Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Đề tài : Lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu của việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (727.97 KB, 107 trang )




TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI





KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài:


LỰA CHỌN SẢN PHẨM VÀ THỊ TRƢỜNG XUẤT KHẨU
CỦA VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP



Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Hoài
Lớp : Anh 7
Khóa : 45
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Vũ Huyền Phƣơng




Hà Nội, 05/2010



MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VIỆC LỰA CHỌN SẢN
PHẨM VÀ THỊ TRƢỜNG XUẤT KHẨU 4
I. Vai trò của việc lựa chọn sản phẩm và thị trƣờng xuất khẩu 4
1. Một số nhận định chung về nền kinh tế trong nước và thế giới trong
những năm gần đây 4
1.1. Khoa học công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất nòng
cốt và trực tiếp của xã hội 4
1.2. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang là xu thế chung của thế
giới, đã và sẽ tiếp tục diễn ra mạnh mẽ, lôi cuốn hầu hết các nước và
mở rộng trên hầu khắp các lĩnh vực giao lưu kinh tế 5
1.3. Phân công lao động quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu do có sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và hệ thống công ty đa
quốc gia 6
1.4. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra vào những năm 2008,
2009 đã gây ra những tác động sâu sắc đến hầu hết mọi quốc gia 7
2. Vai trò của việc lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu 8
2.1. Sự cần thiết phải lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu 8
2.2. Vai trò của việc lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu 9
II. Cơ sở cho việc lựa chọn sản phẩm và thị trƣờng xuất khẩu 12
1. Lợi thế cạnh tranh 12
1.1. Nguồn lực đầu vào 13
1.2. Điều kiện nhu cầu trong nước 14



1
1.3. Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan 15
1.4. Chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh (Cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp) 15
1.5. Cơ chế tác động, điều chỉnh chiến lược của Nhà nước 16
1.6. Cơ hội 17
2. Nhu cầu trên thị trường thế giới 18
III. Các chính sách lựa chọn sản phẩm và thị trƣờng xuất khẩu 18
1. Chính sách lựa chọn sản phẩm xuất khẩu 19
1.1. Chính sách vĩ mô 19
1.1.1. Đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu 19
1.1.2. Xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực 20
1.2. Chính sách vi mô 21
1.2.1. Chính sách mở rộng trực tiếp 21
1.2.2. Chính sách thích nghi sản phẩm 21
1.2.3. Chính sách chủng loại sản phẩm 22
2. Chính sách lựa chọn thị trường xuất khẩu 23
2.1. Chính sách vĩ mô 23
2.2. Chính sách vi mô 23
CHƢƠNG 2: THỰC TRANG VIỆC LỰA CHỌN SẢN PHẨM VÀ THỊ
TRƢỜNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM 25
I. Cơ sở lựa chọn sản phẩm và thị trƣờng xuất khẩu của Việt Nam 25
1. Điều kiện tự nhiên 25
2. Nguồn tài nguyên 26
3. Nguồn nhân lực 28
4. Cơ chế chính sách điều chỉnh việc lựa chọn sản phẩm và thị trường
xuất khẩu của Đảng và Nhà nước ta 29
5. Nhu cầu của thị trường thế giới 30



2
II. Thực trạng của việc lựa chọn sản phẩm xuất khẩu 31
1. Quá trình lựa chọn sản phẩm xuất khẩu 31
1.1. Trước khi gia nhập WTO 31
1.1.1. Trước 1991 31
1.1.2. Giai đoạn 1991 – 1995 32
1.1.3. Giai đoạn 1996 – 2000 35
1.1.4. Giai đoạn 2001 – 2006 36
1.2. Giai đoạn sau khi gia nhập WTO – từ 2007 đến nay 38
2. Tình hình xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam giai đoạn
2000 – 2009 42
2.1. Gạo 42
2.2 Thủy sản 45
3. Một số đánh giá về thực trạng lựa chọn sản phẩm xuất khẩu của Việt
Nam trong những năm vừa qua 50
3.1. Những thành tựu đạt được 50
3.2. Những mặt còn tồn tại 52
III. Thực trạng của việc lựa chọn thị trƣờng xuất khẩu 53
1. Quá trình lựa chọn thị trường xuất khẩu 53
1.1. Trước khi gia nhập WTO 53
1.1.1. Giai đoạn 1986 - 2000 53
1.1.2. Giai đoạn 2001 - 2006 56
1.2. Sau khi gia nhập WTO (2007 đến nay) 59
2. Một số thị trường xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam 62
2.1 Thị trường Trung Quốc 62
2.2. Thị trường Hoa Kỳ 66
3. Một số đánh giá về thực trạng lựa chọn thị trường xuất khẩu của Việt
Nam trong thời gian qua 69



3
3.1 Thành tựu đạt được 69
3.2 Một số hạn chế 70
CHƢƠNG 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHO VIỆC LỰA CHỌN
SẢN PHẨM VÀ THỊ TRƢỜNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM 71
I. Định hƣớng lựa chọn sản phẩm và thị trƣờng xuất khẩu 71
1. Quan điểm mục tiêu 71
2. Định hướng lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu của Việt Nam
đến hết năm 2010, tầm nhìn tới 2020 72
2.1 Về mặt hàng xuất khẩu 72
2.1.1 Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu 73
2.1.2 Định hướng cho từng ngành hàng, từng nhóm hàng cụ thể 73
2.2. Về thị trường xuất khẩu 77
2.2.1 Cơ cấu thị trường 78
2.2.2. Định hướng cho từng thị trường cụ thể 78
II. Một số giải pháp cho sự lựa chọn sản phẩm và thị trƣờng xuất khẩu
của Việt Nam 83
1. Những kiến nghị đối với nhà nước 83
1.1. Hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách 83
1.2. Phát triển mạnh các loại hình dịch vụ hỗ trợ cho xuất khẩu bao
gồm cung cấp thông tin, kết quả xử lý và phân tích thông tin và các loại
hình dịch vụ khác 85
1.3. Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế
86
1.4. Hoàn thiện và đổi mới các chính sách đầu tư khuyến khích xuất
khẩu 87
1.4.1. Khuyến khích đầu tư về vốn: 87
1.4.2. Cải thiện môi trường đầu tư : 88



4
1.4.3. Tập trung phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ 89
1.4.4. Thúc đẩy đầu tư đổi mới công nghệ 89
1.5. Nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao 90
1.6. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu xuất khẩu hợp lý 90
1.7. Chuyển dịch cơ cấu thị trường thích hợp 91
2. Những giải pháp đối với doanh nghiệp 92
2.1. Tăng cường tiếp cận, phân tích thông tin 92
2.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 93
2.3. Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm 94
2.4. Đa dạng hóa chủng loại sản phẩm 94
2.5. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ 95
KẾT LUẬN 96


DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ

Hình 1: Mô hình khối kim cương của M.Porter 13

Bảng 1: Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 1991 – 1995 34
Bảng 2: Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 1996 – 2000 36
Bảng 3: Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2006 38
Bảng 4: Kim ngạch và sản lượng xuất khẩu gạo của Việt nam giai đoạn
2000 – 2009 42
Bảng 5: Tỷ trọng xuất khẩu gạo vào các thị trường năm 2009 44
Bảng 6: Kim ngạch xuất khẩu thủy sản giai đoạn 2000 – 2009 46
Bảng 7: Cơ cấu thị trường xuất khẩu thủy sản Việt Nam từ năm 2005-
2009 48
Bảng8: Cơ cấu các mặt hàng thủy sản xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam

năm 2008 – 2009 49
Bảng 9: Tỷ trọng của các thị trường xuất khẩu thời kỳ 1991-2000 55
Bảng 10: Cơ cấu thị trường xuất khẩu Việt Nam giai đoạn 2001 – 2006
Bảng 11: Xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc 2000 – 2009 63
Bảng12: Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang thị trường
Trung Quốc năm 2009 64
Bảng 13: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ (2000 –
2009) 66
Bảng 14: Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Hoa Kỳ
năm 2009 68


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Tên viết
tắt
Tiếng Anh
Tiếng Việt
AFTA
AJCEP

AKFTA

ASEAN

APEC

CEPT

EU

FDI
GDP
GSP

HDI
ISO

MFN
NIC
NT
ODA
SEV
SNG
TRIMS

WTO

ASEAN Free Trade Area
ASEAN – JAPAN Comprehensive
Economic Partnership
ASEAN – KOREA Free Trade
Area
Association of Southeast Asian
Nations
Asia-Pacific Economic
Cooperation
The Common Effective
Preferential Tariff
Europian Union
Foreign direct investment

Gross Domestic Product
The Generalized Systems
Preferential
Human Development Index
International Organization for
Standardization
Most Favoured Nation
Newly Industrialized Country
National Treatment
Official development assistance
(Viết tắt Tiếng Nga)
(Viết tắt Tiếng Nga)
Trade Related Investment
Measures
World Trade Organization

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
Hiệp định Đối tác kinh tế toàn
diện ASEAN - Nhật Bản
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
– Hàn Quốc
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam
Á
Diễn đàn Hợp tác kinh
tế châu Á - Thái Bình Dương
Hiệp định thuế quan có hiệu lực
chung
Liên minh Châu Âu
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Tổng sản phẩm quốc nội

Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập

Chỉ số phát triển con người
Tổ chức Quốc tế về tiêu chuẩn
hoá
Tối huệ quốc
Nước công nghiệp mới
Đãi ngộ quốc gia
Viện trợ phát triển chính thức
Hội đồng tương trợ kinh tế
Cộng đồng các quốc gia độc lập
Hiệp định về các biện pháp đầu tư
liên quan đến thương mại
Tổ chức thương mại thế giới



1
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:
Từ 1986 đến nay, đất nước Việt Nam đã trải qua hơn 20 năm đổi mới. Cùng
với những thành tựu về kinh tế - xã hội, thương mại quốc tế của Việt Nam đã có
những bước tiến vượt bậc trên nhiều mặt: quy mô, tốc độ tăng trưởng, cơ cấu nhóm,
ngành hàng, thị trường…góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, ổn định
chính trị và xã hội, mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong xu thế toàn cầu hóa như hiện nay, Việt Nam đang nỗ lực hết mình trong
việc hội nhập ngày càng sâu và toàn diện vào nền kinh tế khu vực và trên thế giới,
trong đó bước ngoặt quan trọng là sự kiện Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2006.
Nhờ việc mở rộng hơn nữa các quan hệ thương mại song phương và đa phương,

Việt Nam ngày càng có nhiều điều kiện thuận lợi lớn để phát huy tối đa những tiềm
năng, thế mạnh của mình, phát triển kinh tế theo hướng Công nghiệp hóa – hiện đại
hóa. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải đối diện với những áp lực cạnh tranh khốc liệt
từ các quốc gia khác, cũng như những rào cản vô hình, hữu hình và sự bất bình
đẳng trong quan hệ ngoại thương đặc biệt là với các nước kinh tế phát triển.
Để tham gia rộng rãi vào phân công lao động quốc tế, mở rộng sự giao lưu
giữa các thị trường trong nước và quốc tế, Việt Nam cần dựa chủ yếu vào các nguồn
lực trong nước, kết hợp với xu thế phát triển của thế giới, trên cơ sở đó, mở rộng qui
mô và tăng xuất khẩu. Điều cơ bản là làm thế nào khai thác được tối đa nguồn lực
bên trong và những lợi thế so sánh có được trong phân công lao động quốc tế để
đẩy mạnh xuất khẩu. Đó chính là việc xác định sản phẩm chủ lực và cơ cấu hàng
hóa xuất khẩu hợp lý trong điều kiện phát triển cụ thể của đất nước và bối cảnh kinh
tế quốc tế trong từng thời kì, bên cạnh đó xác định đối tác, thị trường trọng điểm và
cơ cấu thị trường phù hợp. Những vấn đề này có ý nghĩa rất to lớn đối với sự phát
triển kinh tế quốc gia và quan hệ kinh tế quốc tế.


2
Trong quá trình tìm tòi tài liệu cho khoá luận này, em đã quyết định chọn đề tài:
“Lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu của Việt Nam – Thực trạng và giải
pháp” cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của khóa luận là phân tích, làm rõ thực trạng lựa chọn sản
phẩm và thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian vừa qua dựa trên những
lợi thế cạnh tranh của đất nước kết hợp với xu thế phát triển của thế giới; trên cơ sở
đó đưa ra một số giải pháp và định hướng cho việc lựa chọn sản phẩm và thị trường
xuất khẩu, góp phần đưa hoạt động xuất khẩu của Việt Nam phát triển mạnh và hiệu
quả hơn nữa, xứng đáng với vai trò đầu tàu của nền kinh tế quốc dân trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề trong nước và thế giới liên quan đến việc
xác định sản phẩm và cơ cấu hàng hóa xuất khẩu, thị trường và cơ cấu thị trường
xuất khẩu của Việt Nam qua các thời kì.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập trung vào vấn đề sản phẩm và thị trường
xuất khẩu của Việt Nam trên cơ sở phân tích chung và đi vào một số sản phẩm và
thị trường cụ thể. Thời gian nghiên cứu của đề tài là giai đoạn từ 1986 – 2009.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong khóa luận đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp khái quát
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp luận giải
5. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục bảng biểu, danh mục tài liệu tham
khảo, khóa luận được chia làm 3 chương:


3
Chương 1: Một số vấn đề chung về việc lựa chọn sản phẩm và thị trường
xuất khẩu
Chương 2: Thực trạng của việc lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu
của Việt Nam
Chương 3: Định hướng và giải pháp cho việc lựa chọn sản phẩm và thị trường
xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới
Những nội dung đề cập trong luận văn này chắc chắn sẽ chưa đầy đủ và nhiều
vấn đề còn cần tiếp tục bổ sung và hoàn chỉnh. Mặc dù đã hết sức cố gắng và nỗ lực
trong việc tìm tòi, nghiên cứu song do những hạn chế về thời gian, trình độ và kiến
thức còn hạn chế, cũng như những vấn đề liên quan đến công tác xuất khẩu là rất
rộng lớn nên khóa luận của em sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất

mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu từ phía các thầy cô để hoàn thiện
hơn đề tài này.
Em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến giáo viên hướng
dẫn của em, Thạc sĩ Vũ Huyền Phương đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo giúp em
hoàn thành khóa luận này.

Sinh viên: Nguyễn Thị Hoài


4
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VIỆC LỰA
CHỌN SẢN PHẨM VÀ THỊ TRƢỜNG XUẤT KHẨU

I. Vai trò của việc lựa chọn sản phẩm và thị trƣờng xuất khẩu
1. Một số nhận định chung về nền kinh tế trong nƣớc và thế giới trong những
năm gần đây
Trong những năm gần đây, tình hình thế giới và khu vực đang có những diễn
biến hết sức phức tạp, có thể nói là có những thay đổi mang tính chất bước ngoặt.
Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã và đang gây những ảnh
hưởng nặng nề đến thương mại thế giới cũng như có những tác động sâu sắc đến
mọi quốc gia. Siêu cường Mỹ đang dần suy yếu, trong khi đó Trung Quốc đang nỗ
lực để đi nhanh hơn nữa trên con đường trở thành siêu cường. Tuy nhiên, nhìn
chung tình hình kinh tế thế giới trong những năm vừa qua, chúng ta thấy một số
chiều hướng chính sau:
1.1. Khoa học công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất nòng cốt và
trực tiếp của xã hội
Với cuộc cách mạng về khoa học công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm
vi toàn thế giới như hiện nay, trên nhiều lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là kinh tế tri thức,
khoa học công nghệ đã trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”, trong đó tri thức và
thông tin trở thành yếu tố quan trọng và nguồn tài nguyên đặc biệt, có giá trị cao.

Các thành phố khoa học, công viên khoa học, khu công nghệ cao chính là môi
trường với những điều kiện thuận lợi để cho khoa học, công nghệ và sản xuất nhập
làm một. Trong các lĩnh vực công nghệ cao như công nghệ sinh học, công nghệ
thông tin, phòng thí nghiệm cũng chính là nhà máy, nhà khoa học đồng thời là nhà
sản xuất, kinh doanh. Các loại dược phẩm mới, các vi mạch, các sản phẩm phần
mềm tin học được sản xuất ra từ phòng thí nghiệm. Cùng một nơi, người ta nghiên
cứu thực nghiệm rồi sản xuất đại trà, xưởng sản xuất cũng là một phòng thí nghiệm.
Một phân xưởng sản xuất vi mạch điện tử có các trang thiết bị và điều kiện giống
như một phòng thí nghiệm hiện đại nhất.


5
Các ngành kinh tế giàu chất xám phát triển mạnh, chu kì đổi mới về công nghệ
và sản phẩm được rút ngắn, lợi thế so sánh của các quốc gia luôn thay đổi dẫn đến
sự dịch chuyển thường xuyên hơn về cơ cấu kinh tế.
Bên cạnh đó, mức độ phổ cập mạnh mẽ của mạng Internet trong những năm
gần đây đã khiến tỷ trọng của thương mại điện tử tăng nhanh và thông qua đó thay
đổi một cách sâu sắc tư duy kinh doanh, chiến lược tiếp thị cũng như phương thức
kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Sự phát triển các giao dịch thương mại điện tử
được thực hiện thông qua mạng Internet cho phép hạ thấp các hàng rào chắn và chi
phí đi vào thị trường. Kết quả là từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ đến các công ty
xuyên quốc gia đều có thể tham gia thị trường toàn cầu.
Như vậy, có thể nói, sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại đã tạo ra sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất, rút ngắn
thời gian, giảm dần ý nghĩa khoảng cách không gian, thúc đẩy phân công quốc tế
ngày càng sâu rộng, phát triển nhanh chóng mậu dịch quốc tế, đầu tư và tích tụ tập
trung tư bản trên toàn cầu dẫn đến hình thành nền kinh tế thế giới nhất thể hóa, toàn
cầu hóa hiện nay. Các quốc gia tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và
liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực khác.
Tình hình đó đã tạo nên thời cơ thuận lợi để các nước có điều kiện phát triển, sự

hợp tác giữa các nước ngày càng tăng nhưng cạnh tranh cũng trở nên gay gắt.
1.2. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang là xu thế chung của thế giới, đã và sẽ
tiếp tục diễn ra mạnh mẽ, lôi cuốn hầu hết các nước và mở rộng trên hầu khắp
các lĩnh vực giao lưu kinh tế
Toàn cầu hóa đã trở thành một xu thế lớn của kinh tế thế giới và quan hệ kinh
tế quốc tế từ vài thập niên trở lại đây. Nó là một xu thế khách quan, có những tác
động sâu sắc và toàn diện tới các nước và toàn bộ quan hệ quốc tế. Với việc xóa bỏ
các rào cản đối với sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, vốn, công nghệ và
nhân công giữa các nước, toàn cầu hóa đã giúp hình thành những thị trường khu vực
chung và tiến tới hình thành một thị trường thống nhất trên toàn cầu.


6
Toàn cầu hóa kinh tế tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng được lợi thế so
sánh của mình, tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững hơn, nguồn lực được phân
bổ một cách hiệu quả hơn.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế là con
đường đi phù hợp với xu thế toàn cầu hóa của tất cả các nước, cho phép các nước
tận dụng được các cơ hội và điều kiện thuận lợi mà quá trình toàn cầu hóa tạo ra để
phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, toàn cầu hóa cũng gây ra nhiều
khó khăn, thách thức lớn cho tất cả các nước, nhất là các nước đang phát triển, đó chính
là sức ép cạnh tranh và sức ép chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời gian ngắn.
Trong xu thế chung đó, Việt Nam cũng đã có những bước phát triển hội nhập
rất mạnh mẽ với nền kinh tế thế giới. Việc Việt Nam trở thành thành viên chính
thức của khối ASEAN năm 1995, APEC năm 1998 và gia nhập Tổ chức Thương
mại thế giới WTO năm 2006, cũng như hàng loạt các sự kiện về tự do hóa thương
mại khác đã tạo ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế nước ta nói chung cũng như hoạt
động xuất nhập khẩu nói riêng. Điều đó đã tạo ra nhiều cơ hội lớn hơn cho hàng hóa
Việt Nam thâm nhập thị trường nước ngoài, tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có rất
nhiều những thách thức mà chúng ta phải vượt qua.

1.3. Phân công lao động quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu do có sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học công nghệ và hệ thống công ty đa quốc gia
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã làm cho phân công lao
động quốc tế trở nên sâu sắc và rộng khắp toàn cầu. Trong thời đại kinh tế tri thức,
thay vì đất, đai, tài nguyên, vốn trước đây, tri thức ngày càng làm nên giá trị áp đảo
trong mỗi sản phẩm. Các nước có thế mạnh về khoa học, công nghệ ra sức đầu tư,
phát triển những ngành kinh tế dựa trên tri thức. Khác biệt về điều kiện tự nhiên
không còn đóng vai trò quyết định trong phân công lao động quốc tế nữa, thay vào
đó khả năng về công nghệ đang dần trở thành yếu tố quan trọng.
Bên cạnh xu thế trên của phân công lao động quốc tế, sự phân công chuyên
sâu trong hợp tác quốc tế cũng được tăng cường theo hướng ngày càng xuất hiện
nhiều hơn các công ty đa quốc gia. Với tư cách là những thực thể chính trị và kinh


7
tế mạnh nhất toàn cầu ngày nay, các công ty đa quốc gia đã thiết lập hệ thống các
chi nhánh trải rộng trên thế giới phụ thuộc vào công ty mẹ dẫn đến việc lôi cuốn các
nước có chi nhánh phải tham gia vào vòng chu chuyển của tư bản xuyên quốc gia.
Hoạt động cùng một lúc trên phạm vi nhiều nước trên thế giới, các công ty xuyên
quốc gia có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu. Với mục tiêu
đạt được lợi nhuận siêu ngạch, các công ty xuyên quốc gia luôn tập trung phát
triển khoa học và công nghệ, tiếp tục mở rộng kinh doanh trên phạm vi toàn cầu
để triệt để khai thác các cơ hội đầu tư. Dòng vốn đầu tư trực tiếp (FDI – Foreign
Direct Investment) ngày càng đổ về những nước có nguồn nhân lực với lợi thế về
trí tuệ và tay nghề cao. Các công ty xuyên quốc gia đã có vai trò thúc đẩy sự
phồn thịnh đến một mức độ nhất định ở các nước đang phát triển, nhưng sau đó
bằng việc bòn rút lợi nhuận đã làm cạn kiệt nhanh chóng nguồn tài nguyên và ô
nhiễm nghiêm trọng môi trường sinh thái ở những nước này.
1.4. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra vào những năm 2008, 2009 đã
gây ra những tác động sâu sắc đến hầu hết mọi quốc gia

Bắt nguồn từ khủng hoảng tài chính ở Mỹ cuối năm 2007, cuộc khủng hoảng
tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu này được đánh giá là trầm trọng nhất kể từ
tám mươi năm qua. Cuộc khủng hoảng này đã và đang có những tác động mạnh mẽ,
lâu dài đến tình hình kinh tế, chính trị thế giới. Viện quốc gia nghiên cứu kinh tế và
xã hội (NIESR - National Institute Economic Review) của Anh cho rằng với giao
dịch buôn bán toàn cầu dự kiến giảm 8,2% trong năm 2009, kinh tế toàn cầu có thể
phải chứng kiến sự sụt giảm tồi tệ nhất trong hơn 60 năm qua (Nguyễn Thị Bình,
2009). Xu hướng sụt giảm kinh tế ở Mỹ, khu vực châu Âu và Nhật Bản có thể kéo
dài, thời gian có thể đến hàng năm. Chưa có dấu hiệu nào cho thấy kinh tế thế giới sẽ
sớm trở lại với tăng trưởng, và khi trở lại, tốc độ tăng trưởng của kinh tế toàn cầu chắc
chắn trong một thời gian không ngắn sẽ thấp hơn so với trước khi khủng hoảng xảy ra.
Với cuộc khủng hoảng lần này, quá trình cơ cấu lại nền kinh tế toàn cầu có thể
sẽ phải diễn ra. Ðó có thể là quá trình cơ cấu lại nền sản xuất theo hướng tiết kiệm
năng lượng và thân thiện với môi trường do đi đôi với khủng hoảng kinh tế là khủng
hoảng năng lượng và khủng hoảng khí hậu, môi trường. Ðó là quá trình cơ cấu lại


8
hệ thống tài chính tiền tệ song song với quá trình cơ cấu lại cơ chế quản lý, giám sát
trong từng quốc gia và trên toàn cầu. Ðó là việc điều chỉnh lại mối tương quan giữa
chính sách hướng mạnh ra xuất khẩu và chính sách coi trọng thị trường nội địa bởi
do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng vừa qua, những nước gắn quá sâu với xuất
khẩu đều chịu tác động mạnh.
Cuộc khủng hoảng cũng sẽ dẫn đến những điều chỉnh về cán cân quyền lực
trên bàn cờ chính trị thế giới: Mỹ sẽ phải tính đến việc giảm bớt sự bành trướng về
chính trị, điều chỉnh quan hệ đối ngoại theo hướng tăng tính đa phương, giảm đối
đầu trực tiếp hơn; vai trò của Trung Quốc và các nền kinh tế mới nổi sẽ gia tăng.
Cuộc đấu tranh về lợi ích giữa các nước lớn sẽ dẫn đến một số điều chỉnh lợi ích
nhất định tại các thiết chế tài chính, tiền tệ quốc tế. Tuy nhiên, do sự ràng buộc về
lợi ích, các nước lớn vẫn sẽ thỏa hiệp để tiếp tục duy trì cục diện chung với vai trò

chính của Mỹ trên quy mô toàn cầu.
Là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế thế giới, nền kinh tế nước ta đã hội
nhập khá sâu với nền kinh tế toàn cầu, chính vì vậy, khủng hoảng kinh tế thế giới
cũng đã gây những ảnh hưởng trực tiếp và sâu rộng đến Việt Nam. Tác động của
cuộc khủng hoảng đối với Việt Nam, tuy có chậm hơn một số nước do một số lý do
nêu trên, nhưng cũng rất lớn và khá rộng, ảnh hưởng trước hết đến xuất khẩu,
thương mại, các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI – Foreign Direct
Investment), viện trợ phát triển chính thức (ODA - Official development assistance),
vấn đề thất nghiệp
Tóm lại, thương mại thế giới đã phải chịu những ảnh hưởng hết sức nặng nền
trước cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Kinh tế thế giới có
thể sẽ phục hồi tuy nhiên thương mại thế giới nói chung và xuất khẩu của nước ta
nói riêng sẽ khó lấy lại được sự phát triền năng động như thời kì trước đó.
2. Vai trò của việc lựa chọn sản phẩm và thị trƣờng xuất khẩu
2.1. Sự cần thiết phải lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu
Trước bối cảnh kinh tế thế giới diễn biến bất lợi như hiện nay, lợi thế so sánh
của các nước có những thay đổi cơ bản. Trên phạm vi toàn cầu, lợi thế phát triển
chủ yếu của thế giới là trí tuệ và hàm lượng công nghệ cao chứ không phải là lao


9
động rẻ, tài nguyên phong phú và nguồn vốn dồi dào. Điều này đặt ra sự phân chia
các nhóm nước và khẳng định vai trò của từng nhóm nước với những lợi thế so sánh
tương ứng để bổ sung cho nhau trong sự hợp tác và phát triển. Bằng lợi thế bên
trong của mình về thị trường, lao động tài nguyên, các nước đang phát triển vẫn có
thể tham gia vào nấc thấp hơn của sự chuyển dịch cơ cấu toàn cầu. Tuy nhiên để có
thể tận dụng được tối đa những lợi thế đó, các nước cần xác định một cơ chế xuất
khẩu phù hợp dựa trên tiềm năng, nội lực của mình. Các nước sẽ tạo ra được hiệu
quả xuất khẩu như mong muốn, khai thác tối đa tiềm năng khi nước đó tạo được cơ
cấu sản phẩm xuất khẩu tối ưu, một hệ thống thị trường xuất khẩu đảm bảo khả

năng phát triển dài hạn.
Kinh nghiệm của Nhật Bản và các nền kinh tế mới cho thấy, những thành tựu
kinh tế nói chung và ngoại thương nói riêng trong thời kỳ công nghiệp hoá có sự
đóng góp quan trọng của chính sách lựa chọn sản phẩm chủ lực và thị trường ưu
tiên. Nhờ chính sách này mà các nguồn tài nguyên, vật lực đã được tập trung cao
cho các sản phẩm có lợi thế so sánh, phát triển sản xuất các sản phẩm có ưu thế về
quy mô, khai thác được tiềm năng tăng trưởng cao và hiệu quả.
2.2. Vai trò của việc lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu
Trong bối cảnh biến động nền kinh tế thế giới như vậy, các nước đang trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế không còn con đường nào khác
là phải lựa chọn chiến lược xuất khẩu phù hợp. Điều đó có nghĩa là, cần xác định
sản phẩm và thị trường xuất khẩu sao cho có thể phát huy tối đa lợi thế của mình.
Thực chất của chiến lược này là phát huy lợi thế của sản xuất trong nước, đặt nền
kinh tế quốc gia trong quan hệ cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới. Để
đẩy nhanh phát triển ngoại thương, chúng ta cần phải thực hiện phương châm đa
dạng hóa sản phẩm và đa phương hóa thị trường, đi cùng với việc đó là phát triển
sản phẩm chủ lực và thị trường trọng điểm. Chính vì vậy, vấn đề lựa chọn sản phẩm
và thị trường xuất khẩu được coi là vấn đề cốt lõi. Lựa chọn đúng sản phẩm và thị
trường xuất khẩu nhằm mục đích nâng cao năng lực cạnh tranh, tận dụng lợi thế
cạnh tranh trong xuất khẩu và thu được hiệu quả cao, từ đó thúc đẩy ngoại thương
phát triển, góp phần quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.


10
Cùng với sự ra đời và phát triển của kinh tế đối ngoại, xuất khẩu đã luôn được
thừa nhận là hoạt động rất cơ bản và hết sức quan trọng, là phương tiện thúc đẩy
nền kinh tế quốc gia phát triển nói chung, phương tiện chính để tăng thu nhập ngoại
tệ cho tài chính và nhu cầu nhập khẩu hàng hóa thiết bị phục vụ sản xuất tiêu dùng
nói riêng, góp phần thanh toán dần nợ nước ngoài. Việc lựa chọn sản phẩm xuất
khẩu phù hợp sẽ tạo ra các mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao và ngày càng chiếm tỷ

trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của một quốc gia. Đó sẽ là nguồn quan
trọng sẽ thúc đẩy sự gia tăng tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia đó. Chính vì
vậy, đất nước nào có một cơ cấu mặt hàng xuất khẩu phù hợp nhất với năng lực sản
xuất và xu thế phát triển trong từng giai đoạn thì hoạt động xuất khẩu của nước đó
sẽ đạt được hiệu quả kinh tế cao, có nghĩa là thu được nhiều ngoại tệ, tăng nhanh
kim ngạch xuất khẩu và từ đó dẫn tới góp phần làm tăng ngân sách và cũng tạo điều
kiện cải thiện đáng kể cán cân thương mại.
Sản phẩm phù hợp sẽ không thể mang lại hiệu quả kinh tế cao nếu như không
có thị trường phù hợp với sản phẩm đó. Chính vì vậy, song song với việc lựa chọn
sản phẩm, lựa chọn thị trường xuất khẩu cũng vô cùng quan trọng trong chính sách
ngoại thương của một nước. Nền kinh tế thế giới phát triển, ngoại thương không còn
mang ý nghĩa đơn thuần là các hoạt động mua bán thông qua xuất nhập khẩu hàng
hóa dịch vụ nữa mà còn là sự phụ thuộc tất yếu lẫn nhau giữa các nước trong phân
công lao động quốc tế. Chiến lược về điều tra nghiên cứu thị trường để đưa ra các
quyết định lựa chọn thị trường cho sản phẩm của một công ty hay một quốc gia được
coi là chính sách đầu tiên và quan trọng nhất, đóng vai trò quyết định trong chính
sách ngoại thương.
Thị trường là một hiện tượng động, nhất là thị trường quốc tế. Nó luôn vận
động và biến đổi theo quy luật riêng dưới sự tác động của các nhân tố như môi
trường kinh tế quốc tế, thời gian, tình hình kinh tế - xã hội của từng quốc gia, của
khu vực cũng như của nền kinh tế toàn cầu. Chính vì lẽ đó, việc điều tra nghiên cứu
để lựa chọn thị trường cho hoạt động xuất khẩu của một nước là hết sức khó khăn
và phức tạp, đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề liên quan như môi trường kinh tế


11
vĩ mô, môi trường luật pháp, văn hóa, chính trị - xã hội và quan trọng hơn là việc
xem xét, phân tích, đánh giá cơ cấu tiêu dùng của một quốc gia để xác định thị
trường có tiềm năng hay không. Các quốc gia khác nhau lại có cơ cấu tiêu dùng
khác nhau. Các nước giàu thường nhập khẩu hàng tư liệu sản xuất, trong khi các

nước nghèo lại chú trọng vào nhập khẩu hàng tiêu dùng. Trong giai đoạn chuyển
tiếp giữa thay thế nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu, điều tra lựa chọn thị
trường một cách hợp lý có tính chất quyết định trong việc đảm bảo mục tiêu phát
triển sản xuất, thực hiện công nghiệp hóa, tăng trưởng và phát triển kinh tế trong
điều kiện tiềm lực còn yếu kém ở các nước phát triển. Trong thời kì này, về căn bản
các nước đang phát triển thường lựa chọn thị trường có dung lượng lớn, sức tiêu thụ
cao, nhằm tranh thủ các lợi thế cạnh tranh về chi phí nguyên vật liệu và công lao
động rẻ. Sự tăng trưởng kinh tế ngày càng cao ở rất nhiều nước trong vài thập kỉ
qua kể từ khi thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu, một phần là nhờ vào yếu tố
biết phân tích và lựa chọn hợp lý này.
Vào những năm 60, chiến lược của Nhật Bản trong thời kì này là mở rộng xuất
khẩu sang các thị trường Châu Á nhằm độc chiếm các thị trường này. Chính chiến
lược thị trường hợp lý đó cùng việc thi hành các chính sách ngoại thương khác đã
tạo ra sự bùng nổ xuất khẩu. Kể từ cuối những năm 70 trở đi, các sản phẩm của
Nhật Bản không còn phụ thuộc phần lớn vào các thị trường Châu Á nữa do các thị
trường này chỉ chấp nhận những sản phẩm chế tạo có hàm lượng giá trị không cao.
Chính vì lý do đó, cộng với sự cạnh tranh về thị trường của các quốc gia đang phát
triển ngày càng gia tăng, chiến lược lựa chọn thị trường của Nhật Bản đã chuyển
sang các nước phát triển đặc biệt là Mỹ và Tây Âu. Với sự lựa chọn thị trường và
sản phẩm cho thị trường đó hợp lý, Nhật Bản đã tạo ra những ảnh hưởng có tính
chất quyết định đối với sản xuất trong nước cũng như chiến lược đầu tư ra nước
ngoài. (Nguyễn Trần Quế, 1998).
Thị trường thế giới luôn là yếu tố động và hết sức nhạy cảm. Chính nó sẽ quyết
định chính sách sản phẩm. Chiến lược thị trường và sản phẩm hợp lý chính là điều
kiện tiên quyết để có được một chính sách ngoại thương hiệu quả trong xu hướng
mở cửa nền kinh tế trên toàn cầu.


12
II. Cơ sở cho việc lựa chọn sản phẩm và thị trƣờng xuất khẩu

Sự lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu dựa trên nhiều yếu tố và điều
kiện khác nhau. Sự lựa chọn đó hình thành chiến lược quốc gia cũng như của các
doanh nghiệp về sản phẩm và thị trường xuất khẩu. Đối với các nền kinh tế đang
phát triển cơ sở chủ yếu để họ có thể lựa chọn sản phẩm xuất khẩu chính là lợi thế
cạnh tranh có thể tạo ra được trên cơ sở điều kiện nguồn lực quốc gia trong từng
giai đoạn phát triển, nhu cầu và xu hướng biến đổi nhu cầu trên thị trường thế giới.
Trong đó lợi thế cạnh tranh không chỉ đơn thuần dựa vào các nguồn lực quốc gia
sẵn có mà còn phải chủ động tạo ra, muốn như vậy thì phải có những định hướng và
đầu tư dài hạn.
1. Lợi thế cạnh tranh
Đây chính là yếu tố tổng hợp nhất có tính quyết định ảnh hưởng đến chính sách
lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu. Cần phải sử dụng lợi thế này để tạo ra
các sản phẩm đồng thời tìm kiếm các thị trường xuất khẩu sao cho đạt hiệu quả kinh
tế cao nhất.
Lợi thế cạnh tranh được đánh giá trên ba cấp độ: Lợi thế cạnh tranh quốc gia,
lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp và lợi thế cạnh tranh của ngành, sản phẩm.
Trong đó, lợi thế cạnh tranh quốc gia được xem là yếu tố bao trùm lên tất cả.
Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia được Michael Porter nghiên cứu và
đưa ra vào những năm 1990. Mục đích của lý thuyết này là giải thích tại sao một số
quốc gia lại có được vị trí dẫn đầu trong việc sản xuất một số sản phẩm, hay nói
cách khác đi tại sao những quốc gia có lợi thế cạnh tranh về một số sản phẩm. Lý
thuyết này được xây dựng trên cơ sở lập luận rằng khả năng cạnh tranh của một
ngành công nghiệp được thể hiện tập trung ở khả năng sáng tạo và đổi mới của
ngành đó. Điều này được khái quát cho một thực thể lớn hơn – một quốc gia.



13
Hình 1: Mô hình khối kim cương của M.Porter











(Giáo trình Kinh tế Ngoại Thương, 2006)

Theo lý thuyết này, lợi thế cạnh tranh quốc gia được thể hiện ở sự liên kết của 4
nhóm yếu tố. Mối liên kết của 4 nhóm này tạo thành một mô hình kim cương. Các
yếu tố đó bao gồm:
- Điều kiện các yếu tố sản xuất
- Điều kiện về cầu
- Các ngành công nghiệp hỗ trợ có liên quan
- Chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh của ngành
Bốn yếu tố này tác động qua lại lẫn nhau và hình thành nên khả năng cạnh
tranh quốc gia. Ngoài ra còn có hai yếu tố khác là chính sách của Chính phủ và cơ
hội. Đây là hai yếu tố có thể tác động đến 4 yếu tố cơ bản kể trên.
Dựa trên việc phân tích lợi thế cạnh tranh quốc gia theo mô hình kim cương
của M.Porter, cơ sở để lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu của một quốc gia
sẽ dựa trên lợi thế cạnh tranh của quốc gia đó, được thế hiện ở các yếu tố sau:
1.1. Nguồn lực đầu vào
Lợi thế cạnh tranh quốc gia thể hiện ở điều kiện các yếu tố sản xuất chính là
nguồn lực đầu vào. Đây là ưu thế giữa các quốc gia về lao động, vốn, tài nguyên
thiên nhiên, đất đai và công nghệ. Các quốc gia tận dụng ưu thế này để tạo ra sản
Chiến lược, cơ cấu và môi trường
cạnh tranh ngành

Điều kiện về cầu
Các ngành hỗ trợ và có
liên quan
Điều kiện các yếu tố
sản xuất
Chính phủ
Cơ hội


14
phẩm có chi phí thấp. Một nước đông dân, ít vốn, lao động rẻ thì trước hết phải định
hướng sản xuất ra các mặt hàng sử dụng nhiều lao động (thí dụ như sự lựa chọn của
các nước Đông Á trong thời kì đầu của quá trình công nghiệp hóa là khai thác tài
nguyên và phát triển các mặt hàng sử dụng nhiều lao động để xuất khẩu).
Tuy nhiên, lợi thế cạnh tranh của bất kì nước nào cũng chỉ có tính chất tương
đối, luôn luôn trong quá trình biến động và phát triển. Vì vậy cơ cấu xuất khẩu theo
mặt hàng cũng phải thay đổi. Tính quy luật của sự thay đổi cơ cấu sản phẩm xuất
khẩu là chuyển dần từ sản phẩm sử dụng nhiều lao động rẻ, không cần tay nghề cao
như sản phẩm dệt may, da giày…sang các sản phẩm nhiều lao động có tay nghề cao
như ngành hóa chất, điện tử, sắt thép…và cuối cùng chuyển sang các sản phẩm cần
nhiều vốn và công nghệ cao như cơ khí chính xác, tự động hóa…Nguồn lực đầu vào
là một cơ sở vững chắc giúp các nước này xây dựng cơ cấu xuất khẩu phù hợp nhất
với thực lực của mình, bởi rõ ràng là các nước dù muốn phát triển đến đâu cũng
không thể không tính đến thực lực của mình. Tuy nhiên, với sự phát triển nhanh
chóng của khoa học kĩ thuật và công nghệ, các nước cần phải chuẩn bị cho mình
một hướng đi thích hợp để một mặt vẫn tranh thủ được những tiến bộ khoa học kĩ
thuật, những cơ hội giành cho nước đi sau, mặt khác vẫn có thể khai thác được tối
đa lợi thế của mình, trên cơ sở đó đi xây dựng một cơ cấu xuất khẩu hoàn thiện,
đem lại lợi ích tối đa cho sự phát triển kinh tế trong môi trường kinh tế toàn cầu
cạnh tranh.

1.2. Điều kiện nhu cầu trong nước
Như trên đã nói, lợi thế cạnh tranh của quốc gia là yếu tố bao trùm lợi thế cạnh
tranh của doanh nghiệp. Hay nói cách khác, lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ
làm nên lợi thế cạnh tranh của quốc gia. Nhu cầu trong nước chính là yếu tố ảnh
hưởng đến lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Bản chất của nhu cầu trong nước sẽ
xác định cách thức doanh nghiệp nhận thức, lý giải và phản ứng trước nhu cầu của
người mua. Người mua đòi hỏi cao sẽ tạo áp lực giúp doanh nghiệp đáp ứng được
tiêu chuẩn cao về chất lượng, đặc tính kĩ thuật và dịch vụ, từ đó nâng cao lợi thế
cạnh tranh của doanh nghiệp. Không những thế, nhu cầu trong nước tăng nghĩa là


15
quy mô thị trường được mở rộng, điều này sẽ có tác dụng tạo ra lợi thế cạnh tranh
trong những ngành có hiệu quả kinh tế nhờ quy mô. Như vậy có thể nói sự gia tăng
nhu cầu trong nước không chỉ tạo ra lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp mà còn cả
cho sản phẩm và ngành, từ đó tạo ra lợi thế cạnh tranh quốc gia, là cơ sở để lựa
chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu.
1.3. Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan
Đối với mỗi doanh nghiệp, các ngành sản xuất hỗ trợ là những ngành sản xuất
cung ứng đầu vào cho chuỗi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Mỗi
quốc gia có lợi thế cạnh tranh trong nhiều ngành hỗ trợ và nhiều ngành liên quan sẽ
tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp, cung cấp trong thời gian ngắn với chi
phí thấp, duy trì quan hệ hợp tác liên tục, giúp doanh nghiệp nhận thức được các
phương pháp và cơ hội mới để áp dụng công nghệ mới Như vậy các ngành công
nghiệp hỗ trợ và liên quan cũng tác động đến lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp,
và từ đó cũng tạo cơ sở để doanh nghiệp có thể xây dựng mặt hàng và tìm kiếm thị
trường xuất khẩu.
1.4. Chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh (Cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp)
Việc đưa ra chiến lược, cơ cấu để cạnh tranh của các doanh nghiệp không chỉ

nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp đó mà còn tạo ra lợi thế cạnh
tranh về ngành, từ đó tạo nên lợi thế cạnh tranh của quốc gia.
Những khác biệt về trình độ quản lý và kĩ năng tổ chức như trình độ học vấn
và hướng đích của cán bộ quản lý, sức mạnh động cơ cá nhân, các công cụ ra quyết
định, quan hệ với khách hàng, thái độ đối với hoạt động quốc tế sẽ tạo ra lợi thế
hoặc bất lợi thế cho doanh nghiệp. Chính vì vậy, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
sẽ tạo ra sức ép phải cải tiến đổi mới đối với các đối thủ cạnh tranh từ đó sẽ tạo ra
lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp, đồng thời cũng là để doanh nghiệp chuẩn bị tốt
khi phải chịu áp lực cạnh tranh nước ngoài.
Bên cạnh đó, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp còn tạo ra sức ép làm thay đổi
cách thức cải tiến lợi thế cạnh tranh: lợi thế cạnh tranh dựa nhiều hơn vào tính chất


16
độc đáo của sản phẩm và hàm lượng công nghệ hơn là lợi thế về tài nguyên và chi
phí lao động. Như vậy, toàn bộ ngành sẽ tiến bộ nhanh hơn, những ý tưởng mới
được phổ biến và ứng dụng nhanh hơn, điều đó sẽ tạo ra sức cạnh tranh cho ngành
và sản phẩm.
Như vậy, chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh cũng có tác động không nhỏ
đến lợi thế cạnh tranh quốc gia, để từ đó có thể tạo cơ sở lựa chọn sản phẩm và thị
trường xuất khẩu.
1.5. Cơ chế tác động, điều chỉnh chiến lược của Nhà nước
Trong xu thế tự do hóa thương mại và khu vực hóa nền kinh tế đang diễn ra
mạnh mẽ như hiện nay thì cơ chế tác động, điều chỉnh chiến lược của nhà nước là
một yếu tố vô cùng quan trọng và ảnh hưởng to lớn đến việc lựa chọn sản phẩm và
thị trường xuất khẩu.
Nhà nước có tác động rất lớn đến lợi thế cạnh tranh quốc gia thông qua việc
tác động tới 4 nhóm yếu tố trên và đồng thời cũng trực tiếp định hướng cho việc lựa
chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu.
Trước hết, Nhà nước thể hiện vai trò điều hành của mình nhằm tác động đến

các nhân tố tạo ra lợi thế cạnh tranh quốc gia dựa trên các mặt sau:
- Thứ nhất là định hướng phát triển thông qua chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách phát triển kinh tế.
- Thứ hai là tạo môi trường pháp lý và kinh tế cho các chủ thể kinh tế hoạt
động và cạnh tranh lành mạnh.
- Thứ ba là điều tiết hoạt động và phân phối lợi ích một cách công bằng thông
qua các công cụ ngân sách, thuế khóa, tín dụng…
- Thứ tư là kiếm soát các hoạt động kinh tế theo đúng pháp luật và chính
sách đề ra.
Mặt khác, Nhà nước cũng là cơ quan trực tiếp định hướng cho việc lựa chọn
sản phẩm và thị trường xuất khẩu thông qua việc nghiên cứu thị trường nước ngoài
và chiến lược phát triển kinh tế của các viện nghiên cứu, các cơ quan quản lý để
định hướng các sản phẩm và thị trường xuất khẩu phù hợp với nguồn lực của đất


17
nước trong giai đoạn phát triển và bối cảnh quốc tế, đồng thời xây dựng các hệ
thống chính sách, biện pháp phục vụ sản phẩm xuất khẩu và mở rộng thị trường
ngoài nước.
Đến lượt mình, các doanh nghiệp sẽ thực hiện cụ thể và chi tiết, hiện thực hóa
sự lựa chọn sản phẩm và thị trường. Sự ganh đua, cạnh tranh, tìm tòi, sáng tạo để
phát triển và thâm nhập thị trường sẽ đem lại lợi nhuận cho công ty và nâng cao
năng lực xuất khẩu của đất nước.
Tuy nhiên, sự định hướng của chính phủ chỉ mang tính hướng dẫn, vạch đường
chỉ lối, hỗ trợ cho các doanh nghiệp, giảm bớt rủi ro trong kinh doanh chứ không
mang tính bắt buộc, mệnh lệnh. Sản xuất cái gì, cho ai và số lượng bao nhiêu là
những vấn để của doanh nghiệp. Định hướng của nhà nước là chỉ để giúp đỡ, hỗ trợ
doanh nghiệp trong quá trình giải quyết các vấn đề đó.
1.6. Cơ hội
Cơ hội cũng được xem là một yếu tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng đặc biệt

đến lợi thế cạnh tranh cũng như việc lựa chọn sản phẩm và thị trường xuất khẩu của
doanh nghiệp. Cơ hội có thể là sự thay đổi bất ngờ về công nghệ (như công nghệ
sinh học, công nghệ vi điện tử); thay đổi về tỷ giá hối đoái; tăng mạnh cầu thế giới
hay khu vực; quyết định chính trị của các Chính phủ nước ngoài; tham gia vào các
tổ chức kinh tế quốc tế lớn như WTO, kí kết các hiệp định song phương và đa
phương khác…
Các cơ hội rất quan trọng bởi lẽ chúng tạo ra sự thay đổi bất ngờ cho phép dịch
chuyển vị thế cạnh tranh. Chúng có thể tạo ra tiềm năng để các doanh nghiệp có thể
khai thác để có được những lợi thế đáp ứng những điều kiện mới và khác biết. Cần
tận dụng mọi cơ hội để để có thể hoạch định những chính sách sản phẩm và thị
trường xuất khẩu thích hợp.
Lợi thế cạnh tranh quốc gia cũng như lợi cạnh tranh của doanh nghiệp và sản
phẩm, dịch vụ có ảnh hưởng rất lớn đến hoạch định các chính sách về sản phẩm và
thị trường xuất khẩu. Cần tập trung vào việc tạo ra, duy trì, phát triển lợi thế cạnh
tranh phù hợp với đặc điểm riêng, trình độ phát triển của thị trường và trình độ của

×