2.1.2. Các kiểu loại cấu trúc từ tiếng Việt 40
2.2. Thành tố cấu tạo thuật ngữ ở cấp độ từ 42
2.2.1. Thành tố cơ sở 43
2.2.2. Thành tố trực tiếp 43
2.3. Quan niệm mô hình cấu tạo từ và phạm vi khảo sát 44
2.3.1. Quan niệm mô hình cấu tạo từ 44
2.3.2. Phạm vi khảo sát 45
2.4. Thuật ngữ khoa học tự nhiên là từ ghép 47
2.4.1. Khái niệm từ ghép 47
2.4.2. Thuật ngữ khoa học tự nhiên là từ ghép đẳng lập 50
2.4.3. Thuật ngữ khoa học tự nhiên là từ ghép chính phụ 59
2.5. Các mô hình sản sinh thuật ngữ 73
2.5.1. Quan niệm sản sinh 73
2.5.2. Những mô hình có sức sản sinh lớn 75

2.6. Tiểu kết chương 2 85
Chương 3. PHƯƠNG THỨC VÀ MÔ HÌNH CẤU TẠO THUẬT NGỮ
KHOA HỌC TỰ NHIÊN Ở BẬC NGỮ 88
3.1. Giới hạn khái niệm và nội dung khảo sát 88
3.1.1. Giới hạn khái niệm 88
3.1.2. Nội dung khảo sát 89
3.2. Thuật ngữ khoa học tự nhiên có cấu tạo là danh ngữ 91
3.2.1. Khái niệm danh ngữ 91
3.2.2. Mô hình cấu trúc của danh ngữ 91
3.2.3. Các mô hình cấu tạo 94
3.3. Thuật ngữ khoa học tự nhiên có cấu tạo là động ngữ 117
3.3.1. Khái niệm động ngữ 118
3.3.2. Các mô hình cấu tạo 118
3.4. Những mô hình có sức sản sinh cao 135
3.5. Tiểu kết chương 3 146
KẾT LUẬN 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN NỘI DUNG
LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 165
1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
1.1. Về mặt ngôn ngữ và văn tự, trước đây, trong suốt 1000 năm Bắc
thuộc và tiếp sau gần 1000 năm độc lập, tiếng Việt tồn tại trong vị thế song ngữ
bất bình đẳng [113]. Kể từ cách mạng tháng Tám năm 1945, địa vị của tiếng
Việt nói chung, chữ quốc ngữ nói riêng mới thực sự thay đổi, tiếng Việt đã trở
thành ngôn ngữ quốc gia thống nhất. Vị thế của tiếng Việt thay đổi nên chức

năng xã hội của tiếng Việt càng ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều
sâu. Tiếng Việt không chỉ được dùng rộng rãi trong giao tiếp toàn xã hội, trong
các văn bản pháp quy nhà nước, mà còn là công cụ được dùng để dạy học trong
các cấp học, trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học khác nhau. Cùng với sự
phát triển của xã hội, tiếng Việt cũng phát triển mạnh mẽ, toàn diện. Như một
đòi hỏi khách quan và cũng là tất yếu của sự phát triển ngôn ngữ, một hệ thuật
ngữ khoa học tiếng Việt ra đời để đáp ứng nhu cầu giáo dục đào tạo và nghiên
cứu khoa học. Cũng vì thế, thuật ngữ là một trong những lĩnh vực trở thành đối
tượng nghiên cứu cần yếu của Việt ngữ học.
1.2. Từ những năm đầu thế kỉ XX, đặc biệt là từ những năm 40 về sau,
việc biên soạn thuật ngữ tiếng Việt có những bước phát triển. Năm 1942 cuốn
Danh từ khoa học của tác giả Hoàng Xuân Hãn ra đời, là mốc đánh dấu hệ
thuật ngữ khoa học tự nhiên (KHTN) và công nghệ Việt Nam hình thành, bước
phát triển đầu tiên của thuật ngữ khoa học tiếng Việt. Tiếp theo, sau 1945, hàng
loạt thuật ngữ Hóa học, Sinh học lần lượt được xuất bản; nội dung khoa học
được nâng lên một bước và phát triển theo định hướng: chính xác, hệ thống,
quốc tế và dân tộc. Đến nay, cùng với sự phát triển sâu rộng của các ngành
khoa học, hệ thống thuật ngữ tiếng Việt, nhất là hệ thống thuật ngữ các ngành
KHTN đã phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ không chỉ về từng thuật ngữ đơn lẻ
2

mà cả hệ thống. Nghiên cứu thuật ngữ tiếng Việt tuy đã có nhiều thành tựu
nhưng còn rất nhiều vấn đề của thuật ngữ cần đào sâu, trong đó có vấn đề
chuẩn hóa trong thời kì mới.
1.3. Từ trước đến nay, nói đến xây dựng, phát triển thuật ngữ, người ta đề
cập đến nhiều con đường như: thuật ngữ hóa từ thông thường, tạo thuật ngữ trên
cơ sở ngữ liệu vốn có, vay mượn thuật ngữ nước ngoài. Trong đó, con đường
cấu tạo thuật ngữ mới có ý nghĩa quan trọng, vì nó sử dụng chất liệu ngôn ngữ
dân tộc. Chính vì vậy, việc đi sâu nghiên cứu các phương thức cấu tạo của hệ
thuật ngữ KHTN trong tiếng Việt là cần thiết, góp phần vào quá trình xây dựng

và chuẩn hóa hệ thuật ngữ tiếng Việt nói chung và hệ thuật ngữ KHTN nói riêng
theo phương châm: khoa học (chính xác, hệ thống), quốc tế và dân tộc. Mặt
khác, hiểu rõ các đặc điểm cấu tạo của hệ thuật ngữ KHTN tiếng Việt cũng sẽ
góp phần vào việc khẳng định vai trò của tiếng Việt trong lĩnh vực khoa học, góp
phần vào quá trình truyền bá tri thức, phát triển khoa học ở Việt Nam. Kết quả
nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng vào việc biên soạn từ điển, tạo điều
kiện cho việc giảng dạy và học tập tốt hệ thuật ngữ khoa học tiếng Việt nói
chung và hệ thuật ngữ KHTN nói riêng.
2. Lịch sử vấn đề
Mặc dù vấn đề thuật ngữ đã được quan tâm từ rất lâu, nhưng phải đến
thế kỉ XX, Thuật ngữ học mới thực sự được khẳng định như một ngành khoa
học. Việc nghiên cứu thuật ngữ xuất phát từ hai vấn đề nền tảng: thứ nhất là
do kết quả quan sát quá trình hình thành lí thuyết nhằm đáp ứng sự ra đời của
một bộ phận từ ngữ đặc biệt trong ngôn ngữ chuyên môn; thứ hai là do trên
thực tế, trong giao tiếp, nhóm từ ngữ đặc biệt này được coi như những từ ngữ
có ứng dụng độc lập.
Trên thực tế, thuật ngữ ra đời và được sử dụng trước khi người ta tìm
cách định nghĩa chúng. Bên cạnh cái chung, mỗi ngành khoa học đều tạo
3

dựng cho mình các cơ sở xây dựng nên những hệ thống thuật ngữ chuyên
ngành khác nhau, vì thế chúng có những đặc thù riêng.
Để hình dung một cách rõ hơn về nội dung của khái niệm “thuật ngữ
khoa học”, trước hết chúng ta hãy đến với quan niệm của các nhà khoa học Âu -
Mĩ, nơi có nền khoa học - kĩ thuật - công nghệ phát triển sớm, nhanh và mạnh.
Nói đến thuật ngữ học trước hết không thể không nhắc tới các nhà thuật
ngữ học như: E. Wuster (Đức), J.C. Boulanger (Anh), R.W. Brown (Mĩ)
[146], W.E. Flood (Mĩ) [148], J.C. Segen (Mĩ) [150]. Ngoài việc định nghĩa
thuật ngữ, nêu bản chất khái niệm và chức năng của chúng, các nhà nghiên
cứu này còn có xu hướng tìm cách xác định các tiêu chuẩn cụ thể cần phải có

của thuật ngữ.
Cùng với những tên tuổi của các nhà thuật ngữ học Âu - Mĩ là các nhà
thuật ngữ học nổi tiếng của Xô viết như: D.S. Lotte (Д.C. Лотте), N.P. Kuz'kin
(Н.П. Кузькин), A.I. Moiseev (А.И. Моисеев), V.V. Vinogradov (В.В.
Виноградов), A.A. Reformatskij (А.А. Реформатский), V.P. Đanilenko (В.П.
Даниленко), A.S. Gerd (А.С. Герд), đã đi sâu vào phân tích bản chất, chức
năng, khái niệm của thuật ngữ và đã tìm định nghĩa cho thuật ngữ khoa học.
Riêng nghiên cứu về cấu tạo của thuật ngữ, năm 1939 tác giả G.O. Vinokur
(Г.О. Винокур) đã có bài “Về một số hiện tượng cấu tạo từ trong hệ thuật ngữ
kĩ thuật Nga” [135].
Ở Việt Nam, thuật ngữ khoa học xuất hiện muộn hơn so với các nước
phương Tây. Vào những năm đầu thế kỉ XX, một số thuật ngữ khoa học xã
hội đã được các tác giả Đông Kinh Nghĩa Thục giới thiệu. Từ những năm
1917 trở đi, việc xây dựng, hình thành thuật ngữ đã có những biểu hiện từ tự
phát đến tự giác, trên tạp chí Nam Phong (1917 - 1934) đã có ý kiến bàn bạc
về việc biên soạn từ điển, đặt danh từ khoa học. Chẳng hạn như bài viết của
Nguyễn Ứng “Về sự dịch tiếng hóa học”, Nguyễn Triệu Luật bàn về “Danh từ
4

hóa học”. Một số từ điển (tự điển) đã được xuất bản như: Việt Nam tự điển, do
Hội khai trí Tiến Đức khởi thảo, xuất bản lần đầu năm 1931, Hán Việt từ điển
của Đào Duy Anh, Quan - Hải, Tùng - Thư xuất bản năm 1932 và Danh từ
khoa học (Toán, Lí, Hóa, Thiên văn) của Hoàng Xuân Hãn, xuất bản năm
1942. “Cuốn Danh từ khoa học của Hoàng Xuân Hãn không chỉ cung cấp tư
liệu từ ngữ mới, tri thức mới mà cả phương pháp, cách thức sáng tạo thuật
ngữ tiếng Việt hiện đại. Đóng góp lớn của công trình này không chỉ ở vốn
thuật ngữ một số ngành khoa học cơ bản lần đầu được xây dựng cấu tạo mà
còn là lí luận về hệ thuật ngữ, về nguyên tắc và phương pháp xây dựng hệ
thuật ngữ tiếng Việt hiện đại” [113, tr.190]. Sau cuốn Danh từ khoa học của
Hoàng Xuân Hãn, một số từ điển đã được xuất bản như Danh từ thực vật của

Nguyễn Hữu Quán và Lê Văn Căn, Danh từ vạn vật học của Đào Văn Tiến
(1945), Danh từ y học của Lê Khắc Thiền và Phạm Khắc Quảng, v.v.
Do điều kiện lịch sử và xã hội, phải đến những năm 60 của thế kỉ XX,
vấn đề thuật ngữ mới thực sự trở thành mối quan tâm của các nhà khoa học
Việt Nam. Năm 1960, Ban Sử Địa Văn (tiền thân của Viện Khoa học Xã hội
Việt Nam, nay là Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) đã ban hành
“Quy định tạm thời về nguyên tắc biên soạn danh từ khoa học tự nhiên”.
Hàng loạt các hội nghị, hội thảo bàn về vấn đề thuật ngữ (Hội nghị bàn về vấn
đề xây dựng thuật ngữ khoa học, 28 - 29/12/1964; Hội nghị trưng cầu ý kiến
về vấn đề dùng thuật ngữ khoa học tháng 5/1965). Một Hội đồng Thuật ngữ -
Từ điển khoa học do Nguyễn Khánh Toàn làm chủ tịch đã ra đời. Vào tháng
6/1966, Ủy ban Khoa học Nhà nước đã công bố áp dụng tạm thời bản “Quy
tắc phiên thuật ngữ khoa học (gốc Ấn - Âu) ra tiếng Việt”.
Những năm 90 của thế kỉ XX về sau, một số bài viết, công trình nghiên
cứu về cấu tạo thuật ngữ tiếng Việt ra đời như: Vấn đề phương thức cấu tạo
thuật ngữ trong một số công trình xuất bản tại Việt Nam thời kì 1954 - 1975
5

[143]; Thuật ngữ quân sự tiếng Việt (đặc điểm và cấu trúc) [42]; Thuật ngữ
Việt Nam đầu thế kỉ XX trong quan hệ với văn hóa và phát triển [111]; Đặc
điểm của thuật ngữ tiếng Việt [83], [84]; Về đặc điểm mô hình cấu tạo và việc
chuẩn hóa thuật ngữ xây dựng là cụm từ trong tiếng Việt [128]. Cùng với các
bài viết, công trình trên là các đề tài cấp bộ, cấp học viện đã được bảo vệ,
hàng loạt bài viết của các tác giả về thuật ngữ đã được giới thiệu, phản ánh
kết quả nghiên cứu về thuật ngữ tiếng Việt.
Kể từ năm 1991 đến năm 2013 đã có nhiều luận án tiến sĩ nghiên cứu
về thuật ngữ được bảo vệ, như luận án của Vũ Quang Hào [41], Nguyễn Thị
Bích Hà [35], Nguyễn Thị Kim Thanh [105], Vương Thị Thu Minh [80], Mai
Thị Loan, Vũ Thị Thu Huyền [48].
Như vậy, vấn đề thuật ngữ nói chung và việc nghiên cứu các phương

thức và mô hình cấu tạo của thuật ngữ nói riêng đã ít nhiều được các tác giả
trong và ngoài nước nghiên cứu. Tuy nhiên, việc chúng tôi đi vào Nghiên cứu
các phương thức cấu tạo hệ thuật ngữ khoa học tự nhiên tiếng Việt (trên tư
liệu thuật ngữ Toán - Cơ - Tin học, Vật lí) cho đến nay đây vẫn còn là lĩnh
vực chưa có tác giả nào đi vào khảo sát chuyên sâu và toàn cảnh nhóm ngành
khoa học này. Vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn đề tài này để nghiên cứu với
mong muốn góp một phần công sức vào lĩnh vực phát triển và chuẩn hóa
thuật ngữ nói chung và hệ thuật ngữ KHTN tiếng Việt nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Luận án nghiên cứu các phương thức cấu tạo hệ thuật ngữ KHTN
tiếng Việt mà cụ thể là hệ thuật ngữ Toán - Cơ - Tin học, Vật lí nhằm rút ra
các đặc điểm cơ bản về cấu tạo của hệ thuật ngữ này. Trên cơ sở đó, luận án
sẽ đưa ra một bức tranh tổng quát về các phương thức và mô hình cấu tạo;
đề xuất một số ý kiến đối với việc phát triển và chuẩn hóa hệ thuật ngữ này
trong tiếng Việt.
6

3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận án của chúng tôi hướng tới giải quyết
các nhiệm vụ sau đây:
- Hệ thống hóa các quan điểm lý thuyết về thuật ngữ khoa học nói
chung và về thuật ngữ KHTN tiếng Việt nói riêng. Đồng thời xem xét sơ bộ
về sự hình thành và phát triển của hệ thuật ngữ KHTN tiếng Việt trong mối
quan hệ với lịch sử phát triển của các ngành khoa học cơ bản này của Việt
Nam thời hiện đại.
- Khảo sát phương thức và mô hình cấu tạo hệ thuật ngữ KHTN Toán -
Cơ - Tin học, Vật lí tiếng Việt ở bậc từ.
- Khảo sát phương thức và mô hình cấu tạo hệ thuật ngữ KHTN Toán -
Cơ - Tin học, Vật lí tiếng Việt ở bậc ngữ.

Thông qua sự phân tích các mô hình cấu tạo, liên hệ tới những mô hình
có sức sản sinh cao, rút ra các mô hình cấu tạo cơ bản của các hệ thuật ngữ
này trong tiếng Việt.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt kết quả nghiên cứu theo mục đích và nhiệm vụ đã đề ra, luận
án sử dụng các phương pháp sau:
4.1. Phương pháp miêu tả
Phương pháp này được dùng để miêu tả các phương thức và mô hình
cấu tạo hệ thuật ngữ KHTN tiếng Việt.
4.2. Phương pháp phân tích thành tố trực tiếp
Phương pháp phân tích thành tố trực tiếp được áp dụng để phân tích
cấu tạo của thuật ngữ theo từng thành tố. Kết quả phân tích cho thấy đặc điểm
phương thức cấu tạo của hệ thuật ngữ KHTN tiếng Việt và làm rõ hệ thống mô
hình cấu tạo cũng như các bước phát triển và xu hướng chuẩn hóa của chúng
trong tiếng Việt.
Ngoài hai phương pháp cơ bản trên, luận án còn sử dụng các phương
pháp, thủ pháp nghiên cứu sau:
7

- Phương pháp so sánh đối chiếu được dùng khi phân tích những đặc
điểm riêng của từng tiểu loại. Các tiểu loại khảo sát có mối liên hệ với nhau;
qua so sánh rút ra những nhận xét chung và riêng cho từng tiểu loại.
- Thủ pháp thống kê phân loại được sử dụng để xác định số lượng từng
loại thuật ngữ xét theo mô hình cấu tạo. Các kết quả thống kê sẽ được tổng hợp
thể hiện dưới hình thức các bảng biểu, đồ thị nhằm giúp hình dung rõ hơn nét
đặc trưng cơ bản về cấu tạo của hệ thuật ngữ khoa học tự nhiên trong tiếng Việt.
5. Đối tượng và tư liệu nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là hệ thuật ngữ khoa học tự nhiên
tiếng Việt. Xét theo bậc cấu tạo và các phương diện cụ thể của thuật ngữ, luận

án sẽ nghiên cứu:
- Phương thức và mô hình cấu tạo thuật ngữ khoa học tự nhiên ở bậc từ
- Phương thức và mô hình cấu tạo thuật ngữ khoa học tự nhiên ở bậc ngữ
5.2. Tư liệu nghiên cứu
Ở Việt Nam, hiện nay có nhiều từ điển KHTN song ngữ được xuất bản.
Trong số những cuốn từ điển KHTN được xuất bản gần đây, chúng tôi đã chọn
các từ điển sau làm tư liệu nghiên cứu: Từ điển Anh - Việt khoa học tự nhiên,
tập 1, Toán - Cơ - Tin học và tập 2, Vật lí/ Nguyễn Văn Mậu (chủ biên), Nxb
Giáo dục, Hà Nội, 2008.
Đây là những từ điển được biên soạn bởi những nhà khoa học có uy tín
hàng đầu ở Việt Nam, những từ điển này được biên soạn vào dịp kỉ niệm 50 năm
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội (1956 - 2006).
6. Đóng góp của luận án
6.1. Ý nghĩa lí luận
- Việc nghiên cứu về hệ thuật ngữ KHTN tiếng Việt của luận án góp
phần tổng hợp, nhìn nhận toàn cảnh các vấn đề về thuật ngữ KHTN nói riêng
và thuật ngữ ở Việt Nam nói chung.
8

- Qua khảo sát và phân tích, luận án chỉ ra các đặc điểm của thuật ngữ
KHTN tiếng Việt về cấu tạo, từ đó sẽ góp phần thúc đẩy tiến trình xây dựng
hệ thuật ngữ KHTN tiếng Việt mang tính khoa học (tính chính xác, tính hệ
thống), tính quốc tế và tính dân tộc, thiết thực góp ích cho sự phát triển của
khoa học nói chung và hệ thuật ngữ KHTN tiếng Việt nói riêng.
- Kết quả nghiên cứu sẽ thực sự đóng góp vào việc xây dựng lí thuyết
về thuật ngữ khoa học nói riêng và lí luận về chuẩn hóa ngôn ngữ nói chung.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở xác định được các đặc điểm về mặt cấu tạo của hệ thuật ngữ
KHTN tiếng Việt, luận án sẽ góp phần định hướng cho việc xây dựng và
chuẩn hóa thuật ngữ, rút kinh nghiệm cho việc xây dựng thuật ngữ khoa học

nói chung và hệ thuật ngữ KHTN nói riêng trong tiếng Việt hiện nay.
Luận án, ở mức độ khác nhau, trực tiếp hoặc gián tiếp, góp phần chuẩn
hóa và giữ gìn sự trong sáng, sự phát triển của tiếng Việt trong thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập khu vực và quốc tế.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, khảo sát và phụ lục,
luận án gồm có ba chương được sắp xếp như sau:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Phương thức và mô hình cấu tạo thuật ngữ KHTN ở bậc từ
Chương 3: Phương thức và mô hình cấu tạo thuật ngữ KHTN ở bậc ngữ
9

Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN

1.1. Khái niệm thuật ngữ
Hiện nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, vấn đề thuật ngữ luôn
được các nhà ngôn ngữ học cũng như các nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa, khái niệm thuật
ngữ được mọi người thừa nhận. Sở dĩ có nhiều cách định nghĩa khác nhau là
do cách nhìn. Có tác giả cho rằng thuật ngữ xác định khái niệm, nhưng cũng
có tác giả cho rằng thuật ngữ không chỉ xác định khái niệm mà còn biểu hiện
khái niệm. Về bản chất của thuật ngữ, D.S. Lotte (Д.C. Лотте), thì cho rằng
thuật ngữ là từ đặc biệt, còn G.O. Vinokur (Г.О.Винокур) cho rằng thuật
ngữ không phải từ đặc biệt, mà chỉ là từ với chức năng đặc biệt, và tuyên bố
rằng, bất cứ từ nào cũng được cấu tạo để có vai trò là một thuật ngữ.
O.S. Akhmanova (O.C. Axмaнова) định nghĩa: “Thuật ngữ là từ hoặc
cụm từ của ngôn ngữ chuyên môn (ngôn ngữ khoa học, ngôn ngữ kĩ thuật,
v.v.) được sáng tạo ra (được tiếp nhận, được vay mượn, v.v.) để biểu hiện
chính xác các khái niệm chuyên môn và biểu thị các đối tượng chuyên môn”

[dẫn theo 124, tr.3]. Đại Bách khoa toàn thư Xô viết (1976) định nghĩa:
“thuật ngữ là một từ hoặc một cụm từ chỉ ra một cách chính xác khái niệm
và quan hệ của nó với những khái niệm khác trong giới hạn của phạm vi
chuyên ngành. Thuật ngữ là cái biểu thị vốn đã chuyên biệt hóa, hạn định
hóa về sự vật, hiện tượng, thuộc tính và quan hệ của chúng đặc trưng cho
phạm vi chuyên môn đó” [dẫn theo 35, tr.11].
Đanilenko (В.П. Даниленко) cho rằng: “Thuật ngữ dù là từ (ghép
hoặc đơn) hay cụm từ đều là một kí hiệu tương ứng với một khái niệm”, và
“Bản chất của thuật ngữ với tư cách là một khái niệm hoàn toàn không trùng
với từ thông thường của ngôn ngữ toàn dân” [dẫn theo 35, tr.11].
10

A.S. Gerd (А.С. Герд) định nghĩa: “Thuật ngữ là một đơn vị từ vựng
- ngữ nghĩa có chức năng định nghĩa và được khu biệt một cách nghiêm ngặt
bởi các đặc trưng như tính hệ thống, tính đơn nghĩa; ở thuật ngữ không có
hiện tượng đồng nghĩa hay đồng âm trong phạm vi của một khoa học hoặc
một lĩnh vực tri thức cụ thể” [dẫn theo 105, tr.19].
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu thuật ngữ bắt đầu từ những năm đầu thế
thế kỷ XX. Rất nhiều nhà khoa học Việt Nam đã đi vào nghiên cứu và đưa ra
những định nghĩa thuật ngữ, làm cho khái niệm “thuật ngữ” ngày một đầy đủ
và chính xác.
Năm 1960, trong cuốn Khái luận ngôn ngữ học, Nguyễn Văn Tu đã định
nghĩa: “Thuật ngữ là từ hoặc nhóm từ dùng trong các ngành khoa học, kĩ thuật,
chính trị, ngoại giao, nghệ thuật, v.v. và có một ý nghĩa đặc biệt, biểu thị chính
xác các khái niệm và tên các sự vật thuộc ngành nói trên" [131, tr.176]. Năm
1976, trong cuốn Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại, một lần nữa, ông lại đưa ra
định nghĩa về thuật ngữ: “Thuật ngữ là những từ và những cụm từ chỉ những
khái niệm của một ngành khoa học, ngành sản xuất hay ngành văn hóa nào đó
v.v Ví dụ: đồng âm, phụ âm, nguyên âm thuộc về ngành ngôn ngữ học; giáo
án, lên lớp, thuộc về ngành giáo dục học; ốcxi hidrô, benzen thuộc về ngành

hóa học; quang phổ, quang học, điện pin thuộc về ngành lí v.v
Đặc điểm của thuật ngữ là một từ chỉ có một nghĩa, không có từ đồng
nghĩa, không có sắc thái tình cảm, có thể có tính chất quốc tế (tùy từng
ngành)” [133, tr.202].
Ở định nghĩa này, Nguyễn Văn Tu đã nhấn mạnh đến mặt khái niệm
mà các thuật ngữ biểu thị. Tuy nhiên, do điều kiện khoa học - kĩ thuật ở nước
ta lúc bấy giờ còn chưa phát triển mạnh, nên trong định nghĩa của ông phải
chăng vì thế mà tính quốc tế chưa được đề cao, còn "tùy từng ngành”.
Năm 1962, trong Giáo trình Việt ngữ, tập 2, Đỗ Hữu Châu đã định nghĩa:
“Thuật ngữ là những từ chuyên môn được sử dụng trong phạm vi một ngành
11

khoa học, một nghề nghiệp hoặc một ngành kĩ thuật nào đấy. Có thuật ngữ của
ngành vật lí, ngành hóa học, toán học, thương mại, ngoại giao, v.v… Đặc tính
của những từ này là phải gắng chỉ có một nghĩa, biểu thị một khái niệm hay chỉ
tên một sự vật, một hiện tượng khoa học, kĩ thuật nhất định” [15, tr.167].
Định nghĩa trên đã nhấn mạnh không chỉ đến mặt “biểu thị khái niệm
khoa học” mà còn “chỉ tên một sự vật, hiện tượng khoa học, kĩ thuật” trong
thuật ngữ khoa học.
Sau này trong cuốn Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt (1981), Đỗ Hữu
Châu đã đưa ra định nghĩa bao quát nhưng khái quát hơn về thuật ngữ khoa
học, kĩ thuật như sau: “Thuật ngữ khoa học, kĩ thuật bao gồm các đơn vị từ
vựng được dùng để biểu thị những sự vật, hiện tượng, hoạt động, đặc điểm…
trong những ngành kĩ thuật công nghiệp và trong những ngành khoa học tự
nhiên hay xã hội” [16, tr.237]. Ông đối lập thuật ngữ với từ thông thường.
Theo ông: “Khác với từ thông thường, thuật ngữ có ý nghĩa biểu vật trùng
hoàn toàn với sự vật, hiện tượng có thực trong thực tế, đối tượng của ngành
kĩ thuật và ngành khoa học tương ứng. Ý nghĩa biểu niệm của chúng cũng là
những khái niệm về các sự vật, hiện tượng này đúng như chúng tồn tại trong
tư duy (dĩ nhiên theo cách hiểu của ngành kĩ thuật và ngành khoa học tương

ứng). Về mặt nội dung, ở các thuật ngữ không xảy ra sự chia cắt thực thể
khách quan theo cách riêng của ngôn ngữ. Mỗi thuật ngữ như là một “cái
nhãn” dán vào đối tượng này (cùng với khái niệm về chúng) tạo nên chính nội
dung của nó. Tính hệ thống về mặt ngữ nghĩa của thuật ngữ là do tính hệ
thống của bản thân đối tượng và khái niệm trong ngành khoa học và kĩ thuật
đó quyết định” [16, tr.238].
Năm 1983, Hoàng Văn Hành đã đưa ra định nghĩa nhấn mạnh hơn đến
tính hệ thống của thuật ngữ. Trong định nghĩa này, Hoàng Văn Hành đã chỉ rõ
thêm tính xác định của khái niệm mà thuật ngữ biểu thị trong hệ thống những
12

khái niệm của một ngành khoa học nhất định: “Thuật ngữ là từ ngữ dùng để
biểu thị một khái niệm xác định thuộc hệ thống những khái niệm của một
ngành khoa học nhất định. Toàn bộ hệ thống thuật ngữ của các ngành khoa
học hợp thành vốn thuật ngữ” [38, tr.26].
Năm 1978, trong giáo trình Từ vựng tiếng Việt, tiếp đến năm 1985,
trong cuốn Từ vựng học tiếng Việt, sau đó là năm 1998 trong giáo trình trên
được tái bản, Nguyễn Thiện Giáp viết “Thuật ngữ là bộ phận từ ngữ đặc biệt
của ngôn ngữ. Nó bao gồm những từ và cụm từ cố định là tên gọi chính xác
của các loại khái niệm và các đối tượng thuộc các lĩnh vực chuyên môn của
con người” [29, tr.270].
Năm 2008, trong cuốn Sự phát triển của từ vựng tiếng Việt nửa sau thế
kỉ XX, tác giả Hà Quang Năng viết: “thuật ngữ là từ ngữ dùng để biểu thị một
khái niệm xác định thuộc hệ thống những khái niệm của một ngành khoa học
nhất định” [81, tr.94].
Năm 2010, trên tạp chí Ngôn ngữ, tác giả Nguyễn Đức Tồn đã viết:
“Thuật ngữ là từ ngữ biểu hiện một khái niệm hoặc một đối tượng trong phạm
vi một lĩnh vực khoa học hoặc chuyên môn” [124, tr.1-9].
Từ những định nghĩa trên và để có cơ sở khoa học cho quá trình khảo
sát đối tượng của luận án, chúng tôi đưa ra một cách hiểu về thuật ngữ như

sau: Thuật ngữ là từ ngữ biểu hiện khái niệm hoặc đối tượng trong một lĩnh
chuyên môn nhất định.
1.2. Thuật ngữ trong văn bản
Việt Nam hiện đang trên con đường hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Đi cùng với quá trình này, các ngành khoa học và công nghệ cũng đang phát
triển với tốc độ nhanh. Số lượng thuật ngữ (term) liên tục tăng, tỉ lệ thuật ngữ
xuất hiện trong các văn bản ngày càng cao. Đây là điều tất yếu của quá trình
công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, với số lượng thuật ngữ
13

tăng với tốc độ rất lớn này, việc tìm hiểu, điều chỉnh thuật ngữ cũng trở nên
không thể thiếu và đóng một vai trò quan trọng trong các văn bản, đặc biệt là
văn bản khoa học chuyên ngành.
Thuật ngữ không chỉ xuất hiện trong các văn bản khoa học, kĩ thuật mà
còn có cả ở các văn bản thông thường. Trong các văn bản thuộc lĩnh vực
KHTN, thuật ngữ được sử dụng với một số lượng lớn. Ví dụ: đạo hàm, tích
phân, vi phân, đoạn thẳng, (Toán học); điểm tựa, trọng lực, lực, phát
quang, phóng xạ, điện trở, quán tính, cơ học, dao động, (Vật lí); kiềm,
muối, phân tử, kim loại, lưu huỳnh, hỗn hợp, nguyên tử, (Hóa học); mô, tế
bào, thụ phấn, (Sinh học). Đây là những thuật ngữ của ngôn ngữ tự nhiên
chứa đựng các khái niệm của các chuyên ngành khoa học, và là công cụ để tư
duy khoa học. Các khái niệm khoa học này là kết quả của quá trình trừu tượng
và khái quát hóa của con người. Vì thế, các thuật ngữ biểu hiện chúng cũng
mang tính trừu tượng, khái quát cao.
Thuật ngữ thuộc về lớp từ vựng khoa học chuyên ngành, không giống từ
ngữ thông thường được sử dụng trong giao tiếp hàng ngày. Do đó, khi sử dụng
thuật ngữ, cần phải dùng đúng với khái niệm khoa học. Ví dụ, trong ngôn ngữ
hàng ngày, muối được dùng với nghĩa “tinh thể trắng, vị mặn thường tách từ
nước biển, dùng để ăn”. Khi muối được dùng trong lĩnh vực Hóa học, thì muối
có nghĩa là “Hợp chất do acid tác dụng với base sinh ra” [137, tr.650].

Các ngành khoa học hiện đại phát triển nhanh, có xu hướng đa ngành,
liên ngành. Vì vậy, xuất hiện tình trạng một thuật ngữ được dùng trong
nhiều ngành khoa học khác nhau, như virus, chuột trong Sinh học và Tin
học; chu kì trong Toán học, Vật lí, Hóa học, Tuy nhiên, mỗi ngành khoa
học có hàm nội dung khái niệm xác định, hiện tượng đồng âm này không vi
phạm nguyên tắc: một thuật ngữ phải là một khái niệm xác định, chính xác,
thuần lí.
14

Trong các văn bản thuộc lĩnh vực KHTN, hệ thống thuật ngữ của các
ngành như Toán học, Vật lí, Hóa học, Sinh học mang tính ổn định hơn so với
lĩnh vực Tin học. Bởi vì, so với các ngành khoa học khác, Tin học là ngành
mới xuất hiện trong những thập niên gần đây. Thuật ngữ Tin học là hệ thuật
ngữ trẻ, đang trong quá trình hình thành và phát triển, chưa ổn định, hằng
ngày lại xuất hiện rất nhiều thuật ngữ mới lạ nên việc phiên chuyển những
thuật ngữ này cũng còn nhiều bất cập, gây trở ngại cho người sử dụng.
Cùng với việc sử dụng các thuật ngữ, văn bản chuyên ngành thuộc lĩnh
vực KHTN còn sử dụng một số lượng lớn các danh pháp khoa học. Ví dụ:
vitamin A, vitamin B, vitamin C, Về mặt chức năng, danh pháp giống với
các tên riêng, còn thuật ngữ gắn liền với hệ thống các khái niệm. Về bản chất,
thuật ngữ nhấn mạnh đến chức năng định nghĩa, còn danh pháp chức năng gọi
tên mới là quan trọng. Khi tên riêng được dùng để biểu đạt khái niệm thì đó là
thuật ngữ. Ví dụ: Ôm, Vôn (danh pháp)

Ôm kế, Vôn kế (thuật ngữ).
Trong văn bản KHTN, còn sử dụng nhiều thuật ngữ chung cho các
ngành khoa học như: hệ thống, chức năng, yếu tố, phương trình, vật chất, thời
gian, bình diện Lớp thuật ngữ này thường được sử dụng lặp đi lặp lại nhiều
lần trong một văn bản chuyên ngành. Đây là điểm khác biệt giữa văn bản
chuyên ngành KHTN và văn bản nghệ thuật. Đối với văn bản nghệ thuật, việc

lặp đi lặp lại một từ trong một ngữ cảnh hẹp là một thiếu sót, nhưng đối với
văn bản chuyên ngành thuộc lĩnh vực KHTN thì đó là một dấu hiệu của
phong cách chức năng.
Văn bản chuyên ngành KHTN, bên cạnh việc sử dụng các thuật ngữ
chung, còn sử dụng nhiều thuật ngữ mang tính trừu tượng. Trong khoa học,
các khái niệm đều được nhận thức thông qua tư duy logic, thông qua quá trình
trừu tượng hóa, khái quát hóa để nhận thức và phản ánh thế giới khách quan.
Đóng vai trò quan trọng trong lớp thuật ngữ trừu tượng này là các từ Hán Việt
15

và cách định danh hóa một động từ bằng các thành tố “sự”, “tính”, Những
thuật ngữ chỉ vật chất trừu tượng trong văn bản chuyên ngành được sử dụng
với ý nghĩa khái quát, đảm bảo tính ngắn gọn và chính xác.
Để nắm vững thuật ngữ chuyên ngành, ngoài việc am hiểu khoa học,
người tạo lập văn bản còn cần phải thông thạo ngoại ngữ của từng lĩnh vực
chuyên môn. Chẳng hạn, trong lĩnh vực Tin học, nếu không có sự hiểu biết
về tiếng Anh chuyên ngành, người tra cứu thông tin sẽ gặp rất nhiều khó
khăn. Nhưng nếu có trình độ chuyên môn tốt, chỉ cần một cái "nhấp chuột"
là cả một thế giới thông tin rộng lớn sẽ được mở ra trước mắt người đọc.
Trong văn bản chuyên ngành, thuật ngữ là danh từ được sử dụng nhiều nhất.
Bởi đa phần thuật ngữ trong văn bản chuyên ngành là thuật ngữ định danh
khái niệm. Trong số những thuật ngữ là danh từ còn có những thuật ngữ là
danh từ trừu tượng như: thời gian, nhiệt độ, hiện tượng, số lượng, thuộc tính,
tần số, trạng thái,
Văn bản chuyên ngành khoa học mang đặc trưng lí trí, logic cả trong nội
dung khoa học, cả ở phương tiện ngôn ngữ. Bởi vì, để gợi mở trí tuệ và thuyết
phục bằng lí tính, lời trình bày, cách suy luận phải biểu hiện bằng năng lực tổng
hợp của trí tuệ, phải tuân theo quy tắc chặt chẽ của tư duy logic hình thức đến
tư duy logic biện chứng.
Trong lĩnh vực KHTN, việc chứng minh tính đúng đắn về nội dung khoa

học cũng có sự khác nhau: “Nếu để chứng minh các quan điểm của mình, nhà
tự nhiên học luôn tìm đến thực nghiệm, thì nhà toán học chứng minh các kết
quả của mình chỉ bằng các lập luận logic. Trong toán học, không điều gì được
công nhận là chân lí khi chưa được chứng minh logic, cả trong trường hợp một
số thí nghiệm đặc biệt xác nhận điều ấy đúng” [90, tr.10].
Trong quá trình nhìn nhận và khám phá sự vật, “Các nhà khoa học cũng
xuất phát từ giác quan như cái nhìn thông thường, nhưng nhà khoa học khác
16

người thường ở điểm anh ta tìm ra được những quan hệ bất biến, giải quyết
được những điều mà giác quan thông thường cho là mâu thuẫn (1). Cái thước
tuy thẳng nhưng nhúng một đầu xuống nước thì thấy nó bị gãy thành một
đường gấp khúc (2). Lí trí bảo cái thước thẳng, con mắt bảo cái thước cong,
để điều hòa mâu thuẫn, người ta bảo: giác quan sai lầm (3). Nhà Vật lí học
giải thích: đây không có sự sai lầm nào của giác quan cả, mà do cái độ khúc
xạ của ánh sáng, và đã đưa ra một công thức Toán học giải thích mọi hiện
tượng khúc xạ” [88, tr.185].
Cũng cần phải nói thêm rằng, trong các văn bản chuyên ngành thuộc
lĩnh vực KHTN, ngoài việc sử dụng các thuật ngữ, người ta thường sử dụng
các kí hiệu, công thức như:  (beta),  (epsilon),  (omega), (Toán học);


(ôm), Q (điện tích), C (điện dung), U (hiệu điện thế), (Vật lí); F (Fluor), He
(Hêlium), H
2
O, NaCl, (công thức Hóa học).
Theo nghĩa chuyên môn, kí hiệu là “Cái có thể nhận biết trực tiếp, cho
phép kết luận về sự tồn tại hoặc về tính chân thực của một cái khác liên hệ với
nó” [137, tr.520]. Còn công thức là: “1. Nhóm kí hiệu diễn tả gọn một sự kiện
tổng quát, một quy tắc, nguyên lí hoặc khái niệm. Công thức diện tích (S)

hình chữ nhật (có các cạnh a, b) là S=ab. 2. cn. công thức Hóa học. Nhóm kí
hiệu hóa học biểu diễn thành phần phân tử của một chất. Công thức của nước
là H
2
O” [137, tr.210].
Trong Toán học, để cho gọn, người ta thường dùng các kí hiệu để chỉ
các số, các hình, các phép toán, các quan hệ, như:

(vô hạn), e (cơ số
logarit tự nhiên),  (tỉ số giữa chu vi và đường kính vòng tròn), [ ] (phần
nguyên của một số), a
2
, b
2
, a
n
(lũy thừa của một số); các phép tính cộng,
trừ, nhân, chia, v.v.
Tập hợp các kí hiệu thường dùng trong Toán học được thể hiện qua
bảng tổng hợp 1.1 sau:
17

Bảng 1.1. Các kí hiệu thường dùng trong Toán học
Dấu Nghĩa của dấu Người đưa vào Năm đưa vào



Vô hạn Oalixơ (J Wallis) 1655
e Cơ số logarit tự nhiên Ơle ( L. Euler) 1736


Tỉ số giữa chu vi và
đường kính vòng tròn
Jôn (W. Jones) và Ơle 1706
1736
i Đơn vị ảo Ơle 1777
i, j, k Véc tơ đơn vị
Hamintơn (W. R. Haminlton)

1853
[ ]
Phần nguyên của một số
Gauxơ (C. F. Gauss) 1808
+, - Phép cộng, phép trừ Vitman 1489
x Phép nhân Aotret (vW. Oughtret) 1631
. Phép nhân Laibnit (G. W. Leibniz) 1698
: Phép chia Laibnit 1684
a
2
, b
2
,…a
n
Lũy thừa Đề các, Niutơn 1637, 1676
.,
n
.
Căn số
Ruđônpơ (Ch. Rudolf) 1525
log Lôgarit
Kêplơ (J. Keplor)

Cavaliêri (B. Cavalieri)
1632
ln lôgarit tự nhiên Prinhsêm (A. Pringsheim) 1893
sin, cos Các hàm lượng giác Ơle 1748
tang Ơle 1753
dx, d
2
x Vi phân Laibnit 1675
ydx
Tích phân
Labnit 1675
d/dx Đạo hàm Labnit 1675
y’(x),
f’(x)
Đạo hàm
Lagrăng (J. L. de
Lagrange)
1770

(x) Số gia Ơle 1775

,

(x)
Đạo hàm riêng Lơgiăng (A. M. Legendre) 1786

Tổng
Ơle 1755

×