Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Thực trạng chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt tại viện sức khoẻ tâm thần bệnh viện bạch mai năm 2022

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 83 trang )

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

HOÀNG THỊ NGỌC DIỆP

THỰC TRẠNG CHĂM SÓC NGƯỜI BỆNH TÂM THẦN
PHÂN LIỆT TẠI VIỆN SỨC KHOẺ TÂM THẦN
BỆNH VIỆN BẠCH MAI NĂM 2022

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

NAM ĐỊNH - 2022


BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

HOÀNG THỊ NGỌC DIỆP

THỰC TRẠNG CHĂM SÓC NGƯỜI BỆNH TÂM THẦN
PHÂN LIỆT TẠI VỆN SỨC KHOẺ TÂM THẦN
BỆNH VIỆN BẠCH MAI NĂM 2022
Chuyên ngành: Điều dưỡng Tâm thần

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN:
TS. Trần Văn Long

NAM ĐỊNH - 2022



i
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học trình học tập và hồn thành chun đề tốt nghiệp tơi đã
nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cơ giáo, đồng nghiệp, gia đình và bạn
bè.
Tơi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Quản lý Đào tạo sau Đại
học cùng các thầy cô giáo Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định đã nhiệt tình
giảng dạy, hướng dẫn và giúp đỡ tơi trong suốt q trình học tập.
Tơi xin chân thành cảm ơn đến Ban Lãnh đạo Viện và quý đồng nghiệp
Viện Sức Khỏe Tâm thần - Bệnh viện Bạch Mai đã giúp đỡ, chia sẻ cho tôi
những kinh nghiệm quý báu trong thời gian tôi học tập và làm chuyên đề.
Tôi xin trân trọng cảm ơn TS.BS. Trần Văn Long đã giúp đỡ, hướng dẫn
tôi trong suốt thời gian tơi thực hiện và hồn thành chun đề này.
Tơi xin chân thành cảm ơn những người bệnh, gia đình người bệnh đã
thông cảm tạo điều kiện cho tôi được thăm khám tiếp xúc, lắng nghe và thực
hiện nghiêm túc những lời khuyên dành cho họ.
Tôi xin được cảm ơn các bạn trong lớp Chuyên khoa I, khóa 9 đã cùng vai
sát cánh với tơi để hồn thành tốt chun đề này.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 03 tháng 11 năm 2022
Học viên

Hoàng Thị Ngọc Diệp


ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan chuyên đề tốt nghiệp “Thực trạng chăm sóc người
bệnh tâm thần phân liệt tại Viện Sức Khỏe Tâm thần - Bệnh Viện Bạch Mai

năm 2022” là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết quả trong chuyên đề
là hoàn toàn trung thực và chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nghiên
cứu nào từ trước tới nay. Nếu có gì sai sót tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 03 tháng 11 năm 2022
Học viên

Hoàng Thị Ngọc Diệp


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ..................................................................................................... i
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................... i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................ iii
ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ................................................ 3

1.1. Cơ sở lý luận ......................................... Error! Bookmark not defined.
1.2. Các lý luận về khoa học ....................................................................... 17
Chương 2: MÔ TẢ VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT ........................................... 21
2.1. Thông tin chung về Viện sức khoẻ tâm thần - Bệnh viện Bạch Mai..... 21
2.2. Thực trạng cơng tác chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt tại Viện
sức khoẻ tâm thần - Bệnh viện Bạch Mai ................................................... 22
Chương 3: BÀN LUẬN ................................................................................... 64
3.1. Thực trạng cơng tác chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt tại Viện
Sức Khỏe Tâm thần - Bệnh Viện Bạch Mai................................................ 64
3.2. Nguyên nhân của các tồn tại. ............................................................... 67
3.3. Các biện pháp để cải thiện chăm sóc người bệnh TTPL tại Viện sức
khỏe tâm thần - Bệnh viện Bạch Mai . ........................................................ 67
KẾT LUẬN...................................................................................................... 73
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP .................................................................................... 74

TÀI LIỆU THAM KHẢO


iii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BYT:

Bộ Y tế

GDSK:

Giáo dục sức khoẻ

NVYT:

Nhân viên y tế

TCYTTG:

Tổ chức y tế thế giới

TTPL:

Tâm thần phân liệt


1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Tâm thần phân liệt (TTPL) là một bệnh loạn thần nặng, có khuynh hướng
mạn tính và khá phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới [1], [7]. Người mắc
bệnh bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng suy nghĩ, biểu lộ tình cảm và
mối quan hệ với người xung quanh. Bệnh TTPL nếu không được phát hiện sớm
và điều trị kịp thời sẽ dẫn đến sa sút trí tuệ, tự kỷ và mất khả năng lao động.
Theo thống kê của nhiều nước, tỷ lệ bệnh chiếm khoảng 0,3 - 1,5% dân số và
tỷ lệ này khác nhau ở những quốc gia khác nhau [10].
Ở Việt Nam theo kết quả khảo sát của ngành Tâm thần học Việt Nam năm
(2002) trên 67.380 dân ở các vùng dân cư khác nhau cho thấy tỷ lệ bệnh TTPL
là 0,47% dân số. Theo báo cáo phân loại người bệnh nội trú ICD - 10 năm 2010
của Bệnh viện Tâm thần Trung ương I tổng số người bệnh điều trị nội trú là
3766 trong đó số người bệnh TTPL là 1574 chiếm 41,8% [2].
Bệnh TTPL phải điều trị lâu dài, điều trị tấn cơng tại bệnh viện và điều trị
duy trì tại gia đình, kết hợp dùng thuốc với liệu pháp lao động và tái thích ứng
xã hội [1]. Bệnh khơng những ảnh hưởng đến cuộc sống của người bệnh mà
còn có thể là gánh nặng cho gia đình và xã hội. Một số nghiên cứu đã chỉ ra
rằng khi người bệnh nằm viện nếu được chăm sóc tốt thì bệnh sẽ thuyên giảm
nhanh và người bệnh dễ dàng tái hòa nhập cộng đồng, khơng là gánh nặng cho
gia đình và xã hội. Việc chăm sóc ở đây bao gồm cả việc sử dụng thuốc cho
người bệnh và các liệu pháp cải thiện chức năng lao động cũng như chức năng
tâm lý của người bệnh.
Hiện nay, bệnh TTPL đang có xu hướng ngày càng gia tăng. Môi
trường tâm lý xã hội cũng ảnh hưởng rất lớn, người bệnh mất khả năng thích
ứng với các stress tâm lý xã hội, rối loạn cấu trúc và xung đột gia đình, các biến
đổi văn hố tuy khơng phải là ngun nhân nhưng cũng góp phần thúc đẩy bệnh
phát sinh và phát triển [1]. Công tác chăm sóc người bệnh TTPL đã và đang
được xã hội, cộng đồng và ngành y tế quan tâm, tuy nhiên chưa có nhiều


2


nghiên cứu về thực trạng cơng tác chăm sóc người bệnh TTPL được công bố.
Qua theo dõi, thực tế tham gia vào q trình chăm sóc người bệnh TTPL tại
Viện Sức Khỏe Tâm thần - Bệnh Viện Bạch Mai, tôi nhận thấy vấn đề chăm sóc
cho người bệnh TTPL cần có sự thay đổi để người bệnh được chăm sóc tốt hơn,
do đó tơi đã thực hiện chun đề: “Thực trạng chăm sóc người bệnh tâm thần
phân liệt tại Viện Sức Khỏe Tâm thần - Bệnh Viện Bạch Mai năm 2022” với
mục tiêu cụ thể như sau:
1. Mô tả thực trạng về chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt tại Viện
Sức Khỏe Tâm thần - Bệnh Viện Bạch Mai năm 2022.
2. Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả chăm sóc người bệnh tâm
thần phân liệt tại Viện Sức Khỏe Tâm thần - Bệnh Viện Bạch Mai.


3

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm về bệnh tâm thần phân liệt
Theo bảng phân loại thống kê Quốc tế về bệnh tật và các vấn đề sức khỏe
có liên quan phiên bản lần thứ 10 (ICD-10), định nghĩa “Tâm thần phân liệt là
một bệnh loạn thần nặng, tiến triển từ từ, có khuynh hướng mạn tính, căn
nguyên hiện nay chưa rõ ràng, làm cho người bệnh dần tách khỏi cuộc sống bên
ngoài, thu dần vào thế giới bên trong, làm cho tình cảm trở nên khô lạnh, khả
năng học tập, làm việc ngày một sút kém, có những hành vi, ý nghĩ kỳ dị, khó
hiểu” [11].
Theo DSM-5, rối loạn phổ tâm thần phân liệt hay các rối loạn tâm thần
khác bao gồm tâm thần phần liệt, rối loạn tâm thần khác và chứng rối loạn tâm
trạng được xác định bởi những bất thường, bao gồm 1 hoặc nhiều lĩnh vực

trong 5 lĩnh vực sau: Các hoang tưởng; các ảo giác; ngôn ngữ thanh xuân; hành
vi thanh xuân hoặc hành vi căng trương lực; các triệu chứng âm tính [14].
Bệnh tâm thần phân liệt đã được biết từ lâu nhưng đến thế kỷ thứ XVIII
mới được mô tả trong y văn. Năm 1857 nhà tâm thần học người Pháp Morel
B.A (1809 - 1873) lần đầu tiên mô tả một loại bênh tâm thần ở người trẻ tuổi và
thường dẫn đến sa sút, gọi là bệnh sa sút sớm. Năm 1863 nhà tâm thần học
người Đức Khalbaum K.L (1828 - 1899) mô tả một bệnh tâm thần phát triển ở
người trẻ tuổi mang tính chất dữ dội gọi là tâm thần thanh xuân (hebephrénia).
Năm 1874 Khalbaum K.L lại mô tả một bệnh tâm thần biếu hiện chủ yếu rối
loạn tâm lý vận động gọi là bệnh căng trương lực (catatonia). Năm 1892 nhà
tâm thần học Pháp Magran (1835 - 1816) mô tả bệnh loạn thần hoang tưởng
mạn tính mà một số dẫn đến sa sút và vô cảm. Năm 1989 nhà tâm thần học Đức
Karaepelin E. đã thống nhất các thể bệnh độc lập được tác giả trên mô tả thành
một loại bệnh riêng gọi là bệnh sa sút sớm. Năm 1911 nhà tâm thần học Bleuler


4

E (Thụy Sỹ) đưa ra kết luận lý thú về các rối loạn chủ yếu của bệnh là sự chia
cắt trong các mặt hoạt động tâm thần, đó là lý do để ông đưa ra thuật ngữ mới:
Bệnh tâm thần phân liệt (schizophrenia). Theo ông nét đặc trưng của bênh tâm
thần phân liệt gồm 4 chữ A (rối loạn sự liên tưởng: Association, rối loạn loại
cảm xúc: Affect, tự kỷ: Autism và tính hai chiều trái ngược: Ambevalence) [7].
Năm 1939 Schneider K. mô tả một số triệu chứng hàng đầu, được ông coi
là đặc trưng cho tâm thần phân liệt (TTPL): là một bệnh tâm thần nặng, có tính
chất tiến triển, căn nguyên chưa rõ ràng, làm biến đổi nhân cách của người
bệnh theo kiểu phân liệt, biểu hiện bằng sự mất thống nhất trong các hoạt động
tâm thần, mất dần liên hệ với thực tại xung quanh, cảm xúc ngày càng khơ lạnh,
tác phong ngày càng kỳ dị khó hiểu, tư duy ngày càng lệch lạc trầm trọng [7].
1.1.2. Một số nguyên nhân gây bệnh tâm thần phân liệt.

Trong suốt quá trình lịch sử của ngành tâm thần học, các tác giả đã kiên trì
nghiên cứu và thử nghiệm, có nhiều giả thuyết của các chuyên ngành liên quan
đến Tâm thần học như: Hoá sinh học, Di truyền học, Thần kinh học, Triết
học,...nhưng cho đến nay bệnh nguyên và bệnh sinh của TTPL vẫn chưa xác
định được rõ ràng, chưa có một giả thuyết nào mang đến một kết quả thuyết
phục [6], [7].
Giả thuyết về sinh hóa:
Nghiên cứu của nhiều tác giả cho rằng ở NBTTPL có rối loạn chuyển hoá
các chất trung gian hoá học thần kinh như Serotonin, Catecholamin,....
Giả thuyết về rối loạn cấu trúc và chức năng não:
Một hướng nghiên cứu được chú ý gần đây là giả thuyết về rối loạn động
hệ Dopaminergic. Cơ sở khoa học của giả thuyết này là hiệu quả điều trị của các
thuốc hướng thần làm phong tỏa Receptors Dopamin và làm giảm sự dẫn truyền
Dopamin ở các vùng khác nhau của não. Do vậy, bệnh TTPL có thể liên quan
đến thừa hoặc tăng tương đối hoạt tính Neuron hệ thống Dopamine trung ương.
Một số giả thuyết về di truyền học:
Bệnh TTPL và những rối loạn liên quan đến TTPL xảy ra với tỷ lệ cao


5

trong số những người có mối liên hệ sinh học với NBTTPL. Một số nghiên cứu
cho thấy rằng nếu bố hoặc mẹ mắc bệnh thì khả năng mắc bệnh của con cái từ
10% - 20% và nếu cả bố và mẹ mắc bệnh thì tỷ lệ con mắc bệnh tăng lên đến
30% - 40%.
Một số giả thuyết khác:
Môi trường tâm lý xã hội, mất khả năng thích ứng với các Stress tâm lý, rối
loạn cấu trúc và xung đột gia đình, các biến đổi văn hóa, các yếu tố liên quan
trong q trình mang thai, sinh nở…tuy khơng phải là nguyên nhân nhưng cũng
là những nhân tố thúc đẩy bệnh phát sinh và phát triển.

1.1.3. Triệu chứng lâm sàng bệnh tâm thần phân liệt [1]
Các triệu chứng trong TTPL rất phong phú và đa dạng, luôn biến đổi. Tuy
nhiên đa số tác giả đều chia ra 2 loại triệu chứng chung gồm triệu chứng âm tính
và triệu chứng dương tính
 Các triệu chứng âm tính: gồm 2 loại là chủ yếu
- Thiếu hòa hợp trong hoạt động tâm thần và tự kỷ
- Giảm sút các thế năng tâm thần
* Tính thiếu hịa hợp:
Biểu hiện tính chất chung đó là tính 2 chiều trái ngược, tính dị kỳ khó hiểu,
tính khó thâm nhập, tính phủ định và tính tự động.
Tính thiếu hòa hợp thể hiện rõ nét nhất trong 3 mặt hoạt động chính tư
duy, cảm xúc, hành vi tác phong.
Tính tự kỷ cũng mang những tính chất trên nhưng ở mức độ cao hơn, nổi
bật là tính dị kỳ khó hiểu, khó thâm nhập.
Con người tự kỷ là con người dị kỳ, khó thâm nhập, biểu hiện rất đa dạng
có khi đạo mạo đài các , khi thì thơ bạo.
Thế giới tự kỷ là thế giới bên trong riêng biệt hết sức lạ kỳ. Người bệnh đi
vào thế giới nội tâm, vào thế giới bên trong với các quy luật tự nhiên và xã hội
đều bị đảo lộn. Người bệnh hiểu và làm những điều kỳ dị khơng ai có thể hiểu
được.


6

* Các triệu chứng giảm sút các thế năng tâm thần
Giảm thế năng tâm thần là giảm tính năng động, tính nhiệt tình trong mọi
hoạt động tâm thần. Biểu hiện cảm xúc ngày càng cùn mịn, khơ lạnh, tư duy
ngày càng nghèo nàn, ý chí ngày càng suy đồi, hoạt động ngày càng yếu đuối đi
đến chỗ không thiết làm một cơng việc gì.
 Triệu chứng dương tính:

Là những triệu chứng xuất hiện trong quá trình bị bệnh. Triệu chứng dương
tính rất đa dạng, phong phú và ln biến đổi, xuất hiện nhất thời rồi lại mất đi
hay được thay thế bằng các triệu chứng dương tính khác.
Thí dụ: Các cơn hưng cảm, trầm cảm, các hiện tượng ảo giác hoang tưởng,
ám ảnh, tâm thần tự động, nhân cách giải thể...
 Các nhóm triệu chứng có tầm quan trọng đặc biệt và thường đi với
nhau là:
Tư duy vang thành tiếng, bị đánh cắp, bị phát thanh.
Hoang tưởng bị kiểm tra, bị chi phối.
Có các ảo thanh thường xun bình phẩm về người bệnh, có thể xuất phát
từ một bộ phận nào đó của cơ thể.
Có các loại hoang tưởng dai dẳng khác khơng thích hợp về mặt văn hố và
hồn tồn khơng thể có được ( ví dụ: người bệnh cho rằng mìmh có khả năng
tiếp xúc với người ngồi hành tinh, có khả năng làm thay đổi thời tiết...)
Ảo giác dai dẳng bất cứ loại nào có khi kèm theo hoang tưởng thống qua
hay chưa hồn chỉnh.
Tư duy gián đoạn, hay thêm từ khi nói, ngơn ngữ khơng liên quan, khơng
thích hợp và ngơn ngữ bịa đặt .
Tác phong căng trương lực như kích động, giữ nguyên dáng, uốn sáp, phủ
định, sững sờ.
Có các triệu chứng âm tính: vơ cảm, ngôn ngữ nghèo nàn, học tập kém, lao
động giảm sút.


7

Biến đổi khơng thường xun và có ý nghĩa về chất lượng tồn diện của tập
tính cá nhân như mất những thích thú cũ, lười nhác, mải mê suy nghĩ về bản
thân và cách ly xã hội.
Trí tuệ cịn được duy trì, ý thức cịn rõ ràng.

Các triệu chứng trên phải tồn tại trên một tháng khi đó mới cho phép chẩn
đoán tâm thần phân liệt.
1.1.4. Chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt
Tiêu chuẩn chẩn đoán TTPL theo ICD-10 năm 1992, mục F20 [1], [3],
[11]:
a. Tư duy vang thành tiếng, tư duy bị áp đặt hay đánh cắp, tư duy bị phát
thanh.
b. Các hoang tưởng bị kiểm tra, bị chi phối hay bị động có liên quan rõ rệt
tới vận động của cơ thể hoặc liên quan tới ý nghĩ, hành vi, cảm giác đặc biệt của
NB hay tri giác hoang tưởng.
c. Các ảo thanh bình phẩm thường xuyên về hành vi của BN, hay thảo luận
với nhau về NB hoặc ảo thanh giả.
d. Các hoang tưởng dai dẳng khác khơng thích hợp.
e. Ảo giác kéo dài bất cứ loại nào, dai dẳng nhiều tuần.
f. Ngôn ngữ gián đoạn, thêm từ khi nói, tư duy khơng liên quan, khơng thích
hợp.
g. Tình trạng tăng trương lực như: Kích động tăng trương lực, giữ ngun
dáng, uốn sáp hay phủ định khơng nói, sững sờ.
h. Các triệu chứng âm tính như vơ cảm rõ rệt, ngôn ngữ nghèo nàn,các đáp
ứng cảm xúc cùn mịn hay khơng thích hợp, cách ly xã hội, giảm sút hiệu suất
lao động. Các triệu chứng trên phải rõ ràng, không do trạng thái trầm cảm hay
thuốc an thần kinh gây ra.
i. Biến đổi thường xuyên và rõ rệt một cách tồn diện tập tính cá nhân,
biểu hiện như: mất hứng thú, thiếu mục đích, lười biếng, mải mê suy nghĩ về
bản thân


8

- Chẩn đốn xác định bệnh TTPL: nếu có 1 triệu chứng rõ trong 4 nhóm

triệu chứng từ a đến d hoặc 2 triệu chứng rõ trong nhóm triệu chứng từ e đến i.
- Tiêu chuẩn về thời gian: các triệu chứng trên phải tồn tại ít nhất một
tháng.
- Tiêu chuẩn loại trừ:
+ Rối loạn cảm xúc, trầm cảm hay hưng cảm mở rộng.
+ Tổn thương thực thể não, động kinh.
+ Nghiện ma tuý.
1.1.5. Các thể bệnh trong ICD-10 [11]
Tùy các triệu chứng và hội chứng chiếm ưu thế, người ta chia ra từng thể lâm
sàng khác nhau. Theo ICD-10, bệnh TTPL gồm các thể sau:
F20.0. Tâm thần phân liệt thể paranoid:
F20.1. Tâm thần phân liệt thể thanh xuân
F20.2. Tâm thần phân liệt thể căng trương lực
F20.3. Tâm thần phân liệt thể không biệt định
F20.4. Tâm thần phân liệt thể trầm cảm sau phân liệt
F20.5. Tâm thần phân liệt thể di chứng
F20.6. Tâm thần phân liệt thể đơn thuần
1.1.6. Tiến triển của bệnh tâm thần phân liệt
- Giai đoạn báo trước:
Người bệnh ngày càng giảm sút khả năng học tập và cơng tác, đầu óc mù
mờ, khó suy nghĩ, cảm xúc lạnh nhạt dần, khó thích ứng với ngoại cảnh, giảm
dần các thích thú trước đây. Một số người bệnh biểu hiện trạng thái giống suy
nhược thần kinh như đau đầu, mất ngủ, chóng mệt mỏi, khó tiếp thu cái mới,
bồn chồn lo lắng, dễ nổi nóng, dễ bùng nổ. Sau nữa, người bệnh có cảm giác bị
động tăng dần cảm thấy đuối sức trước cuộc sống. Một số người bệnh cảm thấy
có những biến đổi kỳ lạ trong người như thay đổi nét mặt, màu da; có người
bệnh trở nên say sưa đọc các loại sách như triết học, lý luận viển vông, không
phù hợp với thực tế.



9

- Giai đoạn toàn phát:
Các triệu chứng khởi đầu nặng dần lên; đồng thời xuất hiện các triệu chứng
loạn thần rầm rộ, bao gồm các triệu chứng dương tính (ảo giác, hoang tưởng) và
các triệu chứng âm tính (thiếu hịa hợp). Tùy theo triệu chứng nổi bật lên hàng
đầu và thời gian kéo dài trong giai đoạn kịch phát, người ta chia ra các thể bệnh
TTPL khác nhau. Theo bảng phân loại quốc tế 10, các thể bệnh TTPL gồm: thể
hoang tưởng có các triệu chứng hoang tưởng (đặc biệt là hoang tưởng bị kiểm
tra bị chi phối) và ảo giác, thường gặp ảo thanh; thể thanh xuân xuất hiện ở tuổi
trẻ, nổi bật trạng thái

kích động lố lăng, si dại, cảm xúc hỗn độn, tư duy rời

rạc, tác phong điệu bộ nhăn mặt, nheo mắt, tinh nghịch; thể căng trương lực nổi
bật là triệu chứng kích động xen kẽ bất động, chống đối, động tác định hình; thể
đơn thuần chủ yếu các triệu chứng âm tính, thiếu hịa hợp, cảm xúc cùn mòn,
giảm sút hiệu quả lao động và học tập, ý chí giảm sút dần.
- Giai đoạn di chứng:
Các triệu chứng loạn thần như hoang tưởng, ảo giác mất đi hoặc mờ nhạt,
chỉ còn các triệu chứng âm tính nổi bật lên như cảm xúc cùn mịn, ngơn ngữ
nghèo nàn, hoạt động kém, bị động trong cuộc sống, kém chăm sóc bản thân,
một số NB sống lang thang [6], [7].
 Dấu hiệu tái phát:
- Căng thẳng ngày một tăng
- Lo lắng viển vông không thể thư giãn
- Rối loạn giấc ngủ
- Mệt mỏi
- Dễ kích thích cáu bẩn
- Hoảng sợ khơng có lý do

- Thu mình, từ chối giao tiếp, ăn uống
- Thờ ơ với mọi người và bản thân, không tự giao tiếp [9].


10

1.1.7. Điều trị bệnh tâm thần phân liệt [1]
Đây là bệnh phải điều trị lâu dài, điều trị tấn công tại bệnh viện và điều trị
duy trì tại gia đình, kết hợp dùng thuốc với liệu pháp lao động và tái thích ứng
xã hội.
 Liệu pháp tâm lý:
Tiếp xúc với người bệnh với thái độ thông cảm, nâng đỡ, không mặc cảm,
không coi thường hay tránh né, khiếp sợ người bệnh.
Tổ chức hệ thống cửa mở trong bệnh viện tránh giam giữ đến mức tối đa,
tổ chức bệnh viện ban ngày tại cộng đồng.
Giải quyết những nhu cầu và những mâu thuẫn của người bệnh tại gia đình
và cộng đồng.
 Liệu pháp lao động và tái thích ứng xã hội:
Nhằm phục hồi lại các chức năng lao động và nghề nghiệp mà người bệnh
đã mất đi trong khi bị bệnh bằng các dạng hoạt động: lao động thủ công, sản
xuất, vui chơi giải trí...
Đây là biện pháp khơng thể thiếu được nhằm duy trì tính tự chủ của người
bệnh và chống lại sự mạn tính hóa, chống lại các “hội chứng bệnh viện” góp
phần cải thiện tiên lượng bệnh.
 Liệu pháp hố dược:
Là liệu pháp thơng dụng nhất và có hiệu lực nhất trong điều trị các trạng
thái loạn thần cấp và chống lại xu hướng mạn tính hố và tái phát của bệnh, dựa
trên nguyên tắc: chọn thuốc phù hợp với triệu chứng lâm sàng, dùng thuốc thích
hợp với từng trạng thái cơ thể, chú ý phụ nữ có thai, người già, người cho con
bú, hạn chế tối đa sự kết hợp nhiều thuốc an thần kinh cùng một lúc. Theo dõi

chặt chẽ, phát hiện kịp thời các tác dụng phụ, biến chứng, bệnh cơ thể và tình
trạng nhiễm độc.
- An thần kinh cổ điển:
+ Aminazin 25 - 100 mg/ ngày
+ Levomepromazin 25 - 300 mg/ngày


11

+ Haloperidol 1,5 - 120 mg/ngày
+ Sulpiride 400 - 1200 mg/ngày
- An thần kinh mới:
+ Olanzapin: 5 - 20 mg/ngày
+ Risperidone: 2- 16 mg/ngày
+ Amisulpride: 400 - 1200 mg/ngày
+ Clozapine: 25 - 400 mg/ngày
- Các thuốc khác:
+ Chống trầm cảm: là thuốc được cân nhắc sử dụng khi người bệnh có các
biểu hiện trầm cảm kèm theo, nhưng phải hết sức thận trọng khi lựa chọn liều
lượng vì thuốc có thể làm hoạt hóa các hoang tưởng, ảo giác dẫn đến hành vi
nguy hiểm như kích động đập phá, đánh người hay tự sát…
+ Điều chỉnh khí sắc: thuốc có tác dụng tốt trong điều trị và dự phòng tái
phát, nhất là ở những người bệnh TTPL có rối loạn cảm xúc kèm theo.
 Liệu pháp sốc điện:
* Chỉ định:
- Người bệnh có ý định và hành vi tự sát.
- Người bệnh từ chối ăn uống.
- Tâm thần phân liệt thể căng trương lực.
- Các trường hợp kích động dữ dội, hoang tưởng, ảo giác... kéo dài mà điều
trị bằng thuốc khơng có kết quả.

* Chống chỉ định:
- Các bệnh tim, mạch như nhồi máu cơ tim, thiếu máu cơ tim, rối loạn dẫn
truyền nhĩ-thất, cao huyết áp.
- Các bệnh hơ hấp như phổi phế quản tắc nghẽn mạn tính.
- Chấn thương sọ não, u não, tai biến mạch máu não.
- Các bệnh gãy xương, sai khớp (chống chỉ định tương đối vì có thể làm
sốc điện dưới gây mê).
* Chuẩn bị người bệnh:


12

- Người bệnh cần làm đầy đủ các xét nghiệm thường qui như huyết học,
sinh hóa, điện tim, điện não…
- Người bệnh cần được chụp CT Scanner não để loại trừ tổn thương thực
tổn ở não.
- Người bệnh nhịn ăn sáng, được lấy mạch, nhiệt độ, huyết áp trước khi làm
sốc điện.
* Cách làm:
Liệu pháp sốc điện là biện pháp điều trị tấn công cho tâm thần phân liệt,
trầm cảm, hưng cảm… hiệu quả nhất và an toàn nhất. Liệu pháp này cho kết quả
đặc biệt tốt với tâm thần phân liệt thể căng trương lực. Sốc điện có kết quả ngay
cả với các trường hợp tâm thần phân liệt kháng thuốc.
Sốc điện cổ điển:
Sốc điện cổ điển là đưa một dịng điện dạng xung có cường độ rất nhỏ (vài
mili ampe) chạy qua vùng thái dương của người bệnh để xố hết các hoạt động
điện bình thường và bất thường ở não người bệnh. Sau sốc điện vài phút, các
hoạt động điện bình thường của não sẽ hồi phục, còn các hoạt động bất thường
gây ra hoang tưởng, ảo giác, căng trương lực, trầm cảm, hưng cảm… sẽ bị xóa
bỏ, tạo điều kiện cho các hoạt động tâm lý bình thường của người bệnh phục

hồi. Tuy nhiên, do sử dụng dịng điện phóng qua não (thường là ở hai thùy thái
dương) nên người bệnh sẽ có cơn co giật kiểu động kinh điển hình với các giai
đoạn co cứng (khoảng 10 giây), co giật (khoảng 2 phút), doãi mềm và hơn mê
ngắn (khoảng 3 phút). Sau đó, người bệnh sẽ tỉnh lại và quên hết các sự việc xảy
ra trong cơn.
- Hiệu điện thế sử dụng: 80-120 vol
- Thời gian phóng điện: 0,8-1,5 giây
- Căn cứ vào vị trí đặt điện cực, người ta chia làm sốc điện đơn cực và sốc
điện lưỡng cực.


13

+ Sốc điện đơn cực: 2 điện cực đặt cùng bên (bán cầu không ưu thế), 1 cái
để ở vùng thái dương, cái kia để ở vùng chẩm. Sốc điện đơn cực ít gây rối loạn
trí nhớ, nhưng hiệu quả không cao.
+ Sốc điện lưỡng cực: 2 điện cực đặt ở thái dương 2 bên. Sốc điện lưỡng
cực gây rối loạn trí nhớ nhiều hơn sốc điện đơn cực, nhưng cho hiệu quả cao
hơn.
- Số lần làm sốc điện: thường làm 8-12 lần, cá biệt có trường hợp đến 15
lần. Có thể làm mỗi ngày 1 lần hoặc cách ngày. Nếu người bệnh có lú lẫn nhiều,
nên làm cách ngày.
- Tác dụng phụ của sốc điện:
+ Đau đầu, đau cơ (sẽ hết nhanh chóng). Có thể cho thuốc giảm đau như
paracetamol, diclophenac...
+ Rối loạn trí nhớ (đặc biệt trí nhớ gần). Nên làm sốc điện cách ngày, tiêm
piracetam tĩnh mạch cho người bệnh (ống 1g x 4 ống/ngày, dùng 10-15 ngày).
+ Sai khớp rất hiếm gặp: nên dùng sốc điện cải tiến để hạn chế cơn co giật
của người bệnh.
Trong lâm sàng, bác sỹ thường kết hợp giữa sốc điện với thuốc an thần để

nâng cao hiệu quả điều trị.
Sốc điện tiền mê:
Sốc điện cổ điển có nhược điểm là cơn co giật kiểu động kinh diễn biến qua
các giai đoạn co cứng, co giật, dỗi mềm, hơn mê ngắn nên có thể gây sợ hãi
cho người bệnh và có thể có các biến chứng như sai khớp, đau cơ... Để khắc
phục hiện tượng co giật, người ta dùng sốc điện gây mê.
Sốc điện gây mê là người bệnh được gây mê tĩnh mạch bằng thiopental và
dùng giãn cơ. Cơn co giật hầu như biến mất, người bệnh cũng không còn sợ phải
làm sốc điện. Tuy nhiên thủ thuật quá phức tạp, địi hỏi phải có nhân viên gây
mê và các thuốc gây mê và giãn cơ. Vì thế chúng ít được áp dụng trong lâm
sàng.


14

Hiện nay, tại một số cơ sở điều trị bệnh tâm thần đã cải tiến phương pháp
sốc điện có sử dụng hỗn hợp tiền mê. Hỗn hợp tiền mê này rẻ tiền, dễ sử dụng,
có thể áp dụng tại mọi bệnh viện tâm thần mà không cần đễn bác sỹ chuyên
khoa gây mê. Phương pháp sốc điện cải tiến đã khắc phục được tính trạng sợ
làm sốc điện của người bệnh và gia đình người bệnh. Hơn nữa, với phương pháp
này cơn co giật kiểu động kinh do sốc điện gây ra hầu như không diễn ra.
Liều tiền mê bao gồm:
+ Haloperidol 5mg x 2 ống
+ Pipolphen 50mg x 1 ống
+ Seduxen 10mg x 1 ống
Trộn đều 3 thuốc trên trong cùng một xi lanh, tiêm tĩnh mạch chậm cho
người bệnh, chờ hai phút rồi tiến hành làm sốc điện giống như sốc điện cổ điển.
Khi phóng điện, người bệnh có co cứng tồn thân, nhưng khi ngừng phóng điện
thì chỉ có cơn co giật cục bộ, nhẹ ở vùng mặt (cơn nhai), kéo dài 10-15 giây.
Người bệnh cũng mất ý thức ngắn chừng 1 phút, sau đó sẽ phục hồi. Khơng có

hiện tượng ngừng thở (vì khơng có cơn co giật) như trong sốc điện cổ điển.
- Ưu điểm của sốc điện tiền mê:
+ Làm mất cơn co giật nên tránh được tâm lý sợ hãi và các biến chứng do
co giật trong khi làm sốc điện gây ra.
+ Kỹ thuật đơn giản, dễ áp dụng, khơng địi hỏi phải trang bị nhiều.
- Hiệu điện thế, vị trí đặt điện cực, số lần làm sốc điện giống như sốc điện
cổ điển.
1.1.8. Phòng bệnh tâm thần phân liệt [1]
- Rèn luyện nhân cách để thích ứng với mơi trường và xã hội.
- Theo dõi những người có yếu tố di truyền để phát hiện sớm điều trị kịp
thời.
- Những người đã bị bệnh cần được điều trị liên tục có hệ thống gia đình.
- Loại trừ các sang chấn tâm thần tại cộng đồng và gia đình tránh yếu tố
gây tái phát.


15

- Phục hồi chức năng tâm lý xã hội và lao động nghề nghiệp tại cộng đồng.
1.1.9. Chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt [1]
a. Nhận định triệu chứng
Giai đoạn cấp tính: tuỳ thể lâm sàng mà có các triệu chứng khác nhau,
người bệnh hưng phấn tâm lý, kích động, căng trương lực bất động, tự kỷ, thiếu
hoà hợp, trầm cảm có hoang tưởng bị tội dẫn tới hành vi tự sát. Ở giai đoạn này
thông thường người bệnh phủ định bệnh khơng chấp nhận điều trị và tìm cách
trốn viện.
Giai đoạn thuyên giảm: các triệu chứng lâm sàng trên khơng cịn điển hình
nữa, người bệnh có thể tiếp xúc được, tác phong hài hoà hơn nhưng vẫn chưa
hoàn tồn ổn định, đơi khi vẫn có những biểu hiện kỳ dị khó hiểu, nói chung ở
giai đoạn này người bệnh ăn được, ngủ được, ý thức được bệnh của mình và tự

giác uống thuốc.
Giai đoạn ổn định: các triệu chứng ở giai đoạn cấp giảm nhiều, người bệnh
ý thức được bệnh của mình, tiếp xúc tốt, sinh hoạt trở lại gần như bình thường,
một số người bệnh trở lại làm việc như cũ tuy vẫn phải uống thuốc duy trì.
Một số người bệnh mãn tính điều trị tuy ổn định nhưng không làm được
việc như cũ, sống phụ thuộc vào gia đình, đơi khi có biểu hiện bất thường về
tính cách nhưng nếu duy trì uống thuốc đều thì lại ổn định.
Một số người bệnh bị bệnh lâu năm hoặc không được điều trị chu đáo dẫn
đến giai đoạn cuối là sa sút trí tuệ, sống cuộc sống bản năng.
b. Chẩn đốn điều dưỡng
Có thể có một số chẩn đốn cơ bản như sau:
- Người bệnh khơng tự chăm sóc được bản thân do bị bệnh.
- Người bệnh có nguy cơ gặp nguy hiểm do hoang tưởng, ảo giác.
- Người bệnh nguy cơ thiếu hụt dinh dưỡng do không chịu ăn.
- Người bệnh không dùng thuốc theo chỉ dẫn.
- Người bệnh có nguy cơ gây nguy hiểm cho người xung quanh.
- Người bệnh có ý tưởng và hành vi tự sát.


16

c. Lập kế hoạch chăm sóc
Theo dõi đánh giá các triệu chứng để phân loại người bệnh từ đó có kế
hoạch chăm sóc cụ thể, những người bệnh kích động mạnh phải cho nằm buồng
riêng với chế độ chăm sóc đặc biệt, trong phòng bệnh chỉ trang bị những dụng
cụ thật cần thiết cho sinh hoạt như giường nằm, chiếu, chăn màn, những người
bệnh đã ổn định cho nằm buồng chung, chăm sóc người bệnh về vệ sinh, ăn
uống, trang phục, giúp đỡ người bệnh tái thích ứng với xã hội, thực hiện đúng,
kịp thời y lệnh, chuẩn bị thuốc, máy sốc điện và các phương tiện cấp cứu. Theo
dõi diễn biến của bệnh, các biến chứng khi dùng thuốc.

d. Thực hiện kế hoạch chăm sóc
- Những người bệnh kích động phải cho nằm buồng riêng, trang bị những
thứ thật cần thiết như giường chiếu, chăn màn, hệ thống điện phải ở trên cao đề
phòng người bệnh tự sát, tiêm thuốc kịp thời, chăm sóc ăn uống đầy đủ.
- Những người bệnh ở mức độ trung bình cho nằm phịng chung, khơng cho
mang các thứ nguy hiểm vào trong phịng bệnh, các dụng cụ sinh hoạt dùng
bằng đồ nhựa.
- Theo dõi sát tình trạng người bệnh sau khi dùng thuốc.
- Những người bệnh không chịu ăn do hoang tưởng, ảo giác chi phối cần
động viên cho người bệnh ăn, nếu không được phải đặt Sonde dạ dầy để bơm
thức ăn, dùng tâm lý liệu pháp để người bệnh yên tâm chữa bệnh và thực hiện
đầy đủ nội quy buồng bệnh, hướng dẫn người bệnh thực hiện tốt liệu pháp lao
động, tái thích ứng xã hội, thường xuyên theo dõi sát người bệnh, phát hiện kịp
thời những diễn biến của bệnh để báo cáo thày thuốc xử lý kịp thời. Hướng dẫn
người bệnh thực hiện tốt liệu pháp lao động.
- Những người bệnh có ý tưởng và hành vi tự sát cần phải thực hiện một số
nội dung sau: loại bỏ các vật dùng có thể gây nguy hiểm, theo dõi sát, ngăn chặn
kịp thời, thực hiện thuốc đầy đủ, nếu cần phải làm báo cáo thày thuốc cho sốc
điện.
e. Đánh giá


17

Các triệu chứng giảm và hết, người bệnh tiếp xúc và sinh hoạt bình thường,
chấp hành tốt nội quy bệnh phịng, có thể trở lại làm việc được, người bệnh ý
thức rõ được bệnh của mình, tự giác dùng thuốc, thực hiện tốt các liệu pháp điều
trị, khơng có biến chứng và tai biến trong điều trị.
1.2. Các lý luận về khoa học
1.2.1. Đặc điểm lịch sử và các học thuyết về bệnh tâm thần phân liệt

Theo Tổ chức y tế thế giới (TCYTTG), bệnh TTPL gây ra các rối loạn
đụng chạm đến các chức năng cơ bản nhất, những chức năng làm cho người
bệnh có cảm giác về cá tính, tính độc đáo và tính tự điều khiển mình. Theo khái
niệm của các nhà nghiên cứu thì bệnh tâm thần phân liệt: Shizophrenia (tâm
thần phân liệt) bắt nguồn từ chữ Hy Lạp: “Shizo” có nghĩa là chia cắt,
“Phrenia” có nghĩa là tâm thần. Đặc trưng với bệnh này là sự rối loạn tính
thống nhất, tính tồn vẹn của tâm thần và sự khơng hồ hợp giữa hoạt động tâm
thần với các kích thích ngoại cảnh ...
Tâm thần phân liệt là một bệnh loạn thần nặng và phổ biến, căn ngun
chưa rõ, bệnh có tính chất tiến triển với những rối loạn đặc trưng về tư duy, tri
giác và cảm xúc dẫn đến những rối loạn cơ bản về tâm lý và nhân cách theo
kiểu phân liệt nghĩa là mất dần tính hài hịa và thống nhất giữa các hoạt động
tâm lý, gây chia cắt rời rạc các mặt hoạt động tâm thần [10].
Năm 1857 R. Morel (Pháp) gọi là bệnh "mất trí sớm".
Năm 1863 K. Kahlbanm và 1870 Hecker. E (Đức) gọi là tâm thần thanh
xuân.
Năm 1893 Mangan (Pháp) gọi là hoang tưởng mãn tính.
Năm 1898 E. Kraepelin (Đức) thống nhất các bệnh cảnh khác nhau nói
trên dưới tên gọi chung là bệnh Mất trí sớm. (Dementia Praecox) thuật ngữ
này có nghĩa là bệnh phát sinh ở tuổi trẻ và nhất thiết đưa đến trí tuệ sa sút.
Theo Bleuler E., nét đặc trưng nhất của bệnh TTPL gồm 4 chữ A (Rối
loạn sự liên tưởng: Assocition, Rối loạn cảm xúc: Affect, tự kỉ: Autims, tính
hai chiều trái ngược: Ambivalance) [4].


18

Anne D. lại cho rằng: bản chất chung của các thể bệnh TTPL là sự phân
ly giữa các khu vực khác nhau của đời sống tinh thần và hậu quả của sự phân
ly này là các biểu hiện lập dị trong đời sống hàng ngày của người bệnh [4].

Năm 1911 D. E Bleuler (Thuỵ Sĩ) - đã nghiên cứu thống nhất được các
bệnh lý ấy dưới một tên gọi chung là bệnh tâm thần phân liệt và được toàn thế
giới sử dụng cho đến bây giờ. Như vậy tâm thần phân liệt là một bệnh loạn
thần nặng có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra, nhưng cũng có một
đặc điểm lâm sàng chung là tính phân liệt biểu hiện bằng sự thiếu hoà hợp
giữa hoạt động của tư duy, cảm xúc, ý chí [4].
Trong gần một thế kỷ qua, các nhà khoa học trên toàn thế giới đã tập
trung trí tuệ nghiên cứu bệnh này, vì đây là một bệnh loạn thần nặng nhất,
phức tạp nhất.
Nhiều thành tựu lớn đã đạt được: các nhà khoa học đã tìm ra được những
quy luật hình và tiến triển các thể bệnh tâm thần phân liệt, giúp cho các thầy
thuốc tâm thần trên thế giới ngày càng gần nhau hơn trong chẩn đốn, từ đó
ngày càng mở rộng sự hợp tác quốc tế nhằm làm sáng tỏ nguyên nhân bệnh
này. Như vậy, các tác giả đều thống nhất rằng: Bệnh TTPL làm mất tính thống
nhất, chia cắt các hoạt động tâm thần, bệnh có xu hướng tiến triển mãn tính,
làm biến đổi nhân cách của người bệnh theo hướng thiếu hoà hợp và tự kỷ,
cùn mòn cảm xúc, tác phong kỳ dị khó hiểu.
1.2.2. Tình hình bệnh tâm thần phân liệt trên thế giới và trong nước
Trên thế giới:
Tâm thần phân liệt nói riêng và rối loạn tâm thần nói chung hiện nay ngày
cang gia tăng cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Nhiều cơng
trình điều tra trên thế giới gần đây cho thấy có 30% dân số Mỹ mắc các rối loạn
tâm thần, 20% bị rối loạn tâm thần ít nhất một lần trong đời, trong đó bệnh tâm
thần phân liệt là 1,5% dân số (rối loạn trầm cảm 1 cực là 6%, rối loạn trầm cảm
2 cực là 1%, nghiện rượu 13,3%, rối loạn tâm căn 3-8%. Một điều tra tại
Bangkok (Thái Lan) năm 2011 cho thấy tỷ lệ mắc phải trong đời của tâm thần


19


phân liệt là 1,3% [4].
Theo thơng cáo báo chí của WHO năm 2001, trên thế giới cứ 4 người thì
có một người sẽ mắc chứng rối loạn tâm thần hoặc rối loạn thần kinh vào một
thời điểm nào đó trong đời và hiện có 450 triệu người bị ảnh hưởng bởi chứng
bệnh này, trong đó có 24 triệu người mắc chứng bệnh tâm thần phân liệt.
Akbari Kaji và Farmahini Farahani (2011) trong một nghiên cứu bán thực
nghiệm đánh giá hiệu quả của giáo dục quy trình điều dưỡng đối với chất lượng
chăm sóc điều dưỡng người bệnh tâm thần phân liệt trên 30 điều dưỡng tại khoa
tâm thần của Bệnh viện Shahid Lavasani ở Tehran cho thấy chất lượng chăm sóc
điều dưỡng chung được cải thiện từ kém lên tốt (P <0,0001). Nghiên cứu khuyến
nghị giáo dục quy trình điều dưỡng có thể cải thiện chất lượng điều dưỡng chăm
sóc người bệnh tâm thần phân liệt [13].
Lara G. và cộng sự (2017) trong một nghiên cứu can thiệp điều dưỡng
trong bệnh tâm thần phân liệt để đánh giá về tầm quan trọng của mối quan hệ trị
liệu cho thấy điều dưỡng chăm sóc người bệnh tâm thần phân liệt cần sự chân
thực, sự đồng cảm, hiểu biết về bệnh tật và con người, những đặc điểm cần thiết
mà y tá phải có để mối quan hệ trị liệu có hiệu quả [15].
Mi-RaWon và cộng sự (2012) trong một nghiên cứu phát triển và xem xét
tác động của chương trình điều dưỡng quản lý cảm xúc đối với người bệnh tâm
thần phân liệt tại Hàn Quốc cho thấy có sự khác biệt đáng kể về điểm biểu hiện
cảm xúc (t = 3,267, P = 0,002), điểm hành vi cảm xúc (F = 61,65, P = .000),
điểm quan hệ giữa các cá nhân (t = 4,012, P = .000), điểm hành vi xã hội (t = 8,694, P = .000) so với điểm số trong nhóm đối chứng [17].
Minju và cộng sự (2018) trong một nghiên cứu bán thực nghiệm để kiểm
tra tác động của chương trình quản lý cảm xúc đối với việc nhận biết cảm xúc
(sự chú ý cảm xúc và sự rõ ràng của cảm xúc), biểu hiện cảm xúc (biểu hiện tích
cực, biểu hiện tiêu cực và sức mạnh xung động) và chất lượng cuộc sống (QoL)
của một mẫu người bệnh tâm thần phân liệt ở Hàn Quốc. Sau khi tham dự
chương trình quản lý cảm xúc, khả năng nhận biết cảm xúc, biểu hiện cảm xúc



×