Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO, NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.2 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
***
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài 01:
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ
CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
Người thực hiện: NGÔ THỊ VÂN ANH
STT: 06
Nhóm: 01
Lớp, khóa: CHKT - K21 - Đêm 5
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
TP. Hồ Chí Minh, 2012
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
Chương 1: Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo 2
1.1. Về thế giới quan: 2
1.1.1. Vô ngã, vô thường 2
1.1.2. Duyên khởi 3
1.1.3. Duy thức 4
1.1.4. Trung đạo - Bình đẳng quan 4
1.2. Về nhân sinh quan: 5
1.2.1. Tứ diệu đế 5
1.2.2. Nhân quả 5
1.2.3. Nghiệp báo và luân hồi 6
1.2.4. Giải thoát và phương pháp để giải thoát 6
1.2.5. Từ bi 7
Chương 2: Những giá trị và hạn chế của Phật giáo 8
2.1. Những giá trị của Phật giáo: 8
2.1.1. Giá trị về giáo dục 8
2.1.2. Giá trị thiết thực nhân bản 8


2.1.3. Phật giáo và văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam 10
2.1.4. Khác 10
2.2. Những hạn chế của Phật giáo: 12
2.2.1. Phật giáo chứa đựng những yếu tố biện chứng chất phác 12
2.2.2. Phật giáo mang tính duy tâm chủ quan, thần bí 12
2.2.3. Phật giáo chú trọng phát triển tinh thần mà không chú trọng phát triển vật
chất 13
2.2.4. Khác 13
KẾT LUẬN 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO 16
PHẦN MỞ ĐẦU
Phật giáo xuất hiện vào khoảng thế kỷ V TCN và đã trải qua quá trình tồn tại lâu
dài. Việt Nam là một trong những nước du nhập Phật giáo từ rất sớm, do đó cũng
tiếp thu nhiều đặc trưng từ hệ thống giáo lý Phật giáo rất đồ sộ và số lượng phật tử
ngày càng đông đảo phân bố rộng khắp cả nước. Đối với một số đông tầng lớp bình
dân Việt Nam, Phật giáo được xem là tôn giáo mang tính truyền thống. Nhiều tư
tưởng triết lý Phật giáo được đời thường hóa, dân gian hóa để dễ thâm nhập vào tầng
lớp bình dân. Nhưng không chỉ là một tôn giáo lớn, Phật giáo còn là một trong
những học thuyết triết học lớn của nền văn hóa Ấn Độ cổ đại. Tôn Trung Sơn đã
từng nói: “Phật học là mẹ của triết học”. Tư tưởng triết học Phật giáo phát triển
mạnh mẽ và đa dạng, từ những vấn đề nhân sinh sang những vấn đề bản thể, từ
những vấn đề đời sống hiện thực sang những vấn đề siêu hình phức tạp [6,39]. Tuy
nhiên do ra đời trong giai đoạn mà phần lớn các trường phái triết học cùng thời
mang nặng tính chất duy tâm chủ quan thần bí nên Phật giáo có những mặt hạn chế
không phù hợp với thời đại. Dù có những khuyết điểm, hạn chế song chúng ta cũng
không thể phủ nhận những giá trị đạo đức to lớn mà Phật giáo đã mang lại.
Vậy những tư tưởng triết học Phật giáo ảnh hưởng như thế nào đến tư duy và
đời sống tinh thần của con người trong thời đại hiện nay nói chung và người Việt
Nam nói riêng. Việc nghiên cứu “Tư tưởng triết học Phật giáo và những giá trị,
hạn chế của nó” giúp ích rất nhiều trong việc khai thác những hạt nhân tích cực hợp

lý của Phật giáo nhằm xây dựng một thế hệ trẻ Việt Nam phát triển cả về thể chất và
tinh thần, góp phần xây dựng một xã hội văn minh và phát triển.
Khi nghiên cứu những tư tưởng triết học của Phật giáo, bài tiểu luận sử dụng hai
tài liệu chính là: Triết học - Phần I: Đại cương về lịch sử triết học (Tiểu ban Triết
học, Khoa Lý luận chính trị , Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh) và
Lịch sử triết học (Hà Thiên Sơn)
4
CHƯƠNG 1
NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CƠ BẢN CỦA PHẬT GIÁO
Theo truyền thuyết, người sáng lập ra Phật giáo là Xítđácta Gôtama, hiệu là
Thích Ca Mâuni. Người rời bỏ hoàng cung và cuộc sống phú quý, xuất gia đi tu để
tìm kiếm con đường cứu vớt những nỗi khổ của nhân loại. Trải qua nhiều lần tu tập,
Người giác ngộ được con đường giải thoát trong lúc ngồi suy tư dưới gốc cây bồ đề.
Từ đó, Người đi khắp nơi truyền bá đạo của mình. Những lời giảng giải, bàn luận
của Người đều được ghi lại và sau này phát triển thành một hệ thống tư tưởng triết
học - tôn giáo lớn của Ấn Độ và lan truyền sang những nước khác. Kinh điển Phật
giáo hiện nay rất đồ sộ chia thành Tam tạng, gồm Kinh, Luật và Luận, chứa đựng
những tư tưởng triết học nhân sinh quan và thế giới quan sâu sắc.
1.1. Về thế giới quan:
1.1.1. Vô ngã, vô thường:
Vô ngã là không tồn tại đại ngã Brátman và tiểu ngã Átman, được thể hiện trong
câu nói của Phật Thích Ca với các đệ tử trong Trung Bộ Kinh: “Hỡi các Tỳ Kheo,
khi mà Ngã hay bất cứ cái gì thuộc về Ngã không có, thì quan điểm tư duy này: Vũ
trụ là linh hồn, ta sẽ là linh hồn sau khi chết, sẽ trường cửu, tồn tại, vĩnh viễn bất
biến, và ta sẽ hiện hữu như thế cho đến vô tận thời gian - quan điểm ấy có phải là
hoàn toàn điên rồ chăng?" [7]. Vạn vật kể cả con người được tạo thành từ sắc, tức
vật chất như đất, nước, lửa, gió và danh, và tinh thần như thụ, tưởng, hành, thức.
Danh và sắc được chia làm năm yếu tố, còn gọi là ngũ uẩn: sắc (vật chất), thụ (cảm
giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức). Danh và sắc chỉ hội tụ với
nhau trong thời gian ngắn rồi lại chuyển sang trạng thái khác.

Vô thường nghĩa là không có cái gì trường tồn và vĩnh cửu, vạn vật có sự biến
đổi ràng buộc lẫn nhau, vận động không ngừng. Sự xuất hiện của vạn vật, kể cả con
người trong thế giới chỉ là kết quả hội tụ tạm thời giữa sắc và danh. Khi sắc và danh
tan ra, chúng sẽ mất đi. Vạn vật luôn biến đổi theo chu trình sinh-trụ-dị-diệt: sinh là
nảy sinh ra, trụ là tồn tại phát triển trong một thời gian, dị là biến đổi, diệt là tiêu
5
mất [1,93]. Như vòng đời con người, lúc chào đời thì gọi là sinh, khi con người
trưởng thành gọi là trụ, lúc già suy yếu thì gọi là dị, và chấm dứt một kiếp sống gọi
là diệt. Vạn vật luôn bị cuốn vào dòng biến hóa hư ảo vô cùng theo luật nhân quả.
Nhân nhờ duyên mới sinh ra quả, quả nhờ duyên mà thanh nhân mới, nhân mới lại
nhờ duyên mà thành quả mới…; cứ như thế, vạn vật biến đổi, hợp - tan, tan - hợp
mà không có nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng nào cả [6,41].
Phật giáo đã bác bỏ quan niệm về sự tồn tại tuyệt đối, vĩnh viễn và bất diệt của
Brátman và Átman trong kinh Upanishad. Con người sở dĩ đau khổ là vì đã nhận
thức sai lầm rằng sự vật luôn luôn thường trụ bất biến, cái sống sẽ không bao giờ
chết. Vì vậy, con người muốn kéo dài những sự thỏa mãn dục vọng trong cuộc sống.
1.1.2. Duyên khởi:
Duyên khởi là quan điểm của Phật giáo về đời người, về sự tồn tại và sinh
mệnh. Đây là cơ sở của những tư tưởng quan trọng trong Phật giáo, Hòa thượng
Thích Nhất Hạnh đã viết: “Tất cả các giáo lý của Phật giáo là dựa trên lý Duyên
khởi, nếu một sự giảng dạy không phù hợp với nguyên tắc Duyên khởi, nó không
phải là lời dạy của Đức Phật " [8].
Phật giáo cho rằng “Chư pháp do nhân duyên nhi khởi”, nghĩa là các “pháp”, tất
cả mọi sự vật, bao gồm cả vật chất, tinh thần và kể cả giáo lý, đều do nhân duyên
hòa hợp tạo thành. Do con người không hiểu rõ các pháp đều do nhân duyên tạo
thành và lầm tin rằng các pháp là tồn tại vĩnh cửu nên khư khư ôm giữ mà không
chịu buông bỏ, Phật giáo gọi là “chấp” (nắm) và “xá” (bỏ). Duyên xuất phát từ tâm
mà ra, tâm là nguồn gốc của vạn vật. Qua đó, Phật giáo nguyên thủy chủ trương vô
tạo giả, tức không có vị thần linh tối cao nào tạo ra thế giới [6,40].
Phật giáo đã trình bày thuyết “ Thập Nhị Nhân Duyên” còn gọi là mười hai mắt

xích liên kết nhân quả nhằm cắt nghĩa nguyên nhân sinh tử luân hồi. Mười hai nhân
duyên này là: Vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh,
lão tử. Đây được coi là cơ sở của mọi biến đổi trong thế giới hiền sinh, giải thích
nguyên nhân của nỗi khổ là do con người mù lòa đối với hiện thực, thiếu sự hiểu
6
biết cơ bản nên bị ảnh hưởng bởi những ảo giác. Vì vậy, trong mười hai nhân duyên
này, khởi đầu “vô minh” là nguồn gốc của đau khổ, của sinh lão tử, là nguyên nhân
thâu tóm tất cả, diệt trừ vô minh là diệt trừ tận gốc sự đau khổ nhân sinh.
1.1.3. Duy thức:
Duy thức hay duy tâm nghĩa là "chỉ có thức", các pháp đều từ “thức” mà sinh ra,
không có gì nằm ngoài “thức”. Giáo lí này chủ trương tất cả mọi sự hiện hữu đều do
tâm, và vì vậy, không một hiện tượng nào tồn tại ngoài tâm. Duy thức là một tư
tưởng chủ đạo của Duy thức tông. Các học giả Duy thức giải thích quy luật và sự
liên kết của các giác quan nhờ vào thức ẩn tàng A-lại-da và từ tập hợp của năm giác
quan trước (tiền ngũ thức). Chúng hoạt động, tạo nên chủng tử tương ưng với chúng,
theo quy luật thông thường như hạt giống phát triển thành cây. Mỗi chúng sinh đều
có chỗ chứa những cảm nhận và những chúng sinh giống nhau sẽ tạo ra những
nghiệp thức giống nhau phát xuất từ tàng thức vào cùng một thời gian như nhau.
1.1.4. Trung đạo - Bình đẳng quan:
Trung đạo theo nghĩa đen là con đường chính giữa không lệch về bên nào. Phật
giáo cho rằng Hữu và Không chẳng khác nhau: sự vật vừa không được xem là thực
sự tồn tại, vừa không được cho rằng sự vật không hề có vì sự vật tồn tại trong ảo
giác tâm lý. Qua đó, Phật giáo lập phép Tam quán để xem xét mọi sự vật một cách
viên mãn, thể hiện điển hình qua câu nói trong Kinh Kim Cang: “Cái gọi là Phật
pháp, tức chẳng phải là Phật pháp, nên gọi là Phật pháp” [1,179]. Tam quán bao gồm
Không, Giả và Trung. Trong cái Không có cả cái Giả và cái Trung, nghĩa là không
phải chỉ có cái Không tuyệt đối. Trong cái Giả cũng gồm cả cái Không và cái Trung
và Trung là chỗ dung hòa giữa cái Không và cái Giả tức giả hữu.
Thuyết Trung đạo là một phương pháp giảng dạy của Phật giáo, trong nhận thức
không thể chỉ dùng cái “tâm sai biệt” tức lý trí mà còn phải dùng đến cái “tâm bình

đẳng vô sai biệt”. Toàn thể pháp giới vốn là bình đẳng nhưng con người “vô minh”
không rõ lý ấy nên sinh ra quan niệm sai lầm, sinh ra tham muốn, giận ghét, đam
mê… gây nhiều nghiệp báo nên mãi theo con đường luân hồi không bao giờ dứt.
7
Thích Ca Mâu Ni phản đối thuyết Thần Ngã của đạo Bàlamôn. Trong thực tiễn,
Người giảng dạy “Bát chính đạo”, vừa phản đối chủ nghĩa khoái lạc buông thả, đồng
thời cũng không đồng ý chủ nghĩa khổ hạnh tuyệt đối, những cực đoan trong cách tu
học. Người đề xuất Trung Đạo Hạnh bất khổ bất lạc, những hành vi, lời nói, đời
sống… của con người nên được giữ mức vừa phải, không lệch về bên nào.
1.2. Về nhân sinh quan:
1.2.1. Tứ diệu đế:
Tứ diệu đế là tư tưởng cốt lõi trong quan niệm nhân sinh quan của Phật giáo,
gồm bốn bộ phận là khổ đế, nhân đế, diệt đế và đạo đế. Khổ đế là lý luận về những
nỗi khổ trầm luân bất tận ở thế gian, về bản chất cuộc đời con người là bể khổ. Phật
giáo phân chia thanh tám loại khổ: sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, sở cầu bất đắc, oán
tăng hội, ngũ uẩn. Nhân đế là lý luận về nguyên nhân của sự khổ trong cuộc sống
con người, bao hàm trong thuyết tam độc (tham, sân, si) và thuyết thập nhị nhân
duyên. Diệt đế là lý luận về khả năng diệt khổ và đạt tới niết bàn, bao gồm khắc
phục vô minh, tam độc biến mất, luân hồi sẽ chấm dứt, niết bàn sẽ xuất hiện, hướng
khát vọng chân chính của con người đến chân-thiện-mỹ. Đạo đế là lý luận về con
đường diệt khổ và giải thoát, thể hiện trong thuyết Bát chính đạo (chính kiến, chính
tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh tấn, chính niệm, chính định)
và tam học (giới, định, tuệ) nhằm khắc phục tam độc [6,42].
1.2.2. Nhân quả:
Nhân duyên quả báo, thường gọi tắt là Nhân quả, là lý luận cơ bản của Phật giáo
để lý giải mối quan hệ tương hỗ của mọi sự vật. Nhân là nguyên nhân, những sự vật
có năng lực phát động, sản sinh ra quả. Quả là cái quả do mầm mống phát sinh, là sự
thành hình của năng lực phát động ấy. Nhân quả trong Phật giáo rất chú trọng đến
chữ “duyên”. Duyên là những sự vật bổ trợ cho nhân, giúp cho nhân biến thành quả.
Quy luật nhân quả cho rằng sự tồn tại đa dạng và phong phú của thế giới đều có

nguyên nhân tự thân. Kinh Phật viết “Phật xuất hiện trên thế gian vì một nhân duyên
8
lớn”, nhân duyên lớn đó là để chuyển mê thành ngộ, giải thoát mọi đau khổ để con
người thoát khỏi kiếp luân hồi, nghiệp báo.
Nhân quả thể hiện qua ba phạm trù thời gian là hiện báo, sanh báo và hậu báo.
Hiện báo là kết quả thể hiện ngay trong kiếp này. Sanh báo là quả trổ ở kiếp sau.
Hậu báo là khi con người tạo việc lành hay dữ ở kiếp này, quả không trổ ở kiếp sau
mà nhiều kiếp về sau mới trổ do duyên chưa đủ. Do vậy, Phật giáo có dạy “Phàm
làm việc gì thì phải nghĩ đến kết quả của nó”.
1.2.3. Nghiệp báo và luân hồi:
Luân hồi, theo tiếng Sanskrit là Samsara hay bánh xe quay tròn. Khi một sinh
vật chết đi thì linh hồn sẽ tách ra khỏi thể xác, đầu thai và nhập vào một thể xác
khác. Chúng sinh nào chưa được giác ngộ, đều phải luân hồi mãi mãi trong bể khổ,
chỉ những người tu hành đắc đạo, được vào cõi Phật mới thoát khỏi luân hồi.
Nghiệp theo tiếng Sanskrit là Karman, tiếng Pāli là Kamma, là cái do hành động
của ta gây ra. Nghiệp báo là sự gánh chịu hậu quả trong kiếp sống hiện tại của con
người do sức mạnh của nghiệp mà con người đã tạo ra trong kiếp trước tốt hay xấu.
Qua đó, Phật giáo lý giải nguyên nhân bất bình đẳng của con người trong xã hội.
Nghiệp được phân loại thành thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp, trong đó
Phật giáo dạy: “Trong ba nghiệp thân, khẩu và ý thì ý nghiệp là tối quan trọng”.
Nghiệp trong Phật giáo hàm chứa tinh thần trách nhiệm của cá nhân trong lộ trình đi
đến bến bờ giác ngộ, dạy cho con người tự mình xây dựng kiếp mai sau chứ không
trông chờ ở Ðấng sáng tạo Brahman ban phát cho một ân huệ siêu hình [11].
Nghiệp báo và Luân hồi là định luật mang tính nhân quả. Theo Phật giáo, sau
khi chết hoặc trước khi sinh ra không có đời sống nào nơi con người là không tuỳ
thuộc vào Nghiệp. Nghiệp báo là hệ luận của Luân hồi, và ngược lại Luân hồi là hệ
luận của Nghiệp báo. Hai lý luận này bổ sung và gắn bó với nhau rất mật thiết.
1.2.4. Giải thoát và phương pháp để giải thoát:
Giải thoát là chấm dứt hoàn toàn các nguyên nhân dẫn đến sinh tử, thoát ra khỏi
luân hồi và đạt niết bàn. Trong Kinh Vinaga, Phật Thích Ca nói: “Nếu nước biển có

9
một vị là vị mặn thì học thuyết của ta cũng có một vị là giải thoát” [6,41]. Trong
Kinh Pháp Cú có ghi lời Phật dạy “Ta là người phát hiện ra chân lý chứ không phải
là người sáng tạo ra chân lý, ta chỉ có thể chỉ ra con đường giải thoát chứ không có
cách nào đi thay các người được” [5,44]. Người dạy rằng con người phải dày công
tu dưỡng, xoá bỏ được lửa dục, lửa sân, lửa si mê để đến được cảnh giới Niết Bàn
ngay trong cõi đời hiện tại [12].
Niết bàn, theo tiếng Sanskrit là Nirvana, gồm 2 thành phần là “ni” sự phủ định
và “vana” dục hay ái dục. Nirvana có thể được hiểu là sự chấm dứt hay lìa bỏ ái dục
nghĩa là dập tắt lửa phiền não, đạt được trạng thái hoàn toàn giải thoát.
Ba phương pháp quan trọng để giúp chúng sinh tiêu diệt được tam độc là giới,
định và tuệ. Giới là phải thực hiện ngũ giới để tiêu diệt tham: không sát sinh, không
trộm cắp, không tà dâm, không uống rượu, không nói dối. Định là phải giữ trạng
thái yên tĩnh tuyệt đối để diệt được sân, tách rời khỏi thế giới hữu hình, đạt tới trạng
thái hoàn toàn không. Tuệ là đạt tới sự trong sáng tuyệt vời để tiêu diệt si, không mê
muội, không tham, sân.
Ngoài ra, Phật còn khuyên chúng sinh sống theo sáu phép tu là bố thí, trì giới,
nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định và bốn đức tính là từ, bi, hỉ, xả. Con đường giải
thoát của Phật giáo mở rộng cho tất cả mọi người, không phân biệt đẳng cấp, chủ
yếu là tu dưỡng bản thân, không lệ thuộc vào tín ngưỡng, cầu nguyện, sùng kính hay
nghi lễ.
1.2.5. Từ bi:
Từ bi, theo tiếng Sanskrit là Karunâ, từ là lành, hiền từ và bi là thương xót,
thương hại. Từ bi trong Phật giáo không có nghĩa đơn giản là xót thương kẻ khác
một cách thụ động và tiêu cực, mà phải hướng đến “đồng thể đại bi”. Khi chúng sinh
còn bị khổ bức mê vọng chưa thể thành Phật, thì giống như sự khổ bức đó là của
chính mình, công đức tự thân của mình chưa viên mãn. Thực hành tâm từ bi được
phân biệt thành bốn tâm là từ, bi, hỷ và xả.
10
CHƯƠNG 2

NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA PHẬT GIÁO
2.1. Những giá trị của Phật giáo:
2.1.1. Giá trị về giáo dục:
Phật giáo giáo dục con người sống khoan dung và vị tha, hoàn thiện cả tài lẫn
đức, tạo nên một nền đạo đức xã hội tốt đẹp. Đức Phật đã dạy: “Một hạnh phúc vĩnh
cửu chỉ sống mạnh trong một tâm hồn giải thoát và tâm hồn giải thoát chỉ có thể
thực hiện một khi cá nhân chịu nhường bước. Một bản ngã đứng tách riêng ra ngoài
là không thể tồn tại khỏe mạnh được” [15].
Phật giáo khuyên con người phải tiết chế dục vọng, không nên chạy theo danh
lợi, phải biết sống vì người khác. Nhiều của cải không thể tiêu biểu cho sự tốt đẹp về
tinh thần của một cá nhân, công danh lợi lộc chỉ là mây khói thoáng qua, chỉ có tu
dưỡng phẩm chất đạo đức mới có thể giúp con người có cuộc sống hạnh phúc.
Phật giáo khuyên con người phải từ bi hỷ xả, trở thành một trong những nguồn
gốc của lòng thương người, của chủ nghĩa nhân đạo. Xã hội loài người thực hiện
được bốn chữ từ, bi, hỷ, xả trong cuộc sống hàng ngày là một xã hội an lạc, hạnh
phúc. Phật giáo cho rằng “Mình muốn an lạc thì nhất định không thể thiết lập sự an
lạc đó trên đau khổ của kẻ khác”, chỉ khi toàn thể chúng sinh đều được an lạc, cá
nhân con người mới có được sự an lạc chân chính.
Trong Phật giáo, có năm điều giới luật cơ bản (ngũ giới) mà các tín đồ Phật giáo
phải nghiêm túc giữ gìn: không sát sinh, không trôm cắp, không tà dâm, không vọng
ngữ, không uống rượu.
2.1.2. Giá trị thiết thực nhân bản:
Kinh điển của Phật giáo không phải thể hiện quyền uy hay sự tài giỏi của đức
Phật mà tập trung giải thích những vấn đề thế giới quan và nhân sinh quan cơ bản,
dễ đi vào lòng người. Những tư tưởng này mang đậm giá trị nhân bản: “Khi sự trung
thực hướng về con người mô tả phát hiện, soi sáng bao tình cảm khát vọng chính
đáng của con người, giúp con người hiểu thêm về con người, về cuộc sống để mà
mến yêu, trân trọng thì chính đó là nhân bản” [4,41].
11
Phật giáo giáo dục con người sống có đạo đức qua các giáo lý có kết cấu chặt

chẽ và mang tính biện chứng: thuyết ngũ uẩn và tam độc, thuyết thập nhị nhân
duyên, con đường diệt khổ là trung đạo, bát chính đạo… Qua đó, Phật giáo hướng
con người đến nếp sống thiện lánh xa cái ác: nghĩ thiện, nói thiện, làm việc thiện và
phấn đấu vì cái thiện. Phật giáo khẳng định chúng sinh đều có “Phật tính”, nếu mọi
người thực hành theo các giáo lý, trau dồi đạo đức thì sẽ đạt được hạnh phúc, giá trị
đích thực của cuộc sống.
Phật giáo giúp con người giao tiếp với thực tại, không để tâm thức trôi chảy về
quá khứ hay cập bến đến tương lai [14]. Quá khứ và tương lai đều là phi thực, càng
truy tìm về quá khứ càng rối rắm, càng vọng tưởng tương lai càng phí công. Phật
giáo kêu gọi con người phải nhận ra hạnh phúc chân thực trong chính cuộc sống
hiện tại, phải làm chủ mình bằng lý trí và trí tuệ, không trở thành nô lệ trước bất cứ
hoàn cảnh nào, không để dục vọng chi phối. Phật giáo cho rằng những việc khó
khăn trước mắt là kết quả của nhân mà mình làm trước đây, nên phải dũng cảm tiếp
nhận, nhẫn nại không được vì thế mà oán trời trách người, không được vì thế mà
phiền não. Thái độ sống đúng theo Phật giáo là biết chấp nhận hiện tại, dám nhìn
thẳng vào sự thật mà không ấp ủ thái độ bi quan trốn chạy, tự gánh lấy trách nhiệm
trong cuộc sống, sống có ích cho bản thân và cho xã hội,
Phật giáo chân thực, gần gũi, đem lại cho con người sự an lạc trong tâm hồn và
phù hợp với mọi tầng lớp trong xã hội. Những bài giảng của đức Phật được trình bày
một cách rõ ràng, chi tiết và có hệ thống dễ đi sâu vào lòng người. Khi bàn về con
đường giải thoát, tính quần chúng trong nhân sinh quan Phật giáo được thể hiện qua
tinh thần “bình đẳng giác ngộ”, tức là quyền thực hiện sự giải thoát là cho tất cả mọi
“chúng sinh”. Điều này mang tính nhân bản sâu sắc, vượt qua giới hạn đẳng cấp
khắc nghiệt vốn là một truyền thống chính trị trong Ấn Độ thời cổ đại, và nói lên
khát vọng “tự do cho tất cả mọi người”, không thể là độc quyền của một giai cấp
nào, dù đó là giai cấp tăng lữ hay quý tộc, bình dân hay tiện nô. Vì vậy, cho đến tận
12
ngày nay, những điều răn dạy của đức Phật vẫn nhận được sự ủng hộ của các tầng
lớp nhân dân từ những người nghèo khổ cho đến những người giàu sang.
2.1.3. Phật giáo và văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam:

Phật giáo du nhập vào Việt Nam khoảng thế kỷ thứ II sau Công nguyên. Trong
quá trình tồn tại và phát triển, Phật giáo đã có những đóng góp sâu sắc cho nền văn
hóa Việt Nam.
Phật giáo đã đưa vào những truyện kể dân gian, những câu ca dao tục ngữ và cả
nền văn học Việt Nam một làn gió từ bi. Những tư tưởng từ bi bác ái của Phật giáo
còn được thể hiện qua các loại hình nghệ thuật sân khấu như hát bội, hát chèo, cải
lương và kịch nói. Chất từ bi không những thấm sâu trong những nghệ sĩ dân gian
vô danh mà còn đi sâu vào lòng những người dân bình dị.
Sự ảnh hưởng của Phật giáo thể hiện qua các phong tục, tập quán của người dân
Việt Nam từ xưa đến nay như: tập tục ăn chay thờ Phật, phóng sanh và bố thí, tập
tục cúng rằm, mồng một, lễ chùa, tập tục đốt vàng mã… Phật giáo còn ảnh hưởng
đến nhiều công trình kiến trúc, điêu khắc Việt Nam, hình thành nên một nền kiến
trúc độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc và phật giáo có tầm cỡ quốc tế.
Tư tưởng giáo lý của Phật giáo đã hòa tan với giá trị truyền thống của con người
Việt Nam. Những tư tưởng nhân đạo, bác ái đã từ lâu được đưa vào giáo dục trong
các nhà trường.
2.1.4. Khác:
Phật giáo xuất hiện và thâm nhập vào các dân tộc như một sứ giả của hòa bình.
Đức Phật đã dạy: “Có một con đường đưa đến hòa bình, hận thù không thể diệt hận
thù, chỉ có tình thương, lòng từ bi mới nhiếp phục được hận thù. Đây là quan điểm
về nền hòa bình trên vũ trụ của Như Lai. Những ai thương tưởng đến Như Lai thì
hãy thể hiện tình thương đó bằng cách thương yêu tất cả chúng sinh. Người nào
chinh phục được lòng tham là người đó trở thành người chiến thắng toàn mãn. Mọi
người đều yêu chuộng tự do và công lý, đừng nên xâm phạm đến quyền tự do của
người khác” [13]. Phật giáo giáo dục con người phải biết coi trọng quyền lợi của
13
mọi người, để hết chiến tranh, xây dựng một xã hội văn minh, con người phải hết
tham lam, thù hận cố chấp.
Về lĩnh vực chính trị, nhiều nhà sư tham gia tích cực vào các hoạt động chính trị
và giữ những cương vị quan trọng trong triều đình xưa. Ngày nay, các nhà sư giữ

những chức vụ cao trong Giáo hội cũng tham gia vào hoạt động chính trị.
Phật giáo còn có nhiều thành tựu trong lĩnh vực khoa học. Tôn Trung Sơn đã
nói: “Phật học là mẹ của triết học, nghiên cứu Phật học có thể bổ khuyết cho những
thiếu sót của khoa học”. Trong khi vật lý cổ điển khẳng định tính độc lập giữa vật
chất và năng lượng, Bát Nhã Tâm Kinh của Phật giáo lại cho rằng “Sắc tức thị
không, không tức thị sắc”. Đến sau này, khi Einstein chứng minh “Không có vật nào
tự nhiên sinh ra và tự nhiên mất đi, mà nó chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác”,
Phật giáo đã xác minh được từ khoa học quan điểm đúng đắn của mình. Về vũ trụ
quan, đức Phật đã nói: “mười phương hư không là vô cùng tận, thế giới là mênh
mông không bờ bến”, trong khi những nhà thiên văn lúc đó cho rằng vũ trụ là có tận
cùng, có giới hạn. Mãi cho đến nay, con người mới hiểu biết vũ trụ có vô vàn thái
dương hệ, trái đất chỉ là một hành tinh nhỏ trong thái dương hệ.
Khi bàn về những vấn đề thuộc thế giới quan và nhân sinh quan triết học, Phật
giáo đã đề cập tới mối liên hệ phổ biến qua một số lý luận cơ bản: vô thường, vô ngã
và nhân quả. Vô ngã là không có cái tôi bất biến, qua đó Phật giáo đưa ra nguyên lý
về mối liên hệ phổ biến: không có cái nào biệt lập tuyệt đối so với sự tồn tại của cái
khác, tất cả đều hòa đồng nhau. Vô thường nói lên sự biến đổi không ngừng của vạn
vật, đây là lý luận mang tính biện chứng. Quy luật nhân quả cho rằng sự tồn tại đa
dạng của thế giới đều có nguyên nhân tự thân, một định lý phổ biến của mọi tồn tại.
Đồng thời, Phật giáo cũng cho rằng không có một vị thần linh nào thao túng sống
chết, họa phúc của con người, con người là nhân tố quyết định cho thành bại của
mình. Có thể nói triết học Ấn Độ nói chung và triết học Phật giáo nói riêng là một
trong những cái nôi triết học của loài người, nó chứa đứng yếu tố duy vật vô thần và
manh nha hình thành các tư tưởng biên chứng sơ khai.
14
2.2. Những hạn chế của Phật giáo:
2.2.1. Phật giáo chứa đựng những yếu tố biện chứng chất phác:
Tính biện chứng chất phác của triết học Phật giáo được thể hiện qua những tư
tưởng “vô ngã” và “vô thường”. Quan niệm này mang tính biện chứng vì nhìn nhận
sự vật trong sự vận động và biến đổi liên tục, không có gì là tồn tại mãi mãi. Nhưng

Phật giáo chỉ nhận thức được cái biến đổi mà không thấy được cái ổn định tương
đối, chỉ thấy được cái vận động mà không thấy được hình thức của vận động, dễ đi
đến chiều hướng bi quan. Do tuyệt đối hóa quan niệm về “vô thường” nên Phật giáo
đã rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan khi cho rằng vạn vật trên thế giới đều chỉ là
ảo ảnh kể cả con người “vô ngã”.
Hạn chế lớn nhất của Phật giáo đó là “Phật tin kiếp luân hồi cứ vậy mãi, không
bao giờ có tiến hóa gì cả, có cải biến chăng nữa chỉ về hình thức mà thôi” [3,27].
Nhưng xã hội ngày nay không ngừng vận động và biến đổi, cả về hình thức, nội
dung và bản chất của nó.
2.2.2. Phật giáo mang tính duy tâm chủ quan, thần bí:
Thế giới quan Phật giáo nguyên thủy có tính nhị nguyên luận ngả về phía duy
tâm chủ quan. Tính duy vật trong triết học Phật giáo thể hiện rõ trong quan niệm về
tính tự thân sinh thành, biến đổi của vạn vật, không chịu sự chi phối quyết định của
một lực lượng thần linh hay thượng đế tối cao nào. Tuy nhiên, trong lý luận về duy
thức, Phật giáo lại chủ trương tất cả mọi sự hiện hữu đều do tâm, không một hiện
tượng nào tồn tại ngoài tâm. Phật giáo nhằm cứu khổ con người bằng biện pháp diệt
trừ triệt để nguyên nhân của khổ, nhưng diệt trừ bằng một sức tưởng tượng mãnh
liệt chứ không phải bằng hành động thiết thực. Nguyễn An Ninh đã đánh giá về Phật
giáo như sau: “Vì đứng về chủ quan cho nên Phật sợ mâu thuẫn mà không thấy nó là
điều kiện cần thiết cho sinh tồn, tiến triển của vũ trụ và xã hội loài người” [3,28].
Nếu theo quan điểm duy vật biện chứng, mâu thuẫn hay mâu thuẫn biện chứng là
nguồn gốc và động lực của mọi sự vận động, phát triển, ta càng thấy rõ tính duy tâm
trong Phật giáo.
15
Nếu nhìn nhận một cách khách quan, do Phật giáo ra đời trong điều kiện lịch sử
khi mà xã hội còn thấp kém, giai đoạn mà các tôn giáo của Ấn Độ mang nặng tính
chất duy tâm chủ quan thần bí, có xu hướng “hướng nội” đi sâu tìm hiểu đời sống
tâm linh, tinh thần để phát hiện ra sức mạnh của linh hồn con người [6,29], thì Phật
giáo mang tính duy tâm là điều không thể tránh khỏi.
2.2.3. Phật giáo chú trọng phát triển tinh thần mà không chú trọng phát triển vật chất:

Phật giáo khuyên con người trở nên không có tham vọng tiến thân, bằng lòng
với những gì mình đã có, sống nhẫn nhục, không đấu tranh, hướng tới cõi niết bàn
khi cuộc sống trần gian đã chấm dứt. Như vậy Phật giáo đã tách con người ra khỏi
điều kiện thực tiễn của xã hội, làm cho con người có thái độ chấp nhận chứ không
phải là cải tạo thế giới, không cần phải tìm tòi, khám phá và sáng tạo. Đạo đức xuất
thể của Phật giáo là chạy trốn nhu cầu bản năng chứ không phải chế ngự thiên nhiên,
bắt nó phục vụ cho mình.
2.2.4. Khác:
Phật giáo chỉ thấy con người nói chung mà không thấy con người thuộc các giai
cấp đối kháng nhau trong xã hội, không thừa nhận sự đấu tranh giai cấp trong xã
hội. Do đó, không thấy được nguyên nhân xã hội đưa đến sự khổ ải của con người,
không thấy được sự cần thiết phải đấu tranh chống áp bức, bóc lột.
Các cao tăng chưa ý thức được hết vai trò của họ trong việc xây dựng hoàn thiện
nhân cách con người, các buổi giảng kinh đàm đạo tại các buổi lễ trên chúa phần lớn
theo thị hiếu cầu an, giải hạn, cầu lộc… của giới bình dân, chưa được tổ chức theo
tinh thần khai thác những tinh túy của đạo lý Phật giáo. Người dân lên chùa còn quá
chú trọng đến lễ vật, đến các ham muốn tầm thường, ý thức cầu thiện, cầu mạnh về
nội tâm còn quá ít so với những mong muốn tư lợi. Có rất ít người đến chùa để tìm
sự thanh thản trong tâm hồn, để tu dưỡng nghiền ngẫm đạo lý làm người. Như vậy
mục đích đến chùa hiện nay của người dân đã bị sai lầm, bị tầm thường hóa so với
những điều mà giáo lý Phật giáo muốn hướng con người vào.
16
17
KẾT LUẬN
Do quá trình du nhập và phát triển lâu dài tại Việt Nam, những giá trị tinh túy
của Phật giáo đã được tiếp nhận, hòa đồng với tín ngưỡng bản địa, khiến cho nó
thâm nhập được vào đông đảo dân cư và trở thành một bộ phận của nền văn hóa
đậm đà bản sắc dân tộc. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới của nước ta, đời sống xã
hội chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực do mặt trái của nền kinh tế thị trường, con người
trở nên dễ bị tổn thương và dễ có những hành động cực đoan. Trong bối cảnh đó, tư

tưởng nhân sinh quan Phật giáo đã có những tác động nhất định, cả tích cực và tiêu
cực, trong việc điều chỉnh suy nghĩ và hành vi con người. Một bộ phận dân cư tìm
đến với Phật giáo nhằm tìm kiếm một nơi gửi gắm niềm tin, một nơi an ủi tinh thần,
che chở cho họ trước những khó khăn trong cuộc sống. Họ tìm đến nhà chùa nhằm
cầu mong những ham muốn tầm thường, tự tư tự lợi mà quên đi việc tu dưỡng
nghiền ngẫm những tư tưởng triết học giá trị của Phật giáo.
Mặt khác, do mang tính nhị nguyên luận thiên về phía duy tâm chủ quan, thần bí
và chứa đựng nhiều tư tưởng biện chứng chất phác đồng thời cũng chịu những ảnh
hưởng của điều kiện kinh tế - xã hội thời đại, Phật giáo ngày càng xa rời thế hệ trẻ
và ngày càng mai một nhiều không còn phát huy vai trò hướng đạo.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận hoàn toàn những ưu điểm mang tính nhân sinh
trong triết học Phật giáo, vì vậy cần vận dụng một cách hợp lý, tìm ra một phương
thức để hướng đạo cho người dân một cách đúng đắn: tín ngưỡng Phật giáo thì cần
làm điều thiện, tránh cái ác, từ bi hỉ xả, xây dựng nhân cách con người tốt hơn,
không nên mê tín, dị đoan, cúng bái, lên đồng, …
Trong tương lai, cùng với sự phát triển không ngừng của thế giới và con người,
Phật giáo có thể sẽ biến mất nhưng tinh thần nhân đạo, cao đẹp của Phật giáo sẽ còn
trường tồn theo thời gian.
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Nguyễn Duy Cần, Phật học tinh hoa, Nhà xuất bản TP.Hồ Chí Minh, 1997
(2) Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Đức Phật và Phật pháp, Nhà xuất bản trẻ, 2005
(3) Đỗ Thị Hòa Hới, Tìm hiểu sự tiếp nhận sáng tạo tư tưởng của Các Mác về tôn giáo ở
Nguyễn An Ninh qua tác phẩm “Phê bình Phật giáo” và ý nghĩa của nó, Tạp chí
Nghiên cứu Tôn giáo - Số 1, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, 2004, trang 27-28
(4) Đào Nguyên, Kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm, Tập văn Phật đản, PL 2544
(5) Hà Thiên Sơn, Lịch sử Triết học, Nhà xuất bản trẻ, 1998
(6) Tiểu ban Triết học, Triết học Phần I: Đại cương về lịch sử triết học, Khoa Lý luận
chính trị, Trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh, 2011
(7)

%C3%A3/L%C6%B0u
(8)
Niem-Can-Ban-cua-Dao-Phat-Giao-Ly-Duyen-Khoi.html
(9)
%20%C3%9D%20NGH%C4%A8A%20M%C6%AF%E1%BB%9CI%20HAI
%20NH%C3%82N%20DUY%C3%8AN
(10)
(11)
option=ban_tin&view=ban_tin_chitiet&cd_id=37&post_id=3731&lang=vn
(12)
hoc-Triet-hoc-Phat-giao.html
(13)
phat/8466-Chan-gia-tri-cua-Phat-giao-trong-xa-hoi-ngay-nay.html
(14)
(15)

19

×