Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Báo cáo khóa luận: Bệnh hại trên họ bầu bí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.08 MB, 64 trang )

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Thực phẩm cây rau (rau xanh) là loại thức ăn không thể thiếu trong nhu cầu
sống hàng ngày của mỗi gia đình. Nó chứa một lượng khá lớn carbohydrat,
vitamin, đạm, đường, chất thơm, các hợp chất khoáng và acid hữu cơ cung cấp cho
cơ thể.
Ngày nay, nhu cầu sống của con người ngày càng tăng cao, việc sử dụng
các loại thực phẩm đảm bảo chất lượng, an toàn đối với sức khỏe là vô cùng quan
trọng. Vì vậy, diện tích và sản lượng trồng rau của nước ta không ngừng tăng lên
trong những năm gần đây. Năm 1997, diện tích trồng rau của nước ta là 297.3
nghìn ha, năm 2000 là 340 nghìn ha, đến năm 2004 diện tích trồng rau đã lên tới
614,5 nghìn ha, chiếm xấp xỉ 7% đất sản xuất đất nông nghiệp và 10% đất cây hàng
năm. Theo Cục Chế biến, tổng sản lượng rau cả nước năm 2012 đạt 14 triệu tấn,
tăng 6% so với năm 2011.
Họ bầu bí (Cucurbitaceae) là một họ thực vật bao gồm các cây phổ biến
như dưa hấu, dưa chuột, bí đao, bầu, bí ngô, mướp, mướp đắng Nó là một trong
những họ quan trọng nhất trong việc cung cấp thực phẩm trên thế giới, chỉ sau họ
hòa thảo (Poaceae), họ đậu (Fabaceae) hay họ cà (Solanaceae). Ngoài việc tác
dụng làm thực phẩm lá và đọt non (bí đỏ), quả ( dưa chuôt, dưa hấu, bí xanh,
mướp, mướp đắng,bí đỏ…), hoa ( bí đỏ) thì cây họ bầu bí còn có tác dụng làm
thuốc (bầu, mướp đắng), làm đẹp (dưa chuột), giải khát (dưa hấu). Đây cũng là một
trong những mặt hàng xuất khẩu của nhiều nước trên thế giới.
Việt Nam là nước nhiệt đới ẩm gió mùa, nóng ẩm quanh năm nên thuận lợi
cho việc canh tác các loại rau. Đó là điều kiện cho các bệnh hại phát triển vì vậy
canh tác cây họ bầu bí cũng như các cây rau khác ở Việt Nam gặp phải rất nhiều
vấn đề ảnh hưởng tới năng suất và hạn chế diện tích trồng trọt. Một số bệnh hại
như phấn trắng (Erysiphe cichoracearum), giả sương mai (Pseudoperonospora
cubensis), đốm lá (Cercospora citrullina), thán thư (Collectotrichum lagenarium)
… gây hại nặng ở tất cả các vùng trồng cây bầu bí, làm giảm năng suất, thậm chí
gây thất thu.
Cho đến nay,việc phòng trừ bênh hại trên bầu bí gặp nhiều khó khăn, các


biện pháp hóa học mặc dù có ưu điểm là diệt trừ bệnh hại nhanh chóng nhưng đây
là biện pháp không thân thiện với môi trường và sức khỏe con người, gia súc. Vậy
nên cầm phải có những biện pháp để làm giảm bệnh hại trên cây rau họ bầu bí.
Từ nhiều năm qua, các nhà khoa học trên thế giới và Việt Nam đã nghiên
cứu khá kỹ một số bệnh do nấm hại trên một vài cây họ bầu bí. Tuy nhiên lại chưa
có một nghiên cứu tổng hợp các bệnh nấm hại trên bầu bí. Xuất phát từ thực tế và
sự phân công của khoa Nông học – trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội cùng với
sự giúp đỡ của PGS.TS Đỗ Tấn Dũng chúng tôi tiến hành đề tài : “Nghiên cứu
bệnh nấm hại một số cây trồng họ bầu bí (Cucurbitaceae) tại Hà Nội và vùng
phụ cận”.
1.2. Mục đích và yêu cầu
1.2.1 Mục đích
Tìm hiểu tình hình bệnh nấm gây hại trên cây họ bầu bí tại Hà Nội và vùng
phụ cận. Nghiên cứu một số đặc điểm về hình thái, xác định nguyên nhân gây bệnh,
đặc tính sinh học và khảo sát một số biện pháp phòng trừ bệnh hại.
1.2.2 Yêu cầu
Điều tra xác định thành phần và mức độ phổ biến của các loại nấm hại cây
trông họ bầu bí tại Hà Nội và vùng phụ cận vụ năm 2013-2014.
Nghiên cứu đặc điểm hình thái, xác định nguyên nhân gây bệnh, đặc tính sinh
học của một số loài nấm gây hại chủ yếu trên cây họ bầu bí.
Điều tra các yếu tố sinh thái ảnh hưởng tới sự phát sinh, phát triển của các
bệnh nấm hại chủ yếu cây trồng họ bầu bí tại Hà Nội và vùng phụ cận.
Khảo nghiệm một số biện pháp phòng trừ bệnh nấm hại cây họ bầu bí.
PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Cây trồng họ bầu bí là những cây chủ yếu cho thu hoạch quả (dưa hấu, dưa chuột,
bí đỏ, bầu, mướp, mướp đắng), lá (bí đỏ). Để sản phẩm thu hoạch đạt năng suất và
chất lượng thì việc phòng chống các bệnh nấm hại là việc quan trọng trong quá
trình canh tác. Nhiều nhà khoa học trên thế giới đã nghiên cứu và tìm ra các loại
nấm hại cây trồng họ bầu bí.

Theo R. D. Martyn, M. E. Miller và B. D. Bruton (1993), các bệnh nấm hại cây
trồng họ bầu bí gồm: bệnh phấn trắng (Erysiphe cichoracearum), bệnh sương mai
(Pseudoperonospora cubensis), bệnh thán thư (Collectotrichum lagenarium), bệnh
đốm vòng (Alternaria alternata), bệnh đốm lá (Cercospora citrullina), bệnh lở cổ
rễ (Rhizoctonia solani),
2.1.1. Bệnh phấn trắng bầu bí (Erysiphe cichoracearum)
Bệnh phấn trắng là bệnh phổ biến gây hại cho cây trồng họ bầu bí. Bệnh
ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình quang hợp, làm rụng lá, cây sinh trưởng kém,
giảm năng suất.
Theo Ned Tisserat, Đại học bang Kansas cho biết, bệnh phấn trắng bắt đầu
vào cuối tháng Bảy hoặc đầu tháng Tám. Bệnh hại trên bí ngô phổ biến nhất ở
Kansas và có thể gây thiệt hại năng suất trên 30% nếu không được phòng trị. Bệnh
xuất hiện và gây tổn hại lúc 3-4 tuần trước khi thu hoạch.
Theo Laura Pottorff (2010) , bệnh phấn trắng là một trong những bệnh phổ
biến nhất và dễ dàng xảy ra ở Colorado. Bệnh có thể xảy ra trên hầu hết các cây
trồng bao gồm thực vật có hoa, cỏ, rau như bí, dưa chuột, cây bụi và thậm chí cả cỏ
dại.
Dấu hiệu đầu tiên của bệnh phấn trắng bắt đầu với những đốm nhỏ màu
trắng trên cả phía trên và dưới của lá bí ngô. Trong suốt nhiều ngày, nấm lây lan
nhanh chóng,lá bệnh chuyển sang màu vàng, màu nâu và chết. (Amy Carson,
2010).
Ban đầu trên bề mặt lá xuất hiện nấm mốc màu trắng, ở dưới tán lá ẩm thấp
bệnh sẽ phát triển mạnh hơn, bào tử phát triển mạnh. Lá bị bệnh dần chuyển sang
màu vàng rồi chết.
Tác nhân gây bệnh là Xanthii podosphaera và Erysiphe cichoracearum là
hai nấm phổ biến nhất gây ra bệnh phấn trắng bầu bí. Erysiphe cichoracearum
được coi là nguyên nhân chính xuyên suốt nhất của thế giới trước năm 1958. Các
bào tử (bào tử sinh sản vô tính) của E. cichoracearum và P. xanthii rất khó để phân
biệt quả thể kín. (Thomas A. Zitter (2011)) [732] .
Triệu chứng của bệnh phấn trắng xuất hiện rất nhanh thường chỉ từ 3-7

ngày và một số lượng lớn bào tử có thể được hình thành trong một thời gian
ngắn.Điều kiện thuận lợi nấm phát triển là tầng thực vật dày và cường độ ánh sáng
thấp. (Thomas A. Zitter (2011)) [732]
Cành bào tử phân sinh thẳng góc với sợi nấm, không phân nhánh, không
màu. Bào tử phân sinh hình trứng, đơn bào, không màu. Quả thể kín có màu nâu
đậm, nhỏ (đường kính khoảng 0,003 inch). Bào tử phát triển vào cuối mùa sinh
trưởng. Các bào tử nảy mầm được quả thể bảo vệ khỏi các điều kiện bất lợi.
Trong thời kì sinh trưởng bào tử phát tán nhờ gió, bào tử nảy mầm khi độ
ẩm cao. Nhưng chúng cũng có thể nảy mầm trong điều kiện khô hạn. Sợi nấm và
quả thể tồn tại trong tàn dư cây bệnh.
Các tác giả đã đưa ra một số biện pháp phòng trừ như:
Tránh tưới nước bề mặt lá để làm giảm độ ẩm tương đối.
Làm sạch và xử lý tất cả các lá cây và rác thực vật rơi xuống đất vào mùa
thu.
Tăng cường lưu thông không khí. Nếu trồng dày đặc, cần tỉa có chọn lọc để
thông thoáng và giảm độ ẩm tương đối.
Sử dụng một số loại thuốc diệt nấm phấn trắng tổng hợp thuốc diệt nấm tổng
hợp như: Daconil 2787, Maneb và Zineb cũng có thể được sử dụng để bảo vệ lá
khỏi bị bệnh này.
2.1.2. Bệnh sương mai bầu bí (Pseudoperonospora cubensis)
Bệnh sương mai được Berkeley và Curtis phát hiện và nghiên cứu đầu tiên
ở Cuba vào năm 1868. Bệnh có thể được tìm thấy trong các khu vực ôn đới như
Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Australia và Nam Phi, vùng nhiệt đới và một số khu vực
bán khô hạn như Trung Đông (Susan J. Colucci,2010).
Bệnh sương mai bầu bí là tác nhân gây hại các cây trồng trong họ bầu bí
như: dưa đỏ, dưa chuột, bí ngô, bí và dưa hấu. Đây là bệnh hằng năm,nó xảy ra vào
cuối vụ trên cây bí và bí bí ngô ở phía đông và trung tâm Hoa Kì. Tuy nhiên, kể từ
năm 2004 nó đã trở thành một trong những bệnh quan trọng nhất trong sản xuất
dưa chuột (Susan J. Colucci,2010).
Lá là bộ phận bị hại chủ yếu. Ban đầu là những đốm màu xanh lá cây nhạt,

sau đó chuyển màu vàng. Khi điều kiện thuận lợi bệnh gây hiện tượng rụng lá.
Cuống lá vẫn còn màu xanh và thẳng đứng sau khi phiến lá đã chết và rũ xuống
(Margaret Tuttle McGrath,2006).
Triệu chứng trên dưa hấu và dưa đỏ thường có hình dạng bất thường là lá
cây có màu nâu nhanh chóng. Lá bị nhiễm bệnh có thể cong lên. Triệu chứng trên
dưa hấu và dưa đỏ không phải là đặc biệt như dưa chuột và dễ dàng nhầm lẫn với
các bệnh khác như bệnh thán thư, bệnh đốm vòng (Susan J. Colucci,2010).
Sợi nấm phát triển trong và giữa các tế bào vật chủ. Sợi nấm trong pha lê
(không màu, trong suốt), sợi nấm phát triển trong tế bào cây kí chủ, mà còn thâm
nhập vào các mô. Đường kính sợi nấm là 5,4-7,2 mm. Giác mút được hình thành
trong các tế bào vật chủ để hấp thu các chất dinh dưỡng.
Bào tử của nấm Pseudoperonospora cubensis kích thước lớn ( 20-40 x 14-
25 µm), bọc bào tử hình chanh yên với một nhú dễ thấy. Các bọc bào tử được sinh
ra đơn lẻ trên những khuyên nhọn của cành bào tử. Các cành bào tử dài khoảng
180-600 µm, đường kính 20 µm và chiều rộng 5-7 µm.
Pseudoperonospora cubensis là nấm kí sinh chuyên tính , đòi hỏi cây kí
chủ sống để nó tồn tại và sinh sản. Bởi vậy, các tác nhân gây bệnh phải qua mùa
đông cùng với sương giá (ví dụ, Nam Florida). Các bào tử được phát tán thông qua
gió đến cây kí chủ nước láng giềng hoặc các cánh đồng lân cận (Susan J.
Colucci,2010).
Mầm bệnh thích hợp trong điều kiện mát mẻ và ẩm ướt. Điều kiện tối ưu
cho hình thành bào tử là 15
0
C với 6-12 giờ độ ẩm (thường là sương buổi sáng). Khi
nhiệt độ ban ngày không thuận lợi cho các tác nhân gây bệnh, thì nhiệt độ ban đêm
là lý tưởng (Susan J. Colucci,2010).
Các biện pháp phòng trừ bệnh:
Giảm độ ẩm trong tán cây bằng cách trồng thưa hơn, thay đổi ngày trồng để
lùi mùa vụ, sử dụng giống kháng hoặc chống chịu bệnh và phun thuốc trừ nấm có
hiệu quả.

Ở miền đông Hoa Kỳ nấm sương mai xuất hiện hàng năm trong sản xuất bầu
bí. Tùy thuộc vào vĩ độ của khu vực sản xuất, người trồng có thể trồng vào mùa
xuân, bệnh có thể tránh được phần lớn. Ví dụ, ở Bắc Calorina dưa chuột thường
được trồng vào cuối tháng tư và thu hoạch trước khi sương mai xuất hiện.
Sử dụng thuốc diệt nấm hiệu quả bao gồm: fluopicolide, famoxadone +
cymoxanil, cyazofamid, zoxamide và propamocarb hydrochloride.
Phát hiện sớm bệnh để quản lý bệnh sương mai bầu bí. Năm 1998, Holmes
và Main đại học Carolina đã bắt đầu một hệ thống dự báo để theo dõi sự bùng phát
của dịch bệnh và cung cấp các đánh giá nguy cơ bùng phát trong tương lai dựa trên
di chuyển với khoảng cách của các tác nhân gây bệnh và các hệ thống thời tiết quy
mô lớn. Mục tiêu của hệ thống dự báo là để hỗ trợ người trồng trong việc đưa ra
các ứng dụng thuốc diệt nấm kịp thời cho lợi ích tối đa (Susan J. Colucci,2010).
2.1.3 Bệnh đốm lá
Có rất nhiều tác nhân gây bệnh đốm lá trên các cây họ bầu bí. Trên cây dưa chuột
bệnh đốm lá do các tác nhân Alternaria alternata, Corynespora casiicola,
Cercospora sp. Trên cây bí xanh tác nhân gây bệnh đốm lá lại là nấm Cercospora
sp. Trong khi đó nấm gây bệnh đốm lá trên cây dưa hấu là Cercospora citrullina,
Collectotrichum lagenarium , Leptosphaerulina trifolli.
2.1.3.1. Bệnh thán thư (Colletotrichum lagenarium)
Theo Thomas A. Zitter (1987), bệnh thán thư do nấm Colletotrichum
lagenarium gây ra. Bệnh phá hoại cây họ bầu bí xảy ra trong điều kiện ấm áp và ẩm
ướt. Bệnh gây hiệt hại đáng kểvới dưa chuột, dưa thơm, dưa hấu và trừ khi giống
kháng được trồng. Bệnh phổ biến nhất ở miền Nam, giữa Đại Tây Dương, và các
tiểu bang miền Trung Tây.
Ở Hawaii, tác nhân gây bệnh này gây hại trên dưa hấu, dưa thơm, dưa đỏ,
bí mùa đông (Cucurbita maxima), và bittermelon (mướp đắng) (Stephen A.
Ferreira, 1992).
Tất cả các bộ phận của cây trên mặt đất đều bị ảnh hưởng. Đầu tiên xuất
hiện đốm lá màu vàng nhạt và mọng nước ở rìa, rồi chuyển sang màu nâu và trở
nên giòn. Đốm lá trên dưa hấu có màu đen. Vết bệnh trên cuống lá và thân cây kéo

dài và có màu đen với một vết sáng ở giữa.(Stephen A. Ferreira(1992)).
Trên lá, những đốm bệnh xuất hiện bên dưới các lá già, lúc đầu là những
điểm tròn màu vàng nhạt, dần biến màu nâu; ở giữa vết bệnh màu nâu đậm hơn và
có các đường vòng đồng tâm. Trên vết bệnh có những thể nhỏ li ti màu đen, vết
bệnh khô và làm rách lá.
Trên thân, vết bệnh hình tròn lõm màu vàng, sau trở thành màu đen, trên
mặt vết lõm có lớp phấn dày màu hồng.
Quả dễ bị nhiễm bệnh vào gần thời điểm thu hoạch. Loét là những triệu
chứng đáng chú ý nhất trên quả. Vết loét hình tròn, màu đen, trũng và kích thước
thay đổi thường xuyên(cả đường kính và chiều sâu). Vết loét không xâm nhập vào
thịt quả, nhưng có thể làm nhạt và đắng quả (Stephen A. Ferreira, 1992).
Đĩa đài là những lông cứng (setae) màu nâu. Trong đĩa đài có các đính bào
đài và đính bào tử. Đính bào đài chỉ gồm 1 tế bào hình trụ dài không màu và có
kích thước khoảng 20 - 25 x 2,5 - 3 µm. Đính bào tử cũng gồm chỉ 1 tế bào hình trụ
dài hay hình thoi dài, không màu và kích thước khoảng 14 - 20 x 5 - 6 µm.
Bào tử nấm bệnh phát triển mạnh khi thời tiết nóng, mưa nhiều, từ khi cây
đã lớn đến thu hoạch. Bào tử nấm phụ thuộc vào độ ẩm và nhiệt độ khá cao, 75°F
(24°C) được xem là tối ưu. Bào tử không nảy mầm dưới 40 ° F (4.4 ° C) hoặc cao
hơn 86°F (30°C) hoặc không được cung cấp đủ độ ẩm (Thomas A. Zitter (1987)[].
Mầm bệnh có thể lưu tồn trong xác bã thực vật hay bám trên bề mặt hạt
giống. Bệnh thường xảy ra vào những tháng có mưa nhiều. Bệnh truyền qua tàn dư
cây bệnh vụ trước và qua hạt giống truyền bệnh qua vụ sau
Các bào tử (bào tử) được sản sinh và phổ biến chỉ khi đĩa cành ẩm ướt và
thường lây lan qua nước bắn tung tóe và mưa hoặc do tiếp xúc với côn trùng, động
vật khác (kể cả con người), và sử dụng các công cụ. Các loại nấm có thể qua mùa
đông như sợi nấm trên hoặc trong hạt giống ( Stephen A. Ferreira,1992).
Biện pháp phòng trừ bệnh nấm hại:
Luân canh cây trồng, thoát nước tốt, sử dụng giống kháng khi có sẵn, và dọn
sạch cỏ dại.
Xử lý hạt giống với clorua thủy ngân hoặc các hợp chất thủy ngân khác để

điệt nấm trên bề mặt hạt.
Sử dụng giống kháng giảm tỷ lệ phát triển bệnh. Việc sử dụng các giống
kháng bệnh cũng sẽ giúp giảm tỷ lệ sử dụng và liều ượng thuốc hóa hoạc. Giống
dưa chuột và sức đề kháng của họ bao gồm: Calico (có độ bền cao), Calypso
(kháng vừa phải), Marketer (dễ), SMR-58 (hơn khả năng chịu hơn Marketer), và
Earlipik 14.(Thompson và Jenkins, 1985).
Sử dụng thuốc diệt nấm: Benlate (0.2%) và difolatan (0,3%) đã kiểm soát
được bệnh. (Áp dụng trong khoảng thời gian 5 tuần đầu, bắt đầu từ tuần thứ 3).
Benlate là thuốc có hiệu quả hơn hẳn so với các thuốc diệt nấm khác.(Prakash et.
Al., 1974)
2.1.3.2. Đốm lá (Cercospora citrullina)
Bệnh đốm lá Cercospora citrullina gây hại trên dưa hấu, bí ngô, mướp.
Bệnh gây hại ở hầu hết các nước trên thế giới.
Theo Howard F. Schwartz and David H. Gent ,(2007), Bệnh được gây ra
bởi nấm Cercospora citrullina. Bệnh gây hại nhiều nhất cho dưa hấu, dưa chuột và
các loại dưa khác.
Chu kỳ bệnh bắt đầu khi bào tử được đính lên lá và cuống lá bởi gió hoặc
nước bắn. Chu kỳ mới nhiễm và hình thành bào tử xảy ra từ 7 đến 10 ngày trong
thời tiết ấm áp, ẩm ướt.
Bệnh đốm lá đã được quan sát từ tháng 9 đến tháng 11 năm 2011 tại
Lahore và khu vực Shiekhupura. Bệnh được đặc trưng bởi các vết đốm nâu trung
bình với các viền màu nâu sẫm khác nhau trên cả hai mặt của lá.( The Journal of
Animal & Plant Sciences( 2013), [].
Triệu chứng biểu hiện chủ yếu trên lá, cuống lá và thân cây. Trên lá già, vết
bệnh là những đốm nhỏ, tròn tới các điểm bất thường màu nâu nhạt. Số lượng và
kích thước của vết đốm tăng lên, cuối cùng gây ra trên toàn bộ lá để trở thành bệnh.
Trên dưa hấu các đốm lá xảy ra đầu tiên trên lá nhỏ. Các điểm màu xám
hoặc trắng nhỏ, giáp với biên độ màu đen, dần dần tăng về số lượng và trải rộng
trên bề mặt lá. Vết bệnh hình thành trên lá non nhiều hơn trên lá già. Bệnh có thể
làm giảm kích cỡ quả và chất lượng quả.

Trên dưa chuột, dưa xạ hương và các loại bí, các vết bệnh lớn hơn 0,5-10
mm đường kính, màu xám-màu vàng nâu. Trung tâm của vết bệnhcuối cùng trở nên
trong suốt và giòn.
Bệnh được đặc trưng bởi các vết đốm nâu trung bình với các viền màu nâu
sẫm khác nhau trên cả hai mặt của lá. Cành bào tử gồm 2-30 nhánh khác nhau, đơn
giản, có màu vàng nâu, nhạt màu.Cành bào tử thẳng đến hơi cong kích thước 3-5 ×
50-300μm, quặp và không phân nhánh. Bào tử là đơn độc, trong pha lê, 1-16 vách
ngăn, kích thước 2,5-4 × 20 -270μm. (The Journal of Animal & Plant
Sciences( 2013)), [].
Bào tử nảy mầm trong khoảng nhiệt độ 78-90
0
F cùng với độ ẩm cao.
(Howard F. Schwartz and David H. Gent , 2007).
Các biện pháp phòng trừ:
Thu thập tàn dư cây trồng sau khi thu hoạch và ghom đốt.
Don sạch cỏ dại xung quanh cây trồng.
Không trồng cây bầu bí quá lâu trên một diện tích trong vòng 3-4 năm.
Trồng cây dưa hấu trong điều kiện ánh sáng đầy đủ. Phát triển dưa hấu trong
sunlights đầy đủ, không dưới bóng dừa hoặc các loại cây khác.
Sử dụng giống kháng đốm lá.
Sử dụng hóa chất như: đồng, mancozeb hoặc chlorothalonil,…
2.1.3.3. Bệnh đốm vòng: (Alternaria alternate)
Alternaria alternata là một loại nấm đã được ghi nhận gây đốm lá và các
bệnh khác trên hơn 380 loài thực vật. Nó là một tác nhân gây bệnh trên nhiều cây
kí chủ như đốm lá, cháy lá và thối trên nhiều bộ phận của cây.
Trong vụ mùa 1979-1980, bệnh đốm lá gây hại nghiêm trọng trên dưa
chuột ( Cucumis sativus L.) trong khu vực Sitia, Lasithi, Crete, dọc theo dải bờ
biển giữa Koutsouras và Goudouras (Demetrios John Vakalounakis, 1989)[].
Theo X.G.Zhou (2008),[], Alternaria alternata f. sp. cucurbitae gây hại
trên bầu bí được mô tả đầu tiên ở Hy Lạp, nơi nó gây ra thiệt hại nghiêm trọng dưa

chuột trồng trong nhà kính ( Cucumis sativus ). Nấm cũng tấn công dưa ( C. melo)
và dưa hấu ( Citrullus lanatus ). Hầu hết bênh xuất hiện trên các cạnh của lá và
không phát triển trên thân cây và quả. Bênh bắt đầu hại trên lá già và sau đó phát
triển trên lá ở phần giữa của tán. Bệnh gây hại cho 3- 20% diện tích lá.
Các vết bệnh dần dần mở rộng và kết hợp lại thành lớn, gần như tròn, hoặc
hình dạng không đều kích thước có thể lên đến 3 cm. Trung tâm vết bệnh có màu
sáng, bao quanh bởi một vòng màu nâu sẫm và một quầng vàng, và có xu hướng
chia thành các vòng tròn đồng tâm trong các giai đoạn phát triển sau này
(X.G.Zhou (2008)),[652].
Theo nghiên cứu của Demetrios John Vakalounakis (1989)[], các triệu
chứng xuất hiện vào cuối mùa thu, chủ yếu ở phần giữa của lá. Đốm hoại tử, bao
quanh bởi một quầng vàng, xuất hiện trên lá, và mở rộng đến các điểm mà có thể
hợp lại để tạo thành vết bệnh đường kính 5 cm hoặc lớn hơn. Các vết đốm hình
tròn và có màu nâu đen. Lá nặng bị nhiễm trở thành màu vàng, lão hóa và dần dần
chết
Nấm phân lập được có đặc trưng là nhỏ, ngắn có mỏ, bào tử đa bào. Bào tử
là hình trứng, đôi khi elip với chiều dài tổng thể trung bình là 39 µm (khoảng 17-80
µm) và chiều rộng 14 µm (từ 7-20 µm) (X.G.Zhou (2008)),[652]
Bào tử được hình thành trên các cành bào tử ngắn trong chuỗi. Các mỏ
ngắn (thường ngắn hơn một phần ba chiều dài bào tử),hình nón hoặc hình trụ.
Không có khác biệt đáng kể trong mức độ nghiêm trọng bệnh trong các giống thử
nghiệm hoặc giữa dưa và dưa hấu.
Cành bào tử màu nâu nhạt đến màu nâu ô liu, kích thước 25-60 x 3-3,5 µm,
thẳng hoặc hơi cong.Cành bào tử hình thành từ chất nền tạo thành cụm gồm 4-8
chuỗi. Bào tử có vách ngăn ngang, ( khoảng 8 vách ngang), màu nâu nhạt đến nâu
có mỏ ngắn hình nón ở mũi.
Theo DJ Vakalounakis(2008)[325], các tác nhân gây bệnh phát triển tốt
trên PDA ở nhiệt độ từ 5°C-40°C và bào tử nảy mầm xảy ra trong phạm vi từ 10°C
đến 37°C. Nhiệt độ tối ưu là khoảng 26 ° C.
Biện pháp phòng trừ:

Sử dụng hạt giống sạch bệnh.
Sử dụng thuốc diệt nấm.
2.1.4. Bệnh lở cổ rễ (Rhizoctonia solani )
Nấm Rhizoctonia solani gây bệnh trên nhiều loại cây trồng bao gồm cỏ linh
lăng, lạc, đậu tương, đậu lima, dưa chuột, đu đủ, cà tím, ngô và nhiều hơn nữa. Phổ
biến ở Hawaii trên tất cả các đảo và trên toàn thế giới. (Janice Y. Uchida, ĐH
Hawaii).
Nấm Rhizoctoni solani thuộc nhóm nấm Mycelia sterilia. Nấm là nguyên
nhân ngăn cản sự nảy mầm và gây bệnh ở cây con.
Sợi nấm của Rhizoctonia solani có màu vàng sau chuyển sang vàng nâu,
sợi nấm nhiều nhân thường 4-8 nhân mỗi tế bào. Những nấm với các đặc tính
tương tự như sợi nấm Rhizoctonia solani, nhưng chỉ với 2 nhân mỗi tế bào, được
gọi là các loại binucleate và nói chung là không gây bệnh (Janice Y. Uchida, ĐH
Hawaii).
Hạch nấm Rhizoctonia solani có màu nâu với các hình dạng, với các kích
cỡ khác nhau. Đường kính hạch nhỏ 1µm hoặc lớn hơn 5 µm. Hạch thường hình
thành trên bề mặt kí chủ, các mô thực vật hay trên các bộ phận của cây trồng.
(Baruch Sneh, 1998)[15].
Nấm gây hại ở phần cổ rễ sát mặt đất, làm cổ rễ bị teo, khô thắt lại, cây bị
héo và ngã rạp. Đối với cây lớn, cây bị vàng, héo lá và chết.
Ở gốc cây, triệu chứng ban đầu là vết lõm màu nâu hoặc hơi nâu đỏ sát mặt
đất, vết bệnh có thể lan rộng quanh gốc thân và lan xuống rễ, gốc thân bị lở loét.
Nấm Rhizoctonia solani tồn tại trong nhiều loại đất ở dạng sợi, dạng hạch
nấm. Nấm có thể xâm nhập vào tàn dư thực vật. Khi điều kiện thích hợp và thuận
lợi, nấm xâm nhập và gây bệnh hại cây. Nấm hoạt động mạnh khi đất đủ ẩm. Đất
quá khô hoặc bão hòa nước sẽ ức chế sự phát triển của nấm. Nấm dễ dàng xâm
nhập qua vết thương, mặt khác nấm có khả năng trực tiếp xâm nhập vào mô thực
vật non, mềm.
Đây là một loại bệnh gây thiệt hại lớn cho các cây trồng họ bầu bí và các
cây trồng khác, vì vậy có nhiều tác giả đã đưa ra các biện pháp để phòng trừ bệnh

hại như chọn tạo giống chống bệnh, canh tác, thuốc hóa học.
Sử dụng giống chất lượng cao và tránh hạt giống có thể bị nhiễm các tác
nhân gây bệnh. Trong các khu vực được biết là có nấm Rhizoctonia solani , làm
đất, lên luống cho thoát nước và ngăn ngừa nước đọng
Bổ sung phân hữu cơ và phân bón hữu cơ có thể làm giảm mức độ bệnh.
Thuốc diệt nấm như methyl thiophanate, PCNB (pentachloronitrobenzene)
và chlorothalonil cũng có hiệu quả. Tham khảo ý kiến chỉ dẫn trên nhãn và cẩn thận
làm theo hướng dẫn để áp dụng.
Loại bỏ tàn dư sau khi thu hoạch sẽ làm giảm lượng nguồn bệnh trong đất.
Trong một số trường hợp, thay đổi luân phiên với một cây trồng cũng làm giảm
mức độ nguồn bệnh. (Janice Y. Uchida, ĐH Hawaii).
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Nước ta nằm trong vành đai nội chí tuyến, quanh năm có nhiệt độ cao và
độ ẩm lớn. Khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm không thuần nhất trên toàn lãnh thổ, hình
thành nên các miền và vùng khí hậu khác nhau rõ rệt. Với đặc điểm khí hậu đó,
việc trồng rau màu cũng gặp phải nhiều khó khăn. Trong đó các cây rau họ bầu bí
cũng bị các bệnh hại phá hoại làm ảnh hưởng đến diện tích, năng suất và chất lượng
của sản phẩm.
Ở nước ta các bệnh hai trên cây trồng họ bầu bí rất đa dạng như bệnh phấn
trắng, sương mai, thán thư, đốm lá, đốm vòng,… hại trên nhiều cây kí chủ khác
nhau.
2.2.1. Bệnh phấn trắng (Erysiphe cichoracearum )
Bệnh phấn trắng là bệnh hại phổ biến trên cây rau họ bầu bí ở nước ta.
Bệnh hại từ giai đoạn cây con và trong suốt quá trình sinh trưởng của cây.
Theo Vũ Triệu Mân (2007) [56], bệnh phấn trắng hại bầu bí được gây ra do
nấm Erysiphe cichoracearum. Bệnh phấn trắng phá hại phổ biến trên hầu hết các
cây trồng họ bầu bí. Bệnh xuất hiện ngay thời kì cây con hại lá, thân, cành.
Bệnh thường xảy ra ở lá. Mặt trên lá có lớp bột màu trắng xám phủ đầy;
sau đó, có những hạt nhỏ màu đen xuất hiện, đó là các quả thể dạng bao nang có
miệng (perithecia). ( Nguồn: Chi cục BVTV An Giang)

Trên bí xanh, bệnh xuất hiện suốt thời gian sinh trưởng của cây hại cả thân,
lá và thường gây hại nặng trên bí xanh vụ xuân hè sau đó đến thu đông sớm.
Trên dưa chuột, bệnh hại chủ yếu trên phiến lá nấm bệnh làm cho lá chuyển
mầu xanh sang mầu bạc và hoá vàng. Trên bề mặt lá bị hại có lớp nấm bệnh trắng,
xám bao phủ. Khi bị nặng lá khô cháy và chết.
Ban đầu trên lá xuất hiện những chòm nhỏ mất màu xanh hóa vàng dần,
bao phủ một lớp nấm trắng xám dày đặc như bột phấn, boa trùn lên phiến lá. Bệnh
ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình quang hợp, làm rụng lá, cây sinh trưởng kém,
giảm năng suất.
Nguyên nhân gây bệnh là Erysiphe cichoracearum thuộc lớp nấm Túi, là
loại nấm ký sinh chuyên tính, ngoại ký sinh. Sợi nấm bám dầy đặc trên bề mặt lá,
tạo các vòi hút chọc sâu vào trong tế bào để hút các chất dinh dưỡng. Cành bào tử
phân sinh thẳng góc với sợi nấm, không phân nhánh, không màu. Bào tử phân sinh
hình trứng hoặc hình bầu dục, đơn bào, không màu, kích thước 4-5 x 5-7 µm. (Vũ
Triệu Mân (2007)) [56]
Về cuối thời kỳ sinh trưởng của cây, trên lá bệnh rất hiếm thấy nấm hình
thành, các thể quả kín hình cầu, có lông bám đơn giản, nhỏ, màu đen, đường kính
80-140 µm. Bên trong thể quả chứa các túi (10-15 túi) hình trứng. Trong mỗi túi
thường có hai bào tử túi hình bầu dục, đơn bào, không màu. Kích thước 12-20 x
20-28 µm.
Trong thời kỳ cây sinh trưởng, bệnh lây lan nhanh bằng bào tử nhờ không
khí và gió. Bào tử phân sinh nảy mầm thuận lợi ở nhiệt độ 20-24°C và độ ẩm
không khí cao. Tuy vậy bệnh vẫn có thể phát triển được trong điều kiện khô hạn.
Sợi nấm và quả thể bảo tồn trên tàn dư cây bệnh. (Vũ Triệu Mân (2007)) [56].
Để phòng trừ bệnh này cần áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác , đặc biệt
cần chú ý thu dọn tàn dư thân lá bệnh, tiêu diệt cỏ dại, sử dụng các giống chống
bệnh. Ngắt bỏ lá bệnh, giảm nước tưới để tạo độ thông thoáng và giảm độ ẩm
tương đối.
Phun thuốc phòng trừ kịp thời sau khi phát hiện bệnh. Dùng Benlat 0.01%
hoặc Topsin M 0,1% hay Anvil hay các thuốc có chứa lưu huỳnh

2.2.2. Bệnh sương mai (Pseudoperonospora cubensis)
Bệnh sương mai gây hại phổ biến trên lá, xuất hiện từ lúc cây được 3 lá thật
đến cuối vụ. Bệnh thường bắt đầu từ tầng lá phía dưới rồi lan dần lên trên. Bệnh
xuất phát từ mặt dưới lá, vết bệnh rải rác khắp mặt lá. (Vũ Triệu Mân (2007)) [57]
Bệnh gây hại chủ yếu trên lá. Ở mặt trên lá, đốm bệnh lúc đầu nhỏ, có màu
xanh nhạt, sau đó biến dần sang màu vàng rồi màu nâu nhạt và thường bị giới hạn
giữa các gân phụ của lá, nên đốm bệnh có dạng hình góc cạnh. (Nguồn: Trần Thị
Ba, ĐH Cần Thơ )
Trong điều kiện ẩm ướt, nấm tạo ra lớp phấn màu xám đậm hoặc tím đỏ ở
mặt dưới lá nơi có vết bệnh. Lớp phấn này là khối đính bào tử của nấm. Lá bị vàng
khi có nhiều đốm, các đốm này sẽ liên kết lại tạo thành những vùng cháy màu nâu
nhạt và mô bệnh dễ bị vỡ (rách). Cây nhiễm nặng có thể chết và cho trái kém giá
trị.
Bệnh do nấm Pseudoperonospora cubensis gây ra. Bệnh phát sinh phát
triển nhanh trong điều kiện ẩm độ không khí cao, trời râm mát, đặc biệt là buổi
sáng có sương mù lúc đó bệnh có thể tấn công cả lá non ở tầng trên. Nếu thời tiết
khô hanh, bệnh lây lan chậm và chỉ xuất hiện ở tán lá dưới. Bệnh xuất hiện quanh
năm trên ruộng dưa, nhưng nặng nhất là trong mùa mưa. Trong một vụ, bệnh
thường gây hại nặng giai đoạn trổ hoa đến mang trái (Vũ Triệu Mân (2007)) [57].
Sợi nấm hình ống, đơn bào,phân nhánh. Cành bào tử phân sinh dạng cành
cây, phân nhánh kép không đều đặn, đơn bào, không màu. Đỉnh nhánh nhọn, uốn
cong hình cánh cung. Bào tử phân sinh hình bầu dục hoặc hình trứng, đơn bào,
không màu.vỏ mỏng với một núm nhỏ trên đỉnh. (Vũ Triệu Mân (2007)) [57].
Nấm lây lan chủ yếu do bào tử nấm lây truyền từ vụ này sang vụ khác, từ
ruộng này sang ruộng khác. Bệnh xảy ra nghiêm trọng và lây lan nhanh khi trời có
nhiều sương.
Để ngăn ngừa và phòng trừ bệnh này có thể sử dụng một số biện pháp như:
Vệ sinh đồng ruộng, ngắt bỏ lá bị bệnh thu gom đem tiêu hủy. Lên luống
cao, thoát nước tốt để tránh ẩm độ cao trên ruộng.
Trồng mật độ hợp lý, không trồng quá dày dễ làm cho bệnh gây hại nặng.

Chọn giống tốt, sạch, có khả năng kháng bệnh. Dọn sạch tàn dư cây bệnh sau khi
thu hoạch.
Xử lý hạt giống bằng những loại thuốc đặc hiệu cho từng loại bệnh trước khi
trồng.
Có thể dùng một số loại thuốc bảo vệ thực vật để phun trừ khi bệnh chớm
xuất hiện và gặp điều kiện thời tiết thuận lợi cho sự phát sinh gây hại của bệnh:
Mataxyl, Aliette, Ridomil Gold, Agri-phos, Phosphonate
2.2.3. Bệnh thán thư (Colletotrichum lagenarium)
Bệnh thán thư do Colletotrichum lagenarium gây hại các cây trồng họ bầu
bí. Bệnh này thường xảy ra và đôi khi gây hại nặng. Bệnh có thể tấn công tất cả các
bộ phận trên mặt đất của cây.
Theo Trần Thị Liên, Trạm khuyến nông Nam Sách đã nghiên cứu: nấm gây
bệnh thán thư trên cây trồng là một loài nấm đa thực. Nó phát sinh và gây hại trên
rất nhiều cây trồng (cây rau màu, cây ăn quả, cây công nghiệp, thậm chí còn hại cả
cây cảnh). Khi nấm xâm nhập và gây hại khiến cho cả thân, lá, quả cây trồng đều bị
xâm nhập và thiệt hại đáng kể (lá khô rụng, cành héo úa, quả thối hỏng )
Trên dưa hấu: bệnh thường xuất hiện ở các lá già bên dưới trước. Đốm
bệnh là những đốm tròn không đều đặn, màu nâu hay nâu đen, kích thước khoảng 3
- 10 mm.(Trần Thị Ba, ĐH Cần Thơ).
Trên dưa chuột: ở giai đoạn cây con, hai lá mầm sẽ bị tấn công.Ở cây lớn
hơn, lá già cũng bị tấn công trước. Đốm bệnh nhỏ, có hình hơi tròn hay bất dạng,
màu trắng hơi vàng; sau đó, đốm rộng thêm ra (khoảng 1 - 3 cm), màu nâu hơi
xám.
Trong vết bệnh có thể thấy các đĩa đài của nấm như những đầu kim gút
màu đen. Bệnh nặng làm lá bị khô cháy. Bệnh nặng, vết bệnh liên kết với nhau tạo
thành các vết loét ăn sâu vào trong thịt trái, gây thối trái, nhũn nước, ảnh hưởng rất
lớn đến chất lượng quả.
Bệnh do nấm Colletotrichum lagenarium (Passerini) Ellis và Halsted. Giai
đọan sinh sản hữu tính của nấm bệnh có tên Glomerella lagenaria Watanake và
Tamura hoặc G. lagenarium Stevens. Đĩa đài có những lông cứng (setae) màu nâu.

Trong đĩa đài có các đính bào đài và đính bào tử. Đính bào đài chỉ gồm 1 tế bào
hình trụ dài không màu và có kích thước khoảng 20 - 25 x 2,5 - 3 µm. Đính bào tử
cũng gồm chỉ 1 tế bào hình trụ dài hay hình thoi dài, không màu và kích thước
khoảng 14 - 20 x 5 - 6 µm. (Trần Thị Ba, ĐH Cần Thơ).
Thời tiết vụ hè thu( ấm nóng và thường kèm mưa to) là điều kiện thích hợp
cho nấm phát sinh phát triển và gây hại rau màu. Mặt khác, nấm lại có khả năng
kháng thuốc cao. Vì vậy, khi phát triển các cây rau màu vụ hè thu, nông dân cần
chú ý phòng ngừa và chữa trị cho tốt loại bệnh hại này.( Trần Thị Liên, Trạm
khuyến nông Nam Sách).
Nấm bệnh tồn tại trong đất trồng, hạt giống và tàn dư cây bệnh. Bệnh phát
tán nhờ gió, mưa và côn trùng.
Thời tiết nóng ẩm( nhiệt độ dao động trên dưới 30
0
C kèm theo mưa nhiều)
là điều kiện thích hợp cho nấm phát sinh và gây hại cây trồng - vụ hè thu bệnh hại
nhiều nhất.
Trên những chân ruộng thoát nước kém hoặc bón phân không cân đối( bón
thừa đạm) sẽ làm cho bệnh dễ phát sinh và gây hại nhiều hơn.
Biện pháp phòng trừ của Nguyễn Thị Nguyệt (2012).
Không để hạt giống từ những trái bị bệnh; xử lý hạt giống; thu dọn kỹ tàn dư
cây bệnh trên đồng sau thu hoạch; cày sâu, luân canh cây trồng khác họ; tiêu hủy
các bộ phận bị bệnh và khử vôi để tránh lây lan; làm luống cao, thoát nước tốt; tăng
cường bón lân và kali, tránh bón thừa đạm.
Khi bệnh chớm xuất hiện, phun một trong các loại thuốc sau: Antracol
70WP, Plant 50WP, Mexyl-MZ72 WP, Map Green 10AS, Daconil 75WP. Chú ý
bảo đảm thời gian cách ly để không còn dư lượng thuốc BVTV trong nông sản.
2.2.4. Bệnh chết rạp cây con (Damping-off)
Theo Đỗ Tấn Dũng (2013), bệnh lở cổ rễ phát sinh gây hại trên nhiều loài
cây trồng khác nhau thuộc họ cà, học đậu, họ bầu bí,v.v như cà chua, đậu tương,
dưa chuột, đậu đũa, lạc

Kết quả điều tra bệnh lở cổ rễ trên các loài cây trồng vùng Hà Nội năm
2011 – 2012 cho thấy bệnh phát sinh phát triển và gây hại trên các cây ký chủ là
khác nhau và tỷ lệ bệnh cao nhất trên cây cà chua (2,80%), lạc (4,55%), đậu tương
(6,17%), dưa chuột (7,61%) và đậu đũa (7,46%).
Đầu tiên trên thân sát xuất hiện những nốt nhỏ sau đó vết bệnh sẽ lan dài
theo chiều dài của thân và chu vi thân. Làm cho thân cây bị teo lại có màu vàng và
thân cây bị gẫy gục trong khi lá vẫn còn xanh. Khi trời lạnh, H% cao thì phần trên
mặt đất sẽ mọc 1 lớp sợi nấm trắng xốp như bông gòn và thường thấy triệu chứng
khi cây chết
Nấm Rhizoctonia solani thuộc nhóm nấm Mycelia sterilia. Bệnh hại vào
thời kì cây con mới mọc gây héo và chết cây con. Vết bệnh lúc đầu là chỉ là một
chấm nhỏ màu đen ở phần gốc sau đó lan nhanh bao bọc xung quanh cổ rễ làm cổ
rễ khô tóp lại, cây gục xuống nhưng than lá vẫn còn màu xanh. Trên vết bệnh có
lớp nấm màu trắng.
Nấm Rhizoctonia solani có sợi nấm kí sinh màu vàng, khi già chuyển sang
nâu. Sợi nấm mảnh dài 4-12 µm. Sợi nấm phân nhánh góc phải và có ngăn ngang ở
đốt cuối cùng. Hạch nâm dạng hạt dẻ, màu nâu, sau chuyển sang nâu đen.
Nấm Trichoderma viride có hiệu lực rất cao trong phòng chống nấm
Rhizoctonia solani. Chế phẩm sinh học nấm đối kháng T.viride có hiệu lực đối
kháng cao trên môi trường nhân tạo đạt tới 79,1% với nấm gây bệnh lở cổ rễ cây cà
chua và 79,8% với nấm gây bệnh lở cổ rễ cây dưa chuột. Hiệu lực phòng trừ của
chế phẩm sinh học nấm đối kháng T.viride với bệnh lở cổ rễ trên cà chua đạt 73,3%
và bệnh lở cổ rễ cây dưa chuột là 76,3% trong điều kiện thí nghiệm trên chậu vại
(Đỗ Tấn Dũng, (2013)).
Để phòng trừ bệnh lở cổ rễ gây hại cây trồng có hiệu quả cao, có thể áp
dụng biện pháp luân canh cây rau màu với cây lúa nước hoặc những cây trồng
không phải là ký chủ của nấm gây bệnh.
PHẦN 3. VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Địa điểm nghiên cứu
Đề tài được thực hiện tại Bộ môn Bệnh cây, khoa Nông học, Trường Đại

học Nông nghiệp Hà Nội.
Điều tra thành phần và diễn biến một số cây trồng họ bầu bí tại Hà Nội và
vùng phụ cận.
3.2. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 7/2013 đên tháng 1/2014
3.3. Vật liệu nghiên cứu
Một số cây trồng họ bầu bí tại khu vực Hà Nội và vùng phụ cận.
Môi trường phân lập và nuôi cấy nấm gây bệnh: WA, PGA, PCA.
Dụng cụ thí nghiệm: dao mổ, kéo, panh, que cấy nấm, đèn cồn, bình tam
giác, ống nghiệm, đĩa peptri, que khều nấm, lò vi sóng, tủ lạnh, tủ định ôn, nồi hấp,
bếp điện,…
Hóa chất: Agar, đường glucose, cồn và một số hóa chất khác.
3.4. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Nội dung
Điều tra thành phần và diễn biến bệnh hại trên cây trồng họ bầu bí tại Hà
Nội và vùng phụ cận.
Nghiên cứu đặc điểm hình thái và đặc điểm sinh học của một số nấm gây
bệnh phổ biến trên cây trồng họ bầu bí.
Tiến hành lây trực tiếp nấm phấn trắng dưa chuột trên một số lá kí chủ
khác nhau trong phòng thí nghiệm.
3.4.2. Phương pháp nghiên cứu
3.4.2.1. Điều tra một số bệnh hại cây trồng họ bầu bí ngoài đồng ruộng
Điều tra bệnh hại cây trồng theo QCVN 01-38: 2010/BNN & PTNT, do
Ban soạn thảo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phương pháp điều tra phát hiện dịch
hại cây trồng biên soạn, Cục Bảo vệ thực vật trình duyệt, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn ban hành tại Thông tư số 71/2010/TT-BNNPTNT ngày 10 tháng
12 năm 2010.
• Điều tra thành phần và mức độ phổ biến bệnh nấm hại cây trồng họ bầu
bí vụ thu đông tại Hà Nội và vùng phụ cận.
Điều tra thành phần và mức độ phổ biến của bệnh nấm hại cây trồng họ bầu

bí theo phương pháp điều tra định kỳ 10 ngày 1 lần, điều tra theo 5 điểm chéo góc.
Quan sát triệu chứng trên toàn cây ở điểm điều tra đã chọn, tiến hành đếm tổng số
cây đối với bệnh lở cổ rễ rồi tính tỉ lệ bệnh (%) và đánh giá mức độ phổ biến của
bệnh.
Đối với bệnh phấn trắng, sương mai,thán thư, đốm lá, đốm vòng đếm tổng
số lá bị bệnh từ đó tính tỉ lệ bệnh (%) và đánh giá mức độ phổ biến.
Mức độ phổ biến của bệnh:
+ : Bệnh ít phổ biến (TLB < 10%)
++ : Bệnh khá phổ biến (TLB >10 – 25%)
+++ : Bệnh phổ biến (TLB > 25 -50%) .
• Điều tra diễn biến một số bệnh nấm hại cây trồng họ bầu bí
Điều tra diễn biến một số bệnh nấm hại bầu bí thì chọn 3 ruộng đại diện
cho giống, thời vụ trồng, tiến hành điều tra định kỳ 7 ngày 1 lần, điều tra theo
phương pháp 5 điểm chéo góc.
Đối với bệnh lở cổ rễ mỗi điểm điều tra chọn 50 cây, từ đó tính tỉ lệ bệnh
(%).
Đối với bệnh phấn trắng, sương mai, thán thư, đốm lá, đốm vòng, mỗi điểm
chọn 5 cây, điều tra tổng số lá bị bệnh, từ đó tính tỉ lệ bệnh (%) và chỉ số bệnh (%).
Tính tỷ lệ bệnh (%) và chỉ số bệnh (%).
Tỷ lệ bệnh (%)
A
TLB(%) = x 100
B
A: Số lá (cây) bị bệnh
B: Số lá (cây) điều tra
Chỉ số bệnh (%)
Σ (a x b)
CSB(%) = x 100
N x T
a: Số lá bị bệnh ở mỗi cấp

b: Cấp bệnh tương ứng
T: Cấp bệnh cao nhất (cấp 5)
N: Tổng số lá điều tra
Bảng phân cấp bệnh hại trên lá:
Cấp 1: Diện tích lá bị bệnh < 10%
Cấp 2: Diện tích lá bị bệnh 10 – 25%
Cấp 3: Diện tích lá bị bệnh > 25- 50%
Cấp 4: Diện tích lá bị bệnh > 50 – 70%
Cấp 5: Diện tích lá bị bệnh > 75%
3.4.2.2. Phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
• Phương pháp để ẩm
Sau khi điều tra thu thập được mẫu bệnh (lá, thân, gốc) ngoài đồng ruộng
chọn mẫu bệnh có triệu chứng điển hình, rửa sạch đất cát, cắt thành mẫu thích hợp
để trong hộp Petri có lót giấy ẩm, để ở nhiệt độ thích hợp sau 2 – 3 ngày có độ ẩm
thường xuyên, đem kiểm tra dưới kính hiển vi để xác định sơ bộ tác nhân gây bệnh.
• Phương pháp chế tạo môi trường
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã sử dụng các loại môi trường nhân
tạo PGA, PCA, WA
Môi trường WA (Water agar)
Thành phần: Nước cất: 1000ml
Agar: 20 g
Cách điều chế:
Đun sôi nước cất sau đó cho Agar vào quấy đều cho tan hết rồi đổ vào
trong bình tam giác sạch, bịt kín miệng bằng giấy bạc. Sau đó đem hấp khử trùng ở
121
0
C(1,5atm) trong thờ gian 45 phút, để nguội 55-60
0
C trước khi rót vào đĩa peptri
đã được khử trùng.

Môi trườngWA là môi trường nghèo dinh dưỡng do vậy được sử dụng để phân lập
nấm thuần.
Môi trường PGA - Potato Glucose Agar
Thành phần : Khoai tây: 200 gam
Glucose: 20 gam
Agar: 20 gam
Nước: 1000ml
Cách điều chế:
Chọn củ khoai tây sạch bệnh, rửa sạch, gọt sạch vỏ , thái nhỏ kích thước
1 x 2 x 1 cm cho vào nồi chứa 1000ml nước cất đun sôi, sau khi đun sôi được 30
phút thì lọc lấy phần nước, bổ sung thêm nước cho đủ 1000ml. Cho từ từ 20g
đường glucose và 20g agar vào dung dịch nước trên. Môi trường được cho vào bình

×