Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Tiểu luận: Cho vay kích cầu đối với các Doanh nghiệp của các NHTM ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.51 KB, 20 trang )




BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA NGÂN HÀNG
  




MÔN HỌC: NGHIỆP VỤ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI





Tiểu luận:


CHO VAY KÍCH CẦU ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
CỦA CÁC NHTM VN HIỆN NAY


GVHD: TS. Lại Tiến Dĩnh

HVTH:
Lớp: Ngân hàng 4 ngày 1 – K17







TP.HCM, tháng 01/2009



CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHO VAY DOANH NGHIỆP

I. CÁC KHÁI NIỆM:
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng
một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn nhất định theo thỏa thuận nguyên tắc
có hoàn trả cả gốc và lãi.
Thời hạn nhất định ở đây chính là thời hạn cho vay.
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn
vay cho đến thời điểm tra hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín
dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng. Dựa vào thời hạn, có thể chia cho vay doanh
nghiệp thành cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
 Cho vay ngắn hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng.
 Cho vay trung hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 60
tháng.

Cho vay dài hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 60 tháng trở lên.

II.
NGUYÊN TẮC VAY VỐN:

Khách hàng vay vốn của ngân hàng phải đảm bảo hai nguyên tắc:
- Sử dụng vốn đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín

dụng.
III. ĐIỀU KIỆN VAY:
Mặc dù khi cho vay, ngân hàng yêu cầu khách hàng vay vốn phải bảo đảm các nguyên
tắc như vừa nêu trên nhưng thực tế không phải khách hàng nào cũng có thể tuân thủ đúng
các nguyên tắc này. Do vậy, để giúp cho việc đảm bảo các nguyên tắc vay vốn, ngân hàng
chỉ xem xét cho vay khi khách hàng thỏa mãn một số điều kiện vay nhất định.Theo quy
chế cho vay khách hàng do Ngân hàng Nhà nước ban hành, các điều kiện vay vốn khách
hàng cầ có bao gồm:
- Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự
theo qui định của pháp luật.
- Có mục đích vay vốn hợp pháp.
- Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.


- Có phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả;
- Thực hiện các qui định về bảo đảm tiền vay theo qui định của Chính phủ và hướng
dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Tuy nhiên, các điểu kiện vay vốn trên đây chỉ là hướng dẫn chung cần thiết cho các
NHTM. Khi cụ thể hóa các điều kiện cho vay này, các NHTM có thể cụ thể hóa và đặt ra
các điểu kiện riêng của mình.
IV.MỤC ĐÍCH VAY VỐN:
Khách hàng doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng phải có mục đích vay vốn hợp pháp,
sử dụng vốn vay vào những múc đích gì?
V. HỒ SƠ VAY VỐN:
Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng gửi cho tổ chức tín dụng một bộ hồ sơ vay vốn
bao gồm giấy đề nghị vay vốn và các tài liệu cần thiết chứng minh đủ điều kiện vay vốn.
Khách hàng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác và hợp pháp của các
tài liệu gửi cho tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng hướng dẫn các loại tài liệu khách hàng
cần gửi cho tổ chức tín dụng phù hợp với đặc điểm cụ thể của từng loại khách hàng, loại
cho vay và khoản vay. Thông thường bộ hồ sơ vay vốn gồm có:

- Giấy đề nghị vay vốn.
- Giấy tờ chứng minh tư cách pháp nhân của khách hàng, chẳng hạn như giấy phép
thành lập, quyết định bổ nhiệm giám đốc, điều lệ hoạt động.
- Phương án sản xuất kinh doanh và kế hoạch trả nợ, hoặc dự án đầu tư.
- Báo cáo tài chính của thời kỳ gần nhất.
- Các giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh nợ vay.
- Các giấy tờ liên quan khác nếu cần thiết.
Trên đây là hướng dẫn chung về các tài liệu khách hàng phải xuất trình trong hồ sơ
vay vốn. khi cụ thể hóa hồ sơ vay vốn, các NHTM có thể yêu cầu khách hàng nộp cho
ngân hàng những tài liệu cần thiết phù hợp với đ85c điểm hoạt động của từng ngân hàng.
VI.THẨM ĐỊNH VÀ QUYẾT ĐỊNH CHO VAY:
Để có căn cứ ra quyết định cho vay hay không cho vay, các tổ chức tín dụng đều có
xây dựng quy trình xét duyệt cho vay theo nguyên tắc bảo đảm tính độc lập và phân định
rõ ràng trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay. Khi
thẩm định, tổ chức tín dụng sẽ xem xét, đánh giá tính khả thi, hiệu quả của dự án đầu tư,
phương án phục vụ đời sống và khả năng hoàn trả nợ vay của khách hàng để quyết định
cho vay. Tổ chức tín dụng quy định cụ thể và niêm yết công khai thời hạn tối đa phải
thông báo quyết định cho vay hoặc không cho vay đối với khách hàng, kể từ khi nhận
được đầy đủ hồ sơ vay vốn và thông tin cần thiết của khách hàng. Trường hợp quyết định
không cho vay, tổ chức tín dụng phải thông báo cho khách hàng bằng văn bản, trong đó


nêu rõ căn cứ từ chối cho vay. Trường hợp quyết định cho vay, tổ chức tín dụng và khách
hàng sẽ ký kết hợp đồng tín dụng và thực hiện các khâu tiếp theo của quy trình tín dụng.
Thẩm định và quyết định cho vay là khâu rất quan trọng trong toàn bộ quy trình tín
dụng.
VII. HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG:
Việc cho vay của tổ chức tín dụng và khách hàng vay phải được lập thành hợp đồng
tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn
vay, phương thức cho vay, số vốn vay, lãi suất, thời hạn cho vay, hình thức bảo đảm, giá

trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thỏa thuận.
Ngoài ra, hợp đồng tín dụng cũng cần nêu rõ quyền và nghĩa vụ của hai bên: khách hàng
và ngân hàng.
VIII. GIỚI HẠN VÀ HẠN CHẾ CHO VAY:
Trong hoạt động tí dụng, NHTM bị giới hạn cho vay theo qui định của Luật các Tổ
chức tín dụng nhằm đảm bảo an toàn. Các giới hạn tín dụng khi cho vay ngắn hạn bao
gồm:
- Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có
của ngân hàng, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn ủy
thác của Chính phủ, của các tổ chức và cá nhân. Trường hợp nhu cầu vốn của một
khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng hoặc khách hàng có nhu cầu
huy động vốn từ nhiều nguồn thì các ngân hàng có thể cho vay hợp vốn theo qui
định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Trong trường hợp đặc biệt, ngân hàng chỉ được cho vay vượt quá mức giới hạn cho
vay được thực hiện theo qui định vừa nêu khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép
với từng trường hợp cụ thể.
Ngoài ra, còn có một số hạn chế như ngân hàng không được cho vay không có bảo
đảm, cho vay với những điều kiện ưu đãi về lãi suất, về mức cho vay đối với những đối
tượng sau đây:
- Tổ chức kiểm toán, Kiểm toán viên có trách nhiệm kiểm toán tại tổ chức tín dụng
cho vay; Thanh tra viên thực hiện nhiệm vụ thanh tra tại tổ chức tín dụng cho vay;
Kế toán trường của tổ chức tín dụng cho vay;
- Các cổ đông lớn của tổ chức tín dụng.
- Doanh nghiệp có một trong những đối tượng quy định tại Khoản 1 Điều 77 của
Luật các Tổ chức tín dụng sở hữu trên 10% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó.
IX.NHỮNG TRƯỜNG HỢP KHÔNG CHO VAY:
Ngân hàng không được cho vay trong những trường hợp sau đây:


- Thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó

Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) của tổ chức tín dụng.
- Cán bộ, nhân viên của chính tổ chức tín dụng đó thực hiện nhiệm vụ thẩm định,
quyết định cho vay.
- Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng
giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc).
X. CÁC PHƯƠNG THỨC CHO VAY:
Phương thức cho vay là cách thức thực hiện cấp tín dụng cho khách hàng của ngân
hàng. Hiện nay trong cho vay đối với doanh nghiệp, các NHTM có thể thỏa thuận với
khách hàng v6è sử dụng loại phương thức cho vay. Tùy theo đặc điểm chu chuyển vốn
của khách hàng, ngân hàng và khách hàng có thể thỏa thuận lựa chọn phương thức cho
vay thích hợp. Đa số các NHTM đề có đưa ra các phương thức cho vay của mình cho
khách hàng tham khảo. Thực tiễn cho thấy, ngoài các phương thức cho vay phổ biến như
cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng và cho vay theo dự án đầu tư, còn có
nhiều phương thức cho vay khác dành cho từng hoàn cảnh vay vốn khác nhau được thực
hiện ở những ngân hàng khác nhau.







THỰC TRẠNG CHO VAY VÀ TÌNH HÌNH
KINH TẾ CỦA DOANH NGHIỆP NĂM 2008

I. THỰC TRẠNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP CỦA CÁC NHTM
NĂM 2008:
Cho vay doanh nghiệp chiếm 95% hoạt động ngân hàng. Đó là thông tin được đưa ra tại
hội thảo kinh doanh VietAbroader Business Conference 2008, do VietAbroader (diễn đàn
trao đổi kiến thức và thảo luận những đề tài kinh tế, văn hóa mang tính thời sự tại VN

và Mỹ).
Theo khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp (VCCI), với mặt bằng lãi suất cao
21% vào đầu năm 2008, tới 73% các DN được điều tra cho biết, đang rất khó khăn trong
việc tiếp cận vốn vay cho những hoạt động kinh doanh sản xuất. Khó khăn càng gay gắt
hơn đối với những DN quy mô nhỏ vì đây là khu vực DN dễ bị tổn thương do hạn chế về
quy mô, nguồn lực, thiếu tài sản thế chấp, không chịu nổi lãi suất cao.
Về phía mình, các ngân hàng vẫn đánh giá cao ưu điểm loại hình DN nhỏ và vừa
(DNN&V) này cần ít vốn, chi phí quản lý, đào tạo không lớn. Đặc biệt, DN quy mô nhỏ
rất nhạy cảm với những biến động của thị trường, chuyển đổi mặt hàng nhanh, phù hợp
với thị hiếu người tiêu dùng, tận dụng được nguyên vật liệu, nhân lực tại chỗ; dễ dàng
cạnh tranh, len lỏi, xâm nhập vào các thị trường. Đặc biệt khách hàng là các công ty cổ
phần hoặc DN sau chuyển đổi rất linh hoạt và nhạy bén trong kinh doanh, quan hệ tín
dụng khá sòng phẳng…
Tuy nhiên, những năm trước đây trong bối cảnh kinh tế tương đối ổn định, nhìn chung các
DN kinh doanh hiệu quả trả nợ gốc, lãi NH đúng hạn. Bên cạnh đó, các NH tăng trưởng
tín dụng mạnh nên cũng dễ dàng cho vay.
Bước sang năm 2008, kinh tế khó khăn, NH hạn chế cho vay để thực hiện mục tiêu kiềm
chế lạm phát) khiến các DNN&V khó khăn trong tiếp cận vốn. Nhiều DN không chống
đỡ được tác động từ sự bất ổn của nền kinh tế nên buộc phải thu hẹp sản xuất và giảm dần
dư nợ. Do doanh thu giảm trong khi chi phí sản xuất và lãi suất vay vốn tăng cao, một số
DN đã không trả được nợ đúng hạn dẫn đến phát sinh nợ quá hạn.

Dư nợ cho vay 163.673 DN nhỏ và vừa trên cả nước đến cuối tháng 7.2008 của các ngân
hàng thương mại đạt gần 300 nghìn tỉ đồng, chiếm 27,3% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế
và tăng 16,65% so với cuối năm 2007. Ngân hàng Nhà nước ngày 30.9 dẫn báo cáo của 6
ngân hàng thương mại nhà nước (bao gồm cả Vietcombank) và 31 ngân hàng thương
mại cổ phần cho hay thông tin trên.
Đáng lưu ý, tỉ lệ nợ xấu cho vay DN nhỏ và vừa của toàn hệ thống theo số liệu mới nhất
chiếm 3,64% (10.886 tỉ đồng) và tăng khoảng 1% so với năm 2007. Trong đó tỉ lệ nợ xấu



của khối ngân hàng thương mại nhà nước lên tới 4,59%, ngân hàng thương mại cổ phần là
2,44%, ngân hàng liên doanh và nước ngoài 1,45%.
Trong 7 tháng của năm 2008, doanh số cho vay của các ngân hàng thương mại
(NHTM) đối với DNNVV là 289.100 tỷ đồng, trong đó, khối NHTM Nhà nước
chiếm 47,7%, khối NHTM cổ phần chiếm 47,07%; khối ngân hàng liên doanh, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài chiếm 2,5%. Dư nợ cho vay DNNVV đến
31/7/2008 của các ngân hàng thương mại đạt 299.472 tỷ đồng (chiếm 27,3%
tổng dư nợ cho vay nền kinh tế), tăng 16,65% so với 31/12/2007 và tăng 70,5%
so với 31/12/2006. Riêng trong lĩnh vực nông nghiệp, dư nợ chiếm 5,1% trên
tổng dư nợ, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm 38,51%, lĩnh vực thương
mại, dịch vụ 56,39% . Đi đầu trong việc cho vay các DNNVV là các NHTM Nhà
nước, chiếm tỷ trọng 56,98% toàn ngành; tiếp đến là các NHTM cổ phần.
Theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước , 23% trong số các DNNVV có quan hệ
tín dụng với các ngân hàng thương mại hiện đang hoạt động kinh doanh có hiệu
quả; 73,2% hoạt động trung bình và 3,8% gặp khó khăn; trong đó chỉ có 1,42%
có khả năng mất vốn. Tỷ lệ nợ xấu cho vay DNNVV của toàn hệ thống ngân hàng
khoảng 3,64% , tăng 1% so với năm 2007 nhưng giảm 0,19% so với năm 2006.
Ngân hàng Nhà nước cho biết: Đang chỉ đạo chặt chẽ các tổ chức tín dụng ưu
tiên vốn đầu tư cho DNNVV, gắn kết với doanh nghiệp, bám sát từng lĩnh vực
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để phục vụ và cùng chia sẻ rủi ro. Các
TCTD được chủ động xem xét xử lý trong phạm vi khả năng tài chính cho phép;
trong trường hợp vượt khả năng tài chính, Ngân hàng Nhà nước sẽ báo cáo Thủ
tướng Chính phủ xem xét, tạo điều kiện cho các DNNVV tiếp cận được với vốn
vay ngân hàng. Tới đây, Ngân hàng Nhà nước sẽ công bố số liệu về tăng trưởng
tín dụng cho khu vực DNNVV. Không ít ý kiến cho rằng: Tăng trưởng của khu
vực này vẫn tốt.
Theo Vụ Tín dụng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, một trong những đối tượng được ngân
hàng chú trọng đầu tư vốn là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), đặc biệt là
DNNVV trong lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, nông nghiệp và nông thôn. Hiện nay,

đang có 50% trong tổng số DNNVV có quan hệ tín dụng với ngân hàng và tỷ trọng vốn
vay ngân hàng của các doanh nghiệp này chiếm 45,31% trong tổng nguồn vốn hoạt động
của họ.
Đến 29/09/2008, Dư nợ tín dụng cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm
27,3% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế
Từ ngày 1-10-2008, LS huy động VND của khối ngân hàng thương mại nhà nước phổ
biến ở mức 16,98-17,14%/năm, của khối ngân hàng thương mại cổ phần phổ biến ở mức
17,38-17,9%/năm. Nhóm các ngân hàng thương mại nhà nước và Ngân hàng thương mại
cổ phần Ngoại Thương (Vietcombank) cũng bắt đầu áp dụng LS cho vay mới, giảm từ
0,5-1,8%/năm so với trước. Một số Ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh


và chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng đang xem xét giảm LS cho vay phù hợp với chỉ
đạo của Thủ tướng Chính phủ, cung-cầu vốn và mặt bằng LS thị trường; trong đó chú
trọng giảm LS đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, thu mua lương thực, DNVVN và các
dự án đầu tư có hiệu quả.
Đáng chú ý nhất trong tuần qua là hàng loạt các ngân hàng công bố giảm mạnh LS cho
vay doanh nghiệp, triển khai các chương trình cho vay doanh nghiệp với LS ưu đãi và
dành hàng ngàn tỉ đồng giải ngân cho DNVVN trong thời gian từ 1-10-2008 đến cuối
năm. Cụ thể, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển công bố giảm LS cho vay còn ở mức từ
17,5-18,2%/năm, trong đó, LS cho vay đối với DNVVN giảm còn 17,8%/năm.
Vietcombank cũng công bố giảm LS cho vay còn 19,5%/năm và dành 3.000 tỉ đồng cho
vay phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh của các DNVVN làm ăn có hiệu quả. Eximbank
cũng điều chỉnh giảm LS cho vay đối với DNVVN còn 17,5% và công bố dành 3.000 tỉ
đồng giải ngân cho đối tượng khách hàng này.
Theo thống kê của Hiệp hội Công thương Hà Nội, đến thời điểm tháng 10/2008, trên địa
bàn Hà Nội mới có 4.658 DN dân doanh và 510 hộ cá thể được vay số tiền 25.658 tỷ đồng
(chiếm 10,41%) trong tổng số 246.322 tỷ đồng dư nợ cho vay trên địa bàn. Trong khi đó,
vốn huy động được cùng kỳ là 425.317 tỷ đồng. Nếu tính theo đơn vị thì số DN được vay
chiếm tỷ lệ 9,93% (4.658/46.900 DN), tỷ lệ này đối với hộ kinh doanh lại càng thấp hơn

(510/115.000 hộ), bằng 0,14%.
Tại TP. HCM, trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước, tình hình có vẻ khả dĩ hơn. Tổng số
vốn huy động được qua các tổ chức tín dụng là 588.000 tỷ đồng thì có 446.800 tỷ đồng
được giải ngân, trong đó 14.040 DN dân doanh được vay số tiền 207.500 tỷ đồng, chiếm
42% tổng dư nợ cùng kỳ, tính theo DN thì tỷ lệ này là 17,44% (14.040/805.000 DN).
Theo Ngân hàng Nhà nước, đến ngày 30/10, tổng dư nợ cho vay DNNVV là 263.000 tỷ
đồng, trừ số tiền mà DN tại Hà Nội và TP. HCM được vay (233.158 tỷ đồng) thì các DN
tại 61 tỉnh, thành còn lại được vay thật khiêm tốn. Nếu tính bình quân, mỗi DN tại 61
tỉnh, thành được vay vỏn vẹn vài trăm triệu đồng.
Thực hiện Nghị quyết 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ về những giải
pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an
sinh xã hội, kể từ ngày 22/12/2008, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
(Vietcombank) quyết định điều chỉnh giảm mạnh lãi suất cho vay ưu đãi và lãi suất cho
vay thông thường bằng VND. Theo đó, các mức lãi suất cụ thể như sau:
- Lãi suất cho vay ưu đãi: 8,5%/năm
- Lãi suất cho vay thông thường: 11%/năm
Như vậy, đây là lần điều chỉnh giảm thứ 3 trong tháng 12 của Vietcombank. Với việc chủ
động giảm lãi suất cho vay liên tục, Vietcombank đã thực sự góp phần kích cầu đầu tư,
tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các


doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu, doanh
nghiệp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm và hỗ trợ phục hồi sản xuất nông nghiệp.
Vietcombank cam kết sẽ tiếp tục hỗ trợ tối đa cũng như chia sẻ khó khăn với các khách
hàng và doanh nghiệp, góp phần ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế
và đảm bảo an sinh xã hội theo định hướng của Chính phủ.
Theo ông Nguyễn Viết Mạnh, DNNVV chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng số khách hàng
của VietinBank. Nếu có 200 nghìn DN được vay vốn thì 90% là DNVVN. Dư nợ tín dụng
cho vay DNVVN của VietinBank hiện vào khoảng 45 nghìn tỷ đồng, chiếm trên 40%
tổng dư nợ cho vay. Riêng trong giai đoạn khó khăn vừa qua, để tháo gỡ khó khăn cho

DNNVV, VietinBank đã dành 10 nghìn tỷ đồng để hỗ trợ cho vay khi DNNVV hội tụ đủ
các điều kiện.
Tính đến 31/10/2008, dư nợ cho vay đối với DNNVV của Agribank cũng đạt 84.210 tỷ
đồng, chiếm 32% tổng dư nợ. Những tháng đầu năm 2008, mặc dù các NHTM phải thực
thi chính sách thắt chặt tiền tệ để giảm lạm phát, nhưng Agribank vẫn dành hàng chục
nghìn tỷ đồng để đáp ứng nhu cầu vốn cho DNNVV, nhất là các DN hoạt động trong lĩnh
vực nông nghiệp, nông thôn với mức lãi suất ưu đãi. Ngoài cho vay, Agribank còn thực
hiện hoạt động cho thuê tài chính đối với DNNVV với số dư trên 5 nghìn tỷ đồng. Đến
nay, có gần 30.000 DNNVV đang có quan hệ tín dụng với Agribank, tăng 26 nghìn so với
năm 2001.
Ngày 19/11/2008 , Lãi suất cho vay bình quân trên thị trường đã giảm về bằng mức lãi
suất cho vay năm 2007, hiện đang từ 10% đến 14%/năm. Nhưng nguồn vốn bơm ra thị
trường vẫn chưa được như kỳ vọng, mặc dù các ngân hàng đã sử dụng nhiều biện pháp
tiếp thị.
Lãi suất cho vay đã giảm đến mức được cho là hấp dẫn, nhưng trong tình hình này nhiều
khách hàng vẫn "ngó lơ" ngân hàng. Gói kích cầu của NHTMCP An Bình (ABBank)
"Cho vay được vàng" đến nay dư nợ đạt được khoảng 100 tỷ đồng trên mục tiêu tối thiểu
là 500 tỷ đồng. Lãi suất cho vay sản xuất kinh doanh của ABBank đã giảm xuống còn
14%/năm, cho vay sản xuất kinh doanh trả góp (YouShop) là 14,5%/năm. Ông Đàm Thế
Thái - Giám đốc khối Khách hàng cá nhân ABBank cho biết, so với cuối năm 2007 thì
mức giải ngân đã giảm 4-5 lần. Mặc dù, lãi suất cuối năm 2008 đang thấp hơn cuối năm
2007 (năm 2007 là 14,4%/năm), nhưng giải ngân của ngân hàng vẫn không như kỳ vọng.
Hiện tại, nhiều ngân hàng luôn khẳng định vẫn tiếp tục bơm vốn ra thị trường. Nhưng
trong tình hình hiện nay thì khách hàng tốt vẫn còn xem xét đợi đến khi lãi suất giảm
thêm. Do vậy, nhiều ngân hàng đã phải dùng "vốn mồi" để kích thích DN vay vốn. Chẳng
hạn, NHTMCP Quốc tế (VIB Bank) chi nhánh TP. Hồ Chí Minh cũng vừa có cuộc gặp gỡ
các DN dệt may là thành viên của Hội dệt may thêu đan TP. Hồ Chí Minh, trong đó VIB
Bank đã tiếp thị vốn đến khối DN này sản phẩm "Vay vốn VND tài trợ cho sản xuất hàng
xuất khẩu với lãi suất siêu ưu đãi chỉ từ 8% - 10%/năm". Ông Ngô Xuân Dũng - Giám
đốc điều hành VIB Bank chi nhánh TP. Hồ Chí Minh cho biết, ngân hàng xét cấp vốn dựa

trên kết quả kinh doanh, thực lực, khả năng thanh khoản của DN và xu hướng phát triển
của ngành nghề đó.


Tuy nhiên, DN xuất khẩu đang gặp khó khăn, nhiều đơn hàng của DN xuất khẩu cũng đã
bị tạm ngưng, dẫn tới việc DN trì hoãn vay vốn ngân hàng. Ông Nguyễn Văn Sẽ - Giám
đốc Sở giao dịch 2 - Ngân hàng Công Thương Việt Nam (SGD2-VietinBank) cho biết, lãi
suất cho vay ngắn hạn của VietinBank đang là 12%/năm, trung và dài hạn là 14%/năm.
VietinBank đang hỗ trợ nhiều cho DN ngành điều, thuỷ sản, lúa gạo… Nếu DN có đầu ra
cho hàng hoá của mình thì VietinBank vẫn tài trợ vốn cho DN bình thường.
Ngày 13/11, Ngân hàng Đầu tư - Phát triển Việt Nam (BIDV) cho biết sẽ bổ sung 3.000
tỷ đồng cho các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất kinh doanh các mặt hàng xuất khẩu, ưu
tiên các doanh nghiệp thực hiện thu mua lương thực xuất khẩu, các doanh nghiệp đã có
hợp đồng xuất khẩu.
Theo ông Trần Bắc Hà, Chủ tịch Hội đồng quản trị BIDV, với 3.000 tỷ đồng bổ sung cho
doanh nghiệp vay lần này, đã nâng tổng số vốn BIDV dành cho vay khối doanh nghiệp
lên đến 33.000 tỷ đồng.
Trước đó, số vốn 30.000 tỷ đồng cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa của BIDV
đã bắt đầu được giải ngân mạnh và dự kiến 31/12/2008 sẽ đạt 3.000 tỷ đồng.
Ngày 7/1/2009, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) thông báo tiếp tục
giảm thêm lãi suất cho vay, mức thấp nhất là 6,5% với VND.
Theo thông báo của BIDV, trong lần điều chỉnh này, lãi suất cho vay bằng nội và ngoại tệ
sẽ tiếp tục giảm, áp dụng từ ngày 9/1; trong đó mức lãi suất cho vay VND thấp nhất là
6,5%/năm, thấp hơn lãi suất cơ bản hiện hành 2%.
Đối với cho vay ngắn hạn bằng VND, BIDV giảm lãi suất xuống mức 6,5%/năm (trong
thời hạn đến 3 tháng) đối với dư nợ của khách hàng còn sản phẩm tồn kho, chậm tiêu thụ
như phôi thép, thép xây dựng, phân bón, xi măng và thuốc chữa bệnh.
Lãi suất 8,5%/năm (thời hạn đến 3 tháng) được BIDV áp với các khoản vay xuất khẩu có
hợp đồng xuất khẩu trực tiếp và khách hàng có cam kết bán lại ngoại tệ tương ứng cho
ngân hàng.

Lãi suất cho vay ngắn hạn đồng loạt áp mức 9%/năm cho khách hàng là doanh nghiệp nhỏ
và vừa, doanh nghiệp sử dụng trên 1.000 lao động, sản xuất hàng tiêu dùng thay thế hàng
nhập khẩu.
Các khoản vay còn lại chia làm hai kỳ hạn: 9,5% - 10%/năm đối với thời hạn cho vay đến
6 tháng; 10% - 10,5%/năm đối với thời hạn cho vay trên 6 tháng.
Đối với các đối tượng, mặt hàng, sản phẩm được cấp bù lãi suất của Chính phủ, cho vay
kích cầu, thu mua lúa tồn trong dân, nông sản tồn kho, gạo, cà phê, cao su, cho vay các
đối tượng thuộc trong 5 gói giải pháp của Chính phủ được hỗ trợ cấp bù lãi suất qua Ngân
hàng Phát triển Việt nam, BIDV sẽ thực hiện theo chỉ đạo của Chính phủ.



Về cho vay trung và dài hạn, BIDV áp dụng lãi suất cho vay trung dài hạn bằng lãi suất
tiết kiệm 12 tháng trả sau cộng với phí tối thiểu là 3%/năm nhưng không vượt quá 150%
lãi suất cơ bản.
Đối với cho vay bằng USD, BIDV áp dụng mức lãi suất cho vay ngắn hạn chung cho tất
cả các khách hàng, thời hạn cho vay đến 3 tháng thấp nhất là 4,8%/năm; thời hạn cho vay
từ trên 3 tháng đến 6 tháng thấp nhất là 5,3%/năm; thời hạn cho vay trên 6 tháng thấp nhất
5,7%/năm.
Theo Bộ trưởng Kế hoạch - Đầu tư Võ Hồng Phúc, nguồn tiền 1 tỷ USD kích cầu sẽ
dùng để hỗ trợ lãi suất cho ngân hàng, để ngân hàng ưu tiên giúp đỡ DN. Đối tượng
được hỗ trợ phần lớn sẽ là DN vừa và nhỏ, mức bù lãi suất có thể là 4%. Bên cạnh đó,
một phần có thể dành xây dựng nhà ở xã hội, nhà ở cho sinh viên, giải quyết việc làm,
phát triển nông nghiệp và nông thôn.“Như vậy khoản tiền này không cho không, mà chỉ
hỗ trợ lãi suất. Và sẽ sử dụng công khai, minh bạch”, Bộ trưởng Phúc khẳng định. Thông
tin được đưa ra trong buổi họp báo cuối năm, sau phiên họp của Chính phủ tại TP.HCM
chiều 24/12.

Mục tiêu năm 2009 được Chính phủ xác định là thúc đẩy sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu.
Để thực hiện mục tiêu này, trọng tâm sẽ là tháo gỡ khó khăn để DN sản xuất và tiêu thụ

các mặt hàng, nhất là mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn, có khả năng tăng trưởng cao.
II. TÌNH HÌNH KINH TẾ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP:
Ông Nguyễn Lương Phước, Giám đốc Công ty TNHH Công nghiệp In Bao bì Hoàng Lộc,
cho biết hiện tại, việc vay vốn lưu động của công ty đã bớt khó khăn, nhưng khó vay vốn
trung và dài hạn do không có tài sản thế chấp. Vừa qua, chúng tôi có kế hoạch đầu tư thiết
bị cho nhà máy bao bì trị giá khoảng 5,5 tỉ đồng, nhưng ngân hàng không chấp thuận đầu
tư. Chúng tôi đã mời đối tác cung cấp thiết bị đến công ty trực tiếp khảo sát hoạt động sản
xuất kinh doanh và thương lượng trả chậm. Kết quả, đối tác Đài Loan đồng ý cho chúng
tôi thanh toán trước 30%, số tiền còn lại trả trong 2 năm. Ngoài ra, chúng tôi cũng linh
hoạt đàm phán được với các khách hàng lớn rút ngắn thời gian thanh toán tiền hàng, đổi
lại chúng tôi dành một số ưu đãi cho khách hàng”.
Công ty TNHH Cơ khí Thế Dân chủ yếu sử dụng vốn tự có nên không gặp nhiều khó
khăn do chính sách thắt chặt tiền tệ trong thời gian qua. Năm nay, tình hình thị trường có
nhiều khó khăn do giá cả biến động nhưng công ty này đã hoàn thành hợp đồng cũ và tiến
hành ký kết hợp đồng mới với khách hàng ngay trong thời điểm giá cả nguyên vật liệu
tăng nên không bị thiệt hại. Ngoài ra, công ty còn phát triển thêm được khách hàng ở Úc,
Ấn Độ; uyển chuyển thay đổi mặt hàng, chuyển từ gia công sang chế tạo máy và thương
lượng với khách hàng được tạm ứng trước 70% giá trị hợp đồng. Tất cả là nhờ công ty có
uy tín lâu năm với khách hàng, nên hiệu quả kinh doanh 9 tháng đầu năm vẫn tăng so với
cùng kỳ năm trước. Ông Lâm Thế Vân, Giám đốc Công ty TNHH Cơ khí Thế Dân, nhận
định: “Việc các ngân hàng giảm LS cho vay và tăng cường hỗ trợ vốn cho DNVVN là tín
hiệu vui. Tuy nhiên, công ty chúng tôi đã quyết định tạm gác lại kế hoạch đầu tư phân


xưởng mới với kinh phí khoảng 4 tỉ đồng vào cuối năm nay do LS ngân hàng vẫn còn cao,
thị trường vẫn còn diễn biến khó lường”.
Công ty TNHH Cơ khí Minh Tú là một trong những DNVVN được các ngân hàng đánh
giá là uy tín tốt, nhưng vẫn khó tiếp cận nguồn vốn vay trung và dài hạn dù công ty vẫn
được ngân hàng cung cấp vốn lưu động theo hạn mức đã có. Ông Trịnh Minh Tú, Giám
đốc công ty, nói: “Việc các ngân hàng công bố giảm LS cho vay và dành hàng ngàn tỉ

đồng hỗ trợ vốn cho DNVVN, theo tôi chỉ là dấu hiệu cho thấy thị trường vốn đã được
nới lỏng vì thực tế các chương trình này của ngân hàng chưa được triển khai rộng rãi.
Mức LS cho vay hiện cũng còn quá cao, nhiều rủi ro trong tình hình kinh doanh khó khăn
như hiện nay. Vì vậy, chúng tôi đã tạm gác lại dự án đầu tư với kinh phí khoảng 100 tỉ
đồng. Thay vì vay vốn ngân hàng, chúng tôi đang tính đến phương án gọi vốn cổ phần”.
Bà Nguyễn Mỹ Thuận, Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp TP Cần Thơ, nói: “Những
giải pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ đã bắt đầu phát huy hiệu quả. Nhưng dù tình
hình thị trường tài chính tiền tệ đã khả quan hơn nhưng vẫn chưa được cải thiện hoàn
toàn, nên DNVVN vẫn còn gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay. Ngoài việc cắt
giảm chi phí, thu hẹp quy mô hoạt động, các DNVVN ở TP Cần Thơ chủ yếu vẫn tự xoay
xở vốn bằng cách huy động vốn qua các mối quan hệ xã hội, đàm phán với khách hàng rút
ngắn thời gian thanh toán tiền hàng Tuy nhiên, phần lớn DNVVN đều gặp khó khăn.
Chỉ những doanh nghiệp có uy tín, dự báo tốt về tình hình thị trường và điều chỉnh kế
hoạch kinh doanh kịp thời mới có thể đảm bảo hoạt động không lỗ và có hiệu quả”.
Trong khi nhiều ngân hàng TMCP định vị đối tượng khách hàng mục tiêu của mình
là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) thì hiện tại, số DN được vay vốn lại quá
khiêm tốn. Vì sao có nghịch lý này trong bối cảnh lãi suất cho vay đang giảm mạnh,
ngân hàng “thừa tiền” và nhu cầu của DN là khá lớn?
Qua những con số trên có thể thấy, số DN được vay vốn từ ngân hàng là không nhiều và
cơ hội tiếp cận nguồn vốn là rất khác nhau. Trong khi DNNVV đóng góp đến 18.000 tỷ
đồng tiền thuế (chủ yếu là thuế doanh thu, chưa kể thuế xuất nhập khẩu, thuế trước bạ,
phí, lệ phí…) thì việc được tiếp cận nguồn vốn tín dụng như trên quả là thiếu công bằng.
Ở một góc độ nào đó, chính sách mới dừng lại ở việc khuyến khích DNNVV ra đời, mà
chưa có nhiều biện pháp hỗ trợ khối DN này có cơ hội phát triển, nhất là cơ hội tiếp cận
vốn ngân hàng.
Vì sao?
“Giữa ngân hàng và DN hiện nay như có sự thách đố lẫn nhau”, ông Vũ Duy Thái, Chủ
tịch Hiệp hội Công thương Hà Nội nhận xét. Về phía DN, hầu như DN có quan hệ từ
trước với ngân hàng mới có cơ hội vay vốn. Trên thực tế, DN muốn vay vốn, nhưng
phương án kinh doanh không rõ ràng khiến ngân hàng phải mất công thẩm định, vốn tự có

thường thấp hơn so với quy định (30%), phương án trả nợ thiếu rõ ràng, minh bạch…; tài
sản thế chấp thường có giá trị thấp, tính thanh khoản không cao, nên số tiền được vay


không lớn; do không chắc có được vay, nên hồ sơ vay vốn không làm cẩn thận, ngại thuê
tư vấn làm hồ sơ.
Về phía ngân hàng, trước những biến động trên thị trường tiền tệ vừa qua, họ cũng thận
trọng hơn trong các quyết định cho vay. TTCK suy giảm mạnh, ngân hàng còn chịu sức
ép của cổ đông, phải ưu tiên cho mục tiêu an toàn trước khi tính toán đến lợi nhuận. Do
đó, việc cho vay tín chấp đối với DNNVV là không thể. Ngân hàng vẫn đang có sự lo
ngại nhất định khi cho DNNVV vay, do đó cần xây dựng lòng tin với DN đối với cả hai
phía.
Không chỉ là vấn đề niềm tin, câu chuyện còn nằm ở cơ chế. Chẳng hạn, việc khống chế
lãi suất trần trong năm nay là một rào cản lớn đối với ngân hàng.
Ông Kiều Hữu Dũng, Chủ tịch Hội đồng thành viên CTCK ACBS cho biết, hiện nay
nhiều ngân hàng thừa vốn thì các DN lại khó vay trong khi rất “khát” vốn. Cần tháo gỡ
nút thắt này bằng cách bỏ lãi suất trần (chỉ áp dụng cho trường hợp cá nhân cho vay lẫn
nhau), cho phép thực hiện lãi suất thỏa thuận giữa ngân hàng và DN.
Phó Tổng giám đốc một Ngân hàng thương mại cổ phần nói: “Cơ chế điều hành lãi suất
thông qua lãi suất cơ bản thực chất là một dạng quy định hành chính, chỉ thích hợp với
những điều kiện kinh tế đặc biệt. Khi nền kinh tế đã trở lại bình thường thì nên để cho thị
trường tự quyết định”. Thế nhưng năm 2009, kinh tế Việt Nam được dự báo là còn rất
nhiều khó khăn, thách thức, phải đương đầu với suy giảm kinh tế. Tháo gỡ khó khăn để
đẩy mạnh sản xuất kinh doanh là giải pháp đầu tiên trong nhóm 5giải pháp chủ yếu mà
Chính phủ đề ra. Chính sách lãi suất lại là một trong những nhân tố quan trọng để duy trì,
thúc đẩy sản xuất - kinh doanh. Hiện nay, nhiều hợp đồng tín dụng của doanh nghiệp còn
đang ở mức lãi suất từ 18% - 21%/năm, kỳ điều chỉnh tới của các hợp đồng này là vào
những tháng quý I/2009. Doanh nghiệp đang chờ đợi đến thời điểm đó được giảm lãi suất
về mức có thể chịu đựng được (từ 12%/năm trở xuống) để bớt gánh nặng trả lãi, giảm dần
chi phí đầu vào. Bên cạnh đó, một số lượng lớn doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp

nhỏ và vừa vẫn đang chờ đợi lãi suất thấp hơn (ở mức 8%-10%/năm) mới mạnh dạn vay.
Có ý kiến cho rằng bản chất của lãi suất là giá cả đồng vốn. Nếu doanh nghiệp thấy lãi
suất cao thì sẽ hạn chế vay mượn, người gửi tiền thấy lãi suất cao sẽ gửi tiền nhiều hơn,
như vậy cung lớn hơn cầu và lãi suất sẽ phải giảm để cân đối lại cung cầu.
Nếu xem DN lớn là “chiến binh” xông ra tiền tuyến thì DNNVV chính là hậu phương
vững chắc, vì thế không nên tạo ra sự bất bình đẳng trong thời điểm cần sự đồng thuận để
vượt qua khó khăn như lúc này.
Trong cuộc điều tra mới đây về tình hình quan hệ tín dụng đối với DNN&V gần đây của
Ngân hàng Nhà nước, các NHTM đã nêu nhiều ý kiến về những tồn tại, hạn chế trong
quan hệ tín dụng với DNN&V hiện nay:
Chưa đủ uy tín kinh doanh


Hạn chế về nhân lực và quản lý, chưa minh bạch tài chính, vốn tự có thấp, khả năng tiếp
cận thông tin và thị trường hạn chế là những nguyên nhân chính khiến NH e ngại khi
cho vay DNN&V.
Theo các NH, đội ngũ quản lý, nhân viên của DNN&V có ít kinh nghiệm, hoạt động
thường chưa ổn định, chưa chuyên nghiệp. Xuất phát điểm của các DN nhỏ thường là từ
kinh nghiệm kinh doanh thực tế của chủ DN, các yếu tố về quản lý và thực thi pháp luật
còn có phần hạn chế nên dẫn đến một số tình trạng không định lượng được rủi ro của hoạt
động kinh doanh.
NHTMCP Nam Á - chi nhánh Hà Nội nhận xét: "DN rất thiếu cán bộ kỹ thuật, thợ lành
nghề chuyên môn cao, các nhà quản lý chuyên nghiệp làm hạn chế việc tiếp cận và áp
dụng tiến bộ KH-KT tiên tiến vào SX cũng như hoạch định chiến lược phát triển, mở rộng
thị trường. Nguyên ngân được xác định là chất lượng các cơ sở đào tạo còn thấp, trang
thiết bị thiếu. Nhiều DN coi đào tạo là chi phí rất ít DN có kế hoạch phát triển nguồn nhân
lực một cách chính thức, đặc biệt nâng cao năng lực chuyên môn cho những cán bộ chủ
chốt có ảnh hưởng đến năng lực quản lý - điều hành và khả năng cạnh tranh của DN".
Do thiếu cán bộ chuyên môn và tài chính hạn chế nên các DN nhỏ thường không thể thu
thập được đầy đủ thông tin thị trường cần thiết (về giá cả, đối tác, bạn hàng nước ngoài )

cho việc ra quyết định kinh doanh. Khả năng mở rộng thị trường, đặc biệt là xuất khẩu bị
hạn chế do ít có tài chính chi cho quảng cáo, tiếp thị và xúc tiến thương mại.

Bên cạnh đó, do quy mô sản xuất nhỏ nên khối lượng sản phẩm SX ra ít, tính liên kết giữa
các DN chưa cao nên chưa đáp ứng được những đơn đặt hàng XK lớn dẫn đến bị bỏ lỡ cơ
hội kinh doanh.
Đặc biệt, hầu như NH nào cũng phàn nàn về thông tin tài chính của DN, NHTMCP Bắc Á
- chi nhánh Hà Nội nhận xét: "DN thường xây dựng báo cáo tài chính mang tính đối phó
với cơ quan thuế, việc hạch toán kế toán nhiều khi chưa chính xác, không đúng tình hình
thực tế, thêm vào đó hoạt động kinh doanh của họ nhiều khi không có hợp đồng kinh tế,
hoá đơn chứng từ và các căn cứ khác để chứng minh mục đích sử dụng vốn vay, chứng
minh tài chính với NH".
Tình trạng hàng hoá không có hợp đồng mua bán, không tuân thủ chế độ phát hành hoá
đơn bán hàng, nhiều phương thức kinh doanh của một số doanh nghiệp như hộ gia đình
của các DN là tương đối phổ biến. Vì vậy, lòng tin của NH với DNN&V không cao và có
chiều hướng giảm sút.
Thiếu tài sản bảo đảm
Vốn tự có tham gia vào dự án, phương án của DNN&V thấp nếu NH cho vay, rủi ro với
NH cao, do đó NH yêu cầu các điều kiện về tài sản bảo đảm nghiêm ngặt hơn, nhưng
phần lớn các DN lại thiếu TSBĐ. Thủ tục về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay
tài sản gắn liền với đất cho DN gặp nhiều khó khăn, thời gian chờ rất lâu, đặc biệt khi DN


chuyển đổi hình thức. Công ty CP tài chính Dầu khí VN nhận xét: “DN thường dùng
TSBĐ cho khoản vay là tài sản cá nhân, trang thiết bị của chính DN. Tài sản cá nhân
thường có giá trị thấp nên không vay được nhiều, tài sản là trang thiết bị nên phần lớn NH
ngại vì khó kiểm soát”’.
Khó khăn trong thẩm định DN
Chủ yếu là nguồn vốn và thông tin thẩm định doanh nghiệp. NHTMCP Xuất nhập khẩu -
Công nghệ Long Biên cho biết: “Khó khăn trong cho vay DNN&V hiện nay là nguồn vốn

cho vay. Trong khi nguồn vốn huy động với mức LS rất cao nhưng LS cho vay bị giới
hạn trần 21%/năm làm cho khe hở LS giữa huy động và cho vay rất hẹp, NH hầu như
không có lãi.
Cho vay DNN&V chi phí cao, lợi nhuận thấp, các món vay bị chia nhỏ gây khó khăn
trong việc thu hồi vốn. Nếu xảy ra rủi ro phải xử lý tài sản đảm bảo cũng rất tốn kém và
mất nhiều thời gian”.
NHTMCP Đông Nam Á - chi nhánh Hai Bà Trưng phản ánh: “Các NH thiếu các nguồn
thông tin đáng tin cậy để đánh giá DN. Trung tâm Thông tin tín dụng của NHNN Việt
Nam hầu như chưa có thông tin về DNN&V. Hiện nay việc đăng ký thành lập pháp nhân
khá đơn giản nhưng không biết DN ra đời có thực sự hoạt động hay không. Hiện chưa tổ
chức nào ở Việt Nam xây dựng hệ thống phân loại và xếp hạng DNN&V để cung cấp
thông tin cho các đơn vị cung ứng vốn”.


GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG SỰ TIẾP CẬN VỐN CHO DOANH NGHIỆP
I. GIẢI PHÁP T
Ừ PHÍA CHÍNH PHỦ, CÁC NHTM:
1.
Kích cầu - cần giải pháp đồng bộ:
Theo GS. Trần Hoàng Ngân - Phó hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí
Minh, hiện nay lãi suất cho vay đã giảm nhiều so với những tháng đầu năm 2008, và
nhiều người cho đây là nguồn vốn rẻ. Nhưng vốn như thế nào được coi là rẻ? Tuy nhiên,
nếu nói là vốn giá rẻ thì phải so sánh với hiệu quả kinh doanh của DN. Trong điều kiện
nền kinh tế khó khăn và suy giảm như hiện nay thì tỷ suất lợi nhuận của nhiều DN cũng
khó đảm bảo đạt được 15%. Để giải quyết bài toán này thì cần khuyến khích tăng trưởng
kinh tế và xuất khẩu trong đó có sự trợ giúp của Chính phủ, bên cạnh việc ngân hàng ưu
tiên lãi suất "mềm" cùng với việc đảm bảo nguồn vốn cho vay ra. Xuất khẩu hiện nay gần
như đang bị tắc ở một số "phân đoạn". Để giải quyết bài toán xuất khẩu thì phải có sự
điều tiết của chính sách vĩ mô, có thể là Nhà nước hỗ trợ cho những DN đi tìm thị trường
xuất khẩu mới cho hàng hoá Việt Nam, như hỗ trợ rủi ro hoặc bảo hiểm cho những DN

tiên phong này… Như vậy, DN giải quyết được đầu ra thì ngân hàng mới cho vay.
Chính phủ vừa có kế hoạch kích cầu tiêu dùng và đầu tư mạnh mẽ thông qua gói giải
pháp 1 tỷ USD, cùng với các quyết định giảm thuế cho DN xuống còn 25% trong năm
2009, và giảm 30% thuế thu nhập DN cho các DN nhỏ và vừa kể từ quý IV/2008. Đây
chính là những thông tin tốt thúc đẩy nền kinh tế phát triển, nhưng còn một biện pháp nữa
đó là tăng lương cho cán bộ công nhân viên. Đây chính là kênh bơm vốn trực tiếp hữu
hiệu nhất hiện nay để cải thiện tình hình đời sống người lao động và cải thiện giá cả hàng
hoá. Tăng lương sẽ tăng nguồn thu của người dân từ đó sẽ tăng cầu về hàng hoá. Song
song đó, việc giảm thuế cho DN sẽ tác động trực tiếp tới việc giảm giá cả hàng hoá. Hai
biện pháp này sẽ kích cầu tiêu dùng tăng trở lại, và sản xuất sẽ không bị đình trệ. Và theo
ông Trần Hoàng Ngân - nguồn tiền để tăng lương sẽ được lấy từ nguồn tiền do phát hành
trái phiếu Chính phủ và cắt giảm chi tiêu công.
Đại diện Agribank cũng cho rằng, Chính phủ và các bộ ngành cần có các quy định cụ
thể về chính sách đất đai và hỗ trợ mặt bằng sản xuất đối với DNNVV; đồng thời chỉnh
sửa quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm, tạo điều kiện để DNNVV đăng ký tài sản thế
chấp khi vay vốn NH
2.
Ngân hàng, DN và bài toán lãi suất:
- Về phía NH nên xem xét một số giải pháp để có thể mở rộng cho vay DNN&V
hiệu quả hơn như: Nghiên cứu chính sách cho vay không chỉ dựa trên tài sản thế chấp mà
sâu sát hơn đến các DN để xem tính khả thi của dự án kinh doanh đưa ra.
Chi nhánh NHĐT&PT Hà Thành cho rằng: “Đối với những DN có phương án kinh
doanh hiệu quả, kết quả hoạt động tốt, quan hệ uy tín với NH cần áp dụng những chính
sách ưu đãi như giảm lãi suất, ưu đãi về tỷ giá và phí, nới lỏng các điều kiện cho vay về


tài sản bảo đảm…”. Một số NH có hướng tham gia cùng DN từ khâu làm phương án dự
án; nâng tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản bảo đảm để hỗ trợ DN…
- Giảm lãi suất để DN tồn tại:
Lãi suất cơ bản giảm, lãi suất cho vay có lúc đã lập đáy 8,5% như vậy vẫn còn quá cao

cho DN có thể phát triển sản xuất kinh doanh. Đây là một mức lãi suất để kìm chế đầu tư
và tiêu dùng.
Trên thế giới chưa từng có một nền kinh tế nào phát triển ổn định bền vững với lãi suất ở
mức ấy. Hiện nay trên thế giới lãi suất chiết khấu và lãi suất cấp vốn từ ngân hàng trung
ương cho ngân hàng thuơng mại là 0,10% bên Nhật, bên Mỹ chỉ còn 0,0% đến 0,25%, và
từ 1 đến 3% bên châu Âu. Hiện nay Fed đang xem xét rút lãi suất chiết khấu xuống còn
0,50%.
Với các mức lãi suất chiết khấu và cung cấp vốn ở mức này các ngân hàng thương mại có
thể cho DN vay với lãi suất từ 1-2% (Nhật) đến 6-7% (Mỹ và châu Âu). Trong tình hình
kinh tế hội nhập, DN Việt Nam sẽ khó có thể cạnh tranh được với lãi suất khoảng 15%
thời gian qua
Vấn đề là trong những tháng vừa qua các ngân hàng thương mại Việt Nam đã huy động
vốn với lãi suất từ 17 đến 19%, nay đang ôm một số vốn huy động với lãi suất cao mà
không tìm được người để cho vay với lãi suất đã giảm mạnh. Do đó các ngân hàng sẽ gặp
khó khăn, bị lỗ nặng, ảnh hưởng đến sự tồn vong của nhiều ngân hàng. Lãi suất sẽ còn
giảm xuống nữa và xí nghiệp không vội vàng gì để đi vay với lãi suất cao.
Trong năm 2009 lãi suất sẽ còn tiếp tục giảm, các xí nghiệp sẽ tìm vay với lãi suất thấp để
trả nợ sớm và huỷ những hợp đồng vay với lãi suất cao. Hệ thống ngân hàng sẽ phải đối
mặt với rất nhiều khó khăn, khó tránh khỏi thua lỗ.
- Ngân hàng làm gì để tránh phá sản?
Một mặt DN cần vay vốn với lãi suất ở mức cạnh tranh với quốc tế, khoảng từ 5 đến 7%,
mặt khác ngân hàng đã lỡ huy động vốn với lãi suất 17-19%, vậy thì có giải pháp nào để
cung ứng đầy đủ tín dụng cho DN phát triển, đồng thời không đẩy ngân hàng đến phá
sản?
Một phương án khả thi là Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cung cấp vốn cho ngân hàng
thương mại (NHTM) với lãi suất 1-2% để NHTM cho DN vay với lãi suất 5-7%, và đem
hợp đồng vay chiết khấu lại cho NHNN. Như vậy NHTM không phải huy động vốn trong
nhân dân, mà chỉ thực hiện chức năng giám định các dự án khả thi, lựa chọn các DN có
sản phẩm tốt, có thị trường ổn định và phát triển, có ban quản lý tốt, có khả năng hoạt
động kinh doanh có lãi, bảo đảm được việc hoàn trả vốn và trả lãi cho ngân hàng.



Tuy chiết khấu hợp đồng cho vay cho NHNN nhưng NHTM vẫn chịu trách nhiệm quản lý
hợp đồng cho vay, và thu hồi vốn. Việc này đòi hỏi NHTM phải có đội ngũ cán bộ có
kiến thức và kỹ năng cần thiết.
Về phần NHNN, là một thể chế quốc gia có quyền phát hành tiền tệ và tín dụng, NHNN
không phải huy động vốn trong nhân dân và không phải trả lãi suất, vì thế NHNN có thể
cung cấp vốn cho NHTM với lãi suất 0,30% như bên Nhật hay 1,00% như bên Mỹ.
Vai trò và chức năng của NHNN là cung cấp tiền tệ, tín dụng, và điều tiết lưu lượng để
nền kinh tế có đủ dung lượng tiền và tín dụng để phát triển ổn định bền vững, đồng thời
không để xảy ra lạm phát hay thiểu phát. NHNN không có mục đích làm ra lợi nhuận.
Việc kinh doanh dịch vụ ngân hàng là vai trò và chức năng của NHTM được NHNN cấp
vốn để cho DN vay.
Mức lãi suất cấp vốn và chiết khấu tuỳ nơi chính sách cần nới rộng tín dụng hay thu hẹp
tín dụng, tuỳ từng thời kỳ cần phải hỗ trợ phát triển hay cần phải làm cho “hạ nhiệt”, giảm
tiến độ sản xuất kinh doanh, kiềm chế lạm phát.
3.
Tham khảo gói giải pháp của BIDV hỗ trợ DNNVV: Vượt khó trước mắt,
phát triển lâu dài:
Không chỉ áp dụng mức lãi suất cho vay ấn tượng (11,4%/năm), ngày 29/11/2008, Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) còn công bố gói giải pháp dành cho doanh
nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV). Những giải pháp của BIDV không chỉ giúp doanh nghiệp
(DN) vượt qua khó khăn trước mắt, mà còn tiếp tục hỗ trợ họ phát triển trong dài hạn.
Mục tiêu của BIDV là trở thành ngân hàng thương mại dẫn đầu trong cung ứng tín dụng,
dịch vụ cho các DNNVV. Hiện có hơn 17.000 DNNVV đang có quan hệ với BIDV; với
tổng dư nợ cho vay và bảo lãnh 43.527 tỷ đồng, chiếm 21,5% hoạt động này của toàn hệ
thống BIDV. Nếu so với năm 2006, số khách hàng là DNNVV của BIDV đã tăng thêm
3.618 DN. Xét về quy mô, dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh của khối DNNVV tại BIDV
tăng 15.485 tỷ đồng (tăng 55,2%) so với năm 2006. Mức tăng trưởng tín dụng đối với
khối DNNVV luôn cao hơn mức tăng bình quân của toàn hệ thống BIDV. Thời gian qua,

BIDV không ngừng chia sẻ khó khăn đối với DN như giảm lãi suất cho vay (LSCV); thực
hiện cơ chế linh hoạt về tài sản bảo đảm… Từ tháng 9/2008 đến nay, BIDV đã 9 lần giảm
lãi suất cho vay. Hiện BIDV áp dụng LSCV đối với DNNVV là 11,4%/năm - thấp hơn
mức LSCV ngắn hạn thông thường 1,6%/năm (áp dụng từ 1/12/2008). Dự kiến trong
tháng 12/2008, mức tăng trưởng tín dụng của BIDV sẽ tăng từ 3 - 3,5% so với tháng
11/2008, tương đương khoảng 4.500- 5.000 tỷ đồng được các DN hấp thụ.
Trong gói giải pháp dành cho DNNVV lần này, BIDV đưa ra những hỗ trợ cả trong ngắn
hạn và dài hạn cho DN. Để tạo mọi điều kiện cho DN tiếp cận được nguồn vốn ngân
hàng, BIDV áp dụng linh hoạt các hình thức bảo đảm tiền vay như cho vay trên cơ sở tài
sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh của bên thứ 3, tài sản hình thành từ vốn vay, nguyên vật
liệu tồn kho, quản chấp lô hàng, quyền đòi nợ… Trong một số trường hợp, dựa trên cơ sở


hiệu quả của dự án đầu tư (hoặc phương án kinh doanh) và kết quả xếp hạng DN, BIDV
có thể cho vay không có tài sản bảo đảm. Ngoài các hình thức cho vay thông thường, các
DN xuất khẩu còn có thể tham gia chương trình hoán đổi tiền tệ chéo VND-USD; chiết
khấu bộ chứng từ hàng xuất. Không những thế, BIDV còn hỗ trợ, tư vấn cho DNNVV
trong việc lập dự án, hồ sơ vay vốn; Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực về lĩnh vực tài chính
ngân hàng Quan trọng hơn, BIDV sẽ xem xét góp vốn đầu tư, liên doanh, liên kết đối
với các DNNVV phù hợp với định hướng phát triển của BIDV.
Trước mắt, BIDV sẽ tiếp tục tài trợ vốn để hỗ trợ DNNVV duy trì và phát triển hoạt động
sản xuất kinh doanh. BIDV dành sự hỗ trợ đặc biệt cho những DN hoạt động trong lĩnh
vực sản xuất hàng xuất khẩu, sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu; DN khai thác chế biến
tài nguyên khoáng sản, đầu tư thuỷ điện vừa và nhỏ. Trong điều kiện kinh doanh khó
khăn hiện nay, nhiều DN phải thay đổi kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình. Để tăng
cường sức "đề kháng" cho DN, ngân hàng sẽ tư vấn cho DN tái cấu trúc tài chính, cơ cấu
nợ, tăng năng lực tài chính cho DN… nhằm duy trì hoạt động cho DN và tạo nền tảng
phát triển sau khi các DN vượt qua khó khăn.
Dự kiến đến năm 2010, BIDV sẽ đạt tổng dư nợ cho vay và bảo lãnh đối với khối
DNNVV khoảng 100.000 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 35% trên tổng dư nợ cho vay và

bảo lãnh của BIDV. Ông Trần Bắc Hà, Chủ tịch HĐQT BIDV cho rằng, gói giải pháp này
sẽ góp phần hỗ trợ các DNNVV phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, đóng góp được
nhiều kết quả hơn nữa cho Nhà nước và xã hội. Gói giải pháp của BIDV sẽ tạo điều kiện
cho các DNNVV đang gặp khó khăn duy trì được hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định
và tạo được nền tảng cho sự phát triển
II. GIẢI PHÁP VỀ PHÍA CÁC DOANH NGHIỆP: Làm gì để tiếp cận được vốn
NH:
Phó Giám đốc một NHTMCP nói: "DN phải nỗ lực hơn nữa để nâng cao năng lực, chủ
động trong việc XD dự án, phương án đầu tư phù hợp với năng lực vốn, công nghệ và con
người. Đặc biệt phải minh bạch về tài chính. Thuyết phục được NH về hiệu quả kinh
doanh một cách rõ ràng những tiêu chí như: khó khăn và thuận lợi của dự án, chi phí ban
đầu, doanh thu, kế hoạch trả nợ ".
Từ góc độ của những nhà kinh tế, các tổ chức tín dụng cho rằng, DN chỉ nên coi vốn vay
NH là nguồn vốn bổ sung. Do đó, bằng mọi biện pháp, DN phải tăng vốn tự có và tăng
năng lực tự chủ tài chính của mình, không nên dựa vào vốn ngân hàng làm nguồn vốn
chính để SX-KD. Việc hoạch định SX-KD cũng phải phù hợp với khả năng tài chính,
kiểm soát, khả năng quản lý, huy động vốn, cũng như phù hợp với tình hình thị trường.
Đại diện VietinBank - ông Nguyễn Viết Mạnh cho rằng, để tăng khả năng tiếp cận với
vốn NH, cùng với việc khắc phục những hạn chế về tính minh bạch, DNNVV cần quan
tâm đặc biệt đến xây dựng thương hiệu và uy tín. "Chỉ một lần DN bị một tổ chức tín
dụng nào đó xếp vào nhóm nợ có vấn đề, nhóm nợ xấu hoặc nhóm nợ cần phải quan tâm


thì lập tức "lịch sử" đó sẽ được ghi vào hệ thống thông tin tín dụng của NH (CIC) Như
vậy, khi vay vốn DN sẽ gặp khó khăn hơn".


×