Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

ĐỀ CƯƠNG TRIẾT học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.86 KB, 21 trang )

1. Chủ nghĩa duy vật biện chứng, cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học, ý
nghĩa phương pháp luận của vấn đề trên?
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hạt nhân lý luận triết học của thế giới
khoa học Mác – Lênin; là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật ;
là hệ thống quan điểm lý luận được xác lập trên cơ sở giải quyết theo quan điểm
duy vật biện chứng đối với vấn đề cơ bản của triết học. Chủ nghĩa duy vật biện
chứng trang bị cho ta cách nhìn nhận xem xét thế giới, tồn tại hiện thực khách
quan trên lập trường duy vật biện chứng, là cơ sở nền tảng cho hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn của con người đồng thời là nền tảng cho các ngành
khoa học khác phát triển đúng hướng tránh được quan điểm duy vật, siêu hình,
khắc phục được thế giới quan duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập vào
những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được V.I. Lênin tiếp tục phát triển. Với sự
kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và vận dụng các thành tựu
của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng ngay từ khi mới ra đời
đã khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật trước đó, thể hiện là
đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Nó không chỉ phản ánh đúng
đắn hiện thực mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp các lực lượng tiến bộ trong
xã hội cải tạo hiện thực ấy.Chủ nghĩa duy tâm :cho rằng ý thức, tinh thần có
trước và quyết định giới tự nhiên. Giới tự nhiên chỉ là một dạng tồn tại khác của
tinh thần, ý thức.Chủ nghĩa duy tâm đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại với hai hình
thức chủ yếu là: Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của cảm
giác, ý thức con người, khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp
những cảm giác của cá nhân, của chủ thể. Ví dụ quan niệm của Beccơly. Chủ
nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, nhưng đó
không phải là ý thức cá nhân mà là tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc
lập với con người, quyết định sự tồn tại của tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó
thường được mang những tên gọi khác nhau như ý niệm, ý niệm tuyệt đối, tinh
thần tuyệt đối hay lý tính thế giới.Ví dụ quan niệm của Platon, Hêghen. Cả chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đều có nguồn gốc xã hội và nguồn gốc nhận
thức. Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy vật là các lực lượng xã hội, các giai


cấp tiến bộ, cách mạng; nguồn gốc nhận thức của nó là mối liên hệ với khoa
học. Còn nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy tâm là các lực lượng xã hội, các
giai cấp phản tiến bộ; nguồn gốc nhận thức của nó là sự tuyệt đối hóa một mặt
của quá trình nhận thức (mặt hình thức), tách nhận thức, ý thức khỏi thế giới vật
chất. Trong lịch sử triết học luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm
và chủ nghĩa duy vật, tạo nên động lực bên trong cho sự phát triển của tư duy
triết học. Đồng thời, nó biểu hiện cuộc đấu tranh về hệ tư tưởng giữa các giai
cấp đối lập trong xã hội.Bên cạnh các nhà triết học nhất nguyên luận(duy vật
hoặc duy tâm) giải thích thế giới từ một nguyên thể hoặc vật chất hoặc tinh thần,
còn có các nhà triết học nhị nguyên luận. Họ xuất phát từ cả hai nguyên thể vật
chất và tinh thần để giải thích mọi hiện tượng của thế giới. Theo họ, thế giới vật
chất sinh ra từ nguyên thể vật chất, thế giới tinh thần sinh ra từ nguyên thể tinh
thần. Họ muốn dung hòa giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm, nhưng
1
cuối cùng họ rơi vào chủ nghĩa duy tâm khi thừa nhận ý thức hình thành và phát
triển tự nó, không phụ thuộc vào vật chất.
Để tìm hiểu cụ thể hơn về chủ nghĩa duy vật biện chứng, cơ sở lý luận
của thế giới quan khoa học ta cần làm rõ các khái niệm sau:
Thứ nhất, thế giới quan khoa học là hệ thống những quan niệm của con
người về thế giới, về vị trí con người trong thế giới nhằm giải quyết các vấn đề,
mục đích, ý nghĩa cuộc sống của con người. Thế giới quan khoa học có vai trò
to lớn đối với con người vì đó là cách xem xét nhìn nhận đánh giá, định hướng
cho hoạt động của mình. Kết cấu của thế giới quan khoa học bao gồm: Tri thức,
niềm tin, lý trí, tình cảm trong đó tri thức là thành phần quan trọng cơ bản nhất.
Thế giới quan khoa học được thể hiện dưới nhiều hình thức như thần thoại, tôn
giáo, triết học.
Thứ hai, thế giới quan khoa học là thế giới quan mác xít? là thế giới quan
của giai cấp công nhân vì lợi ích của giai cấp công nhân. Triết học MLN ra đời,
lần đầu tiên trong lịch sử nhân dân lao động có thế giới quan của mình đó là thế
giới quan khoa học.

Nội dung, bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng với tư cách là
hạt nhân của thế giới quan khoa học trước tiên là giải quyết đúng đắn các
vấn đề cơ bản của triết học.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất, ý thức và mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Trước tiên, là về tính thống nhất vật chất của thế giới. Các nhà triết học
duy tâm tìm nguồn gốc, bản chất của thế giới ở "ý niệm tuyệt đối" hoặc ở ý thức
con người; ngược lại thì các nhà duy vật trước Mác có khuynh hướng chung là
tìm nguồn gốc, bản chất của thế giới ngay trong bản thân nó. Nhưng do ảnh
hưởng của quan điểm siêu hình - máy móc nên họ cho rằng mọi hiện tượng của
thế giới đều được cấu tạo từ những vật thể ban đầu giống nhau, thống nhất với
nhau, cùng bị chi phối bởi một số quy luật nhất định. Quan điểm ấy không phản
ánh được tính nhiều vẻ, tính vô tận của thế giới hiện thực.
Bằng sự phát triển lâu dài của bản thân triết học và sự phát triển của khoa
học, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng, bản chất của thế giới là vật
chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó được thể hiện ở những điểm cơ
bản sau đây:
Một là, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế
giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người.
Hai là, mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất
với nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những
kết cấu vật chất, hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự
chi phối của những quy luật khách quan phổ biến của thế giới vật chất.
Ba là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không được
sinh ra và không bị mất đi. Trong thế giới không có gì khác ngoài những quá
trình vật chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân
và kết quả của nhau.
"Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
2

chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác" ở định nghĩa này,
V.I.Lênin phân biệt hai vấn đề quan trọng:
Trước hết là phân biệt vật chất với tư cách là phạm trù triết học với các
quan niệm của khoa học tự nhiên về cấu tạo và những thuộc tính cụ thể của các
đối tượng các dạng vật chất khác nhau. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học
dùng chỉ vật chất nói chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; còn
các đối tượng, các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên cứu đều có giới hạn, có
sinh ra và mất đi để chuyển hóa thành cái khác. Vì vậy, không thể quy vật chất
nói chung về vật thể, không thể đồng nhất vật chất nói chung với những dạng cụ
thể của vật chất như các nhà duy vật trong lịch sử cổ đại, cận đại đã làm.
Thứ hai là trong nhận thức luận, đặc trưng quan trọng nhất để nhận biết
vật chất chính là thuộc tính khách quan. Khách quan, theo V.I.Lênin là "cái
đang tồn tại độc lập với loài người và với cảm giác của con người". Trong đời
sống xã hội, vật chất "theo ý nghĩa là tồn tại xã hội không phụ thuộc vào ý thức
xã hội của con người". Về mặt nhận thức luận thì khái niệm vật chất không có
nghĩa gì khác hơn: "thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức con người và
được ý thức con người phản ánh"
Như vậy, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin bao gồm những nội dung cơ
bản sau:
- Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc
vào ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức
được.
- Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp
tác động lên giác quan của con người.
- Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất.
Với những nội dung cơ bản như trên định nghĩa vật chất của V. I. Lênin
có nhiều ý nghĩa to lớn.
- Khi khẳng định vật chất là "thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác", "tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác", V.I.Lênin đã thừa
nhận rằng, trong nhận thức luận, vật chất là tính thứ nhất, là nguồn gốc khách

quan của cảm giác, ý thức. Và khi khẳng định vật chất là cái "được cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh", V.I.Lênin muốn nhấn mạnh rằng bằng
những phương thức nhận thức khác nhau (chép lại, chụp lại, phản ánh ) con
người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Như vậy, định nghĩa vật chất của
V.I.Lênin đã bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, bác bỏ thuyết không thể
biết, đã khắc phục được những hạn chế trong các quan điểm của chủ nghĩa duy
vật trước Mác về vật chất. Đồng thời, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin còn có ý
nghĩa định hướng đối với khoa học cụ thể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc các
hình thức mới của vật thể trong thế giới.
- Khi nhận thức các hiện tượng thuộc đời sống xã hội, định nghĩa vật chất
của V.I.Lênin đã cho phép xác định cái gì là vật chất trong lĩnh vực xã hội. Từ
đó giúp các nhà khoa học có cơ sở lý luận để giải thích những nguyên nhân cuối
cùng của các biến cố xã hội, những nguyên nhân thuộc về sự vận động của
phương thức sản xuất; trên cơ sở ấy, người ta có thể tìm ra các phương án tối ưu
để hoạt động thúc đẩy xã hội phát triển.
3
Những phương thức tồn tại của vật chất bao gồm:
Vận động
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động không chỉ là
sự thay đổi vị trí trong không gian (hình thức vận động thấp, giản đơn của vật
chất) mà theo nghĩa chung nhất, vận động là mọi sự biến đổi. Ph. Ăngghen viết
"Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất ( ) bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và
mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư
duy".
Khi định nghĩa vận động là sự biến đổi nói chung, thì vận động "là thuộc
tính cố hữu của vật chất", "là phương thức tồn tại của vật chất". Điều này có
nghĩa là vật chất tồn tại bằng vận động. Trong vận động và thông qua vận động
mà các dạng vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình, Một khi chúng ta nhận thức
được những hình thức vận động của vật chất, thì chúng ta nhận thức được bản
thân vật chất.

Không gian và thời gian
Không gian và thời gian gắn bó mật thiết với nhau và gắn liền với vật
chất, là phương thức tồn tại của vật chất. Điều đó có nghĩa là không có một dạng
vật chất nào tồn tại ở bên ngoài không gian và thời gian. Ngược lại, cũng không
thể có thời gian và không gian nào ở ngoài vật chất. Ph.Ăngghen viết: "Các hình
thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và thời gian; tồn tại ngoài thời gian thì
cũng hết sức vô lý như tồn tại ngoài không gian". V.I.Lênin cho rằng, để chống
lại mọi chủ nghĩa tín ngưỡng và mọi chủ nghĩa duy tâm thì phải "thừa nhận một
cách dứt khoát và kiên quyết rằng những khái niệm đang phát triển của chúng ta
về không gian và thời gian đều phản ánh thời gian và không gian thực tại khách
quan"; ""kinh nghiệm" của chúng ta và nhận thức của chúng ta ngày càng thích
ứng với không gian và thời gian khách quan, ngày càng phản ánh chúng một
cách đúng đắn hơn và sâu sắc hơn".
Quan điểm của triết học duy vật biện chứng như trên đã được xác nhận
bởi những thành tựu của khoa học tự nhiên. Chẳng hạn Lôbatsépxki, trong hình
học phi Ơcơlít của mình đã bác bỏ tư tưởng của Cantơ về không gian và thời
gian coi như là những hình thức của tri giác cảm tính ngoài kinh nghiệm.
Bútlêrốp đã phát hiện ra những đặc tính không gian lệ thuộc vào bản chất vật lý
của các vật thể vật chất. Đặc biệt thuyết tương đối của A.Anhxtanh đã xác nhận
rằng, không gian và thời gian không tự nó tồn tại, tách rời vật chất mà nằm trong
mối liên hệ qua lại phổ biến không thể phân chia.
Không gian và thời gian có những tính chất cơ bản sau đây:
- Tính khách quan, nghĩa là không gian và thời gian là thuộc tính của vật
chất tồn tại gắn liền với nhau và gắn liền với vật chất. Vật chất tồn tại khách
quan, do đó không gian và thời gian là thuộc tính của nó nên cũng tồn tại khách
quan.
- Tính vĩnh cửu và vô tận, nghĩa là không gian và thời gian không có tận
cùng về một phía nào, xét cả về quá khứ lẫn tương lai, cả về đằng trước lẫn đằng
sau, cả về bên phải lẫn bên trái, cả về phía trên lẫn phía dưới.
- Không gian luôn có ba chiều (chiều dài, chiều rộng, chiều cao), còn thời

gian chỉ có một chiều (từ quá khứ tới tương lai). Khái niệm "không gian nhiều
4
chiều" mà ta thường thấy trong tài liệu khoa học hiện nay là một trừu tượng
khoa học dùng để chỉ tập hợp một số đại lượng đặc trưng cho các thuộc tính
khác nhau của khách thể nghiên cứu và tuân theo những quy tắc biến đổi nhất
định. Đó là một công cụ toán học hỗ trợ dùng trong quá trình nghiên cứu chứ
không phải để chỉ không gian thực, không gian thực chỉ có ba chiều.
Nguồn gốc của ý thức bao gồm nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
Về nguồn gốc tự nhiên: Dựa trên cơ sở những thành tựu của khoa học tự
nhiên, nhất là sinh lý học thần kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, ý
thức không phải có nguồn gốc siêu tự nhiên, không phải ý thức sản sinh ra vật
chất như các nhà thần học và duy tâm khách quan đã khẳng định mà ý thức là
một thuộc tính của vật chất, nhưng không phải là của mọi dạng vật chất, mà chỉ
là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người. Bộ óc
người là cơ quan vật chất của ý thức. ý thức là chức năng của bộ óc con người. ý
thức phụ thuộc vào hoạt động bộ óc người, do đó khi bộ óc bị tổn thương thì
hoạt động của ý thức sẽ không bình thường. Vì vậy, không thể tách rời ý thức ra
khỏi hoạt động của bộ óc. ý thức không thể diễn ra, tách rời hoạt động sinh lý
thần kinh của bộ óc người.
Về nguồn gốc xã hội: Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự
nhiên là rất quan trọng, không thể thiếu được, song chưa đủ; điều kiện quyết
định cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề, nguồn gốc xã hội. ý thức ra đời
cùng với quá trình hình thành bộ óc con người nhờ lao động, ngôn ngữ và những
quan hệ xã hội.
Lao động là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra
những sản phẩm phục vụ cho các nhu cầu của mình, là một quá trình trong đó
bản thân con người đóng góp vai trò môi giới, điều tiết và giám sát trong sự trao
đổi vật chất giữa người và tự nhiên. Lao động là điều kiện đầu tiên và chủ yếu
để con người tồn tại. Lao động cung cấp cho con người những phương tiện cần
thiết để sống, đồng thời lao động sáng tạo ra cả bản thân con người. Nhờ có lao

động, con người tách ra khỏi giới động vật.
Sự hình thành ý thức không phải là quá trình thu nhận thụ động, mà đó là
kết quả hoạt động chủ động của con người. Nhờ có lao động, con người tác động
vào thế giới khách quan, bắt thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những
kết cấu, những quy luật vận động của mình thành những hiện tượng nhất định,
và các hiện tượng ấy tác động vào bộ óc người, hình thành dần những tri thức về
tự nhiên và xã hội. Như vậy, ý thức được hình thành chủ yếu do hoạt động cải
tạo thế giới khách quan của con người, làm biến đổi thế giới đó. ý thức với tư
cách là hoạt động phản ánh sáng tạo không thể có được ở bên ngoài quá trình
con người lao động làm biến đổi thế giới xung quanh. Vì thế có thể nói khái quát
rằng lao động tạo ra ý thức tư tưởng, hoặc nguồn gốc cơ bản của ý thức tư tưởng
là sự phản ánh thế giới khách quan vào đầu óc con người trong quá trình lao
động của con người.
Về bản chất của ý thức: Tính sáng tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản
ánh, theo quy luật của sự phản ánh mà kết quả bao giờ cũng là những khách thể
tinh thần. Sáng tạo và phản ánh là hai mặt thuộc bản chất ý thức. ý thức là sự
phản ánh và chính thực tiễn xã hội của con người tạo ra sự phản ánh phức tạp,
5
năng động, sáng tạo của bộ óc. Ý thức là một hiện tượng xã hội. Sự ra đời, tồn
tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ các
quy luật sinh học mà chủ yếu là của quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội
và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của con người quy định. ý thức mang bản
chất xã hội.
Về kết cấu của ý thức:
Theo các yếu tố hợp thành, ý thức bao gồm các yếu tố cấu thành như tri
thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi.
Tiếp cận theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người, ý thức bao gồm tự
ý thức, tiềm thức, vô thức.
Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu: Bồi dưỡng thế giới quan khách quan,
chống chủ nghĩa chủ quan.

Những nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng
* Tầm quan trọng và tính phức tạp của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
chủ quan
- Sai lầm khá phổ biến xảy ra ở nước ta và khá nhiều nước XHCN trước
đây gây tác hại nghiêm trọng cho cách mạng chính là rơi vào quan điểm của chủ
nghĩa chủ quan – tuyệt đối hóa ý chí, xa rời thực tiễn cách mạng.
- Xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp mới mẻ, phức tạp cần phải phát
huy vai trò nhân tố chủ quan, nhưng khi nhân tố chủ quan càng lớn thì nguy cơ
mắc bệnh chủ quan càng lớn.
* Nguyên tắc khách quan trong xem xét
- Đó là nguyên tắc hàng đầu của phương pháp nhận thức biện chứng duy
vật – đòi hỏi phải xuất phát từ bản thân sự vật, từ thực tế khách quan.
- Cần phát huy sáng tạo nhân tố chủ quan.
- Nguyên tắc khách quan không bài trừ mà đòi hỏi phát huy vai trò nhân
tố chủ quan, chống thái độ thụ động, ngồi chờ, bảo thủ, cần phải tôn trọng khách
quan, phát huy nhân tố chủ quan, gắn liền lợi ích bởi lẽ lợi ích là động lực kích
thích tính tích cực trong con người.
* Kiên quyết khắc phục, ngăn ngừa bệnh chủ quan duy ý chí
- Bên cạnh các thành tựu đạt được về các mặt, chúng ta còn mắc nhiều sai
lần nghiêm trọng đó là nóng vội trong cải tạo xã hội, trong xây dựng các thành
phần kinh tế, nhiều chủ trường hạn chế trong xây dựng công nghiệp nặng, trong
cải cách giá cả tiền lương dẫn đến phạm các quy luật khách quan.
* Để khắc phục đẩy lùi bệnh chủ quan duy ý trí phải tiến hành đồng bộ
trên tất cả các biện pháp.
- Đổi mới tư duy lý luận – tư duy biện chứng đó là tư duy về CNXH, con
đường, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
6
2. Sự hình thành và phát triển triết học MLN. Ý nghĩa và phương pháp luận
đối với việc bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác nói chung và Triết học Mác nói

riêng trong tình hình hiện nay.

THMLN ra đời là bước ngoặt cách mạng vĩ đại trong lịch sử tư tưởng
nhân loại, vì nó khắc phục được những thiếu sót hạn chế của những trường phái
trào lưu triết học trước đó.
Triết học Mác ra đời là kết quả tất yếu của những điều kiện khách quan và
nhân tố chủ quan là sự thiên tài của Mác và Ăngghen.
Từ khi triết học Mác hình thành và phát triển nó đã trở thành vũ khí tinh
thần tư tưởng của giai cấp công nhân nhằm chống lại hệ tư tưởng tư sản để bảo
vệ những giá trị chân chính về mặt lý luận khách quan.
Những điều kiện lịch sử ra đời triết học Mác:
• Điều kiện kinh tế-xã hội:
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX do tác động của cuộc cách mạng trong
công nghiệp làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa được củng cố vững chắc và trở thành xu thế phát triển của
nền sản xuất xã hội. Nước Anh đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp và
trở thành cường quốc công nghiệp. Ở Pháp, cuộc cách mạng công nghiệp đang
đi vào giai đoạn hoàn thành.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuất tư bản được
củng cố tạo ra cơ sở kinh tế để cho xã hội tư bản phát triển kèm theo đó mâu
thuẫn xã hội càng thêm gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ rệt; sự phân hóa giàu
nghèo tăng lên, bất công xã hội tăng. Những xung đột giữa giai cấp vô sản với
tư sản đã phát triển thành những cuộc đấu tranh giai cấp.
Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành và
phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Khi chế độ tư bản chủ
nghĩa được xác lập, giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị xã hội, giai cấp
vô sản trở thành bị trị thì mâu thuẫn giữa vô sản với tư sản vốn mang tính đối
kháng phát triển trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp. Cuộc khởi nghĩa của
thợ dệt ở thành phố Liông (Pháp) năm 1831 tuy bị đàn áp nhưng lại bùng nổ tiếp
vào năm 1834. Ở Anh có phong trào Hiến chương vào cuối những năm 30 của

thế kỷ XIX, là phong trào cách mạng to lớn có tính chất quần chúng và có hình
thức chính trị. Nước Đức nổi lên phong trào đấu tranh của thợ dệt ở Xilêdi đã
mang tính giai cấp.
Trong hoàn cảnh lịch sử đó, giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là giai
cấp cách mạng. Ở Anh, Pháp giai cấp tư sản tuy nắm quyền thống trị, lại hoảng
sợ trước cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nên không còn là vị trí tiên phong
trong quá trình cải tạo dân chủ như trước. Còn giai cấp tư sản Đức đang lớn lên
trong lòng xã hội phong kiến, vốn đã khiếp sợ bạo lực cách mạng khi nhìn vào
tấm gương Cách mạng tư sản Pháp 1789, nay lại thêm sợ hãi trước sự phát triển
của phong trào công nhân Đức. Vì vậy, giai cấp vô sản xuất hiện trên vũ đài lịch
sử với sứ mệnh xoá bỏ xã hội tư bản và trở thành lực lượng tiên phong trong
cuộc đấu tranh cho nền dân chủ và tiến bộ xã hội.
7
Như vậy, thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn của phong trào đấu tranh của giai
cấp vô sản đòi hỏi phải được soi sáng bởi một hệ thống lý luận, một học thuyết
triết học mới. Học thuyết đó phải xuất hiện để định hướng phong trào đấu tranh
nhanh chóng đạt được thắng lợi.
Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử và phong trào đấu tranh
của họ đã tạo ra nguồn tư liệu quý báu về thực tiễn xã hội để Các Mác và Ph.
Ăngghen khái quát xây dựng những quan điểm triết học.
* Nguồn gốc lý luận và những tiền đề khoa học tự nhiên
- Nguồn gốc lý luận
Để xây dựng học thuyết của mình ngang tầm với trí tuệ nhân loại, Mác và
Ăngghen kế thừa toàn bộ những tinh hoa lý luận của nhân loại từ cổ đại đến thời
đại các ông nhưng trực tiếp là kinh tế - chính trị cổ điển Anh; CNXH không
tưởng Pháp và triết học cổ điển Đức. Với kinh tế - chính trị cổ điển Anh, Mác và
Ăngghen đã kế thừa học thuyết giá trị của A.Xmít và Đ.Ricácđô và vận dụng
vào phân tích kinh tế TBCN, chỉ ra nguồn gốc của giá trị thặng dư. Mác và
Ăngghen cũng kế thừa Xanh Ximông, Phuriê ở những luận điểm: cần và có thể
đập tan nhà nước tư sản. Với triết học cổ điển Đức, Mác, Ăngghen khắc phục vỏ

duy tâm, thần bí của triết học Hêghen kế thừa phương pháp biện chứng của ông
ta, đặt phương pháp biện chứng này trên nền thế giới quan duy vật. Đồng thời
khắc phục tính siêu hình trong triết học Phơbach, kế thừa CNDV nhân bản của
ông và làm giàu chủ nghĩa duy vật này bằng phương pháp biện chứng. Đồng
thời cả chủ nghĩa duy vật, cả phương pháp biện chứng đều được các ông nâng
lên về chất. Trên cớ sở đó, Mác và Ăngghen đã sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật
biện chứng.
- Tiền đề khoa học tự nhiên
Giữa triết học với khoa học nói chung và khoa học tự nhiên nói riêng có
mối quan hệ khăng khít. Sự phát triển của tư duy triết học phải dựa trên cơ sở tri
thức do các khoa học cụ thể đem lại. Vì thế, mỗi khi trong khoa học có những
phát minh mang tính chất vạch thời đại thì tạo ra sự thay đổi của triết học.
Trong những năm đầu của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh
với nhiều phát minh quan trọng: Định luật bảo toàn biến hóa năng lượng, Thuyết
tế bào, thuyết tiến hóa. Những phát minh khoa học đó đã vạch ra mối liên hệ
thống nhất giữa những sự vật, giữa các hình thức vận động khác nhau trong tính
thống nhất vật chất của thế giới, vạch ra tính biện chứng của sự vận động và
phát triển. Đồng thời đã làm bộc lộ rõ tính hạn chế và sự bất lực của phương
pháp tư duy siêu hình và của tư tưởng biện chứng cổ đại cũng như phép biện
chứng của Hêghen. Từ đó đặt ra một yêu cầu trong tư duy nhân loại cần phải
xây dựng một phương pháp tư duy mới thật sự khoa học. Với những phát minh
của mình, khoa học đã cung cấp những tri thức để Các Mác và Ph.Ăng ghen
khái quát xây dựng phép biện chứng duy vật.
Triết học Mác ra đời bên cạnh điều kiện khách quan như: KT-XH, nguồn
gốc lý luận, tiền đề khoa học tự nhiên, còn phải kể đến nhân tố chủ quan đó là sự
thiên tài của Mác và Ănghen.
8
Như vậy, triết học Mác ra đời như một tất yếu lịch sử không những vì đời
sống thực tiễn mà còn vì những tiền đề lý luận, xã hội và khoa học mà nhân loại
đã tạo ra.

Những nội dung chính của tư tưởng triết học của Mác và Ăngghen:
Các nguyên lí của chủ nghĩa duy vật đã được giải thích một cách biện
chứng. Theo các nguyên lí này, đã giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức. Theo Ph.Ăng-ghen thì:
“ vấn đề cơ bản của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ
giữa tư duy và tồn tại”_Ph.Ăng-ghen.
Theo đó "trong thế giới không có gì khác ngoài vật chất đang vận động,
và vật chất đang vận động không thể vận động như thế nào khác ngoài vận động
trong không gian và thời gian". Còn ý thức chỉ là sản phẩm của bộ óc con người
và là sự phản ánh tự giác, tích cực các sự vật, hiện tượng và quá trình hiện thực
của thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Như vậy
trong quan hệ giữa vật chất và ý thức, vật chất là cái thứ nhất, cái quyết định và
tồn tại độc lập với ý thức, còn ý thức là cái thứ hai, cái có sau. Tuy vậy, ý thức
có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển của thế giới vật chất ấy.
Các nguyên lí của phép biện chứng trong hệ thống triết học Hêghen đã
được cải tạo và xây dựng lại trên lập trường duy vật. Theo các nguyên lí đó:
-Mỗi kết cấu vật chất có muôn vàn mối liên hệ qua lại với các sự vật, hiện
tượng, quá trình khác của hiện thực. Trong hàng loạt quy luật về mối quan hệ
qua lại biện chứng giữa cái chung và cái riêng, nguyên nhân và kết quả, tất
nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, khả năng và
hiện thực.
-Tất cả các sự vật cũng như sự phản ánh của chúng trong óc con người đều ở
trong trạng thái biến đổi phát triển không ngừng. nguồn gốc của sự phát triển đó
là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập ở ngay trong lòng sự vật. Phương thức của
sự phát triển đó là sự chuyển hoá những biến đổi về lượng thành những biến đổi
về chất và ngược lại. Còn chiều hướng của sự phát triển này là sự vận động tiến
lên theo đường xoáy trôn ốc chứ không phải theo đường thẳng. Nội dung của
hai nguyên lí trên đây được thể hiện trong 3 quy luật cơ bản của phép biện
chứng duy vật (quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, quy luật về
sự chuyển hoá những biến đổi về lượng thành những biến đổi về chất và ngược

lại, quy luật phủ định cái phủ định).
-Lí luận nhận thức và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nhận thức là sự phản ánh giới
tự nhiên bởi con người, nhưng đó không phải là sự phản ánh đơn giản, trực tiếp,
hoàn toàn, mà là một quá trình nhờ đó tư duy mãi mãi và không ngừng tiến đến
gần khách thể.
Ý nghĩa:
Triết học Mác-Lênin ra đời và hoàn chỉnh đã góp phần quan trọng trong
nhận thức và đấu tranh của giai cấp công nhân, các tầng lớp vô sản. Các Mác đã
phát biểu rằng: Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của
mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình.
9
Tinh thần cách mạng của triết học Mác-Lênin được Các Mác phát biểu
rằng: Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau,
vấn đề là cải tạo thế giới.
Thực chất bước ngoặt cách mạng trong triết học của Mác và Ăngghen:
* Mác và Ăngghen đã kế thừa một cách có phê phán những thành tựu của tư duy
nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triệt để, không điều hoà với chủ nghĩa
duy tâm và phép siêu hình.
* Triết học Mác đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép biện
chứng trong lịch sử phát triển của triết học, Mác đã làm cho chủ nghĩa duy vật
trở nên “hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến
chỗ nhận thức xã hội loài người, chủ nghĩa duy vậy lịch sử của Mác là thành tựu
vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học”. Đó là cuộc cách mạng thật sự trong triết học
xã hội, yếu tố chủ yếu của bước ngoặt cách mạng mà Mác và Ăngghen đã thực
hiện trong triết học.
Với sự ra đời của triết học Mác, vai trò xã hội của triết học cũng như vị trí của
triết học trong hệ thống tri thức khoa học cũng biến đổi. “Các nhà triết học đã
chỉ Giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế
giới”2. Luận điểm đó của Mác nói lên sự khác nhau về chất giữa triết học của
ông với các học thuyết triết học duy vật trước Mác. Mác khâm phục và đánh giá

rất cao chủ nghĩa vô thần chiến đấu của các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVII
-XVIII. Song, “khuyết điểm chủ yếu” của mọi học thuyết duy vật trước Mác là
chưa có quan điểm đúng đắn về thực tiễn và chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm
về lịch sử xã hội. Triết học Mác đã khắc phục được những hạn chế đó, đi tới chủ
nghĩa duy vật lịch sử làm cho chủ nghĩa duy vật trở thành triệt để.
* Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, giai cấp tiến
bộ và cách mạng nhất, một giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích cơ bản của
nhân dân lao động và sự phát triển xã hội. Sự kết hợp lý luận của chủ nghĩa Mác
với phong trào công nhân đã tạo nên bước chuyển biến về chất của phong trào từ
trình độ tự phát lên tự giác.
* Vai trò cách mạng to lớn của triết học Mác được nâng cao còn vì sự thống
nhất tính khoa học với tính cách mạng trong bản thân lý luận của nó. Sự thống
nhất hữu cơ chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng làm cho triết học mácxít
mang tính cách mạng sâu sắc nhất. Sức mạnh “cải tạo thế giới” của triết học
mácxít chính là ở sự gắn bó mật thiết với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp
vô sản cách mạng, với quần chúng nhân dân đông đảo, nhờ đó lý luận “trở thành
lực lượng vật chất”.
Mác và Ăngghen đã xây dựng lý luận triết học của mình trên cơ sở khái quát các
thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học ngày nay càng chứng tỏ sự cần thiết phải có tư duy biện chứng duy vật
và, ngược lại, phải phát triển lý luận triết học của chủ nghĩa Mác dựa trên những
thành tựu của khoa học hiện đại.
Lê Nin bảo vệ và phát triển triết học Mác
Chủ nghĩa Mác và triết học Mác sau khi trở thành hệ thống lý luận hoàn chỉnh
nó đã trực tiếp đi vào đời sống xã hội, trở thành vũ khí lý luận của giai cấp vô
sản. Vì thế, nội dung của nó được lan truyền nhanh chóng ở các quốc gia thuộc
10
châu Âu, trong đó có nước Nga. Nhưng sau khi Các Mác và Ph.Ăngghen mất,
phong trào cộng sản thế giới có nguy cơ bị những người của phái chủ nghĩa xã
hội dân chủ chi phối. Những người này tuyên truyền những luận điểm để bác bỏ

những giá trị của chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng. Tình hình
đó cũng diễn ra ở nước Nga trong thời cuối của thế kỷ XIX và những năm đầu
của thế kỷ XX.
Những năm cuối thế kỷ XIX bước sang thế kỷ XX trong khoa học tự
nhiên có những phát minh mới, nhất là việc tìm ra điện tử và cấu tạo của nguyên
tử làm đảo lộn căn bản quan niệm vật lý học cổ điển, dẫn tới "cuộc khủng
khoảng vật lý". Lợi dụng tình hình đó, chủ nghĩa duy tâm, trong đó có chủ nghĩa
Makhơ (duy tâm chủ quan) công kích chủ nghĩa duy vật của Mác. Nước Nga sau
khi cuộc cách mạng 1905-1907 thất bại, những người theo chủ nghĩa Makhơ
tăng cường hoạt động lý luận, họ viện cớ "bảo vệ chủ nghĩa Mác" để xuyên tạc
triết học Mác.
V.I.Lênin (1870 - 1924) đã vận dụng sáng tạo học thuyết của Mác để giải
quyết những vấn đề của cách mạng vô sản trong thời đại chủ nghĩa đế quốc và
bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ông đã có đóng góp to lớn vào sự phát
triển lý luận của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.
Lênin đã viết hàng loạt các tác phẩm như: "Những người bạn dân là thế
nào" và "Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân túy", "Sự phê phán trong cuốn sách
của ông Xtơruve", để vạch trần bản chất phản cách mạng của bọn dân tuý Nga
và phê phán những luận điểm duy tâm chủ quan về lịch sử của họ. Trong cuộc
đấu tranh đó, Lênin đã bảo vệ chủ nghĩa Mác và còn làm phong phú thêm quan
điểm duy vật lịch sử, nhất là lý luận về hình thái kinh tế xã hội.
Năm 1900 Lênin viết tác phẩm: “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh
nghiệm phê phán” để vạch rõ quan điểm duy tâm, siêu hình của những người
theo chủ nghĩa Ma Khơ và chỉ rõ tác hại của nó đến phong trào cách mạng ở
Nga. Trong tác phẩm, Lênin đã bổ sung và phát triển chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử dựa trên sự phân tích, khái quát những thành
tựu khoa học mới nhất. Lênin xây dựng định nghĩa vật chất với tính cách là
phạm trù triết học, đồng thời còn làm rõ thêm nhiều vấn đề về lý luận nhận thức
mác xít.
Năm 1914-1915, Lênin nghiên cứu nhiều tác phẩm triết học, đặc biệt quan

tâm nghiên cứu về phép biện chứng của Hêghen để làm phong phú thêm phép
biện chứng duy vật, nhất là lý luận về sự thống nhất và đấu tranh giữa hai mặt
đối lập. Thông qua đó, Lênin chuẩn bị lý luận cho cuộc cách mạng 1917. Tinh
thần sáng tạo của tư duy biện chứng đã giúp cho Lênin có những đóng góp quan
trọng vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác về triết học như: vấn đề về nhà
nước nước, bạo lực cách mạng, chuyên chính vô sản, lý luận về đảng kiểu mới.
Lênin đã là tấm gương mẫu mực trong việc bảo vệ và phát triển triết học Mác.
Với tinh thần biện chứng duy vật, xem chân lý là cụ thể, có khi Lênin đã phải
thay đổi một cách căn bản đối với một quan điểm nào đó của mình về chủ nghĩa
xã hội, không chấp nhận mọi thứ biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều. Chính vì
vậy mà một giai đoạn mới trong sự phát triển của chủ nghĩa Mác nói chung, triết
11
học Mác nói riêng đã gắn liền với tên tuổi của Lênin và từ đó triết học Mác
mang tên triết học Mác – Lênin nói riêng, chủ nghĩa Mác- Leenin nói chung.
Vận dụng và phát triển triết học Mác - Lênin trong điều kiện thế giới
hiện nay
Đặc điểm của thời đại hiện nay là sự tương tác giữa hai quá trình cách
mạng - cách mạng khoa học công nghệ và cách mạng xã hội, đã tạo nên sự biến
đổi rất năng động của đời sống xã hội. Trong điều kiện đó, quá trình tạo ra
những tiền đề của chủ nghĩa xã hội diễn ra trong các nước tư bản phát triển được
đẩy mạnh như một xu hướng khách quan. Sự ra đời của công ty cổ phần từ cuối
thế kỷ trước đã được Các Mác xem là "hình thái quá độ từ phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa" sang "phương thức sản xuất tập thể". Song, hiện thực khách
quan đó đã vượt khỏi giới hạn nhận thức chật hẹp của chủ nghĩa giáo điều tồn tại
trong một số người. Tính biện chứng của sự tiến hóa xã hội diễn ra trong những
mâu thuẫn và thông qua các mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản cũng là một trong
những nguồn gốc nảy sinh những khuynh hướng sai lầm khác nhau, thậm chí đi
tới "xét lại" trong phong trào cộng sản và công nhân thế giới. Điều này đã được
Lênin phân tích, chỉ rõ: Do không nắm vững phép biện chứng duy vật, có những
cá nhân hay nhóm người luôn phóng đại khi thì đặc điểm này, khi thì đặc điểm

nọ của sự phát triển tư bản chủ nghĩa; khi thì "bài học" này, khi thì "bài học" nọ
của sự phát triển ấy, thành lý thuyết phiến diện, thành một hệ thống sách lược
phiến diện.
Sự khủng khoảng của chủ nghĩa xã hội làm cho yêu cầu phát triển triết
học Mác - Lênin càng trở nên cấp bách. Thực tiễn cuộc đấu tranh bảo vệ thành
quả mà chủ nghĩa xã hội đã giành được, nhất là cuộc đấu tranh bảo vệ đưa sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội vượt qua thách thức to lớn hiện nay và tiếp
tục tiến lên, đòi hỏi các Đảng cộng sản phải nắm vững lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng. Trước hết phải thấm
nhuần thế giới quan duy vật và phép biện chứng khoa học của nó.
Hiện nay ở các nước do Đảng cộng sản nắm quyền lãnh đạo đang thực
hiện quá trình đổi mới đã tạo ra một số thành công và gặp không ít thất bại. Cả
sự thành công và thất bại đó đều đòi hỏi phải kiên quyết đấu tranh chống chủ
nghĩa xét lại, khắc phục bệnh giáo điều trong việc vận dụng lý luận. Phải biết
tổng kết những thành tựu của khoa học hiện đại, khái quát sự phát triển của lịch
sử xã hội, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn qua công cuộc đổi mới để bổ sung,
hoàn thiện triết học Mác - Lênin. Chúng ta không thể đổi mới thành công nếu xa
rời lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, rơi vào chủ nghĩa xét lại.
12
3. Vấn đề con người theo quan điểm của chủ nghĩa MLN? Sự vận dụng của
đảng ta và chủ tịch HCM trong việc xây dựng và phát triển nguồn lực con
người Việt Nam
Con người luôn là vấn đề trung tâm của mọi trường phái triết học. Dù duy
tâm hay duy vật, biện chứng hay siêu hình, mọi trào lưu triết học từ cổ đại đến
hiện đại đều đi vào lý giải một cách trực tiếp hay gián tiếp những vấn đề chung
nhất về con người. Như vậy, triết học nào cũng hướng về con người và quay trở
lại con người. Tuy nhiên, xuất phát từ lập trường thế giới quan, phương pháp
luận khác nhau nên sự hình thành, phát triển quan niệm về con người của các
trào lưu, các trường phái triết học cũng khác nhau hoặc đối lập nhau. Có thể nói,
cuộc đấu tranh xoay quanh vấn đề con người là một trong những nét nổi bật của

triết học nhân loại. Việc giải quyết các nội dung xung quanh vấn đề con người là
tiêu chí để phân biệt tính chất tiến bộ hay không tiến bộ của các hệ thống triết
học trong lịch sử.
Lý luận và thực tiễn đã chứng minh, chỉ có triết học Mác – Lênin mới là
triết học duy nhất làm cho vấn đề con người có được vị trí mà nó cần phải có;
lần đầu tiên vấn đề con người được đặt ra, được nhận thức đúng đắn, được giải
quyết một cách thực sự khoa học và được nghiên cứu như một chỉnh thể trong
sự thống nhất hữu cơ giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó.
Tư tưởng về con người của triết học Mác – Lênin được hình thành trên cơ
sở kế thừa biện chứng những tư tưởng tiến bộ của nhân loại. Với tư tưởng khoa
học, đúng đắn về con người; triết học Mác – Lênin đã khẳng định vai trò cải tạo
thế giới, sứ mệnh làm nên lịch sử của con người. Trong tư tưởng khoa học và
cách mạng ấy, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của lịch sử.
Bản chất nhân đạo, mục tiêu cao cả, thước đo nhân văn của sự phát triển xã hội
là phát triển vì con người
Ngày nay, lý luận mác xít về con người đã và đang trở thành thế giới quan,
phương pháp luận khoa học để Đảng ta xác định những đường lối, chính sách và giải
pháp để phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Triết học mác xit đưa ra Luận điểm con người là điểm xuất phát và sự giải
phóng con người là mục đích cao nhất của triết học mác, sở dĩ có luân điểm này
bởi vì: Nhiệm vụ chân chính của triết học mác là giải phóng con người. Trong
đó mác đã ngiên cứu từ phương thức sản xuất vật chất để cắt nghĩa sự tha hóa
con người chính từ sự lao động bị tha hóa để đi đến quan điểm khi xem xét con
người phải xem xét trong đời sống hiện thực của họ; giải phóng con người là là
đưa con người thoát khỏi sự khép kín về đẳng cấp, về địa vị, về vị trí của con
người trong xã hội; là sự thừa nhận bản chất phổ biến của con người, thừa nhận
bản tính loài của con người xuyên suốt sự tồn tại hiện thực của con người; làm
cho lao động và hoà bình, nhân văn, nhân đạo và bình đẳng…những thuộc tính
nội tại của con người được thực hiện vững chắc, đầy đủ ở từng con người và cả

cộng đồng xã hội…Theo tư tưởng này, việc giải phóng con người chính là sự
xoá bỏ sự tha hoá của con người.
Tuy nhiên, cơ sở của sự tha hoá của con người lại chính là chế độ tư hữu
về tư liệu sản xuất gắn liền trực tiếp với chế độ tư bản chủ nghĩa. Bởi thế, theo
13
Mác và Ăngghen, việc “xoá bỏ chế độ tư hữu tài sản” – thứ “sở hữu vận động
trong sự đối lập giữa hai cực tư bản và lao động” là tiền đề cơ bản cho việc xoá
bỏ mọi sự tha hoá của con người, cho sự nghiệp giải phóng con người, giải
phóng xã hội. Mác đã chỉ rõ: “Xuất phát từ quan hệ của lao động bị tha hoá với
sở hữu tư nhân, còn có thể kết luận thêm rằng sự giải phóng xã hội khỏi sở hữu
tư nhân v.v…, khỏi sự nô dịch, trở thành hình thức chính trị của sự giải phóng
công nhân, vả lại vấn đề ở đây không chỉ là sự giải phóng của họ, vì sự giải
phóng của họ bao hàm sự giải phóng toàn thể loài người”.
Triết học mác xuất phát từ con người nhưng mác đã vượt qua quan niệm
con người trừu tượng để nhận thức con người trong hiện thực bởi vì: Con người
có đời sống hiện thực và biến đổi cùng với sự biến đổi của hiện thực; PTSX
không chỉ đơn thuần là sự tái sản xuất ra tồn tại thể xác cá nhân mà là hình thức
hoạt động của các cá nhân ấy biểu hiện bằng đời sống của họ-một phương thức
sinh sống nhất định của họ
Triết học mac là sự phát triển của quan điểm nhân văn nhờ đó làm cho
chủ nghĩa nhân đạo phát triển, đáp ứng nhu cầu giải phóng nhân loại trong thời
đại mới.
Triết học mác xuất phát từ con người , mục đích cao nhất là giải phóng
con người, song triết học mác không thể lấy con người là đối tượng nghiên cứu
bởi vì con người là khách thể có nội dung hết sức phong phú, sự tồn tại con
người bao gồm nhiều mặt với vô vàn mối quan hệ phức tạp nên con người được
nghiên cứu bởi nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau chẳng hạn: sinh học, tâm lý
học, y học, dân tộc học, y học, sử học, văn hóa học…
Triết học nghiên cứu những vấn đề chung nhất là những vấn đề về con
người như bản chất của thế giới quan, tư duy, đạo đức, tín ngưỡng, quan hệ giai

cấp, dân tộc, nhân loại
Triết học giải đáp đúng đắn khoa học về vai trò, vị trí con người trong thế
giới, đó là con người làm được gì, con người biết những gì. Triết học mác đem
lại thế giới quan, phương pháp luận DVBC trong xem xét tự nhiên, xã hội và tư
duy trên cơ sở đó giải quyết đúng đắn về bản chất con người, về đời sống xã hội
của con người.
Cần chống quan điểm cho rằng triết học mác bỏ rơi con người, lãng quên
con người.
Vấn đề bản chất con người:
Mác tiếp thu có phê phán những vấn đề tư tưởng của nhân loại đồng thời
mác vạch ra vai trò quan hệ xã hội trong những yếu tố cấu thành bản chất con
người, đó là công lao cống hiến xuất sắc trong triết học của mác
Triết học mác xít đã chỉ ra bản chất cụ thể của con người, đó là:
Thứ nhất, con người là một thực thể thống nhất hữu cơ giữa hai mặt
sinh học và mặt xã hội.
Triết học Mác – Lênin khẳng định, vấn đề bản chất con người chỉ được
giải đáp một cách đầy đủ và đúng đắn nhất khi nó xuất phát từ quan niệm thống
nhất biện chứng giữa hai yếu tố sinh học và xã hội; nhưng trong đó, cái xã hội
luôn giữ vai trò quyết định, chi phối cái sinh học; trái lại, cơ sở sinh học lại là
tiền đề, điều kiện cho sự phát triển của xã hội.
14
Mặt sinh học trong con người chính là mặt vật chất, mặt tự nhiên của con
người được tồn tại dưới góc độ cơ thể, biểu hiện trong các hiện tượng sinh lý, di
truyền, thần kinh, điện – hoá và các quá trình khác. chính yếu tố sinh học là điều
kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người.
Mặt xã hội trong con người là các yếu tố tinh thần, ngôn ngữ, ý thức, tư duy,
lao động, giao tiếp, lương tâm và đạo đức – những yếu tố chỉ có ở con người và chỉ
con người mới có. Con người lao động sản xuất ra của cải vật chất; và sản xuất của
con người không chỉ là phương tiện để duy trì sự sống của mỗi cá nhân mà còn là
phương thức biểu hiện nội dung sống, hoạt động sáng tạo của con người. chính

trong thực tiễn lao động sản xuất, con người đã tạo ra cơ sở cho toàn bộ hoạt động
của mình và xã hội.
Rõ ràng, bản chất của con người do mặt xã hội của con người quyết định;
trong đó, hoạt động sản xuất vật chất lại biểu hiện một cách căn bản mặt xã hội
của con người. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra
đời sống vật chất và tinh thần của mình, hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư
duy, xác lập các quan hệ xã hội; từ đó hình thành nên con người theo đúng nghĩa
và giá trị “Người” của nó.
Mặt sinh học và mặt xã hội trong con người tuy là hai lĩnh vực, hai phạm
trù khác nhau nhưng lại thống nhất biện chứng với nhau. Trong mối quan hệ đó,
mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng
bản chất của con người, giữ vai trò chi phối và quyết định.
Thứ hai, bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội, do các
quan hệ xã hội quyết định.
Xã hội là một bộ phận đặc biệt của thế giới vật chất, còn con người là
những tế bào cấu thành nên “bộ phận đặc biệt” ấy. Nói cách khác, nói đến con
người là con người xã hội, còn nói đến xã hội là xã hội của chính con người.
Con người vượt lên trên thế giới loài vật ở trên cả ba phương diện là: quan hệ
với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản con người. Cả ba mối
quan hệ ấy, suy đến cùng đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa
người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các quan hệ khác, chi phối
mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người. Bởi vậy, để nhấn
mạnh và khẳng định bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên một luận
đề nổi tiếng: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của
cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà
những quan hệ xã hội”.
Luận đề trên đã khẳng định, không có con người chung chung, trừu
tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử – xã hội. Con người luôn luôn
cụ thể, xác định; sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại
nhất định, gắn với nền sản xuất vật chất, với các quan hệ xã hội cụ thể. .

Bản chất con người chính là cái chung của con người, nhưng trong mỗi
thời đại lịch sử bản chất ấy lại thể hiện những nét riêng khác biệt. Cái chung và
nét riêng ở đây thống nhất biện chứng với nhau, chuyển hoá cho nhau. . Trong xã
hội có sự phân chia giai cấp, bản chất con người tất yếu mang tính chất giai cấp,
và tính giai cấp đã trở thành quan hệ đặc trưng của xã hội, của mỗi con người
trong xã hội đó. Bản chất con người vừa phản ánh cái chung của sự phát triển xã
15
hội loài người, lại vừa phản ánh cái riêng biệt của mỗi thời đại lịch sử. Nói cách
khác, tuy con người có bản chất chung xuyên suốt mọi thời đại nhưng cái chung
ấy lại được biểu hiện thông qua cái riêng. Con người bao giờ cũng là con người
riêng biệt, con người cụ thể của những thời đại lịch sử cụ thể, của mỗi giai đoạn
lịch sử nhất định. Con người ấy sống trong những giai cấp, những tập đoàn người
nào đó, song nó vẫn mang bản chất chung của nhân loại.
Rõ ràng, trong quan niệm của triết học Mác – Lênin, con người không
phải là cái gì trừu tượng, mà là sản phẩm của tự nhiên, của xã hội, mang tính
lịch sử – cụ thể. Con người - đó là con người hiện thực, con người cụ thể, cảm
tính. Bản chất của con người được thể hiện ra, tồn tại và phát triển trong lao
động sản xuất, trong hoạt động cải tạo và chinh phục tự nhiên và trong đấu tranh
giai cấp, cải tạo xã hội của con người. Bản chất con người do những mối quan
hệ xã hội quy định.
Thứ ba, con người là sản phẩm của lịch sử đồng thời là chủ thể sáng
tạo ra lịch sử của chính bản thân mình.
Trước hết phải khẳng định lại rằng, không có thế giới tự nhiên, không có
lịch sử xã hội thì không có con người, không tồn tại con người. Do đó, con
người chính là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá và phát triển lâu dài của
giới hữu sinh. Tuy nhiên, con người với tư cách là chủ thể năng động sáng tạo,
chủ thể của mọi quá trình lịch sử, mọi biến đổi xã hội, của mọi mối quan hệ xã
hội. Cho nên, con người không chỉ là sản phẩm của lịch sử xã hội, mà còn là chủ
thể của lịch sử, của mọi quá trình hình thành nên các quan hệ xã hội. Bằng hoạt
động thực tiễn của mình, con người không chỉ cải tạo thế giới xung quanh, phát

triển và hoàn thiện bản thân mình, mà con người còn sáng tạo ra lịch sử của
chính mình – lịch sử xã hội loài người. C. Mác viết: “Xã hội…là sản phẩm của
sự tác động qua lại giữa những con người”
1
.
Khi coi tiến trình phát triển lịch sử của xã hội loài người là sự thay thế lẫn
nhau của các hình thái kinh tế – xã hội, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã nói tới
việc lấy sự phát triển toàn diện của con người làm thước đo chung cho sự phát
triển xã hội. Trong quan niệm ấy của các ông, khuynh hướng chung của tiến trình
phát triển lịch sử được quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội –
con người và những công cụ lao động do con người tạo ra. Sự phát triển đó của lực
lượng sản xuất xã hội, tự nó đã nói lên trình độ phát triển của xã hội thông qua
việc con người chiếm lĩnh và sử dụng ngày càng nhiều lực lượng tự nhiên với tư
cách là cơ sở vật chất cho hoạt động sống của chính con người và quyết định quan
hệ giữa người với người trong sản xuất.
Như vậy, trong quan niệm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác, con
người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, là yếu tố hàng đầu,
yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất của xã hội, mà hơn nữa
nó còn đóng vai trò là chủ thể hoạt động của qúa trình lịch sử của chính mình.
Thông qua hoạt động thực tiễn của mình, con người đã in dấu ấn sáng tạo của
bàn tay và trí tuệ của mình vào giới tự nhiên, không ngừng chinh phục thế giới
khách quan, cải tạo hoàn cảnh, phát triển lực lượng sản xuất, và qua đó, phát
triển và hoàn thiện chính bản thân mình. điều đó có nghĩa là, con người đã tồn
1
16
tại, đang tồn tại và sẽ tồn tại với hai tư cách – con người vừa là chủ thể, vừa là
đối tượng của quá trình phát triển lịch sử.
Tóm lại, bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực,
không phải là tự nhiên mà là lịch sử, không phải là cái vốn có trong mỗi cá thể
riêng lẻ mà là tổng hoà của toàn bộ các quan hệ xã hội của con người, con người

là chủ thể sáng tạo của lịch sử.
17
4. Nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn.
Phạm trù Thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của lý luận
nhận thức Macxít nói riêng, chủ nghĩa Mac-Lênin nói chung.
Trong lịch sử Triết học, các nhà triết học duy vật trước Mác có công lao rất
lớn trong việc phát triển thế giới quan duy vật, đấu tranh chống lại chủ nghĩa
duy tâm. Tuy nhiên họ hạn chế ở chỗ không thấy được vai trò của hoạt động
thực tiễn đối với nhận thức, lý luận nên quan điểm của họ mang tính chất trực
quan. Các nhà triết học duy tâm lại tuyệt đối hóa yếu tố tinh thần, tư tưởng của
thực tiễn, họ hiểu họat động thực tiễn như là hoạt động tinh thần, hoạt động của
“ý niệm”, tư tưởng, tồn tại đâu đó ngoài con người, nói cách khác, họ gạt bỏ vai
trò thực tiễn trong đời sống xã hội.
Mac-Ăngghen, những nhà sáng lập chủ nghĩa Mac đã khắc phục những hạn
chế trong quan điểm về thực tiễn của các nhà triết học trước và đưa ra quan điểm
đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức cũng
như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Với việc đưa phạm trù
thực tiễn vào lý luận, Mac- Ăngghen đã thực hiện bước chuyển biến cách mạng
trong lý luận nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng.
Thực tiễn là hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử- xã hội của
con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người. Nếu con vật chỉ
hoạt động theo bản năng nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên
ngoài, thì con người nhờ hoạt động thực tiễn là hoạt động có mục đích, có tính
xã hội của mình mà cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, và để làm
chủ thế giới. Trong qúa trình hoạt động thực tiễn con người đã tạo ra được một
“thiên nhiên thứ hai” của mình, một thế giới của văn hóa tinh thần và vật chất,
những điều kiện mới cho sự tồn tại và phát triển của con người vốn không có
sẵn trong tự nhiên. Vì vậy, không có hoạt động thực tiễn, con người và xã hội
loài người không thể tồn tại và phát triển được. Thực tiễn là phương thức tồn tại

cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên, chủ yếu của mối quan
hệ giữa con người và thế giới.
Thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với hoạt động nhận thức. Trong mối
quan hệ với nhận thức, vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ, thực
tiễn là cơ sở, động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức, Ăngghen khẳng định
“chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự
nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp của tư duy
con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta cải biến
tự nhiên”.
Con người quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng
thực tiễn. Chính từ trong qúa trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận
thức của con người được hình thành, phát triển. Thông qua hoạt động thực tiễn
con người tác động vào thế giới buộc thế giới phải bộ lộ ra những thuộc tính,
những tính quy luật để con người nhận thức chúng. Thoát ly thực tiễn, nhận thức
18
đã thoát ly khỏi mảnh đất hiện thực nuôi dưỡng nó phát triển vì thế không thể
đem lại những tri thức sâu sắc, xác thực, đúng đắn về sự vật, sẽ không có khoa
học, không có lý luận.
Trong qúa trình hoạt động cải biến thế giới, con người cũng biến đổi luôn cả
bản thân mình, thực tiễn rèn luyện các giác quan của con người làm cho chúng
tinh tế hơn, trên cơ sở đó phát triển tốt hơn. Nhờ đó con người ngày càng đi sâu
vào nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của nó, làm phong phú và sâu
sắc tri thức của mình về thế giới. Thực tiễn còn đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ,
phương hướng phát triển của nhận thức, vì thế nó luôn thúc đẩy sự ra đời của
các ngành khoa học.
Thực tiễn còn là cơ sở để chế tạo công cụ, phương tiện máy móc mới, hỗ trợ
con người trong qúa trình nhận thức, khám phá, chinh phục thế giới. Ăngghen
cho rằng, nhu cầu cấp thiết của thực tiễn, của sản xuất sẽ thúc đẩy nhận thức
khoa học phát triển nhanh hơn hàng chục trường đại học.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức còn thể hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu

chuẩn của chân lý. Theo Mac và Ăngghen thì “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của
con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là
một vấn đề lý luận mà là một vấn đề của thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con
người phải chứng minh chân lý”. Tất nhiên, nhận thức xã hội còn có tiêu chuẩn
riêng, đó là tiêu chuẩn lô gic nhưng tiêu chuẩn lô gic không thể thay thế cho tiêu
chuẩn thực tiễn, và xét đến cùng nó cũng phụ thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn.
Đó là tư tưởng cơ bản của Mac-Ăngghen khi đưa phạm trù thực tiễn vào nội
dung của lý luận nhận thức, tư tưởng đó đã được Lênin bảo vệ và phát triển sâu
sắc hơn trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán”, trong đó Lênin nhắc lại luận cương thứ hai của Mac về Phoi-ơbăc và
Người kết luận “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ
nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”. Tư tưởng của Lênin về vai trò của
thực tiễn đối với nhận thức vẫn đang là nguyên tắc phương pháp luận quan trọng
hướng dẫn chúng ta trong hoạt động thực tiễn, trong nghiên cứu khoa học. Nếu
không bám sát thực tiễn cuộc sống chúng ta sẽ không thể có lý luận, không thể
có khoa học, không xác định nổi bất kỳ đề tài khoa học nào với đúng nghĩa của
nó.
Lý luận là sản phẩm cao của nhận thức của sự phản ánh hiện thực khách
quan. Trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, các nguyên lý và các quy luật
tạo nên lý luận, quy luật là hạt nhân của lý luận, là sản phẩm của qúa trình nhận
thức nên bản chất của lý luận là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là
sự phản ánh một cách gần đúng đối tượng nhận thức.
Lý luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Tri thức lý luận là tri
thức khái quát tri thức kinh nghiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lý luận
là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về
tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong qúa trình lịch sử”. Lý luận được hình thành
trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm, nhưng không phải mọi lý luận đều trực tiếp
xuất phát từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi
19
trước những dữ kiện kinh nghiệm mà vẫn không làm mất đi mối liên hệ giữa lý

luận với kinh nghiệm.
Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao nên nó
đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, về tính quy luật của các sự vật, hiện
tượng khách quan. Vì vậy, nhiệm vụ của nhận thức lý luận là đem quy sự vận
động bề ngoài chỉ biểu hiện trong hiện tượng về sự vận động bên trong thực sự.
Chủ nghĩa Mac-Lênin xem xét lý luận và thực tiễn trong sự thống nhất biện
chứng. Thực tiễn là hoạt động vật chất còn lý luận là hoạt động tinh thần, nên
thực tiễn đóng vai trò quyết định trong quan hệ đối với lý luận. Lênin viết:
“Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận) nó có ưu điểm không những của tính phổ
biến mà của tính hiện thực trực tiếp”.
Tính phổ biến của thực tiễn đối với nhận thức (lý luận) thể hiện ở chỗ, thực
tiễn là khâu quyết định đối với hoạt động nhận thức. Một lý luận được áp dụng
trong thời gian càng dài, không gian càng rộng thì hiệu qủa đạt được càng cao,
càng khẳng định tính chân lý của thực tiễn. Ngay cả một giả thiết khoa học
muốn trở thành lý luận phải thông qua hoạt động thực nghiệm kiểm tra, xác
nhận. Như vậy, chỉ có qua hoạt động thực tiễn thì lý luận mới có giá trị tham gia
vào qúa trình biến đổi hiện thực.
Hoạt động lý luận là hoạt động đặc biệt nó thống nhất hữu cơ với hoạt động
thực tiễn. Vì vậy, khi nhấn mạnh vai trò của thực tiễn đối với lý luận, chủ nghĩa
Mac-Lênin cũng khẳng đinh tính tích cực của sự tác động trở lại của lý luận đối
với thực tiễn. Lênin khẳng định: “không có lý luận cách mạng thì không có
phong trào cách mạng”. Lý luận là “kim chỉ nam” cho hành động thực tiễn. Cố
nhiên để có thể giải đáp được những vấn đề của cuộc sống, lý luận phải không
ngừng liên hệ bằng những hình thức khác nhau với thực tiễn. Cho nên, thực chất
vai trò của lý luận đối với thực tiễn là ở chỗ lý luận đem lại cho thực tiễn những
tri thức đúng đắn về những quy luật vận động và phát triển của thế giới khách
quan.
Lý luận có thể dự kiến được sự vận động của sự vật trong tương lai, chỉ ra
những phương hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn. Lý luận khoa học làm
cho con người trở nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng “mò mẫm”, tự phát.

Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh ví “không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt
mà đi”.
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao trong sự
phản ánh hiện thực nên lý luận có khả năng xa rời thực tiễn và trở thành ảo
tưởng. Vì thế, không được cường điệu vai trò của lý luận, mặt khác không được
xem nhẹ thực tiễn và tách rời lý luận với thực tiễn. Điều đó cũng có nghĩa là
phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nhận thức
khoa học và hoạt động cách mạng.
Trong Triết học Macxit và trong chủ nghĩa Mac-Lênin, sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn như một thuộc tính vốn có, một đòi hỏi nội tại. Nguyên tắc này
có ý nghĩa to lớn trong việc nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn.
20
Lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng qua lại. Lý luận bắt nguồn từ
thực tiễn, phản ánh (khái quát) những vấn đề của đời sống sinh động. Nhưng
thước đo tính cao thấp của lý luận với thực tiễn biểu hiện trước hết ở chỗ lý luận
đó phải hướng hẳn về đời sống hiện thực, để giải quyết những vấn đề do chính
sự phát triển của thực tiễn đặt ra và như vậy, lý luận góp phần thúc đẩy thực tiễn
phát triển, bởi vì ở bên ngoài sự thống nhất lý luận và thực tiễn, tự thân lý luận
không thể biến đổi được hiện thực, nói cách khác, hoạt động lý luận không có
mục đích tự thân mà vì phục vụ thục tiễn, để cải tạo thực tiễn, phục vụ thực tiễn
có hiệu quả.
Thực chất của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là phải quán triệt được
thực tiễn là cơ sở, là động lực, mục đích của lý luận, của nhận thức, là tiêu chuẩn
của chân lý (lý luận). Như trên đã nói, lý luận đích thực bao giờ cũng bắt nguồn
từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Thực tiễn quy định lý luận thể hiện ở nhu
cầu, nội dung, phương hướng phát triển của nhận thức, lý luận. Thực tiễn biến
đổi thì lý luận cũng biến đổi theo, nhưng lý luận cũng tác động trở lại thực tiễn
bằng cách soi đường, chỉ đạo, dẫn đắt thực tiễn.
Trên cơ sở nhận thức và vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn phải chống bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Chúng ta coi trọng kinh

nghiệm thực tiễn và không ngừng tích luỹ vốn kinh nghiệm quý báu đó.Song chỉ
dừng lại ở trình độ kinh nghiệm, thỏa mãn với vốn kinh nghiệm của bản thân,
coi kinh nghiệm là tất cả, tuyệt đối hóa kinh nghiệm đồng thời coi nhẹ lý luận,
ngại học tập, nghiên cứu lý luận, ít am hiểu lý luận, không quan tâm tổng kết
kinh nghiệm để đề xuất lý luận thì sẽ rơi vào lối suy nghĩ giản đơn, tư duy áng
chừng, đại khái, phiến diện thiếu tính lô gic, tính hệ thống, do đó, trong hoạt
động thực tiễn thì mò mẫm, tuỳ tiện, thiếu tính đồng bộ về lý luận trong tất cả
các lĩnh vực do vậy đễ rơi vào bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa.
Mặt khác, thái độ thực sự coi trọng lý luận đòi hỏi phải ngăn ngừa bệnh giáo
điều. Nết tuyệt đối hóa lý luận, coi lý luận là bất di bất dịch, việc nắm lý luận chỉ
dừng lại ở những nguyên lý chung chung trừư tượng không chú ý đến những
hoàn cảnh lịch sử cụ thể của sự vận dụng lý luận thì dễ mắc bệnh giáo điều.
Thực chất những sai lầm của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều đều là vi
phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Để ngăn ngừa, khắc phục
có hiệu qủa hai căn bệnh trên phải coi trọng cả lý luận và thực tiễn.
Như vậy lý luận gắn liền với thực tiễn và soi thực tiễn, thực tiễn kiểm
nghiệm lý luận và phát triển lý luận đặc biệt là lý luận cách mạng. Lý luận mà
không có thực tiễn là lý luận suông, thực tiễn mà không có lý luận là thực tiễn
mù quáng.
21

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×