Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

luận văn thạc sĩ Chế định thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (438.33 KB, 108 trang )

chÕ ®Þnh thi hµnh h×nh ph¹t tö h×nh
trong luËt tè tông h×nh sù viÖt nam
Hµ néi – 2010
chÕ ®Þnh thi hµnh h×nh ph¹t tö h×nh
trong luËt tè tông h×nh sù viÖt nam

Hµ néi – 2010
mục lục
Trang
mở đầu 1
Chơng 1: Một số vấn đề lý luận chung về Thi hành
hình phạt tử hình
7
1.1. Khái niệm, các hình thức thi hành hình phạt tử hình và ý
nghĩa của chế định thi hành hình phạt tử hình trong luật tố
tụng hình sự Việt Nam
7
1.2. Sự hình thành và phát triển của các quy định về thi hành hình
phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự Việt Nam trớc khi ban
hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
17
1.3. Những quy định về thi hành hình phạt tử hình trong pháp luật
tố tụng hình sự một số nớc trên thế giới
28
Chơng 2: Những quy định của pháp luật tố tụng hình
sự hiện hành về thi hành hình phạt tử hình
và thực tiễn áp dụng
34
2.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về
thi hành hình phạt tử hình
34


2.2. Thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng hình
sự về thi hành hình phạt tử hình ở Việt Nam
49
Chơng 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng
những quy định của pháp luật tố tụng hình
sự về thi hành hình phạt tử hình
68
3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy
định của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình
68
3.2. Những quan điểm của Đảng và Nhà nớc cần quán triệt trong
việc nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của pháp
luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình
71
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của
pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình trong
thời gian tới ở nớc ta
74
Kết luận 94
Danh môc tµi liÖu tham kh¶o 97
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đất nớc ta
chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trờng,
có sự quản lý của Nhà nớc, theo định hớng xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan
hệ kinh tế đối ngoại với nhiều nớc trên thế giới. Sự vận hành của nền kinh tế
thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa đã và đang đem lại sự chuyển
biến tích cực trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đợc bạn bè
quốc tế đánh giá cao.
Bên cạnh những mặt tích cực đã nêu ở trên, nền kinh tế thị trờng

cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó tình hình tội phạm
diễn biến phức tạp. Các vụ án giết ngời, cớp tài sản, hiếp dâm, hiếp dâm trẻ
em, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tham nhũng, buôn lậu, các tội phạm về ma
túy xảy ra nhiều, với tính chất, mức độ ngày càng nghiêm trọng. Tình
hình trên không những xâm hại tính mạng, sức khỏe của ngời dân, lợi ích
hợp pháp của Nhà nớc, tổ chức, làm thiệt hại đến nền kinh tế đất nớc, mà
còn thực sự đe dọa phá vỡ chính sách kinh tế - xã hội, làm giảm lòng tin
của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nớc,
gây ra những hậu quả nặng nề về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Thậm chí tình hình tội phạm còn tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan
tình báo nớc ngoài lợi dụng tiến hành các hoạt động mua chuộc, thu thập
tình báo, phá hoại sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc.
Trớc tình hình trên, các cơ quan bảo vệ pháp luật đã áp dụng các
biện pháp có hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, xử lý kịp
thời, nghiêm minh mọi hành vi phạm tội và ngời phạm tội. Tòa án các cấp
đã xử phạt tử hình nhiều ngời phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, có tác dụng
răn đe, phòng ngừa tội phạm, phục vụ yêu cầu chính trị chung. Việc thi
hành hình phạt tử hình đã đợc các cơ quan chức năng tiến hành theo đúng
quy định của pháp luật, đợc d luận nhân dân đồng tình, đồng thời có tác
dụng đề cao sự cần thiết phải áp dụng hình phạt này trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm.
Tuy nhiên, thực tiễn thi hành hình phạt tử hình cũng đã đặt ra nhiều
vấn đề vớng mắc đòi hỏi khoa học luật tố tụng hình sự phải nghiên cứu giải
quyết nh khái niệm thi hành hình phạt tử hình, các hình thức thi hành hình
phạt tử hình, việc ngời bị kết án tử hình xin hiến xác cho khoa học, gia đình
ngời bị kết án xin xác về mai táng theo phong tục, tập quán, sự phân công
trách nhiệm giữa các cơ quan chức năng với chính quyền địa phơng nơi có
pháp trờng trong việc quản lý khu vực chôn cất ngời bị thi hành hình phạt tử
hình Trong khi đó, xét về mặt lý luận, chế định thi hành hình phạt tử hình
cha đợc quan tâm nghiên cứu một cách thỏa đáng, và xung quanh chế định

này, còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngợc nhau.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài " Ch nh thi hnh hỡnh pht t
hỡnh trong lut t tng hỡnh s Vit Nam ", mang tính cấp thiết, không
những về lý luận, mà còn là đòi hỏi thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả thi
hành hình phạt tử hình ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Thi hành hình phạt tử hình là vấn đề quan trọng và nhạy cảm, đã đ-
ợc một số nhà luật học ở trong và ngoài nớc quan tâm nghiên cứu. TS.
Giang Sơn - Văn phòng Chủ tịch nớc đã có công trình "Một số vấn đề về thi
hành án tử hình" (Tạp chí Nhà nớc và Pháp luật, số 9 năm 1996); Tòa án
nhân dân tối cao có công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ: "áp dụng và
thi hành hình phạt tử hình - những vấn đề lý luận và thực tiễn" (Tòa án
nhân dân tối cao, Hà Nội, 2002); ThS. Vũ Trọng Hách - Học viện Hành
chính Quốc gia có công trình: "Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về thi hành
án hình sự ở nớc ta hiện nay" (Tạp chí Nhà nớc và Pháp luật, số 5 năm
2002);
Các công trình nói trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau về
thi hành hình phạt tử hình, nhng cha có công trình nào nghiên cứu một cách
toàn diện và có hệ thống về chế định hình phạt tử hình trong luật tố tụng
hình sự, cũng nh thực tiễn thi hành hình phạt tử hình ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tợng và phạm vi nghiên cứu của luận
văn
Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách toàn diện, có hệ
thống những vấn đề lý luận về thi hành hình phạt tử hình, phân tích, đánh
giá đúng thực trạng những quy định về thi hành hình phạt tử hình trong luật
tố tụng hình sự hiện hành, thực tiễn thi hành hình phạt tử hình, xác định
những vớng mắc trong thực tiễn thi hành hình phạt tử hình, để trên cơ sở đó,
đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy
định của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình.

Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để đạt đợc mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết
các nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ khái niệm thi hành hình phạt tử hình, các hình thức
thi hành hình phạt tử hình.
- Phân tích, làm rõ sự hình thành và phát triển các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình ở Việt Nam.
- Nghiên cứu, làm rõ các quy định của pháp luật về thi hành hình
phạt tử hình của một số nớc trên thế giới.
- Làm sáng tỏ các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành
và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành
hình phạt tử hình ở nớc ta.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy
định của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình.
Đối tợng nghiên cứu của luận văn
Đối tợng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về thi
hành hình phạt tử hình, các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện
hành về thi hành hình phạt tử hình và thực tiễn thi hành hình phạt này ở
Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu đề tài này dới góc độ luật tố tụng hình sự.
Về thời gian, luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng những quy định
của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình từ năm 1993 đến
năm 2002.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây
dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì
dân, về chính sách đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, về thi hành
hình phạt tử hình nói riêng.

Luận văn đợc thực hiện trên cơ sở quán triệt các chỉ thị, nghị quyết
của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nớc về đấu tranh phòng, chống tội
phạm. Cơ sở thực tiễn của luận văn là các báo cáo chuyên đề thi hành hình
phạt tử hình của cơ quan Công an, các báo cáo tổng kết, số liệu của Tòa án
nhân dân tối cao về thi hành hình phạt tử hình.
Cơ sở phơng pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử
dụng các phơng pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử, lôgíc, thống kê,
so sánh pháp luật, xã hội học để hoàn thành các nhiệm vụ mà tác giả luận
văn đã đặt ra.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt
Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách toàn diện, có
hệ thống về chế định thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự
Việt Nam, trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình ở Việt Nam. Có thể
xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới của luận văn:
1. Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thi hành hình phạt tử hình.
2. Phân tích làm rõ thực trạng những quy định của pháp luật tố tụng
hình sự hiện hành về thi hành hình phạt tử hình và thực tiễn áp dụng ở nớc
ta.
3. Nghiên cứu, so sánh những quy định của pháp luật tố tụng hình
sự của Việt Nam về thi hành hình phạt tử hình với những quy định tơng ứng
trong pháp luật tố tụng hình sự của một số nớc trên thế giới để rút ra những
giá trị hợp lý về hoạt động lập pháp tố tụng hình sự.
4. Đề xuất phơng hớng nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy định
của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa
quan trọng đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, thi

hành hình phạt tử hình nói riêng. Thông qua kết quả nghiên cứu và các đề
xuất, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào sự phát triển
của kho tàng
lý luận luật tố tụng hình sự và tổng kết, nghiên cứu thực tiễn thi hành hình
phạt tử hình ở Việt Nam. Với việc đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
việc áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình
phạt tử hình, tác giả hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học cho
việc đổi mới tổ chức, bộ máy, bố trí cán bộ các cơ quan có trách nhiệm
trong việc thi hành hình phạt tử hình, góp phần vào công cuộc cải cách t
pháp ở nớc ta hiện nay.
Vì vậy, luận văn này có thể đợc sử dụng làm tài liệu tham khảo
trong công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa
học luật tố tụng hình sự, khoa học kỹ thuật hình sự, tội phạm học nói riêng,
cũng nh trong đào tạo, bồi dỡng cán bộ chuyên ngành về thi hành hình phạt
tử hình thuộc các ngành Tòa án, Viện Kiểm sát, Công an.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chơng, 8 mục.
Chơng 1
Một số vấn đề lý luận chung
về Thi hành hình phạt tử hình
1.1. Khái niệm, các hình thức thi hành hình phạt tử
hình và ý nghĩa của chế định thi hành hình phạt tử hình
Trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm thi hành hình phạt tử hình
Để có thể đa ra khái niệm thi hành hình phạt tử hình, trớc hết cần
làm sáng tỏ khái niệm hình phạt tử hình.
Trong hệ thống hình phạt đợc quy định trong luật hình sự Việt Nam,
tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất, thể hiện mức độ trừng trị cao nhất
của Nhà nớc đối với ngời phạm tội, bởi lẽ nó tớc đi quyền sống của ngời bị

kết án, loại bỏ sự tồn tại của ngời phạm tội khỏi đời sống cộng đồng. Hiện
nay, trên thế giới, có hai loại quan điểm trái ngợc nhau về hình phạt tử hình:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, để bảo đảm an ninh xã hội, công
bằng và công lý, cần thiết phải duy trì hình phạt tử hình đối với những tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng; đối với những kẻ khủng bố quốc tế, giết ngời
hàng loạt, thì không thể có biện pháp giáo dục nào có tác dụng, ngoài việc
tớc đi sự tồn tại của chúng [48, tr. 54].
Quan điểm thứ hai cho rằng, cần phải bỏ hình phạt tử hình, vì sự
sống của con ngời là thiêng liêng nhất mà tạo hóa đã dành cho họ; việc áp
dụng hình phạt này là tàn khốc, vô nhân tính, không thể chấp nhận đợc
trong xã hội văn minh. Mặt khác, các cơ quan tố tụng có thể sai lầm khi áp
dụng hình phạt này và khi phát hiện ra sai lầm, thì lại không thể khắc phục
đợc, bởi lẽ ngời đã chết, thì không thể có biện pháp nào có thể khắc phục để
họ sống trở lại [48, tr. 54].
Thể hiện hai quan điểm trên, theo số liệu chính thức của ủy ban về
quyền con ngời của Liên hợp quốc, hiện có 71 quốc gia vẫn duy trì hình
phạt tử hình, 15 quốc gia xóa bỏ hình phạt tử hình đối với các tội thông th-
ờng, nhng vẫn duy trì hình phạt tử hình đối với tội giết ngời; 77 quốc gia
hoàn toàn xóa bỏ hình phạt tử hình, 33 quốc gia tuy còn quy định hình phạt
tử hình, nhng không thi hành hình phạt tử hình trên thực tế. Nh vậy, 110
quốc gia đã xóa bỏ hình phạt tử hình hoặc không thi hành hình phạt tử hình
trên thực tế, chỉ còn 86 quốc gia vẫn duy trì loại hình phạt này. Đáng chú ý,
một số quốc gia lớn và đông dân nh Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Cộng
hòa ấn Độ, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Vơng quốc Nhật Bản, Cộng hòa
Inđônêxia vẫn còn duy trì hình phạt này.
Việt Nam là quốc gia vẫn duy trì hình phạt tử hình. Cơ sở lý luận
của việc duy trì hình phạt này là: do tính chất đặc biệt nghiêm trọng của tội
phạm đã đợc thực hiện và những đặc điểm về nhân thân ngời phạm tội, Nhà
nớc ta xét thấy không còn khả năng giáo dục, cải tạo họ. Vì vậy, hình phạt
tử hình không đặt ra mục đích giáo dục, cải tạo đối với ngời bị kết án. Việc

tớc bỏ mạng sống của ngời bị kết án là nhằm loại bỏ hoàn toàn khả năng
thực hiện tội phạm ở họ, đồng thời răn đe mạnh mẽ những ngời không vững
vàng, dễ bớc vào con đờng phạm tội, ngăn ngừa họ phạm tội, góp phần
nâng cao khí thế đấu tranh phòng, chống tội phạm của ngời dân. Cơ sở thực
tiễn của việc duy trì hình phạt tử hình này là thực tiễn đấu tranh phòng,
chống tội phạm ở nớc ta cho thấy, địa phơng nào hữu khuynh, không áp
dụng hình phạt nghiêm khắc nhất đối với những kẻ phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng với nhiều tình tiết tăng nặng, thì ở đó tình hình tội phạm diễn
biến phức tạp cả về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội và phong trào
quần chúng tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm không mạnh. Vì
vậy, hình phạt tử hình cần đợc áp dụng đối với những ngời phạm tội đặc
biệt nghiêm trọng, gây ảnh hởng xấu đến an ninh chính trị và trật tự an toàn
xã hội, bị d luận kịch liệt lên án.
Do những đặc điểm tâm lý, thể chất của ngời cha thành niên, phụ nữ
có thai và xuất phát từ quan điểm nhân đạo, luật hình sự Việt Nam quy định
không áp dụng hình phạt tử hình đối với ngời cha thành niên phạm tội, phụ
nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dới 36 tháng tuổi.
Từ sự phân tích ở trên, có thể đa ra khái niệm hình phạt tử hình nh
sau: Tử hình là hình phạt đặc biệt, tớc bỏ quyền sống của ngời bị kết án
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
Vấn đề tiếp theo cần làm sáng tỏ là khái niệm thi hành án hình sự.
"Thi hành" theo Hán Việt Từ điển của tác giả Đào Duy Anh là "đem cái
việc đã định sẵn mà làm cho có hiệu quả" [1, tr. 398]; theo Từ điển tiếng
Việt của Viện Ngôn ngữ học Việt Nam, "thi hành" là "làm cho thành, có hiệu
lực điều đã đợc chính thức quyết định" [55, tr. 936]; còn theo Đại từ điển
tiếng Việt thì "thi hành" đợc hiểu là "thực hiện điều đã chính thức quyết định"
[59, tr. 1559]. Thi hành bản án và quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa
án (Thi hành án) có thể đợc hiểu theo một cách chung nhất là "việc các cơ
quan nhà nớc,
tổ chức xã hội và các cá nhân có liên quan theo quy định của pháp luật

nhằm đa bản án, quyết định đó ra thi hành làm cho nó phát huy hiệu lực
trên thực tế" [17, tr. 371].
Từ sự phân tích ở trên, có thể đa ra khái niệm thi hành án hình sự
nh sau: Thi hành án hình sự là việc các các cơ quan Nhà nớc, tổ chức xã
hội, các cá nhân có liên quan đa bản án và quyết định hình sự đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án ra thi hành làm cho nó phát huy hiệu lực trên
thực tế.
Nghiên cứu khái niệm thi hành án hình sự nói trên, có thể rút ra
những đặc điểm của nó nh sau:
Một là, thi hành án hình sự là giai đoạn cuối cùng của hoạt động tố
tụng hình sự, phản ánh kết quả của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự của
các cơ quan tiến hành tố tụng, ngời tiến hành tố tụng trong việc giải quyết
vụ án hình sự.
Hai là, mục đích của hình phạt chỉ có thể đợc thực hiện thông qua
thi hành án hình sự. Điều đó có nghĩa, thi hành án hình sự chính là quá
trình thực tiễn hóa mục đích của hình phạt. Ngoài ra, thi hành án hình sự
còn có mục đích: đa vào cuộc sống một cách đúng đắn và đầy đủ mọi nội
dung của hình phạt đã đợc Tòa án phán quyết trong bản án, quyết định hình
sự, khắc phục hậu quả do chính tội phạm đó gây ra cho xã hội, làm mất khả
năng phạm tội của kẻ phạm tội, giáo dục, cải tạo kẻ phạm tội thành ngời l-
ơng thiện và tái hòa nhập cộng đồng ngời đó thành ngời có ích cho gia đình
và xã hội.
Ba là, thi hành án hình sự trớc hết đợc điều chỉnh bằng các quy
phạm pháp luật tố tụng hình sự và do nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân thi
hành nhằm bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật và công bằng xã hội.
Ngoài ra, do thi hành án hình sự thờng diễn ra trong thời gian dài, liên quan
đến nhiều lĩnh vực, cho nên, ngoài các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự,
cho nên thi hành án hình sự còn đợc điều chỉnh bằng các quy phạm pháp
luật khác nh hành chính, dân sự, lao động
Thi hành hình phạt tử hình là một bộ phận của thi hành án thi hành

án hình sự. Từ khái niệm thi hành án hình sự nói trên, có thể đa ra khái
niệm thi hành hình phạt tử hình nh sau: Thi hành hình phạt tử hình là hoạt
động của cơ quan nhà nớc, cá nhân có thẩm quyền đa bản án tử hình của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thực hiện trên thực tế theo những trình
tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định.
Thi hành hình phạt tử hình cũng mang đầy đủ các đặc điểm của thi
hành án hình sự, ngoài ra còn có những đặc điểm riêng sau:
Đặc điểm thứ nhất của thi hành hình phạt tử hình là sự thực hiện
trên thực tế việc tớc đi quyền sống của ngời phạm tội, do đó cơ quan thi
hành án hình sự phải tuân theo những thủ tục hết sức nghiêm ngặt, chặt chẽ.
Đây là đặc điểm chủ yếu nhất để có thể phân biệt việc thi hành hình phạt tử
hình với thi hành các loại hình phạt, biện pháp t pháp khác. Ví dụ: trong Bộ
luật tố tụng hình sự năm 1988, cũng nh trong Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003, đều đã quy định thủ tục xem xét bản án tử hình trớc khi đa ra thi
hành, trong đó quy định rất cụ thể về trình tự, thủ tục gửi hồ sơ vụ án lên
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, gửi bản án cho Viện trởng Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao, thời hạn quy định Chánh án Tòa án nhân dân tối cao,
Viện trởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao phải quyết định kháng nghị
hoặc quyết định không kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm; thủ tục
xin ân giảm trình lên Chủ tịch nớc Đây là những thủ tục mà đối với việc
thi hành các hình phạt, biện pháp t pháp khác, pháp luật tố tụng hình sự
không quy định.
Đặc điểm thứ hai, khác với việc thi hành các hình phạt, biện pháp t
pháp khác, nếu việc thi hành hình phạt tử hình có sai lầm, thì không thể
khắc phục đợc hậu quả. Đặc điểm này bắt nguồn từ bản chất của hình phạt
tử hình là tớc đi quyền sống của ngời bị kết án, vì vậy, nếu nh thi hành hình
phạt tử hình không đúng đối tợng bị kết án, thì sai lầm này không thể khắc
phục đợc.
Đặc điểm thứ ba, việc thi hành hình phạt tử hình không những tớc đi
sự sống của ngời bị kết án, mà còn gây ra nỗi đau thơng, mất mát lâu dài

cho ngời thân của họ, đồng thời có những tác động tâm lý tiêu cực nhất
định lên những cá nhân trực tiếp thực hiện việc thi hành hình phạt tử hình.
Đây là đặc điểm chúng ta cần lu ý khi thực hiện công tác chính trị, t tởng
đối với ngời thân của ngời bị kết án, cũng nh đối với số cán bộ, chiến sĩ trực
tiếp làm nhiệm vụ tớc đi mạng sống của ngời bị kết án.
1.1.2. Các hình thức thi hành hình phạt tử hình
Hình thức thi hành hình phạt tử hình là cách thức tớc bỏ sự sống
của ngời bị kết án tử hình do cơ quan nhà nớc, cá nhân có thẩm quyền thực
hiện theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định.
Trong lịch sử tồn tại và phát triển, loài ngời đã áp dụng rất nhiều
hình thức thi hành hình phạt tử hình. Việc lựa chọn hình thức thi hành hình
phạt tử hình nào cho phù hợp, phụ thuộc vào các điều kiện chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, cũng nh chính sách hình sự của mỗi quốc gia. GS.TS ngời
Nga A.Ph. Kixthiacốpxki đã dày công nghiên cứu về những hình thức thi
hành hình phạt tử hình trong lịch sử và đa ra 21 hình thức thi hành hình phạt
tử hình chủ yếu đã đợc loài ngời áp dụng nh sau: 1) treo cổ; 2) chặt đầu; 3)
đun ngời bị kết án trong vạc dầu, nớc sôi; 4) dùng bánh xe cán chết; 5) xé
xác ngời bị kết án ra thành các mảnh nhỏ; 6) thiêu chết; 7) chôn sống; 8)
bóp cổ hoặc làm cho chết ngạt trong bao tải; 9) lột da ngời bị kết án cho
đến chết; 10) mổ bụng, moi ruột; 11) cho ngồi lên cọc nhọn hoặc dùng cọc
nhọn đâm thủng ngời; 12) đốt cổ họng bằng chì đun sôi; 13) đẩy ngời bị kết
án từ đỉnh núi xuống vực; 14) thắt cổ; 15) voi dày, ngựa xéo; 16) quăng ng-
ời bị kết án cho hổ, báo ăn thịt; 17) dùng đá ném đến chết; 18) cho ngời bị
kết án chết đói, chết khát; 19) đầu độc chết; 20) dùng gậy đánh chết; 21) xử
bắn.
Từ sự thống kê này, GS.TS A.Ph. Kixthiacốpxki đã chia các hình
thức thi hành hình phạt tử hình thành hai loại: loại hình thức thi hành hình
phạt tử hình bình thờng (treo cổ, xử bắn ) và loại hình thức thi hành hình
phạt tử hình đặc biệt ngoài việc tớc sự sống của ngời bị kết án, còn có mục
đích làm đau đớn một cách thảm khốc cho họ nh đun ngời bị kết án trong

vạc dầu, nớc sôi, lột da, xé xác [60, tr. 136].
Hiện nay, pháp luật tố tụng hình sự của các nớc trên thế giới quy
định bảy hình thức thi hành hình phạt tử hình.
Hình thức thứ nhất: xử bắn.
Đây là hình thức thi hành hình phạt tử hình mang tính phổ biến
nhất. Theo số liệu của Tổ chức ân xá quốc tế, có 86 quốc gia trên thế giới
áp dụng hình thức thi hành hình phạt tử hình này. Việc xử bắn có thể do
một ngời hoặc một nhóm ngời thi hành. Trờng hợp việc xử bắn do một ngời
thi hành, thì ngời đó dùng súng ngắn, bắn vào đầu ngời bị kết án ở cự ly
ngắn, làm ngời đó chết ngay. Trờng hợp việc xử bắn do một nhóm ngời thi
hành (đội thi hành án), thì cự ly bắn đợc thực hiện xa hơn. Trong cả hai tr-
ờng hợp, ngời bị kết án có thể đợc bố trí đối diện ngời thi hành án; riêng ở
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, ngời bị kết án đợc bố trí quay lng về phía
đội thi hành án, vì theo phong tục của nớc này, ngời bị kết án không đợc
nhìn về phía ngời bắn để hồn ma không thể về trả thù đợc.
Hình thức thứ hai: treo cổ.
Đây là hình thức thi hành hình phạt tử hình bị ủy ban Ân xá quốc
tế cho là dã man và cần phải bãi bỏ. Tuy nhiên, vẫn còn có 70 nớc trên thế
giới áp dụng hình thức này nh: Cộng hòa Singpore, Cộng hòa ấn Độ, Nhật
Bản ở Nhật Bản, việc thi hành hình phạt tử hình đợc giữ bí mật tuyệt đối,
ngời bị kết án bị tròng vào cổ chiếc dây đợc xát xà phòng trơn, đầu bị trùm
một tấm vải kín và đợc đứng trên một chiếc ghế đẩu. Khi đợc lệnh, ngời thi
hành án hất đổ chiếc ghế và việc thi hành án đợc coi nh đã hoàn tất.
Hình thức thứ ba: chém đầu.
Đây là hình thức thi hành hình phạt tử hình đợc 6 quốc gia trên thế
giới áp dụng. Cách thức chém đầu có hai cách: dùng máy chém hoặc dùng
kiếm. Hiện nay, Vơng quốc ảrập Xêút (Saudi Arabia) là quốc gia thờng áp
dụng hình thức này.
Hình thức thứ t: ném đá đến chết.
Đây là hình thức thi hành hình phạt tử hình vô nhân đạo nhất hiện

nay, trong đó ngời bị kết án bị chôn, chỉ để hở đầu lên khỏi mặt đất, sau đó
bị ném đá cho đến chết. Điều 119 Bộ luật hình sự hồi giáo nớc Cộng hòa
Iran còn quy định rõ: "Các viên đá không đợc có kích thớc lớn, để ngời bị
kết án không bị chết ngay sau khi ném một, hai viên; đồng thời chúng cũng
không đợc có kích thớc nhỏ quá" [60, tr. 142]. Hình thức thi hành hình phạt
tử hình này còn đợc áp dụng ở Cộng hòa Xu Đăng và ở một số nớc khu vực
Trung Cận Đông.
Hình thức thứ năm: ngồi ghế điện.
Đây là hình thức thi hành hình phạt tử hình bằng cách cho dòng
điện chạy qua thân thể ngời bị kết án, lần đầu đợc thực hiện vào năm 1888
tại Nữu Ước, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Trớc khi hành hình 4 tuần lễ, ngời
bị kết án đợc chuyển đến khu giam giữ đặc biệt, đợc viết nguyện vọng về
nơi chôn cất và tài sản thừa kế. Ngời ta thử ba lần ghế điện, chuẩn bị dung
dịch Amôniác dùng làm chất cách điện, thấm vào một cái đệm để áp vào
đầu ngời bị kết án (bị cạo trọc), chân phải ngời đó đợc bôi chất dẫn điện.
Ngời bị kết án bị buộc vào ghế điện. Hai cực điện đợc đặt vào đầu, chân
phải của ngời bị kết án và dòng điện mạnh 2500 vôn đợc đóng. Việc cắm
điện làm ngời bị kết án ngất ngay lập tức, nhng cái chết chỉ xuất hiện sau
một thời gian nhất định, trong một số trờng hợp, phải sau từ 10 đến 15 phút,
ngời bị kết án mới chết (có trờng hợp phải 5 lần cắm điện, ngời bị kết án
mới chết). ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ xảy ra một trờng hợp, cho ngời bị kết
án ngồi ghế điện, nhng không chết, dẫn đến việc Tòa án tối cao phải ra
phán quyết rằng, việc thi hành hình phạt tử hình lần thứ hai là không vi
phạm Hiến pháp và ngời bị kết án bị hành quyết lần thứ hai sau một năm
[60, tr. 143].
Hình thức thứ sáu: dùng hơi ngạt.
Đây là hình thức thi hành hình phạt tử hình đợc áp dụng từ cuối
những năm 30 thế kỷ 20. Ngời bị kết án đợc buộc vào một chiếc ghế trong
một phòng đợc thiết kế hoàn toàn bằng thép. ở ngực ngời bị kết án, ngời ta
gắn một ống nghe của bác sĩ và dây cao su dẫn tới phòng bên để bác sĩ theo

dõi nhịp tim của ngời bị kết án. Dới ghế ngồi của ngời bị kết án đợc đặt 16
viên thuốc độc (xianua). Khi cánh cửa thép đợc đóng lại, ngời ta cho chạy
thiết bị làm những viên thuốc độc đợc hòa vào dung dịch axit, thuốc độc
bốc thành khói, làm ngạt thở ngời bị kết án, từ đó dẫn đến tim ngừng đập.
Hình thức thi hành phạt tử hình này bị coi là phức tạp và khá tốn kém.
Hình thức thứ bảy: tiêm thuốc độc.
Đây là hình thức thi hành hình phạt tử hình, trong đó ngời bị kết án
bị buộc chặt vào một cái cáng, đợc đa vào một phòng kín, rồi bị tiêm thuốc
độc vào bắp thịt. Hình thức thi hành hình phạt tử hình lần đầu tiên đợc áp
dụng tại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ vào năm 1977. Khi bị tiêm thuốc độc
mạnh vào mạch máu, thì ngời bị kết án sẽ bị chết trong khoảng thời gian từ
32 giây đến 1 phút. Tuy nhiên, cũng đã xảy ra một số trờng hợp ngời bị kết
án không chết ngay do dụng cụ truyền chất độc trợt khỏi mạch máu hoặc
thuốc độc không đủ mạnh khi pha chế.
Hình thức thi hành hình phạt tử hình này đợc d luận coi là "nhân đạo",
tiết kiệm hơn cả, đợc 34 bang của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa và nhiều nớc khác trên thế giới áp dụng. Ngày 30-01-2001,
Chính phủ Vơng quốc Thái Lan đã phê chuẩn đề nghị thi hành hình phạt tử
hình bằng tiêm thuốc độc thay vì xử bắn.
1.1.3. ý nghĩa của chế định thi hành hình phạt tử hình trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam
Chế định thi hành hình phạt tử hình lần đầu tiên đợc quy định trong
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 của n-
ớc ta, có ý nghĩa về mặt lập pháp hết sức to lớn. Nó đánh dấu sự trởng thành
về kỹ thuật lập pháp tố tụng hình sự của nớc ta.
Trong chế định thi hành hình phạt tử hình, khái niệm thi hành hình
phạt tử hình là khái niệm cơ bản, khái niệm xuất phát, để từ đó xác định các
quy phạm khác của chế định thi hành hình phạt tử hình nh hình thức thi
hành hình phạt tử hình, trình tự, thủ tục xem xét bản án tử hình trớc khi đa
ra thi hành, trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tử hình, thủ tục hoãn thi

hành án Việc nhận thức và áp dụng đúng đắn chế định thi hành hình phạt
tử hình trong thực tiễn là bảo đảm quan trọng cho việc thực hiện nguyên tắc
pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực thi hành án hình sự, nhằm thi hành
hình phạt tử hình đúng ngời, không để xảy ra oan, sai trong lĩnh vực cực kỳ
nhạy cảm này.
Trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự nói
chung, thi hành hình phạt tử hình nói riêng, đóng vai trò hết sức quan trọng
trong việc bảo đảm hiệu quả đạt đợc của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự.
Vì vậy, việc quy định chế định thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng
hình sự góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ sự an toàn,
vững mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, tài sản của công dân. Tuy nhiên, việc áp dụng chế định thi hành
hình phạt tử hình một cách tùy tiện, không đúng pháp luật, bị coi là những
hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng, bởi nó xâm phạm quyền đợc sống
là một trong những quyền con ngời cơ bản, xâm phạm đến tình cảm thiêng
liêng của những ngời thân thích của họ. Những hành vi vi phạm pháp luật
về thi hành hình phạt tử hình không những xâm hại hoạt động đúng đắn của
các cơ quan bảo vệ pháp luật, xâm hại quyền bất khả xâm phạm về thân thể
của công dân, mà còn làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh
đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nớc. Do vậy, việc quy định một cách
chặt chẽ chế định thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự thể
hiện sự tôn trọng quyền con ngời của Nhà nớc ta, bảo đảm sự giám sát của
nhân dân, xã hội trong hoạt động thi hành án hình sự nói chung, thi hành
hình phạt tử hình nói riêng.
Việc quy định trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tử hình trong luật
tố tụng hình sự, ngoài ý nghĩa về mặt lập pháp tố tụng hình sự, còn có ý
nghĩa nâng cao nhận thức của nhân dân nói chung, cán bộ các cơ quan bảo
vệ pháp luật nói riêng về sự cần thiết phải tuân thủ các quy định chặt chẽ
của pháp luật tố tụng hình sự trong lĩnh vực thi hành hình phạt tử hình. Mặt
khác, việc quy định cụ thể, chi tiết trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tử

hình còn giúp các cơ quan bảo vệ pháp luật nắm vững nội dung, bản chất
pháp lý, từ đó áp dụng đúng đắn chế định này, góp phần nâng cao hiệu quả
cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, động viên quần chúng nhân dân
tham gia tích vào cuộc đấu tranh này.
Ngoài ra, chế định thi hành hình phạt tử hình, còn có ý nghĩa là cơ
sở pháp lý cho một số ngành khoa học pháp lý có liên quan chặt chẽ với
khoa học luật tố tụng hình sự nh tội phạm học, tâm lý học t pháp, khoa học
kỹ thuật hình sự Đối với tội phạm học, chế định thi hành hình phạt tử hình
trong luật tố tụng hình sự là cơ sở quan trọng cho việc nghiên cứu về nhân
thân ngời bị kết án tử hình, từ đó tìm ra quy luật phạm tội của những ngời
này. Đối với tâm lý học t pháp, chế định thi hành hình phạt tử hình có ý
nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu đặc điểm tâm lý của ngời bị kết án
tử hình ở giai đoạn xem xét bản án tử hình trớc khi đa ra thi hành, cũng nh
ở giai đoạn thi hành hình phạt tử hình, nhất là ở thời điểm trớc khi thi hành
án. Kết quả nghiên cứu đặc điểm tâm lý của những ngời bị kết án tử hình
trong hoạt động thi hành hình phạt tử hình, sẽ là tài liệu quan trọng phục vụ
cho công tác điều tra, truy tố, xét xử những ngời phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng và góp phần nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội
phạm. Đối với khoa học kỹ thuật hình sự, việc quy định trình tự, thủ tục thi
hành hình phạt tử hình là cơ sở quan trọng cho việc nghiên cứu, đề xuất các
hình thức thi hành hình phạt tử hình tiết kiệm, dễ áp dụng, "nhân đạo" nhất
cho phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nớc.
1.2. sự hình thành và phát triển của các quy định về
thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự Việt
Nam trớc khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
1.2.1. Những quy định về thi hành hình phạt tử hình trong luật
tố tụng hình sự Việt Nam thời kỳ trớc Cách mạng tháng Tám năm
1945
Năm 938, sau khi Ngô Quyền lên ngôi, cùng với những hình phạt
mang nặng tính chuyên chính bạo lực, Nhà nớc phong kiến sử dụng hình

phạt tử hình với những cách thức khủng khiếp nh là công cụ bảo vệ sự
thống trị của giai cấp cầm quyền cũng nh nền độc lập của quốc gia.
Dới thời nhà Đinh, nhà tiền Lê, việc quy định tội phạm và hình phạt
đều tùy thuộc vào ý chí của nhà Vua. Đinh Bộ Lĩnh đặt vạc dầu lớn ở sân
triều, nuôi hổ giữ trong chuồng và quy định: "Kẻ nào trái phép phải chịu tội
bỏ vạc dầu, cho hổ ăn" [18, tr. 305].
Đến thời nhà tiền Lê, hình phạt tử hình còn đợc thi hành bằng
những cách thức tàn bạo hơn. Theo Đại Việt sử ký toàn th:
Vua tính hiếu sát, phàm ngời bị hành hình, hoặc sai lấy cỏ
gianh quấn vào ngời mà đốt, để cho lửa cháy chết, hoặc sai kép
hát ngời nớc Tống là Liêu Thủ Tâm lấy dao ngắn, dao cùn xẻo
từng mảnh, để cho không đợc chết chóng Đi đánh dẹp bắt đợc
tù thì giải đến bờ sông, khi nớc triều rút, sai ngời làm lao dới nớc,
dồn cả vào trong ấy, đến khi nớc triều lên, ngập nớc mà chết;
hoặc bắt trèo lên ngọn cây cao rồi chặt gốc cho cây đổ, ngời rơi
xuống chết [18, tr. 349].
Dới thời nhà Lý, Lý Thái Tông cho soạn ra Hình th, đây là bộ luật
thành văn đầu tiên của nớc ta nhng hiện nay không còn nên chúng ta không
biết rõ nội dung các điều luật.
Dới thời nhà Trần, hình phạt tử hình đối với những ngời bị ghép tội
phản nghịch đợc thi hành bằng cách: cho voi dầy, lăng trì (cắt từng miếng
thịt cho đến chết), chôn sống, bêu đầu (sau khi chém ngời phạm tội bị chôn
xuống đất, chỉ để lộ ra cái đầu, rồi buộc đầu vào một cây tre uốn cong
xuống đất để bên cạnh. Khi xử tử, ngời ta lấy dao sắc chém đầu, đầu ngời tử
tội sẽ bị treo trên cành tre). Việc áp dụng các hình thức thi hành hình phạt
tử hình nh trên là nhằm bảo vệ chế độ phong kiến khỏi sự xâm hại của
những kẻ phản nghịch.
Dới thời nhà Lê (1428 1788), Quốc triều hình luật (Bộ Luật Hồng
Đức) - Bộ luật chính thống và quan trọng nhất, đã đề cập đến thi hành hình
phạt tử hình tại mục 5 Điều 1 chơng danh lệ:

Tử hình có ba bậc: từ tội thắt cổ (giảo), chém, đến tội lăng
trì, chia làm ba bậc thắt cổ, chém là một bậc, chém bêu đầu
(khiêu) là một bậc, lăng trì là một bậc, tùy theo tội mà tăng giảm.
1. Thắt cổ, chém.
2. Chém bêu đầu.
3. Lăng trì [36, tr. 219].
Điều 680 chơng đoán ngục quy định:
Đàn bà phải tội tử hình trở xuống, nếu đang có thai, thì
phải để sinh đẻ sau 100 ngày, mới đem hành hình, nếu cha sinh
mà đem hành hình, thì ngục quan bị xử biếm hai t, ngục lại bị tội
đồ làm bản cục đinh. Dù đã sinh rồi nhng cha đủ một trăm ngày
mà hành hình, thì ngục quan và ngục lại đều bị tội nhẹ hơn tội
trên hai bậc. Nếu đã đủ một trăm ngày mà không đem hành hình,
thì ngục quan và ngục lại bị tội biếm hoặc tội phạt [36, tr. 231-
232].
Việc quy định thi hành hình phạt tử hình đối với phụ nữ nh trên thể
hiện tính nhân văn sâu sắc của cha ông chúng ta.
Dới thời nhà Nguyễn, Hoàng Việt luật lệ (Luật Gia Long) đợc khắc
in lần đầu năm 1982. Mặc dù chịu ảnh hởng của luật Thanh Triều khá nặng
nề, nhng nhiều điều luật, trong đó có các điều luật về thi hành hình phạt tử
hình vẫn tiếp thu các giá trị lập pháp trong Bộ luật Hồng Đức với một số
quy định có tính nhân văn cao hơn. Trong Bộ luật này, tại chơng Giải thích
ghi rõ: "Các cực hình trong luật nhà Thanh nh chu di tam tộc, lăng trì hoàn
toàn bị bãi bỏ. Việc thi hành hình phạt tử hình đợc quy định dới hai hình
thức treo cổ và chém, chém thì thân và đầu mỗi nơi cách biệt, còn treo cổ
thì chấm dứt sự sống thân thể còn vẹn toàn" [31, tr. 55].
Dới thời Pháp thuộc, thực dân Pháp chia đất nớc ta ra làm ba kỳ:
Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ để dễ bề cai trị. Mỗi kỳ chịu sự cai trị bằng
các hệ thống pháp luật khác nhau. Điều 12 Bộ luật hình canh cải có hiệu lực
ở Nam kỳ, quy định:

Ngời nào bị xử tử thì phải bị chém đầu. Thủ phạm bị xử tử
về tội giết cha mẹ sẽ bị dẫn đến pháp trờng, cho mặc áo vắn, đi
chơn không, đầu cho đội khăn chế trắng.
Để nó lên đài xử trong lúc ấy trởng tòa đọc án xử nó cho
nhơn dân nghe, rồi lập tức thi hành cho nó chết. Nếu bà con ngời
bị chém xin xác lại, thì cho nó đem về chôn mà không đặng chôn
tử tế [25, tr. 3].
Tại Điều 5, 6, 7, 8 Luật hình An Nam thi hành ở Bắc kỳ quy định:
Tử hình sẽ bị chém ở chỗ công chúng đều biết, chỗ ấy thì
do trong án chỉ ra, nếu trong án cha có chỉ ra, thì sẽ do quan trởng
lý kiêm chức nam án thủ hiến định.
Tử hình nếu không do quan toàn quyền xét ý kiến quan
trởng lý mà phê chuẩn, thì không đợc thi hành.
Phàm đàn bà con gái bị xử tử hình, mà tự xng rằng có
thai hễ xét ra quả thật thì đợi đến khi sinh đẻ rồi mới thụ hình.
Ngời nào vì tội giết cha mẹ mà bị tử hình, thì chỉ cho mặc một cái
áo lót mình, đi chơn không, đầu bịt vải trắng, rồi giải đến chỗ
hình trờng.
Đem ngời phạm để chỗ hình trờng rồi ngời thừa phát lại
đem án ra đọc trớc công chúng. Khi đọc xong, thi hành ngay.
Cái xác ngời bị tử hình, nếu có ngời thân tộc đứng xin, sẽ
cho nhận lấy mà mai táng, nhng mà không cho phô trơng.
Phàm gặp ngày kỷ niệm nớc đại Pháp và những ngày lễ
mà luật đại Pháp đã nhận, ngày chủ nhật, và theo nh lịch An
Nam, đầu năm từ mồng một đến mồng bảy, rằm tháng bảy, rằm
tháng tám, ba ngày cuối cùng tháng chạp ngày vạn thọ nớc Nam
thì không đợc hành hình [32, tr. 5].
Trong Hoàng Việt hình luật đợc ban hành năm 1933, có hiệu lực ở
Trung kỳ, Điều 6, 7, 8 chơng 2 - Những tội danh đại hình, quy định:
Ngời bị tử hình sẽ bị bắn hoặc chém ở trớc công chúng.

Còn chỗ hành hình nếu hội đồng thợng thơ không chỉ định, thời
quan tỉnh sở tại sẽ định một chỗ ở trong tỉnh mà tội nhân đã phạm
pháp. Nếu đàn bà bị tử hình xng rằng có thai, mà xét ra quả thiệt,
thời sau khi sanh đẻ rồi một trăm ngày mới phải thụ hình.
Tội tử hình không đem ra hành hình trong những ngày
quốc khánh (đại Pháp) và những ngày lễ mà luật nớc đại Pháp
Việt Nam đã công nhận, ngày chủ nhựt (cùng ngày lễ vạn thọ, ba
ngày trớc và ba ngày sau lễ nam giao), tám ngày đầu tháng giêng
Việt Nam, ngày mồng 2, mồng 5 tháng 5, ngày rằm, tháng giêng,

×