Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tiểu luận: Quan điểm về con người của L. Phoi obac. Những giá trị và hạn chế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.42 KB, 27 trang )

Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4

Trang i






Tiểu luận

Quan điểm về con người của L.
Phoiobac. Những giá trị và hạn chế
Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4

Trang ii

LỜI NÓI ĐẦU
Bất cứ khoa học nào cũng vì con người, hướng tới cuộc sống con người.
Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, là khoa học về những quy
luật chung nhất của tự nhiên, xã hội loài người và tư duy. Con người là đối
tượng nghiên cứu của triết học trong tính phổ quát. Có nhiều trường phái triết
học ra đời cũng đồng thời có nhiều quan niệm khác nhau về con người. Quan
niệm về con người đã phát sinh và tồn tại từ khi triết học mới hình thành,
nhưng phải đợi đến cuối thế kỷ XIX, khi xuất hiện hệ thống triết học phê phán
của nhà triết học cổ điển Đức I. Kant(1724-1804) thì các quan niệm đó mới
được hệ thống hoá và trình bày dưới dạng một học thuyết triết học với tên gọi
là chủ nghĩa nhân bản. Tiếp thu những giá trị tư tưởng trong nhân bản học của
Kant, đồng thời dựa trên những thành tựu mới của khoa học tự nhiên đương
thời, L. Phoiobac(1804-1872) có tham vọng vương tới việc thiết lập một nền
triết học mới triết học tương lai lấy con người và đời sống tâm sinh lý của nó


làm đối tượng nghiên cứu cơ bản. Triết học mới L.Phoiobac viết, biến con
người, kể cả giới tự nhiên với tư cách là nền tảng của con người, thành đối
tượng duy nhất, phổ biến, cao nhất của triết học, do đó cũng biến nhân bản học,
kể cả sinh lý học thành khoa học phổ quát.
Việc tìm hiểu quan niệm về con người trong triết học L. Phoiobac có ý
nghĩa giúp ta có cái nhìn toàn diện về lịch sử quan niệm về con người trong
triết học nói chung và những ưu điểm, đóng góp lẫn những hạn chế của ông nói
riêng.
Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4

Trang ii

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU i
CHƯƠNG 1: HOÀN C ẢNH LỊCH SỬ 1
VÀ CUỘC ĐỜI SỰ NGHIỆP CỦA L. PHO IOBAC 1
1.1 Hoàn cảnh lịch sử 1
1.1.1 Đặc điểm kinh tế– xã hội 1
1.1.2 Đặc điểm của triết học cổ điển Đức 1
1.2 Cuộc đời và sự nghiệp Phoiobac 3
CHƯƠNG 2: QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC L.
PHOIOBAC 6
2.1 Nội dung triết học Phoiobac: 6
2.2 Quan niệm về con người trong triết học Phoiobac: 6
2.2.1 Mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên 7
2.2.2 Mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại 8
2.2.3 Mối quan hệ giữa con người với con người 10
2.2.4 Mối quan hệ giữa người và thần 11
2.3 Ảnh hưởng của Chủ nghĩa duy vật Phoiobac đ ến triết học Mác 15
2.3.1. Về tôn giáo: 16

2.3.2. Về con người 16
2.3.3.Về tự nhiên: 18
KẾT LUẬN 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO 23

Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4

Trang iii

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN

























Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4

Trang 1


CHƯƠNG 1: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ
VÀ CUỘC ĐỜI SỰ NGHIỆP CỦA L. PHOIOBAC
1.1 Hoàn cảnh lịch sử
1.1.1 Đặc điểm kinh tế– xã hội
Nước Đức giữa thế kỷ 18 – nữa đầu thế kỷ 19 lạc hậu, nền kinh tế
nông nghiệp phân tán nghèo nàn, lạc hậu, về chính trị chế độ quân chủ Phổ rất
khắc nghiệt, trong tình hình như vậy thì giai cấp tư sản Đức yếu ớt, không đủ
sức làm cách mạng tư sản như một số nước kh ác ở Ch âu Âu lúc bấy giờ. Vì
yếu không đủ sức làm cách mạng cho nên đội ngũ trí thức Đức buộc phải làm
cách mạng tư tưởng, và điều đó được thể hiện trong triết học cổ điển Đức.
Trong khoảng thời gian này, khoa học tự nhiên ở phương tây và các nước
phát triển, đạt được một số thành tựu lớn: phát hiện oxy – b ản chất của sự cháy,
tế bào, định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, học thuyết về dưỡng khí
và dưỡng khí và đã đưa ra các giả thuy ết khoa học về sự ra đời của vũ trụ.
Với bối cảnh chính trị xã hội và sự phát triển của khoa học ở phương Tây
và nước Đức như vậy đã chứng tỏ sự bất lực của phương pháp tư duy siêu hình
trong việc lý giải bản chất các hiện tượng tự nhiên và thực t iễn xã hội đang diễn
ra vào cuối thế kỷ X VIII, đầu thế kỷ XIX. Do đó, nó đòi hỏi cần phải có một
cách nhìn mới về bản chất các hiện tượng tự nhiên và tiến trình của lịch sử
nhân loại, cũng như cần có một quan niệm m ới về khả năng và vai trò của con
người, và triết học cổ điển Đức ra đời nhằm đáp ứng những yêu cầu này.

1.1.2 Đặc điểm của triết học cổ điển Đức
Triết học cổ điển Đức đã tiếp tục phát huy truyền thống duy lý của
phương Tây, khôi phục lại quan niệm coi triết học là khoa học của mọi khoa
học. Các triết gia ra sức xây dựng các hệ thống triết học vạn năng, bao trùm
mọi lĩnh vực hoạt động của con người đề làm cơ sở cho những hoạt động đó.
Đối với Hê-ghen, triết học thật sự phải là logic học; còn đối với Phoiobac, đó là
nhân bản học.
Tuy nhiên, do cố khắc phục những hạn chế siêu hình và máy móc trong
nền triết học duy vật thế kỷ XVII-XVIII mà triết học cổ điển Đức lại rơi vào
chủ nghĩa duy tâm, thần bí. Họ cho rằng, tính biện chứng sống động chỉ là bản
tính của cái tinh thần, còn bản thân giới tự nhiên thì phi biện chứng. Dù vậy, họ
vẫn biết tiếp thu những tư tưởng biện chứng quý báu trong di sản triết học
Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4

Trang 2

truyền thống của nhân loại, phát triển thêm và xây dựng được phép biện chứng
như một học thuyết triết học về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển xảy ra
trong thế giới. Triết học cổ điển Đức đề cao vai trò tích cực của con người với
tính cách là chủ thể của mọi hoạt động cải tạo thế giới – khách thể; và khảo sát
khách thể gắn liền với hoạt động thực tiễn của chủ thể– con người. Song, do
quan điểm duy tâm chi phối mà nhiều triết gia của nền triết học này hiểu thực
tiễn chỉ là hoạt động sáng tạo của ý thức, đồng thời tuyệt đối hóa ý t hức, biến ý
thức thành một lực lượng siêu nhiên có năng lực sáng tạo kỳ vĩ; vì vậy, triết
học của họ mang tính duy tâm – thần bí.
Triết học cổ điển Đức là cơ sở thế giới quan, là nền tảng ý thức của giai
cấp tư sản Đức cuối thể kỷ XVII đầu thế kỷ XIX vốn yếu về kinh tế, nhược về
chính trị, nhưng có đời sống văn hóa tinh thần khá phong phú, sống trong một
xã hội mà tàn tích phong kiến còn quá nặng nề.
Triết học cổ điển Đức ra đời và đáp ứng được nhu cầu xã hội, nó có một

số điểm cần quan tâm:
- Do đặc điểm tình hình xã hội lúc bấy g iờ, triết học Đức có nội dung
rất cách mạng nhưng hình thức hiện thì rối rắm và mang tính bảo thủ ( điển
hình trong triết h ọc Hê-ghen).
- Đã xây dựng phép biện chứng như là một học thuyết hoàn chỉnh trình
bày về mối liên hệ phổ b iến và sự phát triển (sau này Triết học Mác ra đời là
kế thừa phép biện chứng này) nhưng tiếc thay biện chứng ở đây là phép biện
chứng duy tâm.
- Đề cao v ai trò hoạt động tích cực của con người. Con người đối với
họ là một thực thể hoạt động, là chủ thể, nhưng đồng thời là kết quả quá trình
hoạt động của chính họ. Tư duy và ý thức con người chỉ có thể phát triển trong
quá trình con người nhận thức và cải tạo thế gi ới. Tuy n hiên họ đã quá thần
thánh về trí tuệ, sức mạnh của con người tới mức coi con người là chúa tể của
tự nhiên.


Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4

Trang 3

1.2 Cuộc đời và sự nghiệp L. Phoiobac

L. Phoiobac (1804-1872)– đại biểu cuối cùng của triết học cổ điển Đức,
sự kết thúc đầy vinh quang của nó, nhà cải cách kiên cường của nền triết học
Đức– nhà duy vật và nhà khai sáng. Triết học Phoiobac là sản phẩm tất y ếu của
những điều kiện mới, hình thành vào cuối những năm 30– đầu những năm 40.
Đó là thời kỳ nhen nhóm t ình thế cách mạng ở nhiều nơi trên nước Đức, thời
kỳ gia tăng các cuộc đấu tranh tư tưởng giữa giai cấp tư sản và phản động. Lẽ
cố nhiên nước Đức vẫn chưa thoát khỏi tình trạng lạc hậu về kinh tế và chính
trị, còn giai cấp tư sản Đức thì chưa được thống nhất trong phạm vi quốc gia.

Bên cạnh đó giai cấp tư sản bây giờ đứng trước hai lực lượng mà họ cho là
đáng ngại: lực lượng của quá kh ứ và lực lượng của tương lai. Trong trường hợp
đó, phần đông những người trung lưu chọn giải pháp dung hòa với chế độ dân
chủ. Nhưng một bộ phận khác, tiến bộ hơn thấy rõ cuộc khủng hoảng sâu sắc
bao trùm toàn bộ hệ thống xã hội phong kiến– nông nô và mong muốn đưa
nước Đức ra khỏi tình trạng hiện có. Vào những năm 40– 50 của thế kỷ XIX,
khắp nơi trên nước Đức đã dấy lên làn sóng khởi nghĩa của nông dân.Trong
hàng ngũ những người tham gia đấu tranh có mặt những đại biểu ưu tú nhất
của tầng lớp thứ ba và tri thức quí tộc. Rõ ràng sự gia tăng mâu thuẫn giữa chủ
nghĩa tư bản đang phát triến và quan hệ phong kiến lỗi thời kéo theo sự ra đời
các tổ chức xã hội đối lập với chính thể phong kiến, chế độ chuyên chế. Phong
trào khai sáng Pháp và chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVIII cũng ảnh hưởng to
lớn đến tâm trạng của người Đức. Sinh hoạt kinh tế và chính trị, do chịu ảnh
hưởng của tư tưởng Voltaire, M ontesquieu, Rousseau .v.v… ngày càng trở nên
sôi động. Sự phát triển tư bản ở Đức đòi hỏi thủ tiêu. Song các nhà tư tưởng tư
sản Đức tránh né sự va chạm trực tiếp với chế độ hiện hành. Họ chống đối chế
độ chuyên chế dưới dạng phê phán về mặt triết học Cơ đốc giáo chính thống.
Họ ngầm hiểu rằng phê phán tôn giáo tức là phê phán lực lượng phản
động chính trị, bởi lẽ tôn giáo, đặc biệt Cơ đốc giáo, là hệ tư tưởng thống trị
của nhà nước quân chủ Phổ. Trong số của những đại biểu kiệt xuất của khuynh
hướng dân chủ tư sản nổi lên L.Phoiobac.
Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4

Trang 4

L.Phoiobac sinh trưởng trong một gia đình luật sư nổi tiếng ở Đức. Năm
1823 với mục đích nghiên cứu tôn giáo, Phoiobac vào học tại khoa thần học của
trường đại học Heidelberg, nhưng sau một năm lại rời khoa thần học và chuyển
đến Berlin, nơi Hê-ghen đang giảng triết học. Tại đây ông trở thành học trò của
Hê-ghen và gia nhập phái H ê-ghen trẻ. "Nhờ Hê-ghen,– Phoiobac công nhận,–

tôi đã ý thức được chính mình, ý thức được thế giới. Hê-ghen trở thành người
cha thứ hai của tôi…”. Năm 1828 Phoiobac gởi cho Hê-ghen bản luận án của
mình mang tên “Về lý tính đơn nhất, phổ biến và vô hạn” trong đó ông nói
thẳng ý nguyện triển khai tiếp tục chủ nghĩa duy tâm khách quan. Đôi khi
Phoiobac bày tỏ hoài nghi về tinh thần tuyệt đối chế ngự sự vận động tự nhiên,
nhưng ngay lập tức những lập luận sắc sảo của H ê-ghen đã chinh phục học trò.
Năm 1829, Phoiobac lúc đó 25 tuổi bắt đầu sự nghiệp giảng dạy của
mình tại trường đại học Erlangen. Tại đây Phoiobac trình bày logic học và siêu
hình học, đồng thời nhen nhóm tư tưởng nhân bản mà về sau trở thành nội dung
chủ yếu của chủ nghĩa duy vật đặc trưng – chủ nghĩa duy vật nhân bản. Khái
niệm trung tâm –tình yêu.
Tình yêu là bản chất của loài người. Con người biết sống trước hết là
con người biết yêu."Đứa trẻ chỉ thành người khi nó y êu. Bản chất tình yêu thể
hiện ở một dạng tình yêu, đó là t ình yêu của người đàn ông dành cho người đàn
bà".
Năm 1830, Phoiobac xuất bản tác phẩm đầu tiên "Quan điểm về cái chết
và bất tử". Một lần nữa chủ đề tình yêu lại được nêu ra. Phoiobac nói về tình
yêu thiên đường và tình yêu trần tục, tình yêu thần t hánh và tình yêu con người.
Ông khẳng định: con người yêu con người, cần phải yêu, yêu là hiến dâng. Đề
cập đến sự bất tử, Phoiobac cho rằng chỉ cần những hành vi vĩ đại của lý tính
con người mới bất tử, nhưng nhìn chung ông bác bỏ tư tưởng phổ biến về sự bất
tử của linh hồn. Sách của Phoiobac bị tịch thu, còn vị phó giáo sư bị thì mất
việc. Cũng từ năm ấy Phoiobac bắt đầu cuộc sống đơn độc, thậm chí ẩn dật ở
vùng quê, công bố những tác phẩm đánh dấu cách nhìn khác đối với triết học
Hê-ghen.
Năm 1831, Hê-ghen mất, Phoiobac có dịp bày tỏ toàn bộ quan điểm của
mình. Cũng như Strauss, Bauer, ông xem việc phê phán tôn giáo giải phóng
con người khỏi sự nô dịch của ý thức tôn giáo là mục đích tối cao. Nhưng ông
tuyên bố tôn giáo là hình thức sinh hoạt tinh thần cần có ở bất cứ xã hội nào.
Vấn đề là ở chỗ tôn giáo đó không kìm hãm nhân cách, trái lại khơi dậy khả

năng tiềm tàng nơi con người. Năm 1836 Phoiobac cưới vợ, trong suốt 25 năm
Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4

Trang 5

hầu như không rời khỏi ngôi nhà nhỏ của mình, mặc dù năm 1848 trúng cử đại
biểu quốc hội vùng Frankfurt.
Năm 1839 Phoiobac đoạn tuyệt hoàn toàn với chủ nghĩa duy tâm. Trong
tác phẩm “Góp phần phê phán triết học Hê-ghen", Phoiobac giải quy ết vấn đề
cơ bản của triết học theo hướng duy vật và xem xét giới tự nhiên, tồn tại, vật
chất, như thực tại sinh ra lý tính tư duy. Vượt qua khỏi giới hạn triết học Hê-
ghen và Schelling, Phoiobac viết:"Thực tại của tồn tại cảm tính đơn nhất là
chân lý". Thuật ngữ “chân lý” trong lối diễn đạt này có nghĩa là “thực tiễn",
“tính có trước”. Ở chỗ khác Phoiobac nói thêm: “Chân lý, thực tiễn, tính cảm
giác đồng nhất với nhau. Chỉ bản chất cảm tính mới là bản chất chân lý thực
tiễn”.
Năm 1841, Phoiobac cho ra mắt tác phẩm chính “Bản chất đạo Cơ đốc”,
ấn tượng mà nó đem lại thật to lớn. Những năm tiếp theo ông viết “Luận cương
khởi đầu về cải cách triết học” (1842), “Các luận điểm triết học cơ bản của
tương lai" (1843), Phoiobac đứng bên lề của diễn biến cách mạng 1848, tỏ ra là
người thụ động về chính trị, mặc dù hoan nghênh tinh thần dân chủ tư sản của
cuộc cách mạng đó.
Thời kỳ cách mạng Phoiobac viết và công bố một vài tác phẩm nhưng
chẳng mấy ai chú ý. Giai cấp tư sản quay lưng lại với nhà tư tưởng vĩ đại, vì họ
không thích thú gì cái tình yêu nhân loại quá lớn của ông, còn các lực lượng
khác nhận thấy ở đó những biểu hiện của chủ nghĩa không tưởng chính trị.
Mãi mãi Phoiobac cũng chỉ là một người dân chủ xã hội, mặc dầu
những năm cuối cuộc đời ông đọc say sưa bộ "Tư bản", trao đổi bằng thư từ
với không ít nhà Mác- xít. Ông mất năm 1872, tức là sau công xã Paris (1871)
thất bại.

Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4

Trang 6

CHƯƠNG 2: QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƯỜI TRONG
TRIẾT HỌC L. PHOIOBAC
2.1 Nội dung triết học Phoiobac:
Nền triết học mới mà Phoiobac đề cập đến là triết học phản ánh chân lý của
thời đại, nó đặt ra và lý giải những vấn đề xã hội đương thời mà chủ nghĩa duy
vật hay chủ nghĩa duy tâm trước ông đều bất lực: “Chân lý không phải là chủ
nghĩa duy vật hay chủ nghĩa duy tâm, không phải là sinh lý học hay tâm lý học.
Chân lý là nhân bản học”. Theo Phoiobac, triết học mới hay triết học tương lai
sẽ khắc phục được sự khác biệt của mình đối với tôn giáo, sẽ không còn là thứ
triết học nhận thức tư biện, mà trở thành nhân bản học- một học thuy ết toàn
diện về con người, về m ối quan hệ của nó với thế giới. Trong triết học m ới,
hình ảnh con người sẽ được trình bày trên cơ sở của các dữ liệu khoa học cũng
như trên cơ sở của học thuyết về Chúa. Con người trong nhân bản học không
chỉ được hiểu như là một bộ phận của giới tự nhiên mà còn là một sinh thể tự
nhiên toàn năng. Triết học mới có sức mạnh truy tìm lời giải đáp hiện thực để
giải quyết mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Triết học cũ là hệ thống triết học
gắn liền với thần học còn triết học mới kết hợp chặt chẽ với khoa học tự nhiên,
thực hiện sứ mệnh cao cả của mình là giúp con người nhận diện chính mình
như một bộ phận của giới tự nhiên, nhận ra chân giá trị của cuộc sống và nhằm
nỗ lực phấn đấu cho hạnh phúc ngay trong thế giới trần gian. Và để thực hiện
được sứ m ệnh lịch sử thiêng liêng đó thì “triết học cần thiết phải liên hệ chặt
chẽ với khoa học tự nhiên, còn khoa học tự nhiên thì phải liên hệ chặt chẽ với
triết học”.
Vốn là người có tư tưởng cách t ân, Phoiobac mơ tới việc thiết kế những đồ
án cho việc cải cách triết học và ông đã thực hiện điều đó trong hai tác phẩm
“Những luận điểm dự thảo cho cuộc cải cách triết học” (1842), và “Những luận

đề cơ bản của triết học tương lai” (1843). Trong các tác phẩm đó, ông đã mở ra
một hướng đi mới cho các nhà triết học sau này, đó là truy tìm bí mật của triết
học ngay trong giới tự nhiên và con người: “Hãy quan sát giới tự nhiên và con
người bạn sẽ thấy trong đó những bí mật của triết học”.
2.2 Quan niệm về con người trong triết học Phoiobac:
Với tham vọng như vậy nhà triết học mới này đi sâu vào việc nghiên cứu
bản chất con người bắt đầu từ việc truy tìm: M ối quan hệ giữa con người và
Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4

Trang 7

giới tự nhiên; mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại; mối quan hệ giữa người và
người để từ đó ông đi đến kết luận về mối quan hệ giữa người và thần.
2.2.1 M ối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên
Tiếp thu những thành tựu của khoa học tự nhiên trên nền tảng của chủ nghĩa
duy vật nhân bản, Phoiobac cho rằng, con người không phải là sản phẩm của
thượng đế như các nhà thần học quan niệm, nó cũng không phải là sự tha hoá
của ý niệm tuyệt đối như Hê-ghen nói, mà là sản phẩm của giới tự nhiên, ông
viết: “Giới tự nhiên là ánh sáng, điện từ, từ tính, không khí, nước, lửa, đất,
động vật, thực vật, con người… bởi vì con người là thực thể hoạt động thiếu tự
chủ và vô thức”. Như vậy sự phát sinh và tồn tại của con người cũng giống như
sự phát sinh và tồn tại của các hiện tượng tự nhiên khác, chỉ có điều khác là:
con người là sản phẩm tiến hoá cao nhất của giới tự nhiên, là một sinh vật bậc
cao có tính vượt trội so với các loài động vật khác ở đời sống tinh thần của nó:
“Sự khác biệt cơ bản giữa loài người và loài vật là gì? Câu trả lời chung rất đơn
giản là: đó là sự khác nhau trong ý thức đúng với nghĩa chân chính của từ
này…bởi ý thức theo nghĩa chính xác chỉ có ở chỗ, khi chủ thể có khả năng
nhận thức được loài của mình, bản chất của mình. Động vật nhận thức mình
như một cá thể, nó chỉ làm chủ được quá trình tự cảm giác mà thôi, chứ không
phải như một loài…bởi vậy, động vật sống đơn giản một mình còn con người

sống có bạn. Đời sống nội t âm của con vật hoà đồng với thế giới bên ngoài, còn
con người sống với cả 2 chiều: nội tâm và thế giới bên ngoài. Đời sống nội tâm
của con người liên quan mật thiết với loài và bản chất của loài. Con người suy
nghĩ, bàn luận và nói với chính mình”.
Toàn bộ mối quan hệ giữa giới tự nhiên và con người phản ánh mối quan
hệ giữa thế giới vô cơ và thế giới hữu cơ, phản ánh tiến trình tiến hoá của sự
sống, theo nghĩa thế giới vô cơ là tiền đề, là nền tảng của mọi sự sống nói
chung, của đời sống con người nói riêng. Con người chỉ có thể tồn tại trong
giới tự nhiên, trong sự tiếp xúc với thế giới khách quan bên ngoài của nó, và
cũng chính thế giới này quy định sự tồn tại và phát triển của các giác quan con
người chứ không phải ngược lại như chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định.
Ánh sáng tồn tại không phải để cho con mắt nhìn mà con mắt tồn tại bởi vì có
ánh sáng, tương tự như vậy, không khí tồn tại không phải để cho con người hít
thở mà con người hít thở bởi vì có không khí. Bởi vì nếu không có không khí
thì sẽ không có sự sống. Tồn tại một mối quan hệ tất yếu giữa thế giới vô cơ và
thế giới hữu cơ. Mối quan hệ này chính là cơ sở, là bản chất của sự sống. Bởi
Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4

Trang 8

vậy, chúng ta không có căn cứ nào để giả định rằng nếu như con người có
nhiều cảm giác hay nhiều cơ quan thì nó sẽ hiểu biết được nhiều thuộc tính hay
nhiều sự vật của tự nhiên hơn…con người vừa có đủ những giác quan cần thiết
để cảm nhận thế giới trong tính toàn vẹn và tính tổng thể của nó.
2.2.2 M ối quan hệ giữa tư duy và tồn tại
Từ việc quan sát hình thể bên ngoài của con người cho đến mọi hoạt động
lao động sản xuất cũng như hoạt động tinh thần của nó, Phoiobac cho rằng, con
người là một sinh vật có hình thể vật lý- sinh lý ở trong không gian và thời
gian, nhờ vậy nó có năng lực quan sát và suy nghĩ vượt trội các loài sinh vật
khác. Bản chất con người là một cái gì đó thống nhất toàn vẹn giữa hai phương

diện thể xác (tồn tại) và tinh thần (tư duy). Sự thống nhất toàn vẹn này đảm bảo
cho con người có thể tồn tại và phát triển như một sinh vật cao nhất, hoàn
thiện nhất trong mọi sinh vật hiện có. Và sai lầm của chủ nghĩa duy tâm là sự
toan tính thủ tiêu sự thống nhất toàn vẹn đó của con người, tách tư duy con
người khỏi tồn tại của nó, biến tư duy con người thành một thực thể siêu tự
nhiên có khả năng sáng tạo nên thế giới vật chất. Còn sai lầm của chủ nghĩa nhị
nguyên là đánh đồng tư duy và tồn tại, coi chúng như những thực thể tồn tại
độc lập bên cạnh nhau, đó là một sự khẳng định vòng vo, nửa vời, trái ngược.
Phê phán những quan điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa nhị
nguyên trong việc tách đôi thể xác và tinh thần, tồn tại và tư duy, Phoiobac đã
thừa nhận một cách dứt khoát rằng quan hệ thực sự của tồn tại đối với tư duy là
tồn tại– chủ thể, tư duy– thuộc tính. Tư duy xuất phát từ tồn tại, chứ không phải
tồn tại xuất phát từ tư duy…Cơ sở của tồn tại nằm ngay trong tồn tại chính là
cảm tính, là nguy ên lý trí tuệ, là sự tất yếu và chân lý…Bản chất của tồn tại với
tư cách một tồn tại chính là bản chất của giới tự nhiên. Tại sao tồn tại là chủ
thể, còn tư duy là thuộc tính (của chính chủ thể đó)? Để trả lời câu hỏi này,
theo Phoiobac, chúng ta cần đến từ đâu, bộ óc từ đâu đến, cơ quan cơ thể từ
đâu đến, thì tinh thần cũng đến từ đấy, ngay cả hoạt động tinh thần cũng là việc
làm của cơ thể, của đầu óc con người, hoạt động đó khác với các hoạt động
khác ở chỗ, nó là hoạt động của đầu óc.
Không phải là người nghiên cứu sâu về sinh lý học, song Phoiobac cũng
nhận thấy rằng, mỗi con người cụ thể bằng xương bằng thịt đang sống và hoạt
động là những bằng chứng sinh động về sự thống nhất giữa thể xác và tinh
thần, giữa phương diện vật lý và phương diện tâm lý. Sự thống nhất này phản
ánh sự thống nhất giữa cấu trúc và chức năng, giữa giải phẫu học và sinh lý
Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4

Trang 9

học. Và cũng từ đó ông dễ dàng rút ra một kết luận triết học duy vật rằng, tư

duy, ý thức của con người không là cái gì khác như là thuộc tính vốn có của
một dạng vật chất có tổ chức cao– bộ óc con người. Chính ở đây ông đã phần
nào phỏng đoán được nội dung vấn đề cơ bản của triết học, điều mà suy nghĩ
này, Ănghen đã phát biểu một cách rõ ràng hơn trong tác phẩm “Lutvich
Phoiobac và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”.
Sau khi công nhận một cách dứt khoát rằng, tồn tại của chủ thể, tư duy là
thuộc tính, ý thức là sản phẩm của bộ óc con người, Phoiobac đi đến việc tìm
hiểu sâu hơn bản chất tự nhiên– sinh học của con người. “Bản chất chung của
con người là gì? Những nhân tính cơ bản trong con người là gì? Đó là lý tính, ý
chí và trái tim. Con người hoàn thiện có năng lực tư duy, sức mạnh ý chí và
nguồn lực tình cảm. Năng lực tư duy chính là ánh sáng của nhận thức, sức
mạnh của ý chí chính là năng lượng của tính cách, nguồn lực tình cảm chính là
tình yêu…Trong ý chí, tư duy và tình cảm luôn chứa đựng bản chất tối cao,
tuyệt đối của con người là mục đích tồn tại của nó…con người tồn tại để nhận
thức, yêu thương và mong muốn.Nhưng mục đích của lý tính, của ý chí, của
tình yêu là gì? Là để làm cho con người trở t hành người tự do. Qua những lời
lẽ đó, nhà triết học cổ điển Đức muốn chứng minh rằng, bản chất chung của
con người là tổng hoà mọi khát vọng chính trị, mọi năng lực nhận thức và nhu
cầu tự nhiên-sinh học đã trầm tích trong quá trình phát triển lịch sử lâu dài của
nó.
Mọi mong muốn, khát vọng tự nhiên của con người theo quan điểm của
Phoiobac không phải xuất phát từ tư tưởng thuần tuý mà chúng phản ánh đời
sống hiện thực của con người và do đời sống đó quy định. Nói cách khác, trong
con người, cái sinh lý quy định cái tâm lý, cái tự nhiên- sinh học quy định cái
xã hội, nhu cầu vật chất quy định hành động xã hội. “Điều ác xuất hiện không
phải trong đầu óc, trong trái tim- Phoiobac viết- mà xuất hiện chính trong dạ
dày con người”. Quan điểm này của Phoiobac đã làm cho Ănghen rất chú ý.
Trong tác phẩm “Lutvich Phoiobac và sự cáo chung của triết học cổ điển
Đức”, Ănghen đánh giá cao luận điểm của Phoiobac: “Trong một cung điện,
người ta suy nghĩ khác trong một túp lều tranh”. “Nếu như vì đói, vì nghèo mà

trong cơ thể không có chất dinh dưỡng, thì trong đầu óc anh, trong tình cảm và
trong trái tim anh cũng không có chất nuôi đạo đức”. Đây là luận điểm hoàn
toàn mới so với đương thời, vì theo quan điểm này thì điều kiện sinh hoạt vật
chất của con người quy định suy nghĩ và tư tưởng của nó. Tuy nhiên, Phoiobac
chưa có khả năng nhìn nhận con người với tư cách là một cá thể của loài, với tư
Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4

Trang 10

cách là một thành viên xã hội, mà ông chỉ mới dừng lại ở con người cụ thể “
theo ý kiến tôi thì chính cá thể đã bao quát toàn bộ bản chất con người, bản
chất con người chỉ có một- đó là bản chất cá thể”.
2.2.3 M ối quan hệ giữa con người với con người
Tuy nhấn mạnh tính cá thể của con người, song Phoiobac cũng hé mở một ý
tưởng cho rằng, trong quá trình sống,con người có thể giao tiếp với những
người khác, với cộng đồng xã hội. Do tiếp xúc với xã hội mà “từ một tồn tại
thuần tuý vật lý, con người trở thành một tồn tại chính trị, nói chung trở thành
một cái gì đó khác với tự nhiên, tồn tại đó chỉ quan tâm đến bản thân
mình”.Quan niệm cho rằng, con người là một tồn tại xã hội đã có trong triết
học của Aristote, nhưng Phoiobac viết: “Con người là một tồn tại của tự do, tồn
tại có nhân cách, tồn tại của luật pháp, ở đây nhà triết học duy vật cổ điển Đức
đã nhìn thấy rằng, “cái tôi”, “cái đơn tử”, “cái tuyệt đối” được miêu tả trong
triết học của các bậc tiền bối mới chỉ là xuất phát điểm, là nền tảng vật lý-sinh
lý của con người. Vấn đề quan trọng hơn là bản chất đích thực của con người,
tức là những yếu tố quy định sự tồn tại của nó với tư cách là một sinh thể có
tính loài hay nói theo cách của Mác là tính xã hội của con người. Bởi vì “khi
con người sinh ra từ giới tự nhiên, nó mới chỉ là một sinh vật tự nhiên đơn
thuần chứ không phải là người… con người là sản phẩm của văn hoá và của
lịch sử”. Như vậy, theo Phoiobac, khi nói về con người, nhất thiết phải giả định
rằng, có những người khác và chỉ có trong mối quan hệ đó thì con người mới

là con người với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Từ việc công nhận con người như
là sản phẩm của văn hoá, của lịch sử Phoiobac đi đến quan điểm cho rằng tính
ích kỷ không mang tính cá nhân như các nhà đạo đức học trước ông, mà nó
còn mang tính xã hội. Đây là một quan điểm hoàn toàn mới so với lịch sử
đương thời. Khi đọc những lời này của Phoiobac, Lênin cho rằng đây là “phôi
thai của chủ nghĩa duy vật lịch sử”. Tiến xa hơn bước nữa, nhà triết học mang
nặng tinh thần nhân đạo coi tính ích kỷ của con người như là một động lực thúc
đẩy sự phát triển của lịch sử xã hội . “Trong lịch sử, một thời đại mới bắt đầu
từ đâu?Bắt đầu từ chỗ đông đảo quần chúng bị áp bức đưa ra tính ích kỷ chính
đáng của mình chống lại tính ích kỷ cực đoan của thiểu số người khác …tính
ích kỷ của đa số nhân loại đang bị áp bức phải và sẽ thực hiện quyền của mình
và mở ra một thời đại lịch sử mới…không thể để cho thiểu số người là cao
thượng, có tài sản, còn số khác là thấp hèn, là chẳng có gì. Tài sản phải có ở tất
cả mọi người.”. Những lời lẽ có tính tuy ên chiến với xã hội tư bản này được
Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4

Trang 11

Phoiobac nói ra vào thời điểm lịch sử khi Tuyên ngôn Đảng cộng sản của M ác
và Ănghen mới ra đời phần nào phản ánh tư tưởng chủ nghĩa xã hội của
Phoiobac và được Lênin đánh giá cao trong “Bút ký triết học”, đã vượt lên trên
quan niệm này khi đưa vào đời sống của con người những phạm trù xã hội
phản ánh đời sống đa dạng, sinh động của con người như: tự do, nhân cách,
luật pháp
2.2.4 M ối quan hệ giữa người và thần
Nhìn nhận con người vừa như một cá thể chứa đầy tham vọng cá nhân, vừa
là sản phẩm của con người, sản phẩm của văn hoá và lịch sử chính là cơ sở lý
luận để Phoiobac xem xét mối quan hệ giữa người và thần. Phoiobac cho rằng,
việc nghiên cứu nguồn gốc và bản chất của tôn giáo phải xuất phát từ việc
nghiên cứu bản chất con người và đời sống hiện thực của nó.

Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa nhân bản, Phoiobac cho rằng yếu tố
quan trọng hàng đầu tạo tiền đề cho sự xuất hiện tôn giáo đó là trạng thái tâm
lý của con người. “Thượng đế không phải là thực thể sinh lý hay thực thể vũ trụ
– Phoiobac viết- mà là thực t hể t âm lý”. Chính sự xúc cảm mạnh, sự chiêm
nghiệm hay trạng thái đau khổ của con người là nguồn gốc sâu xa của tôn
giáo.Nhưng sự chiêm nghiệm hay trạng thái đau khổ, trạng thái xúc cảm không
phải là hiện tượng có tính chủ quan như chủ nghĩa duy tâm chủ quan quan
niệm, mà chúng có tính khách quan, nghĩa là gắn liền với các hiện tượng tự
nhiên và đời sống xã hội. Phoiobac viết : “Tôn giáo là giấc mơ của tinh thần
con người nhưng trong giấc mơ đó chúng ta không phải ở trên bầu trời mà ở
trên mặt đất, trong vương quốc của hiện thực, chúng ta nhìn thấy các đối tượng
của hiện thực không phải trong thế giới thực tế của tính tất yếu mà là trong thế
giới say mê của trí tưởng tượng và sự kì quặc. Nhiệm vụ của tôi là bóc trần bản
chất đích thực của tôn giáo và triết học tư biện hay thần học, chuyển thế giới
nội tâm ra thế giới bên ngoài, nghĩa là biến đối tượng tưởng tượng thành đối
tượng hiện thực”. Trên tinh thần như vậy, ông phê phán các quan điểm cho
rằng, tôn giáo là hiện tượng có tính ngẫu nhiên hoặc có tính bẩm sinh.
Theo Phoiobac, tình cảm tôn giáo cũng như các ý niệm và biểu tượng của
nó luôn thay đổi theo sự thay đổi của lịch sử xã hội loài người. Từ lập trường
của chủ nghĩa nhân bản, Phoiobac cho rằng, trong con người luôn có những
ham muốn, nhu cầu, khát vọng và t hái độ ích kỷ. Những nhu cầu sinh học và
trạng t hái tâm sinh lý này có thể được đáp ứng hoặc có thể không được đáp
ứng, từ đó gây nên trong con người hai xu hướng trạng thái tâm lý: hoặc sợ hãi,
Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4

Trang 12

bất lực, nỗi buồn chán, đau khổ (nếu con người gặp những điều bất hạnh) hoặc
sự ngưỡng mộ, kính phục, lòng biết ơn ( nếu con người gặp những thuận lợi).
Phoiobac viết: “Tôn giáo là sự phản ánh thời thơ ấu của nhân loại hay trong tôn

giáo con người là đứa trẻ. Đứa trẻ không thể thực hiện ý muốn của mình bằng
sức mạnh của nó mà phải nhờ đến một tồn tại mà nó lệ thuộc…tôn giáo có
nguồn gốc xuất hiện, có chỗ đứng chân chính, có ý nghĩa trong thời thơ ấu của
nhân loại”.
Ở đây, khi nghiên cứu vấn đề tôn giáo, Phoiobac phải nhờ vào những tư liệu
của lịch sử và khảo cổ học, theo đó thì con người nguyên thuỷ là con người
cảm tính chứ không phải là con người lý tính. Đời sống của người nguyên thuỷ
hàng ngày bắt phải tiếp xúc với muôn vàn sự vật, hiện tượng đa dạng của giới
tự nhiên như mặt trăng, mặt trời, sấm sét, bão lụt, giông tố, sông sâu, biển rộng,
núi non hiểm trở, rừng rậm cây cao…và lẽ đó tất nhiên là con người phải lệ
thuộc vào chúng để tồn tại. Từ đó làm phát sinh tâm lý hay tình cảm trong con
người đối với tự nhiên: “Điều mục đầu tiên của tôi trong Bản chất tôn giáo có
thể nói một cách vắn tắt là: cơ sở của tôn giáo là t ình cảm về sự lệ thuộc của
con người. Trong ý nghĩa đầu tiên, giới tự nhiên chính là đối tượng của tình
cảm lệ thuộc này. Vì vậy, giới tự nhiên nói chung là khách thể đầu tiên của tôn
giáo”. Vậy tại sao giới tự nhiên lại trở thành đối tượng đầu tiên bắt buộc con
người phải lệ thuộc? Phoiobac giải thích như sau:
Thứ nhất, bởi giới tự nhiên là đối tượng cảm giác trực tiếp của con người, là
cái tác động hàng ngày, hàng giờ lên các giác quan nhận biết của con người:
“cái bắt con người, lệ thuộc, cái mà con người cảm thấy lệ thuộc, cái mà từ đó
con người biết được sự lệ thuộc của mình chính là giới tự nhiên, là đối tượng
của cảm giác, tất cả những ấn tượng mà giới tự nhiên tạo ra cho con người
thông qua các cảm giác đều có thể trở thành lý do của sùng bái tôn giáo”.
Thứ hai, sự sùng bái tự nhiên còn bắt nguồn từ việc trong quá trình sống, do
thể chất yếu ớt của mình, con người thường có tâm lý sợ hãi các hiện tượng của
giới tự nhiên, dẫn đến tình trạng bất lực trước các hiện tượng đó: “Quan niệm
về sức mạnh vô biên như là đặc tính cơ bản của thần thánh xuất hiện và phát
triển trong con người đặc biệt khi con người so sánh hành động của mình với
hành động của tự nhiên. Con người không thể tạo nên cây cỏ, không làm nên
bão tố và thời tiết, không thể làm sáng loé như chớp…tất cả những hiện tượng

tự nhiên này vượt trội sức mạnh của con người, làm cho con người cảm thấy
bất lực. Chính vì vậy, thực thể tạo nên các hiện tượng đó đối với con người là
một thực thể siêu nhân-thực thể có tính thần thánh”.
Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4

Trang 13

Thứ ba, như một hiện tượng tâm lý, tình cảm lệ thuộc vào giới tự nhiên của
con người gắn liền với quan niệm về đời sống tâm linh của nó, hay nói cụ thể
hơn là gắn liền với quan niệm về cái chết. Theo quan điểm hiện đại, con người
là một thực thể tự nhiên-sinh học, nên nó cũng phải tuân theo quy luật sinh-lão-
bệnh-tử. Nhưng người nguyên thuỷ thì chưa thể hiểu được điều đó, họ cho rằng
đau ốm chết chóc chính là sự trừng phạt của thánh thần, bởi vậy, “tình cảm về
sự lệ thuộc và tình cảm về sự hữu hạn của đời người là đồng nhất với nhau.
Con người luôn có ý thức rằng vào một lúc nào đó nó sẽ chết. Gía như con
người không chết, giá như nó sống vĩnh viễn, nói tóm lại nếu như không có cái
chết thì sẽ không có tôn giáo”. Luận điểm này của Phoiobac thực ra không có
gì mới, bởi cái chết là đề tài muôn thuở của tôn giáo, cái chết gây nên một sự
sợ hãi trong con người cả về phương diện vật lý lẫn phương diện tâm lý, trong
đó phương diện tâm lý là cơ bản, bởi con người sợ hãi cái chết khi nó hoàn
toàn khoẻ mạnh, bởi “con người luôn mong muốn tồn tại vĩnh cửu. Sự mong
muốn đó cũng là mong muốn được bảo toàn tính mạng. Mọi người ai cũng
muốn sống chứ không ai muốn chết”. Điều đáng nói ở đây là, Phoiobac đã coi
sự sợ hãi cái chết của con người như một hình thức tâm lý phổ biến và vận
dụng hiện tượng này vào việc giải thích nguồn gốc tâm lý của tôn giáo và coi
hiện tượng này như một dạng tình cảm lệ thuộc của con người đối với giới tự
nhiên và thần thánh . Trong các hình thức tín ngưỡng tôn giáo, nhà triết học cổ
điển Đức rất quan tâm đến vấn đề cầu nguyện, bởi đây là một hiện tượng tâm
lý đặc biệt phản ánh thế giới nội tâm của con người một cách sâu sắc nhất, toàn
diện nhất, phản ánh mối quan hệ trực tiếp giữa con người và thần thánh.

Phoiobac viết: “Người tín ngưỡng hướng tới thượng đế cùng với lời cầu
nguyện sùng kính, anh ta tin rằng thượng đế sẽ tham dự vào những đau khổ,
những lòng mong muốn của anh ta…tin rằng thượng đế sẽ nghe thấy tiếng nói
của anh ta trong lúc cầu nguyện”. “Bản chất thầm kín của tôn giáo được bộc lộ
trong lời cầu nguyện…trong cầu nguyện, con người hướng một cách trự c tiếp
tới thượng đế, cho nên thượng đế đối với con người là nguyên nhân trực tiếp
thực hiện lời cầu nguyện”. Theo cách nhìn hiện đại thì sự cầu nguyện thể hiện
chức năng an ủi đền bù hư ảo của tôn giáo, trong sự cầu nguyện đó hoặc phần
nào làm dịu bớt đi mọi nỗi đau khổ, mất mát của con người mà nó đã gánh chịu
trước đó trong cuộc sống, hoặc thể hiện những lời cảm ơn của con người đối
với thần thánh, hoặc xin thần thánh xá tội cho, bởi vậy cầu nguyện là hình thức
phổ biến của mọi tôn giáo và cũng nhờ hình thức tín ngưỡng này mà tôn giáo
thu hút được đa số công chúng.
Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4

Trang 14

Phân tích một cách toàn diện về nguồn gốc phát sinh của tôn giáo, Phoiobac
có cơ sở khoa học để đi đến kết luận: “Không phải thượng đế đã sáng tạo nên
con người theo hình dáng của mình như đã miêu tả trong Kinh thánh, mà chính
con người đã sáng tạo nên thượng đế theo hình dáng của mình…mọi thượng đế
đều là tồn tại được sáng tạo nên bằng sự tưởng tượng… chính sức mạnh của sự
tưởng tượng đã hướng vào những t ính chất cơ bản của con người. Con người u
sầu ốm yếu phản ánh tâm trạng của mình trong hình ảnh một thượng đế tương
tự, con người vui vẻ thì ngược lại, họ miêu tả thượng đế với bộ mặt tươi tỉnh,
sáng ngời. Tính đa dạng của con người quy định tính đa dạng của thượng đế”.
Như vậy,có thể nói một cách ngắn gọn rằng, Phoiobac đã truy tìm bản chất của
tôn giáo trong bản chất của con người, ông viết: “Bản chất thần thánh không là
cái gì khác như là bản chất con người, bản chất đó đã được gột rửa, được giải
phóng khỏi những giới hạn cá nhân, nghĩa là khỏi những con người vật lý hiện

thực, được khách quan hoá, được nhìn nhận như một bản chất độc lập xa lạ.
Bởi vậy, mọi sự xác định về bản chất thần thánh đều có liên quan đến việc xác
định bản chất con người.
Dựa trên những khảo cứu lịch sử hiện thực của nhân loại, Phoiobac thấy
rằng trong thực tế thường diễn ra sự thù địch giữa tôn giáo này với tôn giáo
khác, sự thù địch giữa người theo đạo và kẻ dị giáo. Hơn nữa, có những người
có chức sắc tôn giáo cao trong giáo hội, song họ vẫn có những hành vi phi đạo
đức. Từ đó ông lên tiếng phản đối quan điểm của các nhà thần học cho rằng
dường như phủ định thượng đế là một bước dẫn tới sự tiêu diệt quan hệ đạo
đức. Theo Phoiobac để có một xã hội tốt đẹp thì phải tiến hành cải cách tôn
giáo: “Nếu như bản chất con người là bản chất cao quý thì tình yêu hiện thực
đối với con người cần phải là quy luật đầu tiên cao quý của con người. Con
người đối với con người là thượng đế- đó chính là nền tảng thực tiễn cao nhất,
là xuất phát điểm của lịch sử toàn cầu. Quan hệ của đứa bé đối với cha mẹ
mình, của chồng đối với vợ, của anh đối với em, của bạn bề đối với nhau, nói
chung là quan hệ của con người đối với con người, nói tóm lại, các quan hệ đạo
đức thuần tuý chính là quan hệ tôn giáo.
Quan điểm về cải cách tôn giáo được Phoiobac trình bày khá rõ trong đoạn
kết của tập bài giảng về bản chất của tôn giáo: “Từ bạn của thượng đế, trở
thành bạn của con người, từ những t ín đồ trở thành người duy lý, từ những
người luôn cầu nguyện thượng đế rủ lòng thương trở thành người lao động, từ
những nghiên cứu sinh ở thế giới bên kia trở thành những người nghiên cứu
viên ở thế giới trần gian, từ những tín đồ Kitô giáo theo sự thừa nhận, theo ý
Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4

Trang 15

thức của chính họ, “là nửa súc vật, nửa thiên thần” trở thành những con người
hoàn thiện …” Những lời trên được xem như bức thông điệp hoà bình của ông
gửi đến các thế hệ mai sau với ngụ ý rằng, con người trước hết phải y êu thương

nhau thực sự ở chốn trần gian, bởi đây mới là tình yêu chân chính theo đúng
nghĩa từ này.
2.3 Ảnh hưởng của Chủ nghĩa duy vật Phoiobac đến triết học Mác
Triết học của Mác và Ăngghen kế thừa những tinh hoa của triết học cổ
điển Đức t hế kỷ XVIII. Không chỉ kế thừa, Mác và Ăngghen đã phát triển
những tinh hoa đó và đưa chúng lên một tầm cao mới về chất.
Những tiền đề triết học M ác là triết học
Duy tâm biện ch ứng
của
Hê-ghen

và triết học
Duy vật siêu hình
của
Feurbach
. Trong triết học của Hê-ghen, Mác đã
phát hiện ra và kế thừa "hạt nhân hợp lý" trong vấn đề phương pháp luận triết
học, đó là
phép biện chứng
. Trong triết học của Feurbach, Mác đã tiếp nhận và
kế thừa điểm tiến bộ về thế giới quan của Feurbach, đó là thế giới quan Duy
vật.
M ác cũng nhận ra những hạn chế trong triết học của Hê-ghen, đó là thế
giới quan
duy tâm
và phư ơng pháp luận
siêu hình
trong triết học của Feurbach.
Để sửa chữa những hạn chế trên của Hê-ghen và Feurbach, Mác đã kết hợp
những ưu điểm của hai triết học trên để tạo ra triết học của mình, đó là triết học

Duy vật biện chứng
. Như thế, triết học Duy vật biện chứng không những khắc
phục được hạn chế của triết học
Duy tâm biện chứng
và triết học
Duy vật siêu
hình
mà còn nâng chúng, tức phép biện chứng và thế giới quan duy vật lên một
tầm cao mới vĩ đại. Từ thời điểm đó, phép biện chứng đã trở thành phép
biện
chứng
duy vật và thế giới quan duy vật đã trở thành thế giới quan duy vật biện
chứng.
Các Mác và Ăngel đã phê phán tính chất duy tâm thần bí và kế thừa phép
biện chứng của Hê-ghen để xây dựng nên phép biện chứng duy vật; phê phán
những hạn chế cả về phương pháp, cả về quan điểm siêu hình, đặc biệt những
quan điểm liên quan đến vấn đề xã hội của Phoiobac và tiếp thu qua điểm duy
vật vô thần của ông trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo,
khẳng định giới tự nhiên là tính thứ nhất, tồn tại vĩnh viễn không phụ thuộc vào
ý thức con người. Chủ nghĩa duy vật vô thần của Phoiobac đã tạo tiền đề qua
trọng cho bước chuyển của Mác và Ăngel từ thế giới quan duy tâm sang thế
giới quan duy vật – một tiền đề lý luận của qua trình chuy ển từ lập trường chủ
nghĩa dân chủ cách mạng– sang lập trường chủ nghĩa cộng sản. Có thể phân
tích cụ thể như sau:
Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4

Trang 16

2.3.1. Về tôn giáo:
Hê-ghen đã dệt thêu nên cả một huyền thoại về lý trí, duy lý hoá niềm

tin vào Thượng đế, thậm chí xem lịch sử tôn giáo là lịch sử vận động của ý
thức phản tỉnh. N gược lại, Phoiobac đưa bản chất tôn giáo về bản chất con
người, loại Thượng đế ra khỏi đối tượng nghiên cứu của triết học, đưa hình ảnh
đó về đúng vị trí của nó– thần học. C.Mác nhận ra sự "nổi loạn" này ngay trong
thời kỳ đang còn chịu ảnh hưởng của triết học Hê-ghen. Sự nhận

thức lại cũng
đồng thời là sự cải cách, là "suối lửa”, mở ra con đường cho triết học thực tiễn
đúng nghĩa, triết học cải tạo thế giới, gắn với tên tuổi của M ác và Ăngghen.
Trong "Luận cương về Phoiobac ", Mác đã viết: Phoiobac hòa tan bản
chất tôn giáo và bản chất con n gười. Nhưng bản chất con người không
p hải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội. Do không
phê phán bản chất hiện thực đó, nên Phoiobac buộc phải không nói đến quá
trình lịch sử và xem xét tình cảm t ôn giáo một cách biệt lập và giả định một
cá nhân con người trừu tượng, cô lập. Do đó, ở Phoiobac bản chất con người
chỉ có thể được hiểu là "loài", là tính phổ biến nội tại, gắn bó một cách thuần
túy tự nhiên đông đảo cá nhân lại với nhau.
Vì thế, Phoiobac không thấy rằng bản thân "tình cảm tôn giáo" cũng là một
sản phẩm xã hội và cá nhân trừu tượng mà ông phân tích, trên thực tế, là thuộc
một hình thức xã hội nhất định.
2.3.2. Về con người
Với quan điểm về con người của Phoiobac, theo đánh giá của
A.G.Spirkin "chính là điểm xuất phát cho những lập luận của Mác về con
người và bản chất con người". Bởi vì, bằng những quan niệm đó, người khai
mở con đường cho chủ nghĩa duy vật nhân bản đã giáng một đòn phá tan mâu
thuẫn giữa chủ nghĩa duy vật và chỉ nghĩa duy tâm khách quan của Hêgen,
"đưa một cách không úp mở chủ nghĩa duy vật trở lại ngôi vua", ông đã khẳng
định một cách dứt khoát rằng "tự nhiên tồn tại độc lập đối với mọi triết học. Nó
là cơ sở trên đó con người chúng t a bản thân chúng ta cũng là một sản phẩm

của tự nhiên đã sinh trưởng”. M ác và Ăngghen luôn đánh giá cao triết học của
Phoiobac nói chung, chủ nghĩa duy vật nhân bản của ông nói riêng, họ tự thừa
nhận mình là môn đồ của ông, chào đón quan điểm mới đó một cách nhiệt liệt,
tin và đi theo Phoiobac với một tinh thần hào hứng, phấn khởi.
Tuy đánh giá cao Phoiobac như vậy, nhưng hai ông cũng nhận thấy rằng
hạn chế cơ bản xuyên suốt toàn bộ triết học nhân bản của Phoiobac là chủ nghĩa
nhân đạo trừu tượng và chủ nghĩa duy tâm về lịch sử. "Lấy con người làm xuất
Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4

Trang 17

phát điểm, song ông hoàn toàn không nói đến thế giới trong đó con người ấy
sống. Vì vậy con người mà ông nói luôn là con người trừu tượng con người đó
không ra đời từ trong bụng mẹ, mà lại sinh ra từ ông thần của các tôn giáo độc
thần con người đó cũng không sống trong thế giới hiện thực".

“Luận cương về Phoiobac” được coi như là bản tổng kết toàn bộ những
khiếm khuyết trong triết học Phoiobac, trong đó khi phê phán quan điểm về
con người trừu tượng của nhà triết học này, Mác viết: "Phoiobac hoà tan bản
chất tôn giáo vào bản chất con người. Nhưng bản chất con người không phải là
một cái gì trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của
nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”.
Trong H ệ tư tưởng Đức, Mác và Ăngghen đã dành hẳn một chương bàn
về triết học Phoiobac, theo các ông, thì so với các nhà duy vật "thuần tuý",
Phoiobac có ưu điểm lớn là ông thấy rằng, con người cũng là một "đối tượng
của cảm giác", nhưng ông vẫn còn bám vào lý luận và không xem xét con
người trong mối quan hệ xã hội nhất định của họ, trong những điều kiện sinh
hoạt làm cho họ trở thành những con người đúng như họ đang tồn tại trong
thực tế nên ông vẫn cứ dừng lại ở một sự trừu tượng.


Trung tâm t hế giới quan mới do Mác và Ăngghen đặt nền móng là chủ
nghĩa duy vật về lịch sử. Theo ý kiến của họ, con người không phải bước ra từ
sâu thẳm của giới tự nhiên thành một sinh thể tự nhiên phổ quát như Phoiobac
nhận định, mà nó trở thành như vậy trong tiến trình lịch sử. Con người khác vôi
động vật trước hết không phải bởi nó có ý thức như Phoiobac nói, mà bởi sự
bắt buộc phải lao động sản xuất nhằm tạo ra cho mình các phương tiện sống.
Trong quá trình sản xuất đó, con người khám phá ra sức mạnh tự nhiên, chuyển
nó thành lực lượng lao động xã hội, tạo nên nội dung của lịch sử thế giới. Sự
khám phá đó được tiến hành bởi các cá nhân có những nhu cầu tự nhiên– xã
hội xác định và những năng lực hoạt động của họ trong phạm vi những hình
thái kinh tế– xã hội được chuyển giao từ thế hệ này qua thế hệ khác.Với nghĩa
như vậy, M ác và Ăngghen viết: "Những tiền đề xuất phát của chúng t ôi, không
phải là những tiền đề tuỳ tiện, không phải là giáo điều, đó là những tiền đề hiện
thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng thôi. Đó là những cá
nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của
họ tiền để đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của
những cá nhân con người sống. Vì vậy, điều cụ thể dầu tiên cần phải xác định
là tổ chức cơ thể của những cá nhân ấy và mối quan hệ mà tổ chức cơ thể ấy
tạo ra giữa họ với phần còn lại của tự nhiên". Những năm cuối đời,
Ph.Ăngghen đã dành phần lớn thời gian cho việc nghiên cứu triết học.
Phoiobac, kết quả cụ thể của việc nghiên cứu đó là tác phẩm Ludvig Phoiobac
và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức. Trong tác phẩm nổi danh này, người
kế tục sự nghiệp của Mác phê phán quan điểm duy tâm về lịch sử của
Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4

Trang 18

Phoiobac: "Chủ nghĩa duy tâm thực sự của Phoiobac– Ăngghen viết là ở chỗ
ông xét các mối quan hệ giữa người và người dựa trên cảm tình đối với nhau,
như t ình yêu nam nữ, tình bạn, lòng thương xót, tinh thần tự hy sinh Phoiobac

cho rằng, những quan hệ ấy chỉ có giá trị đầy đủ, khi người ta đem lại cho
chúng một sự tôn phong tối cao bằng cái tên là tôn giáo". Do dựa trên một quan
niệm duy tâm sai lầm như vậy, nên "học thuyết của Phoiobac về đạo đức thì
cũng giống như tất cả những học thuyết trước đó. Nó được gọt giũa cho thích
hợp với mọi thời kỳ, mọi dân tộc, mọi hoàn cảnh, và chính vì thế mà không bao
giờ nó có thể đem áp dụng được ở đâu cả. Và đối với thế giới hiện thực, nó
cũng bất lực như cái mệnh lệnh tuyệt đối của Kant vậy". Sự bất lực đó của nhà
triết học trước thực trạng xã hội Đức đương thời đã làm cho ông “ không tìm
thấy con đường thoát khỏi vương quốc của sự trừu tượng, mà bản thân ông ghét
cay ghét đắng để đi tới hiện thực sinh động. Ông bám hết sức chặt lấy giới tự
nhiên và con người, song đối với ông, tất cả tự nhiên lẫn con người vẫn chỉ là
những danh từ mà thôi.

Ông không biết nói với chúng ta một cái gì chính xác về tự nhiên hiện
thực, cũng như về con người hiện thực”. Nhưng lịch sử phát triển của nhận
thức loài người có tính logic của nó, những gì mà Phoiobac chưa thực hiện đã
được M ác triển khai và hoàn thiện trong các tác phẩm của mình.

Và vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý
khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn
đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý,
nghĩa là chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy của
mình.
2.3.3.Về tự nhiên:
Đối với Hê-ghen, tính hiện thực của đời sống con người, các vấn đề và
mâu thuẫn của nó chỉ tồn tại với tư cách một yếu tố của tinh thần, yếu tố được
thể hiện trong tư duy, không có quan hệ với bất cứ cái gì trong tự nhiên; ngoài
quan hệ với chính bản thân nó, nó không có quan hệ gì với tự nhiên. Do vậy,
Hê-ghen đã không hiểu được mối quan hệ hiện thực, quan hệ biện chứng giữa
con người và tự nhiên. Để có được nhận thức đúng đắn về tồn tại con người,

theo C.Mác, cần phải từ bỏ một cách có ý thức và triệt để quan niệm duy tâm tư
biện về mối quan hệ con người – tự nhiên trong triết học Hê-ghen và chuyển
sang lập trường của chủ nghĩa duy vật. C.Mác coi học thuyết của Phoiobac về
tự nhiên với tư cách một thực t hể tự nhiên đặc thù là tiền đề lý luận xuất phát
để từ đó giải quy ết một cách duy vật những vấn đề hiện thực của tồn t ại con
người, mối quan hệ con người – tự nhiên. Đánh giá cao đóng góp lý luận này
của Phoiobac, C.Mác cho rằng, Phoiobac là người đầu tiên đã xuất phát từ
Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4

Trang 19

chính quan niệm duy tâm tư biện của Hê-ghen về mối quan hệ con người – tự
nhiên để “hoàn thành và phê phán Hê-ghen” khi quy tinh thần tuyệt đối siêu
hình thành “con người hiện thực trên cơ sở của tự nhiên”
Kế thừa, tiếp thu và phát triển sáng tạo quan niệm đó của Phoiobac,
C.M ác đã khẳng định: “con người trực tiếp là thực thể tự nhiên”, và hơn nữa,
con người còn là “thực thể tự nhiên sống”. Với tư cách này, con người “được
phú cho những lực lượng tự nhiên, những lực lượng sống” và do vậy, con
người là “thực thể tự nhiên hoạt động”.



















Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4

Trang 20


KẾT LUẬN
Quan niệm về con người trong triết học Phoiobac như đã trình bày ở trên
theo đánh giá của A.G.Spirkin “chính là điểm xuất phát cho những lập luận của
Mác về con người và bản chất con người”. Bởi vì, bằng những quan niệm đó,
người khai mở con đường cho chủ nghĩa duy vật nhân bản đã giáng một đòn
phá tan mâu thẫn giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm khách quan của
Hêghen, “đưa một cách không úp mở chủ nghĩa duy vật trở lại ngôi vua”, ông
đã khẳng định một cách dứt khoát rằng”tự nhiên tồn tại độc lập đối với mọi
triết học. Nó là cơ sở trên đó con người chúng ta cũng là một sản phẩm tự
nhiên đã sinh trưởng”. Mác và Ănghen luôn đánh giá cao triết học của
Phoiobac nói chung, chủ nghĩa duy vật nhân bản của ông nói riêng, họ tự thừa
nhận mình là môn đồ của ông, chào đón quan điểm đó một cách nhiệt liệt, tin
và đi theo Phoiobac với một tinh thần hào hứng, phấn khởi.
Tuy đánh giá cao Phoiobac như vậy, nhưng hai ông cũng nhận thấy rằng
hạn chế cơ bản xuyên suốt toàn bộ triết học nhân bản của Phoiobac là chủ
nghĩa nhân đạo trừu tượng và chủ nghĩa duy tâm về lịch sử. “Lấy con người
làm xuất phát điểm, song ông hoàn toàn không nói đến thế giới trong đó con
người ấy sống. Vì vậy con người mà ông nói luôn là con người trừu tượng

…con người đó không ra đời từ trong bụng mẹ, mà lại sinh ra từ ông thần của
các tôn giáo độc thần con người đó cũng không sống trong thế giới hiện
thực”.
Luận cương về Phoiobac được coi như là bản tổng kết toàn bộ những khiếm
khuyết trong triết học Phoiobac, trong đó khi phê phán quan điểm về con người
trừu tượng của nhà triết học này, M ác viết: “Phoiobac hoà tan bản chất tôn giáo
và bản chất con người. Nhưng bản chất con người không phải là một cái gì trừu
tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hoà các quan hệ xã hội”.
Trong hệ tư tưởng Đức, Mác và Ănghen đã dành hẳn một chương bàn về
triết học Phoiobac, theo các ông thì so với các nhà duy vật “thuần tuý”,
Phoiobac có ưu điểm lớn là ông thấy rằng, con người cũng là “một đối tượng
của cảm giác”…nhưng ông vẫn còn bám vào lý luận và không xem xét con
người trong mối quan hệ xã hội nhất định của họ, trong những điều kiện sinh
hoạt …làm cho họ trở thành những con người đúng như họ đang tồn tại trong
thực tế…nên ông vẫn cứ dừng lại ở một sự trừu tượng.
Quan điểm về con người của L. P hoiobac. Những giá trị và hạn chế K.20- Đêm 4

Trang 21

Trung t âm thế giới quan mới do Mác và Ănghen đặt nền móng là chủ nghĩa
duy vật về lịch sử. T heo ý kiến của họ, con người không phải bước ra từ sâu
thẳm của giới tự nhiên thành một sinh thể tự nhiên phổ quát như Phoiobac nhận
định, mà nó trở thành như vậy trong tiến trình lịch sử. Con người khác với
động vật trước hết không phải bởi nó có ý thức như Phoiobac nói, mà bởi sự
bắt buộc phải lao động sản xuất nhằm tạo ra cho mình các phương tiện sống.
Trong quá trình sản xuất đó, con người khám phá ra sức mạnh tự nhiên, chuyển
nó thành lực lượng lao động xã hội, tạo nên nội dung của lịch sử thế giới. Sự
khám phá đó được tiến hành bởi các cá nhân có những nhu cầu tự nhiên –xã
hội xác định và những năng lực hoạt động của họ trong phạm vi những hình

thqái kinh tế– xã hội được chuyển giao từ thế hệ này qua thế hệ khác. Với
nghĩa như vậy, M ác và Ănghen viết: “Những tiền đề xuất phát của chúng t ôi,
không phải là những tiền đề tuỳ tiện, không phải là giáo điều, đó là những tiền
đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng thôi. Đó là
những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật
chất của họ…tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn
tại của những cá nhân con người sống. Vì vậy, điều kiện cụ thể đầu tiên cần
phải xác định là tổ chức cơ thể của những cá nhân ấy và mối quan hệ mà tổ
chức cơ thể ấy tạo ra giữa họ với phần còn lại của tự nhiên”. Những năm cuối
đời Ănghen đã dành phần lớn thời gian cho việc nghiên cứu triết học Phoiobac.
Kết quả cụ thể của việc nghiên cứu đó là tác phẩm “ Ludvig Phoiobac và sự
cáo chung của triết học cổ điển Đức”.Trong tác phẩm nổi danh này, người kế
tục sự nghiệp của Mác phê phán quan điểm duy tâm về lịch sử của Phoiobac :
“Chủ nghĩa duy tâm thực sự của Phoiobac là ở chỗ ông xét các mối quan hệ
giữa người và người dựa trên cảm tình đối với nhau, như tình yêu nam nữ, tình
bạn, lòng t hương xót, tinh thần tự hi sinh… Phoiobac cho rằng, những quan hệ
ấy chỉ có giá trị đầy đủ khi người ta đem lại cho chúng một sự tôn phong tối
cao bằng cái t ên tôn giáo”. Do dựa trên quan niệm duy tâm sai lầm như vậy nên
học thuyết của Phoiobac về đạo đức thì cũng giống như t ất cả những học thuyết
trước đó. Nó được gọt giũa cho thích hợp với mọi thời kỳ, mọi dân tộc, mọi
hoàn cảnh, và chính vì thế cũng bất lực như cái mệnh lệnh tuyệt đối của Kant
vậy.” Sự bất lực đó của nhà triết học trước thực trạng xã hội Đức đương thời đã
làm cho ông “ không tìm thấy con đường thoát khỏi vương quốc của sự trừu
tượng, mà bản thân ông ghét cay ghét đắng để đi tới hiện thực sinh động. Ông
bám hết sứ c chặt giới tự hiên và con người, song đối với ông, tất cả tự nhiên
lẫn con người vẫn chỉ là những danh từ mà thôi. Ông không biết nói với chúng

×