Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

SO SÁNH HOẠT ĐỘNG GIỮA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ tổ CHỨC TÀI CHÍNH PHI NGÂN HÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.26 KB, 32 trang )

SO SÁNH HOẠT
ĐỘNG GIỮA NGÂN
HÀNG THƯƠNG
MẠI VÀ TỔ CHỨC
TÀI CHÍNH PHI
NGÂN HÀNG
Nhóm 2
K12402A
GVHD: ThS. Võ Đình Vinh

Môn học: LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
3 - 2014











ĐẠI HỌC KINH TẾ LUẬT
Lý thuyết tài chính tiền tệ

2





STT Họ tên MSSV Công việc
1
Trần Thị Mỹ Ánh

K124020130 1.3, 1.4, thuyết trình
2
Phạm Thị Lan Chi K124020135 1.5, thuyết trình, tìm ảnh minh
họa
3
Lê Trung Toàn K124020242 2.3, 2.4, thuyết trình + tổng hợp
tài liệu
4
Đỗ Bảo Trân

K124020246 2.5, 2.6, làm slide
5
Trần Thị Bảo Trân

K124020247 1.1, 1.2
6
Trần Quang Trung

K124020251 2.7, 2.8, trò chơi
7
Võ Thị Thanh Vân

K124020259 2.1, 2.2
8
Nguyễn Thị Thu Vân


K124020260 2.9, 2.10
Lý thuyết tài chính tiền tệ

3

MỤC LỤC
1. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 5
1.1. Định nghĩa. 5
1.2. Tổng hợp các chức năng và dịch vụ của ngân hàng hiện đại. 5
1.2.1. Các dịch vụ ngân hàng theo xu hướng phát triển của lịch sử: 5
1.2.2. Các dịch vụ phát triển gần đây của ngân hàng: 7
1.3.1. Nghiệp vụ tạo lập nguồn vốn và quản lý nguồn vốn kinh doanh. 8
1.3.1.1. Cơ cấu nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng. 8
1.3.1.2. Quản lí nguồn vốn kinh doanh 10
1.3.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn và quản lí tài sản có. 10
1.3.2.1. Cơ cấu tài sản có của ngân hàng 10
1.3.2.2. Quản lí tài sản có kinh doanh của ngân hàng 11
1.3.3. Các nghiệp vụ trung gian thanh toán và ngân quỹ 14
2. CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH PHI NGÂN HÀNG. 15
2.1. Công ty bảo hiểm. 15
2.1.1. Khái niệm. 15
2.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm. 15
 Bảo hiểm là một loại dịch vụ đặc biệt; 15
2.1.3. Vai trò của bảo hiểm. 15
2.2. Các Hình thức bảo hiểm. 15
2.2.1. Bảo hiểm kinh doanh. 15
2.2.2. Bảo hiểm xã hội. 16
2.2.3. Bảo hiểm thương mại 17
2.2.4. Bảo hiểm y tế 21
2.3. Quỹ hưu trí 23

2.3.1 Hoạt động chính: 23
2.3.2. Các loại quỹ hưu trí: 23
2.4. Công ty tài chính. 24
2.4.1. Hoạt động. 24
2.4.2. Phân loại. 24
2.5. Quỹ tương hỗ (Mutual fund) 24
2.5.1. Khái niệm và đặc điểm cơ bản: 24
2.5.2. Cấu trúc đóng và mở của quỹ tương hỗ: 25
2.5.3. Phân loại: 26
Lý thuyết tài chính tiền tệ

4

2.5.4. Ưu và nhược điểm: 26
2.5.5. Ví dụ: 27
2.6. Các trung gian tài chính của chính phủ: 27
2.7. CÁC TỔ CHỨC THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 27
2.7.1. Khái niệm 27
2.7.3. Chức năng 28
Các hình thức của thị trường 28
2.7.5. Nguyên tắc hoạt động 28
Chủ thể tham gia 28
Cơ chế điều hành và Giám sát 28
Xu hướng phát triển 29
2.8. Ngân hàng đầu tư 29
Cấu trúc hoạt động của một ngân hàng đầu tư 29
2.9. Công ty môi giới và giao dịch. 30
2.10. Thị trường giao dịch có tổ chức. 30








Lý thuyết tài chính tiền tệ

5

1. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. Định nghĩa.
Ngân hàng là tổ chức trung gian tài chính có giới hạn hoạt động rộng lớn và đa dạng: trước tiên
là các hoạt động liên quan đến tín dụng, tiết kiệm, các tài khoản thanh toán; tiếp theo là thực hiện
các chức năng tài chính đa dạng đối với tất cả các chủ thể kinh tế.
1.2. Tổng hợp các chức năng và dịch vụ của ngân hàng hiện đại.
Ngân hàng hiện đại ngày nay thực hiện các chức năng và vai trò chủ chốt sau:
Chức năng tín dụng
Chức năng hoạch định đầu cơ
Chức năng thanh toán
Chức năng tài khoản tiết kiệm
Chức năng điều hành các dòng tiền mặt
Chức năng ngân hàng đầu tư
Chức năng môi giới
Chức năng bảo hiểm
Chức năng đại lý
Ngân hàng là dạng công ty cung cấp các dịch vụ tài chính, thực hiện điều hành chuyên nghiệp
các nguồn tiền và nguồn vốn xã hội cũng như thực hiện tập hợp nhiều chức năng khác trong nền
kinh tế.
Vai trò đa dạng của ngân hàng
Vai trò trung gian: thực hiện chuyển hóa các khoản tiết kiệm tin dụng nhận từ các cá nhân và

cho vay tin dụng cho các chủ thể hoạt động kinh doanh.
Vai trò thanh toán: thực hiện thanh toán cho các hàng hóa và dịch vụ khách hàng của ngân
hàng
Vai trò bảo lãnh: hỗ trợ cho khách hàng của mình bằng cách giúp trả các khoản nợ khi khách
hàng không có khả năng tự chi trả trong thời điểm hiện tại
Vai trò tổ chức, cung cấp các dịch vụ đại lý: điều hành tài sản vốn, bảo hiểm, phát hành và
thanh toán cho các tài sản vốn của khách hàng theo ủy thác
Vai trò chính trị kinh tế: thực hiện chức năng tiền hành các chính sách của nhà nước theo các
phương hướng điều hành phát triển kinh tế và các chương trình xã hội.
1.2.1. Các dịch vụ ngân hàng theo xu hướng phát triển của lịch sử:
Trao đổi ngoại tệ
Một trong những dịch vụ đầu tiên của ngân hàng là trao đổi ngoại tệ.
Lý thuyết tài chính tiền tệ

6

Ngân hàng bán một loại ngoại tệ cho người mua để lấy loại ngoại tệ khác và trích ra một khoản
phí dịch vụ nhất định.
Thanh toán các thương phiếu và cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp
Ngân hàng phát hành các dạng thương phiếu, nghĩa là cho các nhà buôn vay, hay các nhà buôn
bán lại cho ngân hàng khoản nợ để huy động vốn nhanh hơn.
Từ nghiệp vụ thương phiếu diễn ra quá trình phát triển lên thành tài trợ tín dụng trực tiếp cho
các doanh nghiệp mua hàng hóa, máy móc, xây dựng trụ sở…
Tài khoản tiết kiệm
Cho vay là việc kinh doanh rất có lợi nên các ngân hàng thường xuyên tìm kiếm các phương
pháp huy động vốn dùng cho mục tiêu cho vay.
Công cụ huy động vốn nguyên thủy đầu tiên là các khoản tiết kiệm mà ngân hàng huy động
với lãi suất phân trăm (đôi khi khá cao và hấp dẫn) trong thời hạn từ vài tuần đến vài năm.
Cất giữ tài sản có giá trị
Hoạt động này đã có từ thời trung cổ, giấy biên nhân mà chủ ngân hàng ghi cho khách hàng lại

được dùng như một dạng tiền tương tự như ngân phiếu séc ngày nay.
Hiện nay, dịch vụ giữ an toàn các vật quý của khách hàng được thực hiện qua dịch vụ cho thuê
két sắt an toàn tại ngân hàng
Hỗ trợ tín dụng cho các hoạt động của nhà nước
Từ thời trung cổ, các chính phủ đã chú ý đến những phương pháp huy động và cho vay những
khoản vay lớn của các ngân hàng trên thế giới. Chính quyền cai trị đã buộc các ngân hàng phải
gắn kết vào mục tiêu của mình.
VD: Ở Mỹ,thời kì trước chiến tranh giành độc lập vào TK 18, chính phủ chỉ cấp giấy phép
thành lập ngân hàng với điều kiện là ngân hàng sắp thành lập phải mua công trái của chính phủ
với số lượng chiếm một tỉ lệ nhất định trong tất cả các tài khoản của ngân hàng.
Tài khoản séc
Tài khoản séc cho phép người dùng có vốn kí các thương phiếu để thanh toán hàng hóa hay
dịch vụ và ngân hàng có nghĩa vụ thanh toán các thương phiếu này ngay lập tức.
Hoạt động này đã tăng đáng kể hiệu quả của hệ thống thanh toán, đơn giản hóa và tăng tốc độ
thực hiện các hoạt động doanh nghiệp.
Dịch vụ ủy thác
Thông qua dịch vụ ủy thác cá nhân, khách hàng chuyển giao cho ngân hàng khả năng điều hành
và đầu tư nguồn tiền của họ trong khi họ chưa cần đến.
Các ngân hàng thường đóng vai trò người thực hiện di chúc, điều hành tài sản của các khách
hàng đã qua đời. Ngân hàng đảm bảo nguyên vẹn các tài sản quý giá để người thừa kế nhận được
tài sản này khi đến thời điểm phù hợp.
Lý thuyết tài chính tiền tệ

7

Thông qua dịch vụ ủy thác thương mại, ngân hàng điều hành danh mục chứng khoán của công
ty và cung cấp dịch vụ đại diện cho các công ty, phát hành cổ phiếu hay trái phiếu, chi trả cổ tức
hay lãi suất khi đến hạn.
1.2.2. Các dịch vụ phát triển gần đây của ngân hàng:
Cung cấp tín dụng tiêu dùng

Trong quá khứ hầu hết mọi ngân hàng đều hạn chế cung cấp tín dụng tiêu dùng. Nhưng ngày
nay, ngân hàng ngày càng phụ thuộc vào các tài khoản đó để tài trợ các khoản tín dụng lớn cho
các công ty.
Sau thế chiến thứ 2, nhịp độ phát triển của tín dụng tiêu dùng ngày càng tăng, thúc đẩy chi tiêu
và tiết kiệm của công chúng, các nguồn vốn tín dụng tiêu dùng trở thành một trong những nguồn
vốn và thu nhập chính của ngân hàng hiện nay.
Tư vấn tài chính
Hiện nay, các ngân hàng đề xuất ra các dịch vụ tư vấn tài chính từ giúp đỡ lập báo cáo thuế, kế
hoạch kinh doanh, cho đến đến chiến lược marketing trên thị trường trong và ngoài nước.
Điều hành các dòng tiền mặt
Nếu như trước đây, ngân hàng chỉ tập trung chủ yếu vào dịch vụ điều hành các dòng tiền mặt
của các công ty: thực hiện các khoản thu chi và thanh toán cho các hoạt động của công ty, đầu tư
các khoản tiền mặt thặng dư vào các trái phiếu và cho vay tín dụng ngắn hạn, thì hiện nay dịch vụ
phần lớn được dành cho các đối tượng tiêu dùng cá nhân.
Cho thuê trang thiết bị
Ngân hàng mua máy móc và cho các công ty thuê lại. Khách hàng sử dụng dịch vụ cho thuê
máy móc trang thiết bị phải trả các khoản tiền thuê bù đắp được giá trị mua máy và tiền cho thuê,
chịu chi phí sửa chữa nếu hỏng hóc và chịu trách nhiệm thả thuế liên quan đến việc khai thác máy
móc trang thiết bị.
Đề xuất tham gia đầu tư vốn rủi ro
Ngân hàng thường xuyên tài trợ cho các công ty mới, đặc biệt là các công ty công nghệ cao. Vì
trong trường hợp này, mức độ rủi ro khá cao nên các ngân hàng thường hoạt động thông các công
ty chuyên nghiên cứu và thực hiện là thành viên của các công ty tham gia.
Bán các dịch vụ bảo hiểm
Các ngân hàng thực hiện bảo hiểm nhân thọ và rủi ro cho khách hàng của mình, bảo đảm việc
hoàn vốn trong trường hợp khách hàng bị chết hay bệnh tật thông qua việc hợp tác với các công
ty bảo hiểm hay kí hợp đồng, theo đó, các công ty bảo hiểm mở gian hàng ngay trong ngân hàng.
Bán các kế hoạch hưu trí
Ngân hàng huy động và đầu tư các nguồn tiền và thực hiện cho trả tiền cho công dân cao tuổi
sở hữu các kế hoạch hưu trí khi họ về hưu hay mất khả năng lao động. Ngân hàng cũng đề xuất

cho các khách hàng các nhân các tài khoản – kế hoạch nhằm đảm bảo cho tuổi già và bệnh tật.
1.3. Hoạt động của ngân hàng thương mại.
Lý thuyết tài chính tiền tệ

8

Xuất phát từ đặc điểm là định chế tài chính tiêu biểu của các định chế tài chính trung gian, cho
nên hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại gắn liền với quá trình huy động các nguồn
vốn tiết kiệm, nhàn rỗi trong xã hội. Sau đó, ngân hàng sử dụng số vốn này để cho vay lại, hình
thành tài sản kinh doanh nhằm mục đích lợi nhuận.
Dựa vào bảng cân đối tài sản của ngân hàng thương mại (NHTM), ta thấy rằng trong quá trình
hoạt động kinh doanh, ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ sau:
- Nghiệp vụ tạo lập nguồn vốn
- Nghiệp vụ sử dụng vốn
- Các nghiệp vụ trung gian dịch vụ ngân hàng.
1.3.1. Nghiệp vụ tạo lập nguồn vốn và quản lý nguồn vốn kinh doanh.
1.3.1.1. Cơ cấu nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng.
Căn cứ vào tính chất kinh tế, nguồn vốn kinh doanh của NHTM được chia thành hai bộ phận
cơ bản: nguồn vốn tự có của ngân hàng và nguồn huy động vốn.
a. Nguồn vốn tự có của NHTM
Đây là bộ phận nguồn vốn mà khi sử dụng, ngân hàng không phải cam kết hoàn trả cho các chủ
sở hữu. Do vậy, nguồn vốn này có tính ổn định cao nhất so với các bộ phận nguồn vốn khác.
Thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số vốn kinh doanh, không quá 10%, nhưng lại có vai trò
quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong hiện tại và tương lai. Bởi vì:
- Nó đóng vai trò là tấm đệm giúp chống lại rủi ro phá sản và đưa ngân hàng trở lại trạng
thái hoạt động sinh lời.
- Là khoản vốn tối cần thiết để có thể được nhà nước cấp giấy phép hoạt động, nó được dùng
để đầu tư cơ sở vật chất và các phương tiện phục vụ cho hoạt động kinh doanh của NHTM.
- Nguồn vốn tự có của NHTM tạo cơ sở xác lập niềm tin cho việc huy động các nguồn vốn
của khách hàng trên thị trường. NHTM phải có tiềm lực tài chính đủ mạnh để có thể đáp ứng các

nhu cầu tín dụng cho những người đi vay vay ngay cả trong điều kiện kinh tế khó khan.
- Nguồn vốn này đảm bảo cung cấp năng lực tài chính cho sự tang trưởng và phát triển các
loại hình dịch vụ mới.
Căn cứ vào cơ chế tạo lập, nguồn vốn của ngân hàng được chia thành các bộ phận:
+ Vốn điều lệ
Đây là số vốn mà ngân hàng phải có để đưa vào hoạt động và được ghi vào điều lệ. Nguồn vốn
này của NHTM là do cổ đông góp. Vốn điều lệ phải lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định do NHTW
quy định.
+ Các quỹ và lợi nhuận chưa phân phối, bao gồm:
 Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ
 Quỹ dự phòng tài chính
 Quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ
 Lợi nhuận không chia
Các quỹ này được trích từ lợi nhuận ròng hàng năm theo những tỷ lệ quy định. Ngoài ra, ngân
hàng còn trích lập các quỹ sự nghiệp khác nhằm khuyến khích lợi ích vật chất đối với người lao
động trong ngân hàng và các chính sách xã hội như: quỹ phúc lợi khen thưởng, quỹ trợ cấp thôi
việc, quỹ hưu trí…
Lý thuyết tài chính tiền tệ

9

b. Nguồn vốn huy động
Đây được gọi là tài sản nợ của ngân hàng, bộ phận nguồn vốn này chiếm tỷ trọng lớn và chủ
yếu nhất trong cơ cấu nguồn vốn kinh doanh. Thông qua hoạt động mang tính thường xuyên trong
quá trình kinh doanh như: tiếp nhận các tài khoản tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, làm cho
ngân hàng thương mại trở thành một trung gian tài chính tiêu biểu có mối quan hệ rộng rãi với
đông đảo khách hàng và các tầng lớp dân cư.
- Nghiệp vụ huy động tiền gửi:
Căn cứ vào thời gian gửi tiền và mục đích của khách hàng, có thể chia nguồn vốn thành các bộ
phận:

 Tiền gửi không kỳ hạn (còn gọi là tiền gửi thanh toán)
Với loại này, người gửi có thể gửi tiền vào và rút ra bất cứ khi nào có nhu cầu. Mục đích chính
của người gửi tiền chính là nhằm đảm bảo an toàn về tài sản và thực hiện các khoản thanh toán
qua ngân hàng. Đây là loại tiền gửi có chi phí thấp.
Khi duy trì được mức tiền gửi bình quân tại ngân hàng cao và ổn định, tạo điều kiện cho ngân
hàng có thể sử dụng lượng tiền này để cho vay mà không làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán
của ngân hàng.
 Tiền gửi có kỳ hạn:
Đây là nguồn vốn đáng kể của ngân hàng, có thời gian đáo hạn và có quy định nộp phạt nếu rút
tiền ra trước thời hạn.
Với những đặc tính ổn định của có kỳ hạn thì ngân hàng có thể chủ động kế hoạch hóa việc sử
dụng nguồn vốn, tìm kiếm những khoản đầu tư có thời gian hợp lí và thu lợi nhuận cao.
 Tiền gửi tiết kiệm:
Là loại tiền dành cho tầng lớp dân cư, được hưởng lãi. Hình thức phổ biến của loại tiền này là
tiết kiệm có sổ.
Ở Việt Nam, có các hình thức gửi tiết kiệm phổ biến:
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
+ Tiền gửi tiết kiệm có mục đích.
Tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm là loại tiền gửi phi giao dịch. Do chúng có cùng tính
chất là được hưởng lãi cao và chủ sở hữu không được phát hành séc.
- Nguồn vốn đi vay:
 Phát hành chứng từ có giá:
Ngân hàng chủ động phát hành các loại kỳ phiếu ngân hàng để huy động vốn nhằm thực hiện
những dự án đầu tư đã định. Việc này được thực hiện theo 2 phương thức: phát hành theo mệnh
giá (trả lãi sau, người mua trả tiền theo mệnh giá được ghi trên bề mặt kỳ phiếu), phát hành bằng
hình thức chiết khấu (trả lãi trước, người mua sẽ trả một số tiền bằng mệnh giá trừ đi khoản lãi họ
được hưởng).
 Vay từ các ngân hàng và các trung gian tài chính khác:
Lý thuyết tài chính tiền tệ


10

Qua thị trường liên ngân hàng, ngân hàng có thể khai thác các khoản nhàn rỗi từ các ngân hàng,
tổ chức tín dụng khác. Hoạt động này nhằm điều hòa nhu cầu vốn khả dụng và đảm bảo nguồn
vốn lưu chuyển thông suốt liên tục trong hệ thống ngân hàng.
 Vay của ngân hàng trung ương:
Nghiệp vụ này được thực hiện chủ yếu dưới hình thức tái cấp vốn, bao gồm tái chiết khấu các
loại giấy tờ có giá và cho vay cầm cố hay thế chấp. Khoản vay này liên quan đến lượng tiền cung
ứng của NHTW, đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
- Các nguồn vay khác:
Với những ngân hàng thương mại có quan hệ quốc tế rộng lớn, có thể tranh thủ các khoản vốn
tín dụng hoặc tiếp nhận từ các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế.
- Nguồn vốn khác:
Đây là các nguồn vốn NHTM tiếp nhận từ ngân sách nhà nước để thực hiện chương trình, dự
án theo kế hoạch tập trung nhà nước; vốn tiếp nhận để cho vay ủy thác, vốn chiếm dụng của khách
hàng trong quá trình thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, nguồn vốn ủy trị của khách hàng…
1.3.1.2. Quản lí nguồn vốn kinh doanh
Mục tiêu cơ bản của việc quản lý nguồn vốn kinh doanh là duy trì khả năng thanh toán của
ngân hàng, đảm bảo đủ vốn cho nhu cầu tín dụng với mức lãi suất phù hợp và tối đa hóa lợi nhuận.
Việc quản lí này bao gồm:
- Xác định tỷ lệ an toàn về nguồn vốn tự có tối thiểu
Tỷ lệ này nhằm đảm bảo năng lực tài chính của NHTM, giới hạn quy mô rủi ro, hạn chế rủi ro
vỡ nợ và bảo vệ lợi ích cho khách hàng gửi tiền.
- Quản lý tài sản nợ
Mục tiêu:
+ Khai thác tối đa nguồn lực tài chính trong xã hội.
+ Đảm bảo sự tăng trưởng nguồn vốn nhanh, ổn định, bền vững, đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhu
cầu về vốn mở rộng quy mô kinh doanh. Đồng thời, gia tăng thị phần và nâng cao năng lực cạnh
tranh của ngân hàng trên thị trường.

+ Đảm bảo khả năng thanh toán và nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng
1.3.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn và quản lí tài sản có.
1.3.2.1. Cơ cấu tài sản có của ngân hàng
a. Vốn tài sản phục vụ kinh doanh ngân hàng
Đây là những tài sản được hình thành từ ngnhieepj vụ mua sắm tài sản của ngân hàng thương
mại. Với đặc điểm kinh doanh của ngân hàng là dựa trên niềm tin, cũng như đòi hỏi sự chính xác
và an toàn cao, cho nên việc đầu tư vào các loại tài sản này là rất cần thiết, với giá trị và quy mô
lớn. Điều này tạo nên sự tin tưởng mạnh mẽ cho khách hàng, làm gia tăng khả năng huy động vốn
kinh doanh.
b. Tài sản bằng tiền
Với mục đích đảm bảo an toàn khả năng thanh toán thường xuyên của ngân hàng, nghiệp vụ
ngân quỹ được thể hiện qua các khoản mục:
Lý thuyết tài chính tiền tệ

11

- Tiền mặt tại quỹ: gồm tiền giấy và tiền kim loại có tại kho của ngân hàng. Nhu cầu dự trữ
tiền mặt cao hay thấp tùy thuộc vào quy mô hoạt động, nhu cầu rút tiền mặt của khách hàng và
tính chất thời vụ trong năm.
- Tiền gửi tại các ngân hàng khác: các ngân hàng có thể mở tài khoản lẫn nhau để đổi lấy
những dịch vụ khác nhau: trung gian thnah toán cho khách hàng, giao dịch ngoại tệ; mua bán
chứng khoán…
- Tiền gửi tại ngân hàng trung ương: bao gồm tiền gửi bắt buộc tại ngân hàng trung ương và
tiền gửi thanh toán. Mức tiền gửi bắt buộc trong từng thời kỳ thương chiếm tỷ lệ từ 10-35% trên
nguồn vốn huy động.
c. Tài sản tín dụng
Hình thành từ nghiệp vụ cấp tín dụng cho vay là nghiệp vụ cung ứng vốn của ngân hàng trực
tiếp cho nhu cầu kinh doanh và tiêu dùng xã hội. Đây là nghiệp vụ sử dụng lượng vốn lớn nhất và
tạo ra lợi nhuận nhiều nhất. Nghiệp vụ này được thực hiện thông qua các hình thức phổ biến:
- Chiết khấu thương phiếu: là nghiệp vụ cho vay ngắn hạn trong đó, ngân hàng mua những

tín phiếu chưa đến hạn thanh toán cho ngân hàng với giá trị bằng giá thương phiếu trừ đi phần lợi
tức chiết khấu và hoa hồng. Đến thời hạn thanh toán thương phiếu, ngân hàng sẽ đòi người mắc
nợ thương phiếu theo giá trị thương phiếu.
- Cho vay ứng trước: đây là một hình thức cho vay dựa trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong
đó người đi vay được phép sử dụng một hạn mức tín dụng trong một thời gian nhất định.
- Cho vay vượt chi: Là hình thức đặc biệt của tín dụng ứng trước, thực hiện trên cơ sở hợp
đồng tín dụng.
- Nghiệp vụ cho vay cầm cố: ngân hàng có thể cho vay khi người đi vay có tài sản cầm cố
tại ngân hàng dưới các hình thức như: tài sản là động sản, các chứng từ có giá (kỳ phiếu, chứng
khoán,…), vàng, bạc…
- Nghiệp vụ cho vay thế chấp tài sản: ngân hàng cho vay mang giấy tờ sở hữu các loại tài
sản là bất động sản để thế chấp vay vốn.
- Tín dụng bằng chữ ký: là hình thức tín dụng mà ngân hàng không trực tiếp giải ngân cho
khách hàng vay, nhưng bằng uy tín ngân hàng tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng vốn của
người khác và đảm bảo thanh toán cho khách hàng, thực hiện dưới các hình thức: tín dụng bảo
lãnh, tín dụng chấp nhận thanh toán hối phiếu…
- Tín dụng ủy thác thanh toán (factoring): ngân hàng mua các loại giấy nợ của khách hàng
để thanh toán toàn bộ. Nghiệp vụ này giúp khách hàng nhanh chóng thu hồi nợ.
- Tín dụng thuê mua: là hình thức tín dụng trung, dài hạn thực hiện thông qua việc cho thuê
tài sản phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
- Tín dụng tiêu dùng: với mục đích tài trợ cho nhu cầu tiêu dùng của các tầng lớp dan cư.
d. Tài sản tài chính
Bộ phận vốn được dùng chủ yếu là vốn tự có để đảm bảo tính ổn định cho đầu tư. Các hình
thức đầu tư chủ yếu: liên doanh, đầu tư chứng khoán. Nghiệp vụ này góp phần tăng năng lực thanh
toán của ngân hàng và bảo toàn được ngân quỹ.
1.3.2.2. Quản lí tài sản có kinh doanh của ngân hàng
Mục tiêu: hạn chế rủi ro, tổ chức sử dụng vốn hiệu quả nhất nhằm đảm bảo sự tồn tại, phát triển
và năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.
Lý thuyết tài chính tiền tệ


12

Các loại rủi ro thường gặp:
a. Rủi ro tín dụng
Đây là loại rủi ro mà ngân hàng thường xuyên gặp phải. Biểu hiện của nó là các khoản cho vay
của ngân hàng giảm giá trị hay không thu hồi được. trong trường hợp nguồn vốn chủ sở hữu quá
nhỏ so với tổng tài sản, chỉ cần một tỷ lệ nhỏ danh mục tài sản cho vay gặp rủi ro tín dụng có thể
đẩy ngân hàng tới nguy cơ phá sản. Các chỉ tiêu thường được dùng để đo lường rủi ro tín dụng
của ngân hàng:
- Tỷ số tổng giá trị dư nợ cho vay và cho thuê trên tổng tài sản có, để đánh giá mức độ rủi
ro tín dụng.
- Tỷ số giữa các khoản nợ quá hạn so với tổng dư nợ cho vay và cho thuê.
- Tỷ số giữa các khoản nợ xấu so với tổng dư nợ cho vay và cho thuê.
- Tỷ số giữa các khoản xóa nợ ròng so với tổng cho vay và cho thuê.
- Tỷ số giữa phân bổ dự phòng tổn thất tín dụng hàng năm so với tổng số cho vay và cho
thuê hay với tổng vốn chủ sở hữu.
- Tỷ số giữa dự phòng tổn thất tín dụng so với tổng số cho vay và cho thuê hay với tổng vốn
chủ sở hữu.
Trong đó, các khoản nợ quá hạn là những khoản cho vay có thời gian quá hạn thanh toán quá
1/3 thời gian cho vay sau khi đã gia hạn. Các khoản cho vay được xóa nợ là những khoản cho vay
được ngân hàng tuyên bố là không còn giá trị và bị xóa khỏi sổ sách, không bao gồm các khoản
cho vay mà tương lai cũng tạo ra thu nhập và thu hồi được.
Nếu hai chỉ tiêu đầu tăng lên, cho thấy rủi ro tín dụng tăng. Do đó, ngân hàng cần có những
chuẩn bị cho việc khắc phục các khoản tổn thất tín dụng thông qua việc lập dự phòng hàng năm
và được phản ánh qua hai chỉ tiêu sau.
Bên cạnh việc kiểm tra, thẩm định tính khả thi và hiệu quả của dự án cho vay, ngân hàng còn
phải giới hạn cung ứng tín dụng nhằm hạn chế rủi ro. Các chỉ tiêu giới hạn tín dụng (cho vay và
bảo lãnh) áp dụng đối với khách hàng và nhóm khách hàng để kiểm soát rủi ro này, gồm:
- Tỷ số giữa tổng dư nợ cho vay ngân hàng đối với một khách hàng hay một nhóm khách
hàng so với vốn tự có của ngân hàng.

- Tỷ số giữa tổng dư nợ cho vay và bảo lãnh của ngân hàng đối với một khách hàng hay một
nhóm khách hàng với vốn tự có của ngân hàng.
b. Rủi ro thanh toán
Đối mặt với rủi ro này, ngân hàng có thể buộc phải đi vay nóng với mức chi phí cao để đáp ứng
những nhu cầu cấp bách về tiền mặt, điều này sẽ làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Các chỉ số
đo lường rủi ro thanh khoản bao gồm:
- Tỷ số giữa vốn tín dụng trên tổng tài sản.
- Tỷ số giữa tiền mặt và số dư tiền gửi tại các ngân hàng khác so với tổng tài sản.
- Tỷ số giữa tiền mặt và các chứng khoán của chính phủ so với tổng tài sản.
- Tỷ lệ tài sản có khả năng thanh toán ngay và các tài khoản nợ đến hạn thanh toán cho từng
khoảng thời gian cụ thể.
c. Rủi ro thị trường
Sự thay đổi lãi suất sẽ gây ra những khó khăn lớn cho các nhà quản lí danh mục tài sản đầu tư
của ngân hàng, đặc biệt là các khoản đầu tư chứng khoán. Khi lãi suất thị trường tăng sẽ làm cho
giá các loại chứng khoán này giảm và ngân hàng phải chịu tổn thất lớn. Ngược lại, khi lãi suất
Lý thuyết tài chính tiền tệ

13

giảm giá trị của chứng khoán thu nhập cố định và các khoản cho vay lãi suất cố định sẽ tăng, ngân
hàng sẽ có lời khi bán các chứng khoán ra thị trường.
d. Rủi ro lãi suất.
- Rủi ro lãi suất xảy ra khi nào?
Một trong những rủi ro đặc thù của ngân hàng thương mại (NHTM) là rủi ro lãi suất
(RRLS). Rủi ro về lãi suất thường xảy ra khi có sự biến động lớn về lãi suất đầu vào và đầu ra,
sự chênh lệch giữa các mức lãi suất huy động lớn cũng như chênh lệch giữa các kỳ hạn huy động
và kỳ hạn đầu tư, cho vay ra thị trường. Nói chung, RRLS xảy ra khi có sự không cân xứng về
kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ.

Như vậy, nếu NHTM duy trì cơ cấu tài sản có và tài sản nợ với những kỳ hạn không cân xứng

với nhau, thì phải chịu những RRLS trong việc tái tài trợ tài sản có và tài sản nợ; hoặc RRLS do
giá trị của tài sản thay đổi khi lãi suất thị trường biến động. Ngân hàng có thể phòng ngừa RRLS
bằng cách làm cho các kỳ hạn của tài sản có và tài sản nợ cân xứng với nhau. Xét từ góc độ triết
lý chung thì việc làm cho các kỳ hạn cân xứng với nhau là một giải pháp tốt nhất đề phòng ngừa
RRLS.
Nếu không có sự quan tâm thích đáng đến việc quản lý RRLS, không dự báo được xu hướng
biến động của lãi suất thì các NHTM có thể bị thiệt hại nặng nề từ loại rủi ro này.
- Quản lý rủi ro lãi suất như thế nào?
Để phòng tránh RRLS, đòi hỏi NHTM phải tăng cường công tác quản lý, trong đó cần áp dụng
phương pháp lượng hóa RRLS có ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh. Hiện nay, trên thế giới
có 3 mô hình lượng hóa RRLS đang được các ngân hàng hiện đại áp dụng, đó là: mô hình kỳ hạn
đến hạn, mô hình định giá lại và mô hình thời lượng.
(i) Mô hình kỳ hạn đến hạn: Có 2 phương pháp để lượng hóa mô hình này là (1) Phương
pháp lượng hóa RRLS đối với một tài sản; (2) phương pháp lượng hóa RRLS đối với danh
mục tài sản. Mô hình kỳ hạn là một phương pháp trực quan để lượng hóa RRLS qua đánh giá
sự cân xứng về kỳ hạn giữa tài sản nợ và tài sản có trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Nhược điểm của mô hình này là không đề cập đến yếu tố thời lượng của các luồng tài sản có
và tài sản nợ. Tuy nhiên, do tính đơn giản và trực quan nên được sử dụng khá phổ biến, điều này
cũng phù hợp với Việt Nam hiện đang trong quá trình hiện đại hóa ngân hàng.
(ii) Mô hình định giá lại: Nội dung cơ bản của mô hình này là việc phân tích các luồng
tiền dựa trên nguyên tắc giá trị ghi sổ nhằm xác định chênh lệch giữa lãi suất thu được từ
tài sản có và lãi suất thanh toán cho vốn huy động sau một thời gian nhất định.
Một nhược điểm của mô hình là chỉ đề cập đến giá trị ghi sổ của tài sản mà không đề cập đến
giá trị thị trường của chúng. Do đó, mô hình định giá lại chỉ phản ánh được một phần RRLS đối
với ngân hàng.
(iii) Mô hình thời lượng: So với hai mô hình trên, thì mô hình thời lượng hoàn hảo hơn
trong việc đo mức độ nhạy cảm của tài sản có và tài sản nợ đối với lãi suất, bởi vì nó đề cập
đến yếu tố thời lượng của tất cả các luồng tiền cũng như kỳ hạn đến hạn của tài sản nợ và tài sản
Lý thuyết tài chính tiền tệ


14

có. Do vậy, đối với kinh doanh ngân hàng, thì việc sử dụng mô hình thời lượng để quản trị RRLS
là một giải pháp thích hợp. Một chức năng quan trọng của mô hình thời lượng là cho phép NHTM
phòng ngừa được RRLS đối với toàn bộ hay một bộ phận riêng lẻ của bảng cân đối tài sản. Tuy
nhiên mô hình thời lượng là một mô hình phức tạp, đòi hỏi nhà quản trị phải thường xuyên cơ
cấu lại bảng cân đối tài sản để thời lượng của tài sản có và tài sản nợ cân xứng nhau, nhưng việc
này không phải lúc nào cũng làm được. Vì vậy, NHTM có thể lựa chọn một biện pháp đo lường
RRLS phù hợp với điều kiện công nghệ và thực trạng rủi ro.
Cùng với việc đánh giá, lượng hóa RRLS thì các NHTM cần phải nắm vững kỹ thuật phòng
chống RRLS bằng các nghiệp vụ kỳ hạn, hoán đổi, tương lai hay quyền chọn.
RRLS là rủi ro cơ bản, luôn tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh của NHTM nên việc xây
dựng một chương trình quản lý RRLS là công việc rất quan trọng trong công tác quản lý
rủi ro của NHTM hiện nay.
e. Rủi ro thu nhập
Rủi ro này tác động đến kết quả kinh doanh của ngân hàng. Thu nhập của ngân hàng có thể
giảm không thể dự toán trước được, và do các yếu tố bên trong hay bên ngoài tác động, chẳng hạn
những thay đổi về điều kiện kinh tế hay những thay đổi về pháp luật, quy chế… Sự gia tăng cạnh
tranh trong lĩnh vực ngân hàng dẫn đến xu hướng thu hẹp phần chênh lệch thu nhập trên tài sản
và chi phí cho nguồn vốn.
f. Rủi ro phá sản
Khi quy mô nợ khó đòi quá lớn, giá thị trường của các khoản mục đầu tư chứng khoán giảm,
vốn chủ sở hữu có thể giảm sút đáng kể. các nhà đầu tư và người gửi nhận biết được tín hiệu này
và rút tiền, điều này có thể đẩy ngân hàng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, phá sản.
Đối với ngân hàng thương mại cổ phần, việc phá sản ngân hàng sẽ làm cho các cổ đông trắng tay,
những người gửi tiền không được bảo hiểm phải chịu rủi ro mất tất cả hay phần lớn tiền gửi của
họ
1.3.3. Các nghiệp vụ trung gian thanh toán và ngân quỹ
Nhờ những nghiệp vụ này của các NHTM mà các giao dịch thanh toán trong nền kinh tế được
thuận lợi, an toàn và thông suốt. Đồng thời, nghiệp vụ trung gian của ngân hàng còn góp phần

làm giảm lượng tiền mặt lưu thông trong nền kinh tế. Các nghiệp vụ ngân quỹ và trung gian thanh
toán ngân hàng thương mại gồm:
- Mở tài khoản giao dịch cho các khách hàng là pháp nhân hay thể nhân trong, ngoài nước.
- Cung ứng các phương tiện thanh toán cho khách hàng như: séc, ủy nhiệm chi, thẻ rút tiền
ATM, thẻ tín dụng…
- Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán trong nước và quốc tế như séc, ủy nhiệm chi, chuyển
tiền…
- Thực hiện các nghiệp vụ thu, chi hộ.
- Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán khác phục vụ cho các hoạt động phát hành kinh doanh
chứng khoán trên thị trường tài chính như: lưu ký đấu thầu, thanh toán tiền mua chứng khoán;
nhận ký quỹ và tổ chức thanh toán cho các hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường tài
chính thứ cấp.
Thực hiện các nghiệp vụ ngân quỹ: thu, phát tiền mặt; kiểm đếm, phân loại, bảo quản, vận
chuyển tiền mặt…

Lý thuyết tài chính tiền tệ

15

2. CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH PHI NGÂN HÀNG.
2.1. Công ty bảo hiểm.
2.1.1. Khái niệm.
Bảo hiểm thực chất là sự chia nhỏ rủi ro, là hoạt động thể hiện
người bảo hiểm đứng ra cam kết hợp đồng bồi thường theo quy luật thống kê
cho người được bảo hiểm trong trường hợp xảy ra rủi ro, với điều kiện người
được bảo hiểm đã mua phí bảo hiểm.
2.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm.
 Bảo hiểm là một loại dịch vụ đặc biệt;

Bảo hiểm vừa mang tính bồi hoàn, vừa mang tính không bồi hoàn;

2.1.3. Vai trò của bảo hiểm.

Bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh và ổn định đời sống của người tham gia bảo hiểm

Đề phòng và hạn chế tổn thất;

Bảo hiểm là một công cụ tín dụng;

Góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước thông qua hoạt động tái bảo
hiểm.
2.2. Các Hình thức bảo hiểm.
2.2.1. Bảo hiểm kinh doanh.
Khái niệm bảo hiểm kinh doanh
Trên góc độ tài chính, bảo hiểm kinh doanh là một hoạt động dịch vụ tài chính nhằm phân phối
lại những tổn thất khi rủi ro xảy ra. Trên góc độ pháp lý, bảo hiểm kinh doanh thực chất là một
bản cam kết mà một bên đồng ý bồi thường cho bên kia khi gặp rủi ro nếu bên kia đóng phí bảo
hiểm. Do đó, bảo hiểm kinh doanh là các quan hệ kinh tế gắn liền với việc huy động các nguồn
tài chính thông qua sự đóng góp của các tổ chức và cá nhân tham gia bảo hiểm.
Đặc điểm của bảo hiểm kinh doanh

Người tham gia bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm;

Là một biện pháp hiệu quả nhất cho nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp và an toàn với đời sống cộng đồng.
Nguyên tắc của bảo hiểm kinh doanh

Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia bảo hiểm cũng như doanh nghiệp
kinh doanh bảo hiểm;

Doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh;


Doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động tuân theo luật pháp quy định cho doanh nghiệp nói
chung, và cho doanh nghiệp bảo hiểm nói riêng;
Lý thuyết tài chính tiền tệ

16


Doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động theo nguyên tắc lấy số đông bù số ít;

Doanh nghiệp bảo hiểm phải tuân thủ nguyên tắc an toàn tài chính.
Hình thức của bảo hiểm kinh doanh
Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm
1. Bảo hiểm tài sản:

Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu;

Bảo hiểm thân tàu, thuyền, ô tô, ;

Bảo hiểm hỏa hoạn.
2. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự;
3. Bảo hiểm con người:

Bảo hiểm nhân thọ;

Bảo hiểm phi nhân thọ.
Căn cứ vào tính chất hoạt động
1. Bảo hiểm tự nguyện;
2. Bảo hiểm bắt buộc.
Cơ chế, phân phối và sử dụng quỹ bảo hiểm kinh doanh

Cơ chế hình thành quỹ bảo hiểm kinh doanh

Vốn kinh doanh;

Doanh thu và thu nhập.
Phân phối và sử dụng quỹ bảo hiểm kinh doanh

Ký quỹ;

Quỹ dự trữ bắt buộc;

Bồi thường tổn thất và trả tiền bảo hiểm;

Dự phòng nghiệp vụ;

Nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước;

Chế độ phân phối lợi nhuận.
2.2.2. Bảo hiểm xã hội.
Khái niệm bảo hiệm xã hội
Bảo hiểm xã hội là loại hình bảo hiểm do nhà nước tổ chức và quản lý nhằm thỏa mãn các nhu
cầu vật chất ổn định cuộc sống của người lao động và gia đình họ khi gặp những rủi ro làm giảm
hoặc mất khả năng lao động.
Hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội
Lý thuyết tài chính tiền tệ

17

Theo khuyến nghị của Tổ chức Lao động Quốc tế ILO tại Công ước Giơnevơ năm 1952


Chăm sóc y tế;

Trợ cấp ốm đau;

Trợ cấp thất nghiệp;

Trợ cấp tuổi già;

Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp;

Trợ cấp gia đình;

Trợ cấp sinh sản;

Trợ cấp tàn phế;

Trợ cấp cho người bị mất người nuôi dưỡng.
Ở Việt Nam, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam thực hiện 6 chế độ

Bảo hiểm thất nghiệp;

Trợ cấp ốm đau;

Trợ cấp thai sản;

Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp;

Trợ cấp hưu trí;

Trợ cấp tử tuất.

Cơ chế hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội
Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội

Người sử dụng lao động đóng góp;

Người lao động đóng góp một phần tiền lương của mình;thu từ các đối tượng tham gia
BHXH tự nguyện

Nhà nước đóng góp và hỗ trợ.
Sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội
Chi các khoản trợ cấp và chi phí cho người tham gia bảo hiểm xã hội trong các trường hợp:

Gặp phải các biến cố đã quy định trong chế độ bảo hiểm xã hội;

Người được bảo hiểm là thành viên của bảo hiểm xã hội;

Đóng bảo hiểm xã hội đều đặn;

Chi khác: chi quản lý, nộp bảo hiểm y tế theo quy định, chi hoa hồng đại lý, v.v
2.2.3. Bảo hiểm thương mại
Khái niệm Bảo hiểm thương mại
Lý thuyết tài chính tiền tệ

18

Bảo hiểm thương mại hay hoạt động kinh doanh bảo hiểm được thực hiện bởi các tổ chức kinh
doanh bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm thương mại. Bảo hiểm thương mại chỉ những hoạt động
mà ở đó các doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro trên cơ sở người được bảo hiểm đóng một
khoản tiền gọi là phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường hay trả tiền bảo hiểm khi
xảy ra các rủi ro đã thỏa thuận trước trên hợp đồng.


Nội dung Bảo hiểm thương mại
Nội dung của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, ngoài mối quan hệ giữa doanh nghiệp bảo hiểm
với khách hàng của mình (gọi là Người mua bảo hiểm) còn được thể hiện trong mối quan hệ giữa
người bảo hiểm gốc và người nhận tái bảo hiểm khi thực hiện tái bảo hiểm và bao hàm các hoạt
động của trung gian bảo hiểm như: môi giới, đại lý Nhà bảo hiểm thương mại hoạt động kinh
doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận trong việc đảm bảo rủi ro cho khách hàng của mình.
Lợi ích của Bảo hiểm thương mại
Trong cuộc sống hàng ngày, lúc này hay lúc khác, dù không hề mong muốn và dù khoa học kỹ
thuật có tiến bộ đến đâu, người ta vẫn có thể phải gánh chịu những rủi ro tổn thất bất ngờ. Tác
động của rủi ro làm cho con người không thu hái được kết quả như đã dự định trước và tạo ra sự
ngưng trệ quá trình sản xuất, sinh hoạt của xã hội. Đó chính là tiền đề khách quan cho sự ra đời
của các loại quỹ dự trữ bảo hiểm nói chung và hoạt động bảo hiểm thương mại nói riêng. Tồn tại
song song với các quỹ dự trữ khác, Bảo hiểm thương mại đóng vai trò như một công cụ an toàn
thực hiện chức năng bảo vệ con người, bảo vệ tài sản cho kinh tế và xã hội. Cụ thể là:
 Đối với người dân, bảo hiểm đảm bảo cho họ về mặt tài chính nhằm khắc phục hậu quả khi
bất ngờ gặp rủi ro tai nạn hay bệnh tật như chi phí điều trị, viện phí, thu nhập mất giảm…Bảo
hiểm nhân thọ còn cung cấp những chương trình tiết kiệm và là người đại diện đầu tư mang lại
lợi tức cho khách hàng.
 Đối với các doanh nghiệp, tham gia bảo hiểm giúp các doanh nghiệp với việc bỏ ra một
khoản phí bảo hiểm ổn định và nhỏ có thể hoán chuyển rủi ro - những yếu tố không ổn định và
tổn thất không lường trước được sang cho nhà bảo hiểm. Nhờ vậy, các doanh nghiệp an tâm sản
xuất và khi có những tổn thất xảy ra, bồi thường bảo hiểm sẽ giúp họ nhanh chóng khôi phục quá
trình kinh doanh.
 Đối với ngân hàng thương mại, bảo hiểm đảm bảo cho khả năng hoàn trả vốn vay của doanh
nghiệp – người đi vay trong những trường hợp gặp rủi ro tổn thất. Mặt khác, các loại hình bảo
hiểm nhân thọ còn giúp các ngân hàng an tâm triển khai các loại hình tín dụng tiêu dùng cho người
dân.
 Hoạt động bảo hiểm phát triển.góp phần cải thiện môi trường đầu tư, giảm thiểu rủi ro trong
đầu tư tạo ra môi trường thuận lợi cho việc hợp tác kinh tế, kỹ thuật, thương mại và thu hút vốn

đầu tư nước ngoài. Mặt khác hoạt động bảo hiểm còn mang về cho kinh tế quốc dân một khoản
ngoại tệ đáng kể.
 Bảo hiểm chẳng những có tác dụng bồi thường tổn thất sau khi có rủi ro phát sinh mà còn
góp phần rất lớn cho việc đề phòng rủi ro và hạn chế tổn thất. Nhà bảo hiểm thường sử dụng
những chuyên gia giỏi, tổ chức các dự án nghiên cứu, tư vấn – tài trợ cho cơ quan quản lý nhà
Lý thuyết tài chính tiền tệ

19

nước áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro và hạn chế tổn thất hoặc tư vấn cho khách hàng
tăng cường quản trị rủi ro ở đơn vị mình.
 Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm với việc nắm giữ quỹ tiền tệ bảo hiểm rất lớn nhưng
tạm thời nhàn rỗi đã trở thành những nhà đầu tư lớn. Bảo hiểm vì vậy còn có vai trò trung gian tài
chính là một kênh huy động và cấp vốn có hiệu cho nền kinh tế. Đặc biệt, ở nhiều nước phát triển,
các nhà bảo hiểm còn bảo hiểm cho trái phiếu nhất là trái phiếu đô thị. Điều nầy làm tăng tính an
toàn của trái phiếu đô thi, giúp cho chính quyền trung ương và địa phương thu hút vốn từ dân cư,
đầu tư cho các dự án y tế, giáo dục, công trình phúc lợi và cơ sở hạ tầng.
 Với những lợi ích nói trên, bảo hiểm đã ra đời từ rất lâu và ngày càng phát triển. Trong những
năm gần đây, hàng năm, trên toàn thế giới, số phí bảo hiểm thu được lên đến hàng ngàn tỷ đô la
Mỹ (năm 2001: trên 2400 tỷ), trung bình mỗi cư dân trên hành tinh chúng ta mỗi năm bỏ ra 393
USD cho việc tham gia bảo hiểm, trong đó, 235 USD cho BHNT và 158 USD cho BHPNT. Ở
nhiều nước, bảo hiểm chiếm tỷ lệ đáng kể trong GDP (Ví dụ, Hàn quốc: 12%, Nhật bản: 11%, Mã
lai: 5%). Hàng năm, bảo hiểm cũng đã góp phần đáng kể trong việc khắc phục hậu quả của những
tổn thất đặc biệt là các tổn thất thảm họa.
Đặc điểm của Bảo hiểm thương mại
Nhìn chung, bảo hiểm thương mại có một số đặc điểm cơ bản sau:
- Trước tiên, hoạt động bảo hiểm thương mại là một hoạt động thỏa thuận (nên còn gọi là bảo
hiểm tự nguyện);
- Hai là, sự tương hổ trong bảo hiểm thương mại được thực hiện trong một "cộng đồng có giới
hạn", một "nhóm đóng";

- Ba là, bảo hiểm thương mại cung cấp dịch vụ đảm bảo không chỉ cho các rủi ro bản thân)
mà còn cho cả rủi ro tài sản và trách nhiệm dân sự.
Nguyên tắc hoạt động cơ bản của Bảo hiểm thương mại
Hoạt động bảo hiểm nói chung, hoạt động bảo hiểm thương mại nói riêng tạo ra được một "sự
đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít" trên cơ sở quy tụ nhiều người có cùng rủi ro
thành cộng đồng nhằm phân tán hậu quả tài chính của những vụ tổn thất. Số người tham gia càng
đông, tổn thất càng phân tán mỏng, rủi ro càng giảm thiểu ở mức độ thấp nhất thể hiện ở mức phí
bảo hiểm phải đóng là nhỏ nhất đủ để mỗi người đó không ảnh hưởng gì quan trọng đến hoạt động
sinh hoạt sản xuất của mình. Hoạt động theo quy luật số đông, đó là nguyên tắc cơ bản nhất của
bảo hiểm. Bên cạnh đó, đám đông tham gia vào cộng đồng càng lớn thể hiện nhu cầu bảo hiểm
càng tăng theo đà phát triển của nền kinh tế - xã hội, những người được bảo hiểm không thể và
cũng không cần biết nhau, họ chỉ biết người quản lý cộng đồng (doanh nghiệp bảo hiểm) là người
nhận phí bảo hiểm và cam kết sẽ bồi thường cho họ khi có rủi ro tổn thất xảy ra. Hoạt động bảo
hiểm thương mại tạo ra được một sự hoán chuyển rủi ro từ những người được bảo hiểm qua người
bảo hiểm trên cơ sở một văn bản pháp lý: Hợp đồng bảo hiểm. Điều này đã tạo ra một rủi ro mới
đe dọa mối quan hệ giữa 2 bên trên hợp đồng. Dịch vụ bảo hiểm thương mại là một lời cam kết,
liệu lúc xảy ra tổn thất, doanh nghiệp bảo hiểm có thực hiện hoặc có khả năng thực hiện cam kết
của mình hay không trong khi phí bảo hiểm đã được trả theo "nguyên tắc ứng trước". Ngược lại
các rủi ro, tổn thất được bảo hiểm được minh thị rõ ràng trên hợp đồng, liệu có sự man trá của
Lý thuyết tài chính tiền tệ

20

phía người được bảo hiểm hay không để nhận hưởng tiền bảo hiểm. Như vậy, mối quan hệ giữa
2 bên trên hợp đồng bảo hiểm gắn liền với sự tin tưởng lẫn nhau và điều này đòi hỏi phải đảm bảo
nguyên tắc cơ bản thứ hai: Nguyên tắc trung thực.
Các nét khác nhau cơ bản giữa Bảo hiểm thương mại và Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm thương mại được thực hiện bởi các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích cung cấp
cho xã hội một loại hàng hóa, dịch vụ “an tòan”, trên cơ sở đó, nhà bảo hiểm tìm kiếm một khoản
lợi nhuận kinh doanh bảo hiểm. Trong khi đó, Bảo hiểm xã hội được thực hiện bởi cơ quan bảo

hiểm xã hội  một tổ chức sự nghiệp của nhà nước nhằm chăm lo phúc lợi xã hội. Nói cách khác,
Mối quan hệ của Bảo hiểm thương mại nẩy sinh mang tính chất tự nguyện, còn Mối quan hệ của
Bảo hiểm xã hội mang tính chất bắt buộc.
Nội dung bảo hiểm thương mại rất rộng. Bảo hiểm thương mại không chỉ đảm bảo cho các rủi
ro về con người như Bảo hiểm xã hội mà còn đảm bảo các rủi ro của các đối tượng khác như tài
sản (công trình, nhà cửa, nhà xưởng, hàng hóa, phương tiện sản xuất kinh doanh và sinh họat) và
trách nhiệm (trách nhiệm công cộng, trách nhiệm sản phẩm, );
Bảo hiểm thương mại có mức phí, mức chi trả bồi thường phụ thuộc vào thỏa thuận phù hợp
theo nhu cầu (xuất phát từ giá trị tài sản được bảo hiểm, số tiền bảo hiểm lựa chọn, mức độ quan
trọng của rủi ro, ) và khả năng của Người được bảo hiểm, thông thường nghĩa vụ và quyền lợi
trên Hợp đồng bảo hiểm là tương xứng nhau. Ngược lại, phí bảo hiểm của Bảo hiểm xã hội được
xác định theo thu nhập của người lao động (theo tỷ lệ phần trăm trên lương) chứ không theo tình
trạng sức khỏe, tuổi thọ của họ.
Mối quan hệ của Người được bảo hiểm và Người bảo hiểm trong Bảo hiểm thương mại là có
thời hạn và thông thường là ngắn hạn (bảo hiểm phi nhân thọ). Ngược lại mối quan hệ giữa Người
lao động và cơ quan bảo hiểm xã hội là dài hạn, trọn đời.
Cộng đồng Người được bảo hiểm của Bảo hiểm thương mại là một “nhóm đóng” có giới hạn
trong một thời kỳ nhất định còn đối với Bảo hiểm xã hội đó lại là một “nhóm mở” có đầu vào và
đầu ra là các thế hệ người lao động nối tiếp nhau.
Phân loại Bảo hiểm thương mại
Phân loại theo đối tượng bảo hiểm: Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm thì toàn bộ các loại hình
nghiệp vụ bảo hiểm được chia thành ba nhóm: bảo hiểm tài sản, bảo hiểm con người và bảo hiểm
trách nhiệm dân sự:
(1) Bảo hiểm tài sản: là loại bảo hiểm lấy tài sản làm đối tượng bảo hiểm. Khi xảy ra rủi ro tổn
thất về tài sản như mất mát, hủy hoại về vật chất, người bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường cho
người được bảo hiểm căn cứ vào giá trị thiệt hại thực tế và mức độ đảm bảo thuận tiện hợp đồng;
(2) Bảo hiểm con người: đối tượng của các loại hình này, chính là tính mạng, thân thể, sức khỏe
của con người. Người ký kết hợp đồng bảo hiểm, nộp phí bảo hiểm để thực hiện mong muốn nếu
như rủi ro xảy ra làm ảnh hưởng tính mạng, sức khỏe của người được bảo hiểm thì họ hoặc một
người thụ hưởng hợp pháp khác sẽ nhận được khoản tiền do người bảo hiểm trả. Bảo hiểm con

người có thể là bảo hiểm nhân thọ hoặc bảo hiểm tai nạn – bệnh.
Lý thuyết tài chính tiền tệ

21

(3) Bảo hiểm trách nhiệm dân sự: Đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm phát sinh do ràng buộc
của các quy định trong luật dân sự, theo đó, người được bảo hiểm phải bồi thường bằng tiền cho
người thứ 3 những thiệt hại gây ra do hành vi của mình hoặc do sự vận hành của tài sản thuộc sở
hữu của chính mình. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự có thể là bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
hoặc bảo hiểm trách nhiệm công cộng. Phân loại theo kỹ thuật bảo hiểm: Theo cách phân loại này
các loại hình bảo hiểm được chia ra làm 2 loại: loại dựa trên kỹ thuật "phân bổ" và loại dựa trên
kỹ thuật "tồn tích vốn".
(1) Các loại bảo hiểm dựa trên kỹ thuật phân bổ: là các loại bảo hiểm đảm bảo cho các rủi ro
có tính chất ổn định (tương đối) theo thời gian và thường độc lập với tuổi thọ con người (nên gọi
là bảo hiểm phi nhân thọ). Hợp đồng bảo hiểm loại này thường là ngắn hạn (một năm);
(2) Các loại bảo hiểm dựa trên kỹ thuật tồn tích vốn: là các loại bảo hiểm đảm bảo cho các rủi
ro có tính chất thay đổi (rõ rệt) theo thời gian và đối tượng, thường gắn liền với tuổi thọ con người
(nên gọi là bảo hiểm nhân thọ). Các hợp đồng loại này thường là trung và dài hạn (10 năm, 20
năm, trọn đời ). Phân loại theo tính chất của tiền bảo hiểm trả:
(1) Các loại bảo hiểm có số tiền bảo hiểm trả theo nguyên tắc bồi thường: Theo nguyên tắc này,
số tiền mà người bảo hiểm trả cho người được bảo hiểm không bao giờ vượt quá giá trị thiệt hại
thực tế mà anh ta đã phải gánh chịu. Các loại bảo hiểm này gồm có: bảo hiểm tài sản và bảo hiểm
trách nhiệm dân sự (gọi chung là bảo hiểm thiệt hại). Với loại bảo hiểm nầy, về nguyên tắc, người
mua bảo hiểm không được ký hợp đồng trên giá hoặc bảo hiểm trùng ;
(2) Các loại bảo hiểm có số tiền bảo hiểm trả theo nguyên tắc khoán: Người được bảo hiểm sẽ
nhận được số tiền khoán theo đúng mức mà họ đã thỏa thuận trước trên hợp đồng bảo hiểm với
người bảo hiểm tùy thuộc và phù hợp với nhu cầu cũng như khả năng đóng phí. Đây chính là các
loại bảo hiểm nhân thọ và một số trường hợp của bảo hiểm tai nạn, bệnh tật. Với loại bảo hiểm
nầy, về nguyên tắc, người mua bảo hiểm có thể cùng một lúc ký nhiều hợp đồng bảo hiểm cho
một đối tương và không bị hạn chế số tiền bảo hiểm

Phân loại theo phương thức quản lý: Với cách phân loại này, các nghiệp vụ bảo hiểm thương
mại được chia làm 2 hình thức: bắt buộc và tự nguyện
(1) Bảo hiểm tự nguyện: Là những loại bảo hiểm mà hợp đồng được kết lập dựa hoàn toàn trên
sự cân nhắc và nhận thức của người được bảo hiểm. Đây là tính chất vốn có của bảo hiểm thương
mại khi nó có vai trò như là một hoạt động dịch vụ cho sản xuất và sinh hoạt con người.
(2) Bảo hiểm bắt buộc: Được hình thành trên cơ sở luật định nhằm bảo vệ lợi ích của nạn nhân
trong các vụ tổn thất và bảo vệ lợi ích của toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Các hoạt động nguy hiểm
có thể dẫn đến tổn thất con người và tài chính trầm trọng gắn liền với trách nhiệm dân sự nghề
nghiệp thường là đối tượng của sự bắt buộc này. Ví dụ: bảo hiểm trách nhiện dân sự chủ xe cơ
giới, trách nhiệm dân sự của thợ săn Tuy nhiên, sự bắt buộc chỉ là bắt buộc người có đối tượng
mua bảo hiểm chứ không bắt buộc mua bảo hiểm ở đâu. Tính chất tương thuận của hợp đồng bảo
hiểm được ký kết vẫn còn nguyên vì người được bảo hiểm vẫn tự do lựa chọn nhà bảo hiểm cho
mình.
2.2.4. Bảo hiểm y tế
Khái niệm bảo hiểm y tế
Lý thuyết tài chính tiền tệ

22

Bảo hiểm y tế là các quan hệ kinh tế gắn liền với việc huy động các nguồn tài lực từ sự đóng
góp của những người tham gia bảo hiểm để hình thành quỹ bảo hiểm, và sử dụng quỹ để thanh
toán các chi phí khám chữa bệnh cho người được bảo hiểm khi ốm đau.
Đặc điểm của bảo hiểm y tế

Vừa mang tính chất bồi hoàn, vừa mang tính chất không bồi hoàn;

Quá trình phân phối quỹ bảo hiểm y tế gắn chặt với chức năng giám đốc bằng đồng tiền
đối với mục đích tạo lập và sử dụng quỹ.
Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm y tế


Vì quyền lợi của người tham gia bảo hiểm và bảo đảm an toàn sức khỏe cho cộng đồng;

Chỉ bảo hiểm cho những rủi ro không lường trước được, không bảo hiểm những rủi ro chắc
chắn sẽ xảy ra hoặc đã xảy ra;

Hoạt động dựa trên nguyên tắc số đông bù số ít.
Đối tượng của bảo hiểm y tế
Đối tượng của bảo hiểm y tế là sức khỏe của người được bảo hiểm (rủi ro ốm đau, bệnh tật, ).
Hình thức của bảo hiểm y tế

Bảo hiểm y tế bắt buộc;

Bảo hiểm y tế tự nguyện.
Phạm vi của bảo hiểm y tế

Bảo hiểm y tế là một chính sách xã hội của mọi quốc gia trên thế giới do chính phủ tổ chức
thực hiện, nhằm huy động sự đóng góp của mọi tầng lớp trong xã hội để thanh toán chi phí y tế
cho người tham gia bảo hiểm;

Người tham gia bảo hiểm y tế khi gặp rủi ro về sức khỏe được thanh toán chi phí khám
chữa bệnh với nhiều mức khác nhau tại các cơ sở y tế;

Một số loại bệnh mà người đến khám bệnh được ngân sách nhà nước đài thọ theo quy định;
cơ quan bảo hiểm y tế không phải chi trả trong trường hợp này.
Cơ chế hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm y tế
Hình thành quỹ bảo hiểm y tế

Ngân sách nhà nước cấp;

Tài trợ của các tổ chức xã hội, từ thiện;


Phí bảo hiểm y tế của người tham gia bảo hiểm, đối với người nghỉ hưu, mất sức: do bảo
hiểm xã hội đóng góp;

Phí bảo hiểm của tổ chức sử dụng người lao động.
Sử dụng quỹ bảo hiểm y tế

Thanh toán chi phí y tế cho người tham gia bảo hiểm theo định mức;
Lý thuyết tài chính tiền tệ

23


Chi dự trữ, dự phòng;

Chi cho đề phòng hạn chế tổn thất;

Chi phí quản lý;

Chi trợ giúp cho hoạt động nâng cấp các cơ sở y tế.

2.3. Quỹ hưu trí
Quỹ hưu trí được thành lập với mục đích hỗ tợ cho người lao động khi về hưu một mức thu
nhập ổn định. Việc đầu tư nhằm bảo toàn và phát triển quỹ vừa giúp đảm bảo thu nhập thường
xuyên ổn định cho người lao động về hưu vừa giúp di chuyển vốn nhàn rỗi đến tay các chủ thể
cần vốn trong nền kinh tế.
2.3.1 Hoạt động chính:
- Nhận đóng góp từ các doanh nghiệp hoặc ngân hàng nhà nước.
- Đầu tư tiền vào các loại chứng khoán.
- Tiền được trả lại cho các thành viên vủa quỹ dưới hình thức tiền hưu.

- Ở một số nước (chẳng hạn như Mỹ và anh), chính phủ có vai trò trong hạn chế hoạt động
của quỹ lương hưu. Gánh nặng của việc hoạch định hưu trí thuộc về người lao động. ở một số
nước khác (chẳng hạn như Pháp và Ý) thi chính phủ lại đóng vai trò tích cực.
- Các chương trình lương hưu thường được tổ chức dưới dạng quỹ tín thác.
 Chủ doanh nghiệp lập nên quỹ tín thác do một người được ủy thác quản lý vì lợi ích của
các thành viên trong quỹ.
 Tài sản của quỹ được tách rời khỏi doanh nghiệp tài trợ và không được thể hiện trên bảng
cân đối kế toán của doanh nghiệp.
2.3.2. Các loại quỹ hưu trí:
- Loại quỹ truyền thống.
 Lợi ích của các thành viên được xác định bằng các mức lương cuối cùng.
 Mức lương này được gọi là lợi ích được xác định hay lương cuối cùng.
 Doanh nghiệp và người lao động hàng tháng đều đóng góp vào quỹ lương hưu.
 Người được ủy thác có trách nhiệm đảm bảo rằng tài sản có của quỹ trang trải được các tài
sản nợ.
 Doanh nghiệp chịu rủi ro còn lại; chẳng hạn nếu thị trường chứng khoán sụp đổ thì tài sản
có quỹ sẽ giảm xuống ( so với tài sản nợ) và doanh nghiệp sẽ được yêu cầu đóng góp thêm.
- Loại quỹ mới.
 Chỉ có những đóng góp của doanh nghiệp là xác định.
 Tiền lương hưu cuối cùng phụ thuộc vào giá trị của khoảng đầu tư khi nghỉ hưu.
 Nếu các khoản đầu tư của quỹ hoạt động tốt thì các thành viên của quỹ sẽ giàu lên; nếu
không, họ sẽ nghèo đi.
Quỹ hưu trí ở Việt Nam
- Tổ chức của nhà nước
- Người lao động đóng góp một phần, doanh nghiệp đóng góp một phần.
Lý thuyết tài chính tiền tệ

24



2.4. Công ty tài chính.
2.4.1. Hoạt động.
Công ty tài chính là một định chế tài chính trung gian, là một tổ chức kinh doanh tiền tệ với
hoạt động chủ yếu và thường xuyên là:
- Thu hút vốn bằng cách phát hành cổ phiếu và trái khoán, không nhận tiền gửi không kỳ
hạn của dân chúng và các tổ chức kinh tế.
- Sử dụng vốn để cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn nhằm đáp ứng các nhu cấu của sản xuất
và tiêu dùng.
- Thực hiện các nghiệp vụ cho thuê và thuê mua.
- Cầm cố các loại hàng hóa, vật tư, ngoại tệ và giấy tờ có giá,…
- Tư vấn và marketting, giám định các công việc để chuẩn bị ký kết hợp đồng, thành lập các
công ty liên doanh.
- Trợ cấp tài chính cho các dự án phát triển kinh tế kỹ thuật được nhà nước ưu tiên.
- Thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh vàng bạc, đá quý, mua bán, chuyển nhượng chứng
khoáng…
- Thực hiên các dịch vụ bảo lãnh.
2.4.2. Phân loại.
Theo hình thức hoạt động, công ty tài chính được phân chia thành công ty tài chính bán hàng,
công ty tài chính tiêu dùng và công ty tài chính thương mại.
 Công ty tài chính bán hàng.
Thường được sở hữu bởi một công ty bán lẻ hay sản xuât công nghiệp cho người tiêu dùng vay
để mua các món hàng từ công ty đó.
 Công ty tài chính tiêu dùng.
Cho người tiêu dùng vay để mua những món hàng cụ thể nào đó như đồ đạc, hàng gia dụng,
để cải thiện nhà cửa hay để giúp tái tài trợ cho những khoảng vay nhỏ.
 Công ty tài chính kinh doanh.
Cung cấp các dạng tín dụng bằng cách mua lại hoặc chiết khấu những khoảng phải thu của
doanh nghiệp, thực hiện cung cấp tín dụng cho thuê tài chính (tín dụng thuê mua).
Các công ty tài chính ở Viêt Nam hiện nay:
- Các công ty tài chính trực thuộc các tổng công ty: dầu khí , bưu điện, cao su, tàu thủy

- Công ty tài chính Sài Gòn( SFC)
- Công ty tài chinh Seaprodex…

2.5. Quỹ tương hỗ (Mutual fund)
2.5.1. Khái niệm và đặc điểm cơ bản:
- Quỹ tương hỗ là quỹ được điều hành bởi công ty đầu tư nhằm huy động vốn cổ đông và đầu
tư vào chứng khoán, trái phiếu, hợp đồng option, hàng hoá hay các chứng khoán trên thị trường
Lý thuyết tài chính tiền tệ

25

tiền tệ, thường phát hành chứng khoán quỹ để huy động vốn. Đây là một loại chứng khoán tạo cơ
hội cho các nhà đầu tư nhỏ có khả năng tiếp cận với một danh mục đầu tư đa dạng và có một sự
quản lý chuyên môn. Mỗi cổ đông đều có cơ hội được hưởng lãi từ hoạt động đầu tư của quỹ
nhưng đồng thời cũng phải chịu lỗ nếu như đầu tư không thành công.
Bạn có thể thu được lợi nhuận từ một quỹ đầu tư theo 03 cách như sau:
 Thu nhập từ cổ tức được chia từ cổ phiếu và từ lãi suất trái phiếu. Quỹ thường chi trả gần
như toàn bộ các khoản thu nhập mà quỹ nhận được trong năm cho Nhà đầu tư dưới hình thức phân
chia cổ tức quỹ.
 Nếu quỹ bán đi chứng khoán đã tăng giá, quỹ sẽ có lãi vốn (capital gain). Hầu hết các quỹ
cũng chia lại khoản lãi vốn này cho Nhà đầu tư.
 Nếu các chứng khoán mà quỹ còn nắm giữ tăng giá và Công ty quản lý quỹ quyết định
không bán ra, giá chứng chỉ quỹ trên thị trường sẽ tăng lên. Khi đó, Nhà đầu tư có thể bán chứng
chỉ quỹ để kiếm lời.
Thành lập quỹ tương hỗ
Các quỹ tương hỗ thường do các công ty đầu tư (gọi là các công ty quỹ tương hỗ), các công ty
môi giới và ngân hàng tạo dựng nên. Số lượng quỹ mà các nhà bảo trợ này cung cấp rất đa dạng,
từ rất ít như 2, 3 quỹ đến số lượng lớn hơn 150 quỹ. Mỗi quỹ mới đều có một nhà quản lý có trình
độ chuyên môn tốt, một mục tiêu đầu tư, một kế hoạch hoặc chương trình đầu tư mà nó sẽ theo
đuổi để có thể xây dựng danh mục đầu tư riêng của quỹ

Các bước cơ bản khi tạo dựng một quỹ:
 Quỹ quyết định các phương pháp luận đầu tư
 Phát hành bản cáo bạch
 Bán cổ phiếu quỹ (còn gọi là chứng chỉ).
2.5.2. Cấu trúc đóng và mở của quỹ tương hỗ:
- Quỹ mở: Phần lớn các quỹ tương hỗ là các quỹ mô hình mở (quỹ mở). Điều này có nghĩa là
nhà đầu tư muốn mua bao nhiêu cổ phiếu thì quỹ sẽ bán bấy nhiêu. Khi tiền đã đầu tư vào quỹ,
quỹ sẽ phát triển hơn. Nếu nhà đầu tư muốn bán, quỹ đó sẽ mua lại cổ phiếu (chứng chỉ quỹ) của
họ.
Đôi khi, một quỹ tương hỗ mô hình mở này sẽ "đóng cửa" đối với các nhà đầu tư mới, khi quỹ
đó đã phát triển quá lớn để có thể quản lý một cách hiệu quả - trong khi đó lại không đóng cửa
đối với các nhà đầu tư hiện tại - họ vẫn có thể tiếp tục đầu tư thêm tiền vào quỹ. Khi một quỹ
đóng cửa theo kiểu này, công ty đầu tư thường tạo ra một quỹ tương tự để tận dụng nguồn vốn
của các nhà đầu tư.
- Quỹ đóng: Quỹ tương hỗ mô hình đóng thì rất giống với các cổ phiếu về cách cổ phiếu của
quỹ được giao dịch. Bởi vì các quỹ này đầu tư tiền vào vô số chứng khoán, nên họ chỉ có thể nâng
số tiền đầu tư trong một lần duy nhất và họ cũng chỉ chào bán một số lượng cố định nào đó các
cổ phiếu của mình - những cổ phiếu sẽ được giao dịch trên thị trường niêm yết hoặc trên thị trường
phi tập trung (OTC). Giá thị trường của cổ phiếu một quỹ tương hỗ thường thay đổi theo nhu cầu
của các nhà đầu tư cũng như theo giá trị mà quỹ hiện đang nắm giữ.

×