Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Lịch sử hình thành công nghệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (463.3 KB, 6 trang )

Lịch sử hình thành công nghệ:
Giới thiệu về dầu nhờn:
Dầu nhờn là loại dầu dùng để bôi trơn cho các động cơ. Dầu nhờn là hỗn
hợp bao gồm dầu gốc và phụ gia, hay người ta thường gọi là dầu nhờn thương
phẩm. Phụ gia thêm vào với mục đích là giúp cho dầu nhờn thương phẩm có được
những tính chất phù hợp với chỉ tiêu đề ra mà dầu gốc không có được.
Thành phần dầu nhờn:
Dầu gốc
Dầu gốc là dầu thu được sau quá trình chế biến, xử lý tổng hợp bằng các quá
trình xử lý vật lý và hóa học. Dầu gốc thông thường gồm có ba loại là: dầu thực
vật, dầu khoáng và dầu tổng hợp.
Dầu thực vật chỉ dùng trong một số trường hợp đặc biệt. Nó chủ yếu là phối
trộn với dầu khoáng hoặc dầu tổng hợp để đạt được một số chức năng nhất định.
Nhưng ngày nay người ta thường sử dụng dầu khoáng hay dầu tổng hợp là chủ
yếu. Với tính chất ưu việt như giá thành rẻ, sản phẩm đa dạng và phong phú, dầu
khoáng đã chiếm một vị trí quan trọng trong lĩnh vực sản xuất dầu nhờn, nhưng
dầu tổng hợp cũng được quan tâm nhiều bởi tính chất ưu việt của nó.
Dầu gốc khoáng
Trước đây, thông thường người ta dùng phân đoạn cặn mazut là nguyên liệu
chính để sản xuất dầu nhờn gốc. Nhưng về sau này khi ngành công nghiệp nặng và
chế tạo máy móc phát triển, đòi hỏi lượng dầu nhờn ngày càng cao và chủng loại
ngày càng phong phú cũng như tiêu chuẩn về chất lượng ngày càng cao, nên người
ta đã nghiên cứu tận dụng phần cặn của quá trình chưng cất chân không có tên gọi
là cặn gudron làm nguyên liệu để sản xuất dầu nhờn gốc có độ nhớt cao. Tóm lại
nguyên liệu chính để sản xuất dầu nhờn gốc là cặn mazut và gudron.
Dầu nhờn sản xuất từ dầu mỏ vẫn chiếm ưu thế do nó có những ưu điểm
như: công nghệ sản xuất dầu đơn giản, giá thành rẻ. Nhưng ngày nay, để đáp ứng
yêu cầu cao của dầu nhờn bôi trơn, người ta bắt đầu quan tâm đến dầu tổng hợp
nhiều hơn. Dầu tổng hợp là dầu được tạo ra bằng các phản ứng hóa học từ những
hợp chất ban đầu, do đó nó có những tính chất được định ra trước. Nó có thể có
những tính chất tốt nhất của dầu khoáng, bên cạnh nó còn có các tính chất khác đặc


trưng như là: không cháy, không hòa tan lẫn trong nước.
Phụ gia cho dầu nhờn
Dầu nhờn thương phẩm để sử dụng cho mục đích bôi trơn là hỗn hợp của
dầu gốc và phụ gia. Do đó, chất lượng của dầu bôi trơn ngoài sự phụ thuộc rất
nhiều vào dầu gốc, nó còn phụ thuộc vào phụ gia.
Yêu cầu chung của một loại phụ gia:
• Dễ hòa tan trong dầu.
• Không hoặc ít hòa tan trong nước.
• Không ảnh hưởng đến tốc độ nhũ hóa của dầu.
• Không bị phân hủy bởi nước và kim loại.
• Không bị bốc hơi ở điều kiện làm việc của hệ thống dầu nhờn.
• Không làm tăng tính hút ẩm của dầu nhờn.
• Hoạt tính có thể kiểm tra được.
• Không độc, rẻ tiền, dễ kiếm.
Tổng hợp các nhóm dầu gốc:
Phân chia các nhóm dầu gốc theo thành phân và nguồn gốc:
Tính chất của các nhóm dầu gốc:
Sản suất dầu gốc trên thế giới và giá cả của từng nhóm dầu:

Dầu nhờn thải:
Dầu nhờn thải từ hoạt động giao thông và sản xuất công nghiệp là một trong
những chất thải công nghiệp rất độc hại cho môi trường. Trong dầu nhờn thải có
rất nhiều tạp chất như chì, kẽm và một số hóa chất độc hại khác, có thể gây ra ung
thư và nhiều bệnh nguy hiểm.
Đa phần dầu nhờn thải đang được tiêu thụ trôi nổi trên thị trường thông qua
một số cơ sở tái chế. Các cơ sở này thu mua dầu nhờn thải với giá rẻ và chuyên
chở chúng bằng những phương tiện và trang thiết bị thu gom rất thô sơ, lạc hậu,
chủ yếu bằng thùng nhựa, xe đạp, xe máy, Công nghệ cùng điều kiện tái chế của
các cơ sở này phần lớn là lạc hậu, rất không an toàn và ảnh hưởng trầm trọng đến
môi trường. Phần dầu thải không được thu gom thì bị đổ thải trực tiếp ra môi

trường, chủ yếu qua hệ thống nước thải công cộng.
Theo các nhà khoa học, cùng với thời gian, dầu nhờn thải sẽ ngấm xuống
đất, hòa lẫn vào các mạch nước ngầm và trở nên vô cùng nguy hiểm đối với đời
sống của con người. Đáng lo ngại hơn nữa, ở nhiều nơi nông dân còn dùng dầu
nhờn thải để tưới cho các loại cây rau trở nên xanh, đẹp, và không bị sâu bệnh. Đây
là hành động rất nguy hiểm đối với người tiêu dùng vì khoảng cách tiếp cận của
dầu nhờn thải với con người giờ đây đã trực tiếp hơn. Các chất độc hại từ dầu nhờn
thải không còn qua quá trình thẩm thấu vào lòng đất nữa mà tồn tại trực tiếp trên
thực phẩm tươi sống. Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khi con người ăn phải những
thực phẩm này vì trong dầu thải có chứa nhiều kim loại nặng như kẽm, chì. Chì có
khả năng gây độc cho hệ thần kinh trung ương, hệ thần kinh ngoại biên, gây rối
loạn tạo huyết của người tiếp xúc trực tiếp và khả năng dẫn đến gây ung thư là rất
lớn.
Ngoài lượng dầu nhờn thải bị thải trực tiếp vào môi trường, hiện nay cũng
có rất nhiều cơ sở đang thu gom và tái chế dầu nhờn thải để sản xuất các loại mỡ
bôi trơn chất lượng thấp, dầu chạy máy rẻ tiền, hoặc sơn phết trực tiếp lên các bề
mặt gỗ để chống mối mọt. Trong quá trình tái chế, các cơ sở này đã làm không ít
dầu nhờn thải rơi vãi và ngấm sâu xuống đất ngay tại chỗ với phương pháp chế
biến thô sơ, chủ yếu là nấu và đốt. Các cơ sở này cũng đã tạo ra không ít lượng khí
thải, khói độc, và các chất thải phát sinh ra từ quá trình chế biến, tác động tiêu cực
đến biến đổi khí hậu. Các chất thải phát sinh này thậm chí còn độc hại hơn dầu
nhờn thải. Có cơ sở có thể thu gom và tái chế hàng chục ngàn lít dầu nhờn thải mỗi
ngày, chứng tỏ lượng dầu nhờn thải hiện nay rất lớn. Đó là mối đe dọa của môi
trường và cũng là sự lãng phí trầm trọng. Nếu tái sử dụng được lượng dầu thải này
không chỉ giải quyết được vấn đề môi trường mà còn mang lại một lợi ích kinh tế
to lớn.
Hiện nay trên thế giới áp dụng các xu hướng công nghệ sản xuất dầu gốc
gồm:
Công nghệ nguyên liệu chưng cất khí quyển từ cặn nhà máy lọc dầu với công nghệ
truyền thống là chưng cất chân không, chiết suất bằng dung môi, tách farafin, làm

sạch bằng hydro, công nghệ này chỉ cho phép sản xuất ra các loại dầu gốc nhóm I
có chất lượng trung bình, hàm lượng tạp chất cao không đáp ứng nhu cầu tính năng
bôi trơn của thị trường trong xu thế tương lai.
Công nghệ nguyên liệu chưng cất khí quyển từ cặn nhà máy lọc dầu với
công nghệ chưng cất chân không hydro - cacking. Hydro - cacking và hydro -
isomerization. Công nghệ hiện đại này cho phép sản xuất dầu gốc sạch, nhóm II,
III đáp ứng xu hướng nhu cầu sử dụng sản phẩm chất lượng cao.
Công nghệ sản xuất dầu gốc từ nguyên liệu từ dầu thải. Đây là công nghệ
tiên tiến đang áp dụng tại Mỹ gồm các bước cơ bản sau:
Bước đầu tiên của quy trình lọc là phân tích và lựa chọn nguyên liệu. Quy trình
lọc liên quan đến việc đánh giá nguyên liệu đảm bảo phù hợp để lọc lại hay không.
Bước thứ hai của quy trình lọc là xử lý hóa học để giảm đóng cặn ở các thiết bị
thực hiện.
Bước thứ ba là loại bỏ nước và các hydro-carbon nhẹ như nhiên liệu (xăng, dầu)
lẫn trong dầu đã qua sử dụng. Các phụ phẩm này có thể được bán như là chất đốt,
có nghĩa là sản phẩm của bước thứ ba không phải là chất thải.
Bước thứ tư là loại bỏ các chất ức chế xúc tác trước khi dùng hydro tách tạp chất
dầu.
Bước thứ năm là tách dầu nguyên ra khỏi chất xúc tác và hydro-carbon sôi ở nhiệt
độ cao. Một máy màng lọc tinh chân không sẽ thu lại sản phẩm phân tách này.
Trạng thái chân không cho phép tách rời ở nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ cracking dầu.
Ở trạng thái nhiệt độ thấp hơn và thời gian lưu lại ngắn hơn trong máy màng lọc
tinh chân không giúp giảm thiểu tối đa mảng bám sinh ra so với ở các thiết bị
chưng cất khác.
Bước thứ sáu Hydro-treating là khi dầu nguyên đã được tách ra khỏi những tạp
chất khác, lượng Sulfur sẽ được giảm đi trong ba lò phản ứng tách tạp chất bằng
hydro đến thấp hơn 300 phần triệu và tăng bảo hòa nước lên hơn 90%, đáp ứng
thông số kỹ thuật của dầu gốc API nhóm II.
Bước cuối cùng là chưng cất chân không để tách dầu nguyên đã lọc vào các chủng
loại độ nhớt trong tháp tách chiết.

×