Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Đoàn kết quốc tế trong tư tưởng HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.06 KB, 19 trang )

Tư Tưởng Hồ Chí Minh
MỤC LỤC
Trang 1/20
Tư Tưởng Hồ Chí Minh
PHẦN MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, Chủ tịch Hồ Chí Minh, là một danh nhân văn hóa Thế Giới,
là một người thầy lãnh đạo vĩ đại của Đảng, vị lãnh tụ thiên tài và là anh hùng giải phóng
dân tộc của toàn thể dân tộc, nhân dân Việt Nam, và là người chiến sĩ lỗi lạc của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế. Người đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp
cách mạng Việt Nam và cho nhân dân thế giới. Trong suốt quá trình đấu tranh lâu dài của
đất nước, Người luôn nhắc nhở, giáo dục trong tư tưởng của các chiến sĩ là phải luôn
luôn đoàn kết, đấu tranh chống lại sự xâm lược, áp bức của thực dân và đế quốc.Trước
lúc đi xa, Bác cũng căn dặn dân tộc ta, nhân dân ta phải luôn đoàn kết, không những
trong toàn dân mà cũng phải đoàn kết với các nước bạn trên thế giới. Bác cũng đã từng
nói: “Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết. Thành công thành công đại thành công”.
Đoàn kết làm ra sức mạnh, Hồ Chí Minh đã rất nhiều lần nhấn mạnh luận điểm
này: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết chặt chẽ thì chúng ta nhất định
có thể khắc phục mọi khó khăn, phát triển mọi thuận lợi và làm trọn nhiệm vụ nhân
dân giao phó.”; “Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó
khăn, giành lấy thắng lợi”; “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành
công”.Ngày nay, khi mà toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế trở thành xu thế phát triển, tất
yếu của thời đại, không kể các nước đang phát triển hay phát triển, các nước giàu hay
nghèo. Nó diễn ra mạnh mẽ khắp các châu lục, chi phối đời sống kinh tế của hầu hết các
quốc gia trên thế giới. Để có thể tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài đặc biệt là nguồn
vốn, tiến bộ khoa học công nghệ, đòi hỏi các nước phải có sự mở cửa, giao lưu, buôn bán
hợp tác với các nước trên Thế giới mà đặc biệt là các nước Tư bản phát triển. Hay nói
cách khác là cần phải có một chính sách chiến lược Ngoại giao có tinh thần đoàn kết
quốc tế. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng sáng tạo tư tưởng đoàn
kết quốc tế của Bác. Vì thế, theo Hồ Chí Minh, đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn
kết quốc tế.
PHẦN 1: SƠ LƯỢC CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ


ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
Trang 2/20
Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Ý thức quốc gia, dân tộc, làm chủ đất nước của cộng đồng người Việt có từ ngàn
xưa. Cuộc chiến đấu với thiên nhiên, với giặc ngoại xâm trong lịch sử đã đúc kết nên
truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam: Yêu nước nồng nàn, độc lập tự chủ, kiên
cường bất khuất, đoàn kết thống nhất, nhân ái khoan dung.
Trước hết, là chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước là cầu nối xuyên suốt qúa
trình lịch sử của dân tộc Việt Nam. Những nội dung chủ yếu của chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam đã từng bước được đúc kết, hình thành một hệ thống các nguyên lý với tư tưởng của
các anh hùng hào kiệt như: Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, chính sức mạnh truyền
thống ấy đã thúc giục người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước.
Người đã đến với những người lao động trên thế giới, đến với tình hữu ái vô sản và đến
với chủ nghĩa Mác- Lênin, đó là con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
Thứ hai, đó là tinh thần đoàn kết, tương ái của dân tộc. Truyền thống này hình
thành cùng một lúc với sự hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh và yêu cầu đấu tranh chống
thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm. Bước sang thế kỷ XX, mặc dù xã hội Việt Nam đã có
sự phân hóa về giai cấp, xong truyền thống này vẫn bền vững. Vì vậy Hồ Chí Minh đã kế
thừa và phát huy sức mạnh truyền thống đoàn kết của dân tộc để hình thành tư tưởng
đoàn kết quốc tế, phấn đấu vì một thế giới hòa bình, ổn định và phát triển.
Thứ ba, truyền thống ngoại giao Việt Nam cũng là một nhân tố quan trọng hình
thành tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. Truyền thống ngoại giao Việt Nam
xem trọng việc giữ hòa khí, đoàn kết hữu nghị với các nước, phấn đấu cho sự thái hòa,
yêu chuộng hòa bình. Trong khi lập trường nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ, chống lại sự xâm lược của các ngoại bang, Việt Nam luôn kiên trì đường lối
hòa bình trong quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng. Hòa hiếu là tư tưởng cốt lõi:
“Trong việc trị nước, hòa hiếu với láng giếng là việc lớn”.

PHẦN 2: VAI TRÒ CỦA ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh:
Trang 3/20
Tư Tưởng Hồ Chí Minh
“Đại đoàn kết là tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là vấn đề chiến lược,
được nhìn nhận là nguồn sức mạnh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Dân tộc
Việt Nam đã chiến thắng được những kẻ thù hùng mạnh nhờ đoàn kết một lòng.
Đồng thời đã nhận được sự hỗ trợ to lớn của các nước anh em, của bạn bè khắp thế
giới”.
1. Vai trò của đoàn kết quốc tế.
a. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam.
Sức mạnh dân tộc là gì? Theo Hồ Chí Minh đó chính là sức mạnh của chủ nghĩa
yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập, tự do, ý
thức tự lực tự cường. Cụ thể:
-Sức mạnh của dân tộc trước hết thể hiện ở tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường. Nó
làm cho dân tộc Việt Nam không bị đồng hóa trong 1000 năm bắc thuộc, không bị diệt
vong dưới ách thống trị của thực dân phương Tây.
-Truyền thống yêu nước là hạt nhân của truyền thống dân tộc, nó không phải chỉ là một
tình cảm tự nhiên bẩm sinh mà được hình thành và phát triển trong quá trình dựng nước
và giữ nước.
Với dân tộc Việt Nam, lòng yêu nước trở thành sức mạnh và chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam, một thứ đạo đức, một lẽ sống cho mọi người dân, cũng trở thành tiêu chí cao nhất
để đánh giá một con người. Hồ Chí Minh đã nâng lòng yêu nước lên thành lòng yêu nước
xã hội chủ nghĩa: yêu nước gắn liền với đấu tranh cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
Lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa là sự kết hợp nhuần nhiễn của việc yêu quý độc lập dân
tộc, tự do dân chủ,lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa đã trở thành sức mạnh to lớn của nhân
dân ta trong gần 70 năm qua.
Tinh thần, ý chí độc lập tự chủ, tự cường và lòng yêu nước sở dĩ phát huy được sức mạnh
to lớn của nó đã gắn liền nhân dân thành một khối vững chắc không gì lay chuyển nổi.
Đó là sự đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân.

Trang 4/20
Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Tổng hợp sức mạnh của dân tộc, Hồ Chí Minh làm nổi bật sức mạnh con người Việt
Nam. Đó là sức mạnh của thể lực và trí tuệ, sức mạnh của bề dày lịch sử và hiện tại; sức
mạnh của sự thông minh và lòng dũng cảm; của lòng tin chân chính không gì lay chuyển
nổi.
-Sức mạnh của thời đại? Thời đại ngày nay là thời đại quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga vĩ
đại.
Sức mạnh của thời đại ngày nay được thể hiện ở những yếu tố sau:
+Một là: sức mạnh của nhân dân các nước thuộc địa trong phong trào đấu tanh
giải phóng dân tộc, sức mạnh này sẽ được nhân lên gấp nhiều lần vì nó gắn với cuộc cách
mạng vô sản trong thời đại mới.
+Hai là: sức mạnh của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản. Hồ Chí Minh "muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con dường cách mạng vô
sản".
+Ba là: Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của cách mạng khoa học kỹ thuật,
một động lực phát triển xã hội.
Nhận thức của Hồ Chí Minh về dân tộc và sức mạnh dân tộc, về thời đại và sức mạnh của
thời đại là cơ sở phương pháp luận khoa học cho chúng suy nghĩ và hành động
-Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, ra đi tìm con
đường cứu nước và khi tìm thấy, Hồ Chí Minh đã sớm xác định cách mạng Việt Nam là
một bộ phận của cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam chỉ có thể thành công và thành
công đến nơi khi thực hiện đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Cùng
với quá trình phát triển thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong quan hệ với tình hình
quốc tế, tư tưởng đoàn kết với phong trào cách mạng thế giới đã được Hồ Chí Minh phát
trển ngày càng đầy đủ, rõ ràng và cụ thể hơn.
-Trong quá trình hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn chú ý tổng kết
thực tiễn dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác- Lênin, Người đã từng bước phát hiện ra sức
mạnh vĩ đại tiềm ẩn trong các trào lưu cách mạng thế giới mà Việt Nam cần tranh thủ,

điển hình là cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
Trang 5/20
Tư Tưởng Hồ Chí Minh
-Đối tượng đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn. Đó là đoàn
kết với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động ở chính quốc và ở các nước tư bản, ở rộng ra tất cả các nước
xã hội chủ nghĩa, đoàn kết với phong trào đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới, đặc biệt là đoàn kết với nhân dân Lào và nhân
dân Campuchia, hai nước đồng cảnh ngộ với Việt Nam trên bán đảo Đông Dương.
-Như vậy, theo Hồ Chí Minh, thực hiện đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với
đoàn kết quốc tế, đại đoàn kết dân tộc phải là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế.
Nếu đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng
Việt Nam, thì đoàn kết quốc tế cũng là một nhân tố thường xuyên và quan trọng giúp cho
cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước và quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
b. Thực hiện đoàn kết quốc tế, nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện
thắng lợi các mục tiêu cách mạng.
Thời đại mà Hồ Chí Minh sống và hoạt động chính trị là thời đại đã chấm dứt thời
kỳ tồn tại biệt lập giữa các quốc gia, mở ra các quan hệ quốc tế ngày càng sâu rộng cho
các dân tộc, làm cho vận mệnh của mỗi dân tộc không thể tách rời vận mệnh chung của
cả loài người. Ngay sau khi nắm được đặc điểm của thời đại mới, Hồ Chí Minh đã hoạt
động không mệt mỏi để phá thế đơn độc của cách mạng Việt Nam, gắn cách mạng Việt
Nam với cách mạng thế giới. Vì lẽ đó, Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng phải lấy toàn bộ thực
tiễn của mình để chứng minh: chủ nghĩa yêu nước triệt để không thể nào tách rời với chủ
nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. “Tinh thần yêu nước là kiên quyết giữ gìn quyền độc
lập, tự do và đất đai toàn vẹn của nước mình. Tinh thần quốc tế là đoàn kết với các
nước bạn và nhân dân các nước khác để giữ gìn hòa bình thế giới, chống chính sách
xâm lược và chính sách chiến tranh của đế quốc… giữ gìn hòa bình thế giới tức là giữ
gìn lợi ích chủa nước ta… Đó là lập trường quốc tế cách mạng.”
Theo Hồ Chí Minh, muốn tăng cường đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh vì

mục tiêu chung, các Đảng Cộng Sản phải kiên trì chống lại mọi khuynh hướng sai lầm
của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc,chủ nghĩa sô vanh…những khuynh hướng
Trang 6/20
Tư Tưởng Hồ Chí Minh
làm suy yếu sức mạnh đoàn kết thống nhất của các lực lượng cách mạng thế giới. Nói
cách khác, các Đảng cộng sản phải tiến hành có hiệu quả việc giáo dục chủ nghĩa yêu
nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản cho giai cấp công nhân và nhân
dân lao động.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong mấy thập kỉ qua là thắng lợi của tư
tưởng Hồ Chí Minh: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhờ kết hợp giải
phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đã
được bổ sung them nguồn lực mới, trở thành chủ nghĩa anh hung cách mạng. Nhờ giương
cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ quốc tế,
huy động được sức mạnh của các trào lưu cách mạng thời đại, làm sức mạnh dân tộc
được nhân lên gấp bội, chiến thắng được những kẻ thù có sức mạnh to lớn hơn mình về
nhiều mặt.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết quốc tế, kết hợp chặt
chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản là nhằm góp phần cùng nhân dân
thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của dân tộc và của thời đại. Bởi lẽ,
theo Người: Độc lập cho dân tộc mình đồng thời là độc lập cho dân tộc bạn, giúp bạn là
tự giúp mình.
2. Nội dung và hình thức đoàn kết quốc tế
a. Các lực lượng cần đoàn kết
Theo Hồ Chí Minh các lực lượng cần đoàn kết là:
+ Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
+ Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
+ Các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hòa bình, dân chủ, tự do và
công lý.
b. Hình thức đoàn kết
Dựa trên cơ sở các quan hệ về địa lí- chính trị và tính chất chính trị xã hội trong

khu vực và trên thế giới, cũng như tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong mỗi thời kì.
Hồ Chí Minh đã từng bước xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết quốc tế tranh thủ sự
Trang 7/20
Tư Tưởng Hồ Chí Minh
đồng tình, ủng hộ của các trào lưu cách mạng thời đại, góp phần thực hiện thắng lợi các
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam.
Trong mối quan hệ quốc tế, Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với
các dân tộc trên bán đảo Đông Dương. Bởi lẽ, cả ba dân tộc đều là láng giềng gần gũi của
nhau, có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hóa và cùng chung một kẻ thù là thực
dân Pháp. Năm 1941, Người thành lập riêng biệt Mặt trận độc lập đồng minh cho từng
nước Việt Nam, Lào, Cao Miên, tiến tới thành lập Đông Dương độc lập đồng minh và
Mặt trận đoàn kết Việt- Miên- Lào nhằm phối hợp và giúp đỡ nhau cùng chiến đấu, cùng
thắng lợi.
Đối với các nước khác, Người chăm lo củng cố mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị, hợp tác
nhiều mặt theo tinh thần “ vừa là đồng chí, vừa là anh em”.
Như vậy, trong tư tưởng đại đoàn kết, Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc hình
thành bốn tầng mặt trận:
+ Mặt trận đại đoàn kết dân tộc
+ Mặt trận đoàn kết Việt- Miên- Lào
+ Mặt trận nhân dân Á- Phi đoàn kết với Việt Nam
+ Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với VN chống đế quốc xâm lược.
3. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế
a. Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích có lý, có tình
Hồ Chí Minh đã phát hiện ra sự tương đồng giữa các nước chống đế quốc chủ
nghĩa nhờ đặt cách mạng Việt Nam trong bối cảnh chung của thời đại kết hợp lợi ích của
cách mạng Việt Nam với trào lưu cách mạng thế giới và nhận thức về nghĩa vụ của Việt
Nam đối với sự nghiệp chung, sự nghiệp tiến bộ của loài người.
Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh giương cao ngọn
cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện đoàn kết thống nhất trên nền
tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản có lý, có tình.

Trang 8/20
Tư Tưởng Hồ Chí Minh
b. Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường
Theo Hồ Chí Minh đoàn kết quốc tế là tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của
các lực lượng quốc tế, Hồ Chí Minh luôn nêu cao khẩu hiệu: “Tự lực cánh sinh, dựa vào
sức mình là chính”; “muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự mình giúp lấy
mình đã”; và Người chỉ rõ: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc
khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”.
PHẦN 3: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
TRONG THỜI ĐẠI HIỆN NAY.
Ngày nay, khi mà toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế trở thành xu thế phát triển
khách quan, tất yếu của thời đại, không kể các nước đang phát triển hay phát triển, các
nước giàu hay nghèo. Nó diễn ra mạnh mẽ khắp các châu lục, chi phối đời sống kinh tế
của hầu hết các nền quốc gia trên thế giới. Để có thể tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài
đặc biệt là nguồn vốn, tiến bộ khoa học công nghệ, đòi hỏi các nước phải có sự mở cửa,
sự giao lưu, buôn bán hợp tác với các nước trên Thế giới mà đặc biệt là các nước Tư bản
phát triển. Hay nói cách khác là cần phải có một chính sách chiến lược Ngoại giao có tinh
thần đoàn kết quốc tế. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng sáng tạo tư
tưởng đoàn kết quốc tế của Bác.
3.1 Tình hình Thế giới và Việt Nam.
a/ Tình hình thế giới.
Quá trình toàn cầu hóa, trước hết về kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ, vừa có
mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực. Toàn cầu hóa thúc đẩy hợp tác, phân công lao động
quốc tế sâu rộng, kích thích tăng trưởng kinh tế, cạnh tranh quốc tế và tự do hóa thương
mại. Tuy nhiên toàn cầu hóa cũng đặt ra cho các chủ thể quốc gia chú trọng xem xét
chống lại sự áp đặt, bành trướng,thâm nhập vào các nước, các khu vực của Mỹ và các
công ty xuyên quốc gia trên tất cả các lĩnh vực. Mặc dù vậy, trong tư cách một xu thế
khách quan, toàn cầu hóa đang lôi cuốn tất cả các nước tham gia và mỗi nước cần xác
định cho mìnhđường lối hội nhập toàn cầu hóa một cách thích hợp. Cuộc đấu tranh giai
cấp, đấu tranh dân tộc vẫn đang diễn ra liên tục, xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ,

Trang 9/20
Tư Tưởng Hồ Chí Minh
những bất ổn do mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can
thiệp, khủng bố xảy ra không ở một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết, đòi hỏi
phải có sự hợp tác sâu rộng của tất cả các nước cùng giải quyết như: ô nhiễm môi trường,
tình trạng đói nghèo, gia tăng dân số, bệnh tật hiểm nghèo, chủ nghĩa khủng bố quốc tế…
Với đặc điểm tình hình thế giới hiện nay đang vận động theo xu thế đan xen nhau
phức tạp, trong đó nổi lên các xu thế cơ bản sau:
-Thứ nhất, hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của các dân tộc trên thế giới.
-Thứ hai, các quốc gia lớn nhỏ đều tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp
tác, liên kết khu vực và quốc tế về kinh tế, chính trị, thương mại, và các lĩnh vực khác.
-Thứ ba, các dân tộc nêu cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường đấu tranh
chống sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài,bảo vệ độc lập chủ quyền và nền văn hóa
dân tộc, đồng thời mở rộng quan hệ quốc tế.
-Thứ tư, các nước xã hội chủ nghĩa, các Đảng Cộng sản, các lực lượng cách mạng
tiến bộ trên thế giới kiên trì đấu tranh vì hòa bình, độc lập, dân chủ, tiến bộ xã hội.
-Thứ năm, các nước có chế độ chính trị-xã hội khác nhau vừa hợp tác vừa đấu
tranh cùng tồn tại hòa bình. Hợp tác và đấu tranh là hai mặt không thể tách rời của quan
hệ quốc tế hiện đại, đồng thời cũng là vấn đề có tính nguyên tắc trong phương pháp xử lý
các vấn đề quốc tế.
b/ Tình hình trong nước
Sau hơn 20 năm đổi mới, nước ta đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa
lịch sử tạo tiền đề cần thiết đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chúng ta đã mở
rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chủ động và hội nhập kinh tế quốc tế. Nhờ đó mà uy tín và
vị thế của nước ta đang được nâng lên trên thế giới và khu vực. Điều đó tạo thêm nhiều
thuận lợi cho chúng ta tiếp tục sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ
nhanh hơn.
Bên cạnh đó, đất nước ta đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau,
không thể coi thường bất cứ thách thức nào, đó là: Nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế so với
nhiều nước trên thế giới và trong khu vực. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo

Trang 10/20
Tư Tưởng Hồ Chí Minh
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với quan liêu, tham
nhũng, lãng phí là nghiêm trọng.
3.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong quan hệ đối ngoại
của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay
Đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta từ khi đổi mới đến nay được xác
định và thực hiện với tư cách là một bộ phận của chiến lược xây dựng, phát triển và bảo
vệ đất nước, làm cầu nối nước ta với thế giới, gắn sự nghiệp của toàn thể dân tộc ta với
trào lưu phát triển và tiến bộ của thời đại.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong quan hệ đối ngoại, đã
nhận thức đúng đắn tính chất của thời đại, nhận biết những mâu thuẫn cơ bản, chiều
hướng diễn biến thời cuộc, tranh thủ và phát huy được các điều kiện, cơ hội thuận lợi mà
tình hình mới đưa lại, chúng ta đã chủ động tham gia hội nhập khu vực và thế giới với lộ
trình cụ thể, phù hợp với nhu cầu phát triển đất nước và khả năng thực tế của dân tộc
mình, khai thác những thuận lợi đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực từ bên ngoài
đối với sự nghiệp phát triển và bảo vệ đất nước.
Trên phương diện chung đó, Việt Nam đã xây dựng và phát triển quan hệ hữu
nghị, bình đẳng và hợp tác cùng có lợi. Không ngừng mở rộng, củng cố quan hệ với các
nước và các tổ chức phi chính phủ trên thế giới. Hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà
nước ta từ khi đổi mới đến nay đã triển khai một cách tích cực, chủ động và giành được
những thắng lợi quan trọng. Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục củng cố và phát triển quan
hệ với các Đảng Cộng sản và công nhân, phong trào độc lập dân tộc và các lực lượng tiến
bộ trên thế giới. Đồng thời, từng bước mở rộng quan hệ với các tổ chức chính trị, Đảng
cầm quyền ở các nước trong khu vực và trên thế giới, tạo điều kiện thúc đẩy và phát triển
quan hệ về mặt nhà nước với các quốc gia, vùng, lãnh thổ và các tổ chức trên thế giới.
Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN (tháng 7/1995) đã mở ra
một giai đoạn mới trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước Đông Nam Á. Việt Nam
kiên trì ủng hộ chính sách một nước Campuchia hòa bình, độc lập, không liên kết. Duy trì
quan hệ láng giềng, hữu nghị với Campuchia, cùng bàn bạc giải quyết vấn đề có liên

quan trên cơ sở luật pháp quốc tế và chủ quyền quốc gia.
Trang 11/20
Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Sau khi Việt Nam và Trung Quốc ký tuyên bố bình thường hóa quan hệ giữa hai
Đảng hai nhà nước (11/1991), chúng ta xây dựng mối quan hệ ổn định, lâu dài, hữu nghị,
láng giềng thân thiện với Trung Quốc. Việt Nam đã củng cố tình đoàn kết với Cuba, kiên
quyết ủng hộ cuộc đấu tranh đòi Mỹ xóa bỏ lệnh cấm vận đối với Cuba.
Thúc đẩy quan hệ với cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, ủng hộ cuộc đấu
tranh thống nhất hai miền Nam - Bắc Triều Tiên. Tăng cường hữu nghị truyền thống, hợp
tác nhiều mặt với Ấn Độ và mở rộng hợp tác với khu vực Nam Á.
Xác lập quan hệ với các nước lớn, các khu vực có tiềm năng kinh tế xuất khẩu dầu mỏ,
các nước có nhu cầu thị trường lao động, lương thực ở Trung Đông và châu Phi. Thúc
đẩy quan hệ với Liên bang Nga và các nước cộng hòa thuộc Liên Xô trước đây.
Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ (tháng 7/1995) là thắng
lợi trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Đẩy mạnh quan hệ với Nhật Bản nhằm khai
thác một cách có hiệu quả nguồn lực của Nhật Bản.
Chúng ta đã quan hệ với Canada, Ôxtraylia, Niudilân và các nước công nghiệp nhằm
tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ cho phát triển kinh tế, xã hội. Chúng ta đã ký hiệp
định khung về hợp tác giữa Việt Nam với EU (tháng 7/1995), chính thức tham gia hiệp
định hợp tác ASEAN - EU, cải thiện quan hệ với các nước Tây Âu, Bắc Âu để tranh thủ
ưu đãi mà EU dành cho các nước ASEAN.
Đặc biệt, Việt Nam tham gia diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) với tư cách là
thành viên sáng lập, gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) (tháng 12/2006),
không những tạo môi trường thuận lợi để thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại, thu hút
đầu tư, chuyển giao khoa học, công nghệ và tận dụng những ưu đãi về thương mại với
các nước có nền kinh tế phát triển trong khu vực, mà còn góp phần nâng cao vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế. Ngoại giao nhân dân đã thể hiện một cách sinh động đoàn
kết quốc tế của Hồ Chí Minh cũng như đường lối đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa
của Đảng và Nhà nước ta, góp phần vào việc tăng cường đoàn kết và sự hiểu biết lẫn
nhau giữa nhân dân ta và nhân dân thế giới.

Trong những năm vừa qua, Việt Nam từng đón nhiều đoàn khách quốc tế của các
nước đang phát triển đến để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm. Phát triển kinh tế và hội nhập
Trang 12/20
Tư Tưởng Hồ Chí Minh
thành công của Việt Nam được bạn bè trên thế giới tiếp tục bày tỏ sự khâm phục và tôn
trọng vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Việt Nam có vai trò quan trọng và tích cực
trong việc đoàn kết, giữ vững an ninh của khu vực Đông Nam Á. Kể từ khi chính thức là
thành viên của ASEAN, Việt Nam đã và đang có những đóng góp tích cực vào sự liên kết
của hiệp hội, đặc biệt trên lĩnh vực an ninh.
Trải qua các kỳ họp cấp cao, Việt Nam đã có những đóng góp to lớn trong việc
tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nước trong hiệp hội cũng như các nước lớn là
bên đối tác. Thực hiện ngoại giao phòng ngừa đem lại sự ổn định, an ninh cho khu vực
này. Các nước trong khu vực và các đối tác đã đánh giá cao vai trò của Việt Nam trong
việc duy trì an ninh của khu vực, đặc biệt là trong việc giải quyết xong vấn đề cơ bản về
biên giới trên bộ, trên biển với Trung Quốc và Campuchia. Việt Nam đã chủ động đưa ra
“Bộ ứng xử biển Đông”, được các nước ASEAN và Trung Quốc thông qua tại diễn đàn
an ninh chính trị ARS (tháng 9/2002) là một trong những thành công lớn của ngoại giao
công tác phòng ngừa, giữ gìn an ninh khu vực. Việt Nam là thành viên hoạt động tích cực
nhất trong các tổ chức quốc tế, các nước đang phát triển, đấu tranh, bảo vệ và củng cố
độc lập dân tộc.Là một thành viên không chính thức của phong trào không liên kết (tháng
9/1976), Việt Nam đã có nhiều nỗ lực hoạt động nhằm thúc đẩy sự đoàn kết, phấn đấu vì
mục tiêu của phong trào.
Việt Nam đã trở thành biểu tượng cho tinh thần bất khuất của một dân tộc nhỏ yếu
trước những đế quốc hùng mạnh bằng thắng lợi vẻ vang trong hai cuộc kháng chiến
chống thực dân, đế quốc. Việt Nam đã trở thành tấm gương sáng ngời, cổ vũ khích lệ
mạnh mẽ các dân tộc thuộc địa bị áp bức, bóc lột vùng lên đấu tranh để tự giải phóng bản
thân mình, làm chủ vận mệnh mình. Thời kỳ sau chiến tranh lạnh, với đường lối đổi mới
toàn diện của đất nước và đường lối đối ngoại rộng mở đa dạng hóa, đa phương hóa, Việt
Nam tiếp tục phát huy vai trò tích cực của mình vào sự phát triển của phong trào không
liên kết.

Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, Việt Nam là một trong những điểm sáng mới,
một trong những mô hình phát triển có hiệu quả để các nước tham khảo. Thực tiễn đổi
mới ở Việt Nam đã nêu ra những bài học kinh nghiệm về sự phát triển hài hòa giữa tăng
Trang 13/20
Tư Tưởng Hồ Chí Minh
trưởng kinh tế và công bằng xã hội, về kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo… cho các nước
trong phong trào không liên kết.
Việt Nam đã đề xuất đóng góp nhiều kinh nghiệm, sáng kiến nhằm tăng cường
hợp tác giữa các nước đang phát triển, thúc đẩy hợp tác đấu tranh với các phát triển, để
các nước này dành nhiều ưu đãi và viện trợ cần thiết cho các nước đang phát triển trong
bối cảnh toàn cầu hóa. Ngay từ những năm 1980 của thế kỷ XX và cho đến nay, Việt
Nam đã cử nhiều chuyên gia sang châu Phi để phối hợp các chương trình hợp tác về nông
nghiệp, nông thôn, văn hóa y tế, giáo dục… Hiện nay, quan hệ giữa Việt Nam và các
nước đang phát triển đang mở rộng theo chiều hướng mới, trong đó đáng chú ý là đề xuất
của Việt Nam về cơ chế hợp tác 3 bên (còn gọi là 2+1 giữa Việt Nam và một nước đang
phát triển và bên thứ ba là một nước tài trợ hoặc một tổ chức quốc tế), cơ chế này đang
được thực hiện rất có hiệu quả trong các lĩnh vực an ninh lương thực, phát triển nông
nghiệp và xóa đói, giảm nghèo, chương trình này được tổ chức nông lương thế giới
(FAO) đánh giá cao, vì nó góp phần thúc đẩy hợp tác kinh tế - xã hội trong nội bộ các
nước thành viên.
Về chính trị, tại các diễn đàn cao cấp của phong trào không liên kết, sự tham gia
tích cực của Việt Nam đã góp phần quan trọng cho sự tăng cường hợp tác, phối hợp và
thống nhất quan điểm của các thành viên trong phong trào không liên kết. Tại Hội nghị
cấp cao lần thứ 14 tại Malaysia, Việt Nam cùng Cuba… đã khẳng định lập trường tiếp tục
thực hiện các mục tiêu của phong trào là đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, chống
chính sách bá quyền, phấn đấu cho một trật tự quốc tế và quan hệ quốc tế công bằng, dân
chủ hơn.
Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 172 nước và vùng lãnh thổ , gần 200
Đảng phái chính trị và hàng trăm tổ chức phi chính phủ. Góp phần nâng cao vị thế nước
ta trên trường quốc tế. Đại hội lần thứ X của Đảng đã xác định quan điểm mở rộng quan

hệ đối ngoại: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp
tác và phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các
quan hệ quốc tế. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc
Trang 14/20
Tư Tưởng Hồ Chí Minh
tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”.
Một là, Đại hội X kế thừa và phát triển đường lối, chính sách đối ngoại trong tư
tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh và được khẳng định tại các Đại hội trước. Từ
cuối nhiệm kỳ Đại hội VI, Đảng ta đã có những hoạt động đẩy mạnh quá trình quan hệ
với Trung Quốc, phá thế bao vây, cấm vận của Mỹ. Đại hội VII đã khẳng định đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa. Tại Đại hội IX một lần nữa khẳng
định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế và
đề ra những phương châm đối ngoại quan trọng đến nay vẫn còn nguyên giá trị, đó là:
- Đảm bảo lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, coi đó là lợi ích cao nhất, đồng thời thực hiện nghĩa vụ
quốc tế theo khả năng thực tế của ta.
- Giữ vững độc lập, tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa dạng hóa, đa phương hóa
quan hệ đối ngoại.
- Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế, hai mặt đó đậm, nhạt tùy
từng đối tượng, trên từng vấn đề và ở từng thời điểm, cố gắng thúc đẩy mặt hợp tác, đấu
tranh, tránh trực tiếp đối đầu tự đẩy mình vào thế cô lập.
- Hợp tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước, trong đó đặt cao quan
hệ với các nước lớn.
- Coi trọng hoạt động của Đảng, đối ngoại của Nhà nước và đối ngoại nhân dân, xác định
rõ mục tiêu đối ngoại là góp phần củng cố môi trường hòa bình, hợp tác để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
- Tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại là kiên định nguyên tắc vì độc lập, thống nhất,
đồng thời phải sáng tạo, năng động, linh hoạt về sách lược.
Hai là, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác

quốc tế trên mọi lĩnh vực. Quan điểm này thể hiện quyết tâm của chúng ta đưa các mối
quan hệ đã được mở rộng đi vào chiều sâu, tích cực hội nhập quốc tế, phấn đấu tham gia
ngày càng nhiều vào công việc quốc tế.
Trang 15/20
Tư Tưởng Hồ Chí Minh
Ba là, kiên trì chủ trương Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế. Đại hội VIII đã đưa ra khẩu hiệu: “Việt Nam muốn là bạn của
tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.
Đại hội IX bổ xung và phát triển khi nêu: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy
của các nước trong cộng đồng thế giới” trong đó đã có thêm “sẵn sàng là bạn” và “là
đối tác tin cậy”. Hội nghị Trung ương 8 khóa IX nêu rõ “Những ai chủ trương tôn trọng
độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng cùng có
lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động
chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc đều là đối
tượng đấu tranh… trong mỗi đối tượng vẫn có mặt cần tranh thủ, hợp tác, trong một số
đối tác có thể có mặt khác biệt mâu thuẫn với ta…”. Như vậy Đảng ta đã có sự đổi mới
về vấn đề địch - ta, đối tượng - đối tác theo tinh thần “thêm bạn bớt thù” của Hồ Chí
Minh.
Trước tình hình trong nước và quốc tế có nhiều biến động như hiện nay, để thực
hiện tốt đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại nêu trên, một trong những nội dung quan
trọng là phải tiếp tục vận dụng tư tưởng đoàn kết của Hồ Chí Minh một cách sáng tạo và
phù hợp.
Trước hết, phải xác định rõ mục tiêu đoàn kết trong giai đoạn hiện nay của cách
mạng nước ta là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Do vậy, cần
khai thác mọi khả năng có thể có trên phạm vi quốc gia và quốc tế, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại, với những quan hệ đa chiều. Phải gắn kết lợi ích dân tộc với
lợi ích quốc tế, phải có những chủ trương chính sách đúng đắn mới có thể tranh thủ và
tận dụng được mọi khả năng, cơ hội để phát triển. Bên cạnh đó, phải khơi dậy ở dân tộc
ta cũng như dân tộc khác nỗi nhục đói nghèo, nỗi đau lạc hậu, tăng cường tinh thần đoàn
kết, hợp tác giữa các dân tộc cùng vươn tới hòa bình, ấm no, hạnh phúc và văn minh trên

cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, cùng có lợi, chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa đế
quốc, của sự can thiệp, áp đặt từ bên ngoài. Song song đó là cần triển khai đồng bộ các
chính sách, các giải pháp trên bình diện quốc gia và quốc tế về đoàn kết dân tộc và đoàn
Trang 16/20
Tư Tưởng Hồ Chí Minh
kết quốc tế để làm cho mục tiêu đó thấm nhuần vào tư tưởng, tình cảm, suy nghĩ của
người Việt Nam và bạn bè quốc tế.
Thứ hai, đoàn kết phải là hội nhập với cộng đồng quốc tế, vừa hợp tác, vừa đấu
tranh cùng tồn tại hòa bình. Hồ Chí Minh đã coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của
cách mạng thế giới, hoạt động đoàn kết quốc tế của Người là gắn cách mạng Việt Nam
với cách mạng thế giới, đặt cách mạng Việt Nam trong mối quan hệ quốc tế để tranh thủ
sự giúp đỡ của quốc tế. Người nêu rõ: Việt Nam muốn “làm bạn với mọi nước dân chủ
và không gây thù oán với ai”. Vận dụng quan điểm đó, hiện nay chúng ta phải tiếp tục
mở cửa, hội nhập, là bạn với tất cả các nước với phương châm đa phương hóa, đa dạng
hóa các quan hệ quốc tế. Hội nhập quốc tế, chúng ta chủ trương hướng tới tương lai, tạo
nên sự tin cậy với các nước. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần chống sự “hội nhập” vô
nguyên tắc, hội nhập đi đến hòa tan, đánh mất chủ quyền và bản sắc dân tộc. Hội nhập
phải đi theo lộ trình và bước đi thích hợp. Hội nhập quốc tế vì lợi ích chung của cách
mạng thế giới, Việt Nam góp phần cùng nhân loại tiến bộ đấu tranh bảo vệ quyền lợi
chính đáng của các dân tộc, đấu tranh cho hòa bình, ổn định và phát triển. Bên cạnh đó,
hội nhập quốc tế Việt Nam còn tích cực tham gia vào việc giải quyết những vấn đề mang
tính toàn cầu, vì đây vừa là nghĩa vụ quốc tế, vừa là nhiệm vụ dân tộc.
Thứ ba, trong quá trình hội nhập quốc tế, phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự
lực, tự cường. Chúng ta xây dựng đất nước phải bằng chính sức lực và trí tuệ của con
người và đất nước Việt Nam, không thể chờ vào viện trợ, cho không từ nước ngoài. Tuy
nhiên độc lập dân tộc không phải là biệt lập cô lập, co mình lại, khép kín, không quan hệ,
hẹp hòi, biệt phái. Nhưng càng mở rộng, đoàn kết quốc tế, chúng ta càng phải giữ độc lập
dân tộc, tự chủ, tự cường, không lệ thuộc từ bên ngoài. Khai thác tối đa mọi lợi thế và
nguồn lực của đất nước là điều kiện cơ bản để mở rộng quan hệ hợp tác sẽ góp phần củng
cố, tăng cường thế độc lập tự chủ của mình. Đó là hai mặt của một vấn đề, chúng tác

động qua lại và quan hệ biện chứng với nhau. Như vậy quan niệm về độc lập dân tộc của
của Đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay là quan hệ mở và động, luôn kế thừa tư tưởng Hồ
Chí Minh về độc lập dân tộc, tự chủ kết hợp chặt chẽ với tiếp thu sức mạnh của thời đại
để xây dựng và phát triển đất nước. Việt Nam tuyên bố là bạn với tất cả các nước trên cơ
Trang 17/20
Tư Tưởng Hồ Chí Minh
sở tôn trọng chủ quyền của quốc gia, tăng cường hợp tác, đa phương hóa, đa dạng hóa
các mối quan hệ quốc tế chính là quá trình tìm kiếm động lực cho sự phát triển đất nước,
giữ vững chủ quyền và an ninh quốc gia trong bối cảnh đầy thách thức của xu thế toàn
cầu hóa.
Thứ tư, chúng ta phải coi trọng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bởi,
chỉ có trên sức mạnh bên trong, chúng ta mới có thể tranh thủ và tận dụng được sự đồng
tình, ủng hộ rộng rãi của lực lượng bên ngoài nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu của cách
mạng. Trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, chúng ta càng mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại, tranh thủ vốn, thành tựu khoa học - công nghệ, kinh nghiệm
quản lý của nước ngoài, gia nhập thị trường quốc tế, nhưng phải trên cơ sở phát huy đầy
đủ yếu tố nội dung, bao gồm các yếu tố: con người, đất đai, tài nguyên, trí tuệ, truyền
thống (lịch sử văn hóa).
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã xác định “Nhiệm vụ của công tác đối ngoại
là giữ vững môi trường hòa bình tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi
mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và
bảo vệ tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của thế giới, vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”.

Trang 18/20
Tư Tưởng Hồ Chí Minh
BẢNG NHẬN XÉT CÔNG VIỆC
Họ và tên thành viên Nhận xét
Lê Thị Vân Anh

Tích cực cùng nhóm tham gia thảo luận,
soạn thảo tốt phần được giao.
Nguyễn Thu Hồng
Tích cực cùng nhóm tham gia thảo luận,
soạn thảo tốt phần được giao.
Nguyễn Trọng Hoàng
Chuẩn bị Powerpoint cho nhóm và tham
gia thảo luận cùng cả nhóm
Nguyễn Thị Hồng Ngân
Tích cực cùng nhóm tham gia thảo luận,
soạn thảo tốt phần được giao.
Nguyễn Thị Hồng Nhi
Thực hiện tốt tiểu luận thuyết trình của
nhóm
Bùi Duy Tân
Tích cực cùng nhóm tham gia thảo luận,
soạn thảo tốt phần được giao.
Phan Bảo Tiên
Tham gia tích cực cho buổi tập thuyết trình
trước nhóm
Huỳnh Hà Mỹ Tiên
Tích cực cùng nhóm tham gia thảo luận,
soạn thảo tốt phần được giao.
Do ảnh hưởng về lịch học trên lớp nên nhóm chỉ tập trung thảo luận những phần
chính của bài thuyết trình, những phần còn lại thì nhóm trao đổi thông qua điện thoại,
email, hoặc là facebook.
Trang 19/20

×