Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

hội chưng ruột kích thích

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.09 KB, 15 trang )

Hội chưng ruột kích thích
Hội chứng ruột kích thích (IBS hoặc bệnh co thắt đại tràng) là một chẩn đoán loại trừ. Nó là một
rối loạn chức năng đường tiêu hóa đặc trưng bởi đau bụng mạn tính, khó chịu, đầy hơi, và thay
đổi thói quen đi cầu mà không tìm thấy bất cứ tổn thương thực thể nào. Trong một số trường
hợp, các triệu chứng thuyên giảm sau đi cầu. Bệnh có thể biểu hiện bằng tiêu chảy hoặc táo bón,
hoặc xen kẽ (được phân loại thành IBS-D, IBS-C hoặc IBS- A). IBS có thể khởi phát sau nhiễm
trùng (IBS-PI), sau một căng thẳng, hoặc khởi đầu tự nhiên mà không có bất kỳ các chỉ điểm y
học nào khác.
IBS chưa có phương pháp nào chữa khỏi hẳn, người ta dùng các phương pháp điều trị nhằm
giảm các khó chịu cho người bệnh bằng các biện pháp như điều chỉnh chế độ ăn uống, thuốc
men và các can thiệp tâm lý. Việc giáo dục tư vấn và mối quan hệ bác sĩ- bệnh nhân tốt là rất
quan trọng.
Một số bệnh có thể có triệu chứng giống IBS bao gồm các bệnh của manh tràng, kém hấp thu
fructose, nhiễm trùng nhẹ, nhiễm ký sinh trùng, một số bệnh viêm ruột, kém hấp thu acid mật,
táo bón mạn tính chức năng và đau bụng chức năng mạn tính. Trong IBS, các xét nghiệm lâm
sàng không có bất thường, mặc dù ruột có thể nhạy cảm với một số kích thích, chẳng hạn khi
dùng nghiệp pháp làm căng ruột bằng bóng. Nguyên nhân chính xác của IBS chưa được biết. Lý
thuyết phổ biến nhất cho rằng IBS là một rối loạn của sự tương tác giữa não và ống tiêu hóa,
mặc dù có thể có những bất thường ừong hệ thần kinh thực vật của ống tiêu hóa hoặc hệ thống
miễn dịch.
IBS không làm giảm sút nặng nề tình trạng chung của hầu hết các bệnh nhân. Tuy nhiên., Nó
gây đau bụng kinh niên, mệt mỏi và các triệu chứng khác. Nó làm ảnh hưởng tới chất lượng
công việc và ngày công lao động. Nhiều nhà nghiên cứu đã báo cáo tỷ lệ cao của IBS đã làm
tăng chi phí xã hội, nó cũng được coi là một căn bệnh mãn tính ảnh hưởng đáng kể đến chất
lượng cuộc sống của người bệnh.
Phân loại
IBS có thể được phân loại đựa vào hai tiêu triệu chứng chiếm ưu thế kèm theu đau là táo bón và
đi lỏng hoặc xen kẽ nhau (IBS-C, IBS-D hoặc IBS-A). Ở một số trường họp, bệnh có thể khởi
phát cấp tính và phát triển sau một bệnh truyền rứiiễm đặc trưng bởi sốt, nôn mửa, tiêu chảy và
10
2


cấy phân dương tính. Bệnh xuất hiện sau nhiễm trùng nên được gọi là "IBS sau nhiễm trùng"
(IBS-PI).
Triệu chửng
Các triệu chứng chính của IBS là đau hay khó chịu vùng bụng, cùng với tiêu chảy hoặc táo
bón thường xuyên. Cũng có thể gặp tiêu chảy cấp tính, cảm giác đi cầu không hết phân, cảm
giác buốt mót, hoặc chướng bụng đầy hơi. Những người bị IBS hay bị trào ngược dạ dày thực
quản hơn những người khác. Cũng thường gặp các triệu chứng liên quan đến hệ thống sinh
dục, hội chứng mệt mỏi mãn tính, đau cơ, đau đầu, đau lưng và
các triệu chứng tâm thần như trầm cảm và lo âu. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng có đến 60%
người bị IBS bị rối loạn tâm lý, thường lo âu hoặc ức chế.
Nguyên nhân
Nguyên nhân của IBS chưa được sáng tỏ, một vài giả thuyết đã được đề xuất. Nguy cơ xuất
hiện IBS tăng gấp sáu lần sau khi nhiễm khuẩn cấp tính đường tiêu hóa. Tiếp đó là các yếu tố
nguy cơ như trẻ tuổi, sốt kéo dài, lo lắng và trầm cảm. Giả thuyết giải thích cơ chế bệnh do vai
trò của "trục não - ruột” xuất hiện vào những năm 1990. Một nghiên cứu có tên “Đáp ứng
Não-Ruột đối với stress và kích thích hệ cholin ữong IBS” {Brain-gut response to stress and
cholinergic stimulation in IBS ) được công bo trên tạp chi Clinical Gastroenterology vào năm
1993. Một nghiên cứu năm 1997 xuất bản trong tạp chí Gut cho răng IBS liên quan với một
"sai sót hoạt động của trục não - ruột.". Như vậy, các yêu tố tâm lý có thể quan ứọng trong
nguyên nhân của IBS.
Nhiễm trùng hoạt động
Tỷ lệ nhiễm protozoal ở các nước công nghiệp (Hoa Kỳ và Canada) ừong thế kỳ 21
Có những nghiên cứu ủng hộ quan điểm cho rằng IBS được gây ra bởi nhiễm trùng nhưng
chưa được phát hiện

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng các kháng sinh lọai không hấp thu như
Rifaximin có thể làm giảm bền vững các triệu chứng ở một số bệnh nhân IBS. Một số nhà
nghiên cứu lại cho rằng IBS xuất hiện do một tác nhân chưa được phát hiện. Một số khác lại
cho rằngcác bệnh nhân IBS bị hội chứng quá phát phức hợp vi khuẩn mà chủ yếu là ở ruột non
(small intestinal bacterial overgrowth) và các kháng sinh hiệu quả trong việc giảm phát triển

10
3
quá mức sẽ có tác dụng điều trị IBS. Một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng nhiễm trùng
protozoal chưa được phát hiện là một nguyên nhân của IBS. Bằng chứng là nhiễm trùng
protozoal đã được phát hiện một cách thường xuyên hơn ở những bệnh nhân IBS. Hai trong số
các yếu tố được phát hiện ở bệnh nhân IBS với tỷ lệ cao ở các nước công nghiệp phát triển là
nhiễm đơn bào và nhiễm trùng đường ruột, nhưng còn ít bằng chứng chứng minh chắc chắn
chúng là nguyên nhân của IBS.
Blastocystis là sinh vật đơn bào đã được báo cáo là nguyên nhân của táo bón, đau bụng và tiêu
chảy ở bệnh nhân. Mặc dù các báo cáo này đang được tranh cãi. Các nghiên cứu từ các bệnh
viện ở các nước khác nhau đã xác định tỷ lệ nhiễm Blastocystis cao ở những bệnh nhân IBS,
với 38% được báo cáo từ Học viện Vệ sinh & Y học Nhiệt đới London, 47% từ bộ môn tiêu
hóa Đại học Aga Khan tại Pakistan và 18,1% được báo cáo từ khoa Các bệnh nhiệt đới và Y tế
công cộng tại Đại học Ancona ở Ý. Các báo cáo từ cả ba nhóm cho biết, một tỷ lệ Blastocystis
khoảng 7% ở những bệnh nhân không IBS. Các nhà nghiên cứu đã lưu ý rằng trên lâm sàng
các bệnh nhân không có biểu hiện nhiễm trùng, và Blastocystis không đáp ứng với điều trị
bằng antiprotozoals thông thường.
Dientamoeba fragilis là sinh vật đơn bào gây đau bụng và tiêu chảy. Các nghiên cứu đã báo
cáo một tỷ lệ cao của bệnh trong các nước phát triển, và triệu chứng của bệnh nhân được giải
quyết bằng kháng sinh. Một nghiên cứu báo cáo về một nhóm lớn các bệnh
nhân có triệu chứng giống IBS bị nhiễm Dientamoeba ữagilis và các triệu chứng được giải
quyết sau điều trị. Các nhà nghiên cứu đã lưu ý rằng các phương pháp thông thường được sử
dụng trên lâm sàng có thể không phát hiện nhiễm Dientamoeba fragilis và nó cũng được tìm
thấy ở những người không có IBS.
Chẩn đoán
Không có xét nghiệm labô hoặc hình ảnh học nào có thể chẩn đoán được hội chứng ruột kích
thích. Chẩn đoán của IBS bao gồm việc loại trừ các bệnh có triệu chứng giống IBS, và tiếp
theo là phân loại các triệu chứng của bệnh. Loại trừ nhiễm ký sinh trùng, không dung nạp
lactose, phát triển quá mức phức bộ vi khuẩn ruột non và bệnh rối loạn dung nạp gluten là
những việc phải làm cho tất cả bệnh nhân trước khi chẩn đoán hội chứng ruột kích thích. Tất

cả những bệnh nhân trên 50 tuổi nên được sàng lọc bằng soi đại tràng.
10
4
Chẩn đoán phân biệt
Ung thư đại tràng, bệnh viêm đường ruột, bệnh tuyến giáp và nhiễm giardiasia đều có thể đặc
trưng bằng đại tiện bất thường và đau bụng. Nguyên nhân ít gặp hơn là triệu chứng của hội
chứng carcinoid, viêm đại tràng vi thể, quá phát vi khuẩn, và viêm dạ dày ruột tăng bạch cầu
ái toan. IBS tuy là bệnh khá phổ biến nhưng các thử nghiệm chẩn đoán nó có kết quả dương
tính rất thấp, do vậy khó mà đánh giá được sự tốn kém do nó gây ra.
Bởi vì có nhiều nguyên nhân gây tiêu chảy trong hội chứng giống IBS, tạp chí của Hội Tiêu
Hóa Hoa Kì đã xuất bản một bộ hướng dẫn làm các xét nghiệm để loại trừ các nguyên nhân
khác cho những hội chứng này. Chúng bao gồm nhiễm trùng đường tiêu hóa, không dung nạp
lactose, và bệnh rối loạn dung nạp gluten

Tuy nhiên, các nghiên cứu cũng cho rằng không
phải lúc nào cũng phải tuân theo các chỉ dẫn này. Một khi các nguyên nhân khác đã được loại
trừ, chẩn đoán IBS được thực hiện bằng cách sử dụng một thuật toán chẩn đoán. Các thuật
toán nổi tiếng bao gồm các tiêu chuần Manning, tiêu chuẩn ROME I và ROME II, tiêu chuẩn
Kruis và tiêu chuẩn sửa đổi Rome III gần đây được xuất bản vào năm 2006. Thầy thuốc có thể
chọn sử dụng một trong các chỉ dẫn này, hoặc đơn giản là có thể lựa chọn dựa trên kinh
nghiệm của riêng mình dực trên các kết quả đã điều trị cho các bệnh nhân trong quá khứ.
Thuật toán có thể bao gồm các xét nghiệm bổ sung để tránh chẩn đoán bệnh khác nhầm sang
thành IBS. Chẳng hạn như bệnh "cờ đỏ" (dyspepsia red flag) gồm các triệu chứng sụt cân,
xuất huyết tiêu hóa, thiếu máu, hoặc các triệu chứng khó chịu về đêm. Tuy nhiên, các nhà
nghiên cứu đã lưu ý rằng bệnh cờ đỏ có thể không phải luôn luôn là bằng chứng cho sự chính
xác trong chẩn đoán, ví dụ, như 31% bệnh nhân IBS có nhiều máu trong phân có thể chảy máu
từ bệnh tiĩ.
Các thuật toán chẩn đoán xác định bệnh được áp dụng dựa ưên sự kết hợp của các triệu chứng
tiêu chảy, đau bụng và táo bón. Ví dụ, thông báo "50% du khách trở về đã xuất hiện tiêu chảy
chức năng, trong khi 25% bị IBS" có nghĩa là một nửa số du khách bị tiêu chảy trong khi một

phần tư bị tiêu chảy với đau bụng. Trong khi một số nhà nghiên cứu tin rằng hệ thống phân
loại này sẽ giúp các bác sĩ hiểu IBS thì những người khác lại đặt câu hỏi về giá trị của hệ
thống và cho rằng tất cả các bệnh nhân IBS có cùng một căn bệnh tiềm ẩn, nhưng với các triệu
chứng khác nhau.
10
5
Các chấn đoán nhầm
Những nghiên cứu được công bố đã chứng minh rằng một số kết quả kém trong điều tri bệnh là
do các nguyên nhân bệnh tiêu chảy đang được chẩn đoán nhầm là IBS. ví dụ phổ biến bao gồm
các bệnh truyền nhiễm, bệnh celiac (không dung nạp gluten là chất có trong ngũ cốc như bột
mì), Helicobacter pylori, ký sinh trùng.
Kém hấp thu acid mật cũng thường bị nhầm với bệnh nhân IBS với tiêu chảy chiếm ưu thế. Xét
nghiệm SeHCAT cho thấỵ rằng khoảng 30% của IBS — D (IBS thể tiêu chảy) có bệnh này và
hầu hết đáp ứng với bo sung acid mật (sequestrants).
Sử dụng kéo dài một số loại thuốc an thần, thuốc ngủ đặc biệt là các benzodiazepin có thể gây
ra các triệu chứng ruột kích thích vì vậy có thể dẫn đến chẩn đoán nhầm là IBS.
Bệnh đi kèm
Các nhà nghiên cứu đã xác định một số bệnh, hoặc bệnh phối hợp xuất hiện với tần suất
khá cao ở những bệnh nhân IBS.
Nhức đầu, đau cơ, hội chứng mệt mỏi mãn tính và trầm cảm: Một nghiên cứu trên 97.593
đối tượng bị IBS đã xác định tỷ lệ bệnh phối họp với IBS gồm đau đầu, đau cơ, và trầm
cảm. Một nghiên cứu có hệ thống ghi nhận rằng có 51% bệnh nhân hội chứng mệt mỏi
mãn tính, 49% bệnh nhân đau cơ và 94% rối loạn tâm thần đã được tìm thấy ở bệnh nhân
IBS.
Viêm đường ruột (IBD): Một số nhà nghiên cứu cho rằng IBS là một loại bệnh viêm ruột
nhẹ và IBS và IBD có mối liên quan qua lại, các bệnh nhân IDB có các triệu chứng giống
IBS khi được điều trị thoái lui. Một nghiên cứu tiến hành ừong vòng 3 năm đã ghi nhận
rằng các bệnh nhân được chẩn đoán IBS cao gấp 16,3 lần so với số được chẩn đoán IDB.
Các marker liên quan đến viêm ruột cũng dương tính ở các bệnh nhân IBS
Phẫu thuật ổ bụng: Một nghiên cứu gần đây (2008) cho biết bệnh nhân IBS có nguy cơ

cao của việc cắt bỏ túi mật không cần thiết không phải vì nguy cơ sỏi mật tăng, mà vì đau
bụng, có sỏi túi mật, nhưng chỉ định phẫu thuật không thích hợp. Một nghiên cứu năm
2005 báo cáo rằng dường như 87% bệnh nhân IBS đã phải trải qua phẫu thuật vùng bụng
và vùng chậu, nhiều gấp ba lần số phải trải qua phẫu thuật túi mật. Một nghiên cứu đăng
trên tạp chí tiêu hóa đã ghi nhận rằng các bệnh nhân IBS đã cắt bỏ tử cung cao gấp hai lần
10
6
số cắt bỏ túi mật Endometriosis: Một nghiên cứu báo cáo một liên kết ý nghĩa thống kê
giữa đau nửa đầu kiểu migraine, IBS, và viêm màng trong dạ con.
Các bệnh mãn tính khác: viêm bàng quang kẽ có thể liên quan với hội chứng đau mãn
tính khác, như hội chứng ruột kích thích và đau cơ khớp. Mối liên quan giữa các hội
chứng trên chưa được sáng tỏ.
Điều trị
Một số phương pháp điều trị như tăng cường chất xơ, chống co thắt, và dầu bạc hà cho thấy
hiệu quả tốt hơn so với giả dược.
Ăn kiêng
Một số người bị IBS có biểu hiện không dung nạp thực phẩm. Tuy nhiên các bằng chứng nêu
ra trong năm 2007 là không đủ manh để khuyến cáo chế độ ăn hạn chế.
Nhiều thay đổi chế độ ăn uống nhằm cố gắng cải thiện các triệu chứng của IBS. Một số có
hiệu quả ở những quần thể nhỏ. Khi những bệnh nhân IBS có biểu hiện không dung nạp
lactose thì người ta khuyên dùng chế độ ăn không lactose. Một chế độ ăn uống hạn chế
fructose và fructan đã điều trị thành công các triệu chứng với liều phụ thuộc cá thể cho bệnh
nhân kém hấp thu fructose và IBS.
Trong khi nhiều bệnh nhân IBS tin rằng họ có một số hình thức không dung nạp thức ăn,
nhưng các xét nghiệm cố gắng dự đoán sự nhạy cảm thực phẩm trong IBS đã thất vọng. Một
nghiên cứu báo cáo rằng một test IgG có hiệu quả trong việc xác định độ nhạy cảm thực phẩm
ở những bệnh nhân IBS, việc thực hiện chế độ ăn hạn chế đã làm giảm giảm triệu chứng ở
10% so với những người thực hiện một chế độ ăn uống giả hạn chế.
Không có bằng chứng cho thấy có tỷ lệ khác nhau nào trong việc tiêu hóa của thức ăn hoặc
hấp thụ các chất dinh dưỡng giữa những người có IBS và những người không có IBS. Tuy

nhiên ăn hoặc uống quá mức có thể gây ra phản ứng thái quá của đáp ứng dạ dày - đại tràng
trong một số bệnh nhân IBS do độ nhạy cảm cao của họ, và điều này có thể dẫn đến đau
bụng, tiêu chảy và hoặc táo bón hoặc.
Chất xơ
Không có bằng chứng thuyết phục rằng bổ sung chất xơ hòa tan (ví dụ, psyllium) có hiệu lực
10
7
ứong IBS. Nó hoạt động như một nhân tố làm tăng khối lượng phân cho bệnh nhân IBS thể
táo, nó giúp cho phân mềm hơn, bớt khô hơn và đi cầu dễ hon.
Chất xơ không hòa tan (ví dụ, cám) không được có hiệu quả tốt đối với IBS mà ở một số
người, nó có thể làm nặng thêm các triệu chứng

Chất xơ có thể có lợi ở những bệnh nhân IBS thể táo bón. Với những bệnh nhân IBS táo bón,
chất xơ hòa tan ở liều 20 gam mỗi ngày có thể làm giảm các triệu chứng chung nhưng sẽ
không giảm đau. Các nghiên cứu hỗ trợ chất xơ có mâu thuẫn, các nghiên cứu nhỏ được phức
tạp bởi tính không đồng nhất của các loại sợi và liều lượng sử dụng. [68]
Một phân tích meta cho thấy chỉ có chất xơ hòa tan được cải thiện triệu chứng ruột kích thích
toàn cầu, nhưng không loại sợi giảm đau [68]. Tuy nhiên, một meta-phân tích cập nhật bởi
các tác giả cũng cho thấy chất xơ hòa tan giảm triệu chứng. [69] Tích cực nghiên cứu đã sử
dụng 10-30 gam / ngày của hạt psyllium [70] [71] Một nghiên cứu cụ thể xem xét hiệu quả
của liêu và thây răng 20 gram vỏ ispaghula đã tôt hơn so với 10 gram và tương đương với 30
gram / ngày [72] Một nghiên cứu không kiêm soát được ghi nhận
gia tăng các triệu chứng với sợi không hòa tan [73] Nó không rõ ràng, nếu các triệu chứng
này có thật sự tăng so với nhóm chứng. Neu các triệu chứng được tăng lên, nó là không rõ
ràng nếu những bệnh nhân này đã bị tiêu chảy chiếm ưu thế (mà có thể làm trầm trọng thêm
bởi chất xơ không hòa tan [74] [75]), hoặc nếu gia tăng lợi ích là tạm thời trước khi xảy ra.
Thuốc
Thuốc có thể bao gồm các chất làm mềm phân và thuốc nhuận tràng ữong IBS táo bón, chiếm
ưu thế, và antidiarrheals (ví dụ, dạng thuốc phiện, gây nghiện, hoặc các chất tương tự opioid
như loperamide, codeine, diphenoxylate) trong IBS tiêu chảy, chủ yếu cho các triệu chứng

nhẹ. [76] [77] [ 78]
Thuốc ảnh hưởng đến serotonin (5-HT) ừong ruột có thể giúp giảm triệu chứng. [79]
Serotonin kích thích nhu động ruột và do đó agonist có thể giúp táo bón, chiếm ưu thế ruột
kích thích, ừong khi đối kháng có thể giúp tiêu chảy chiếm ưu thế ruột kích thích.
Nhuận tràng
Đối với bệnh nhân không đáp ứng đầy đủ chất xơ, thuốc nhuận tràng thẳm thấu như
10
8
polyethylene glycol, sorbitol và lactulose có thể giúp tránh được "tẩy ruột" đã được kết hợp
vói thuốc nhuận tràng kích thích. [80] Trong số các thuốc nhuận tràng thẩm thấu, 17- 26 gam
/ ngày polyethylene glycol (PEG) đã được nghiên cứu.
Lubiprostone (Amitiza), là một thuốc được sử dụng để điều trị táo bón mãn tính tự phát và
IBS táo bón, chiếm ưu thế. Nó được dung nạp tốt ở người lớn, bao gồm cả bệnh nhân cao
tuổi. Tính đến ngày 20 Tháng Bảy năm 2006, Lubiprostone đã không được nghiên cứu ở
bệnh nhân ừẻ em. Lubiprostone là một acid béo hai vòng (prostaglandin El phái sinh) mà
hành vi của cụ thể kích hoạt CLC-2 chloride kênh vào khía cạnh đỉnh của các tế bào biểu mô
đường tiêu hóa, tạo ra sự tiết chất lỏng giàu clorua. Những tiết làm mềm phân nhu động tăng
lên, và thúc đẩy đi tiêu tự phát (SBM). Không giống như nhiều sản phẩm thuốc nhuận tràng,
Lubiprostone không có dấu hiệu lờn thuốc, phụ thuộc, hoặc thay đổi nồng độ điện giải huyết
thanh.
Chống co thắt
Việc sử dụng các thuốc chống co thắt (ví dụ, hyoscyamine hoặc dicyclomin) có thể giúp
bệnh nhân, đặc biệt là những người có chuột rút hoặc tiêu chảy. Một phân tích meta-bởi
các hợp tác Cochrane đã kết luận rằng nếu 6 bệnh nhân được điều trị bằng antispasmodics,
1 bệnh nhân sẽ được hưởng lọi [76] Antispasmodics có thể được chia thành hai nhóm:.
Neurotropics và musculotropics.
• Neurotropics, như atropine, tác động tại các sợi thần kinh của phó giao cảm mà còn ảnh
hưởng đến dây thần kinh khác và có tác dụng phụ.
• Musculoừopics chẳng hạn như tác động mebeverine trực tiếp tại các cơ ữơn của
đường tiêu hóa, làm giảm co thắt mà không ảnh hưởng đến nhu động ruột bình thường.

Chống trầm cảm 3 vòng
Có bằng chứng rõ ràng rằng liều thuốc chống trầm cảm ba vòng thấp có thể được hiệu quả
ừong hội chứng ruột kích thích. Tuy nhiên, có bằng chứng manh mẽ hơn như hiệu quả của
các lớp học khác như thuốc chống trầm cảm SSRI [61] [67].
10
9
Kháng Serotonin
• Tegaserod (Zelnorm), một 5-HT4 lựa chọn chủ vận cho IBS-C, có sẵn để giảm IBS táo
bón ở phụ nữ và táo bón mãn tính tự phát ở nam giới và phụ nữ. Ngày 30 Tháng Ba 2007,
Cục Quản lý Thực phẩm và Dược Pham (FDA) yêu cầu tự nguyện thôi Dược phẩm
Novartis tiếp thị cùa tegaserod dựa trên gần đây đã xác định việc tìm kiếm của một nguy cơ
nghiêm trọng các sự kiện tim mạch bất lợi (vấn đề về tim) kết hợp với sử dụng của thuốc.
Novartis đã đồng ý tự nguyện đình chỉ thị của thuốc ở Hoa Kỳ và ở nhiều nước khác. Ngày
27 tháng 7 năm 2007 Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) đã phê duyệt chương
trình điều trị IND giới hạn cho tegaserod tại Hoa Kỳ cho phép truy cập bị giới hạn với
thuốc cho bệnh nhân có nhu cầu nếu không có thuốc thay thế tương đương hoặc trị liệu có
sẵn để điều trị bệnh. FDA Hoa Kỳ đã ban hành hai cảnh báo trước về những hậu quả
nghiêm trọng của tegaserod. Trong năm 2005, tegaserod đã bị từ chối như là một thuốc IBS
của Liên minh châu Âu. Tegaserod, tiếp thị như Zelnorm tại Hoa Kỳ, đã được các đại lý chỉ
được chấp thuận để điều trị các triệu chứng của IBS nhiều (ở phụ nữ chỉ), bao gồm đau
bụng táo bón, đầy hơi và.
• ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc chống trầm cảm (SSRI), do ảnh hưởng
Serotonergic của họ, có vẻ như để giúp IBS, đặc biệt là bệnh nhân chủ yếu là những người
táo bón
ế
nghiên cứu ban đầu chéo [81] và thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát [82] [83]
[84] hỗ trợ vai ừò này.
Alosetron, một 5-HT3 chất đối kháng chọn lọc cho IBS-D và cilansetron (cũng là một 5- HT3
chọn lọc đối kháng) được trialed trong hội chứng ruột kích thích. Do ảnh hưởng bất lợi
nghiêm trọng, cụ thể là viêm đại tràng thiếu máu cục bộ và táo bón nặng, họ không có sẵn

hoặc đề nghị ừong hội chứng ruột kích thích. [61]
Các thuốc khác
Magiê silicat nhôm và thuốc citrate alverine có thể hiệu quả trong hội chứng ruột kích thích.
[61]
Có những chứng cứ về các lợi ích của các thuốc chống trầm cảm trong IBS. Một số phân tích
meta-đã tìm thấy một lợi ích, ứong khi những người khác đã không [85] Một phân tích meta
của thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát chủ yểu là TCAs Tìm thấy 3 bệnh nhân phải được
10
10
điều trị với TCAs cho một bệnh nhân được cải thiện. [86] Một thử nghiệm ngẫu nhiên riêng
biệt, thấy rằng TCAs là tốt nhất cho bệnh nhân tiêu chảy IBS chiếm ưu thế. [87]
Các nghiên cứu gần đây cho thấy rifaximin có thể được sử dụng như một điều trị hiệu quả
cho đầy hoi bụng và đầy hoi, [28] [88] cho sự tín nhiệm nhiều hơn đến vai ứò tiềm năng của
phát triển quá mức của vi khuẩn trong một số bệnh nhân vói IBS. [89]
Domperidone, một thụ thể dopamin chặn và parasympathomimetic một, đã được hiển thị để
giảm đau bụng đầy hơi và là kết quả của một thời gian vận chuyển nhanh ruột kết và phân tải
giảm, đó là một đạo từ táo bón ẩn; đại tiện được cải thiện tương tự [90].
Việc sử dụng các opioid là gây tranh cãi do thiếu bằng chứng hỗ trợ cho lợi ích của họ và
nguy cơ tiềm tàng của lòng khoan dung, sự phụ thuộc về thể chất và nghiện. [91]
Tâm lí liệu pháp
Tương tác tâm thể hay não-ruột tương tác đã được đề xuất trong hội chứng ruột kích thích và
đang được chú ý nghiên cứu ngày càng tăng [67] Đối với một số bệnh nhân điều trị tâm lý có
thể giúp đỡ với các triệu chứng Hành vi nhận thức trị liệu và thôi miên đã được tìm thấy là
có lợi nhất. Thôi miên có thể cải thiện phúc lợi tinh thần và liệu pháp nhận thức hành vi có thể
cung cấp các chiến lược tâm lý đối phó để đối phó với các triệu chứng đau buồn cũng như
giúp ngăn chặn những suy nghĩ và hành vi làm tăng các triệu chứng của hội chứng ruột kích
thích

[61] [67] Liệu pháp nhận thức hành vi đã được tìm thấy để cải thiện các triệu chứng
trong một số nghiên cứu [92] [93] liệu pháp thư giãn có. cũng đã được tìm thấy là hữu ích.

[94]
Một câu hỏi trong năm 2006 được thiết kế để xác định nhận thức của bệnh nhân về IBS, sở
thích của mình vào loại thông tin mà họ cần, cũng như các phương tiện truyền thông giáo dục
và mong đợi từ các nhà cung cấp chăm sóc y tế, cho thấy nhận thức sai lầm về IBS phát triển
thành các điều kiện khác, bao gồm suy dinh dưỡng, viêm đại tràng, và ung thư. [95]
Các cuộc điều tra tìm thấy các bệnh nhân IBS được quan tâm nhất trong việc học về các loại
thực phẩm để tránh (60%), nguyên nhân của IBS (55%), thuốc (58%), chiến lược đối phó
(56%), và các yếu tổ tâm lý liên quan đến IBS (55%). Những người chỉ ra rằng họ muốn các
bác sĩ của mình để được thông qua điện thoại hoặc e-mail sau một chuyến thăm (80%), có khả
năng lắng nghe (80%), và cung cấp hy vọng (73%) và hỗ ượ (63%).
10
11
Thuốc thay thế
Do kết quả không đạt yêu cầu thường xuyên từ phương pháp điều trị y tế cho IBS lên đến 50
phần trăm số người chuyển sang thuốc thay thế bổ sung. [67]
Men sinh học (Probiotics)
Probiotics có thể có lợi trong điều trị IBS, lấy 1-10000000000 vi khuẩn có lợi mỗi ngày
được khuyến cáo cho kết quả có lợi. Tuy nhiên, nghiên cứu thêm là cần thiết về các chủng
cá nhân của các vi khuẩn có lợi cho các gợi ý tinh tế [67] [96] Một số chế phẩm sinh học đã
được tìm thấy là có hiệu quả bao gồm: Lactobacillus plantarum [97] và Bifidobacteria
infantis; [98] Tuy nhiên, một trong, xem xét lại cho thấy chỉ có Bifidobacteria infantis cho
thấy hiệu quả [99] Một số sữa chua được thực hiện bằng cách sử dụng chế phẩm sinh học có
thể giúp giảm triệu chứng của hội chứng ruột kích thích [100]
Thảo dược, biện pháp khắc phục

dầu bạc hà. Ruột tráng bạc hà viên nang dầu đã được đề xuất cho IBS triệu chứng ở
người lớn và trẻ em [101] Có bằng chứng về tác dụng có lợi của các viên nang và nó nên
được trialed bạc hà trong tất cả các bệnh nhân hội chứng ruột kích thích [102. ] [67] An
toàn trong thai kỳ chưa được thiết lập và thận ứọng nhưng không phải để nhai hoặc phá
vỡ các lớp phủ khác ưào ngược dạ dàỵ ruột có thể xảy ra như là kết quả của sự thư giãn

cơ vòng thực quản dưới. Đôi khi buồn nôn và quanh hậu môn cháy xảy ra như tác dụng
phụ. [67]
• Iberogast: Các chiết xuất thảo dược đa Iberogast được tìm thấy là đáng kể tốt hơn giả
dược thông qua cả một quy mô đau bụng và một số điểm các triệu chứng IBS sau bốn
tuần điều trị, [103] [104].
• Cần sa [105]
• Kiwi IBS / c [106]

Commiphora Mukul [107]
• Plantago ovata [107]
Chỉ có bằng chứng hạn chế về hiệu quả của các biện pháp khác thảo dược trong hội chứng
ruột kích thích. Như với tất cả các loại thảo mộc nó là khôn ngoan để được nhận thức của
tương tác thuốc có thể và tác dụng phụ. [67]
10
12
Country Prevalence Author/Year
Canada
Japan
6%^ Boivin, 2001
10
o
/o
ll091
Quigley, 2006
8.2%^ Ehlin, 2003
10.5%^ Wilson, 2004
141
o
/o
Oill

Hungin, 2005
\5%
m
Boivin, 2001
14%
UX21
Jafri, 2007
34
o
/o
imj
Jafri, 2005
35%^ Schmulson,
2006
43
O
/O
U09]
Quigley, 2006
46
O
/O
Ü09]
Quigley, 2006
United
Kingdom
United
States
United
States

Pakistan
Pakistan
Mexico
City
Brazil
Mexico
Yoga
Yoga có thể hiệu quả cho một số người bị hội chứng ruột kích thích. [61]
Châm cứu
Châm cứu có thể có giá trị một thử nghiệm ở các bệnh nhân lựa chọn, nhưng các cơ sở bằng
chứng cho hiệu quả là yếu. [67] Một siêu phân tích của các hợp tác Cochrane đã kết luận
rằng hầu hết các thử nghiệm có chất lượng kém và nó là không rõ liệu châm cứu có hiệu quả
hơn giả dược [108].
Dịch tễ học IBS
Tỷ lệ dân số với IBS báo cáo trong các nghiên cứu khác nhau ở các quốc gia
khác nhau
Các nghiên cứu đã báo cáo tỷ lệ của IBS thay đổi theo quốc gia và theo độ tuổi tầm kiểm ừa.
Các đồ thị thanh ở bên phải cho thấy tỷ lệ phần trăm của dân số báo cáo các triệu chứng của
IBS ứong các nghiên cứu từ các vùng địa lý khác nhau (xem bảng dưới đây để tham khảo).
Bảng sau đây chứa danh sách các nghiên cứu thực hiện ở các nước khác nhau mà đo sự phổ
biến của IBS và các triệu chứng IBS-như:
[hide] Percentage of population reporting symptoms of IBS in various studies from
various geographic areas
Notes
Study measured prevalence of GI abdominal pain/cramping
Prevalence increased substantially 1970-2004
Estimate
Much more
common in 16-30
age range. Of IBS

patients, 56% male,
10
13
44%
female College
students
n=324. Also measured functional diarrhea and functional vomiting. High rates
attributed to "stress of living in a populated city
ế
"
„ . , Study measured prevalence of GI abdominal
Quigley, 2006 7 ,__ • _
pain/cramping
Study measured prevalence of GI abdominal pain/crampin
Một nghiên cứu của người dân Hoa Kỳ ứở về từ du lịch quốc tế đã tìm thấy một tỷ lệ cao của
IBS và tiêu chảy liên tục được phát triển trong thời gian đi lại và tiếp tục tồn tại sau khi trở về.
Nghiên cứu kiểm tra 83 đối tượng ở Utah, nhất là những người truyền giáo ữở về. Trong số 68
người hoàn thành bản câu hỏi tiêu hóa, 27 báo cáo tiêu chảy liên tục được phát triển khi đi du
lịch, và 10 báo cáo IBS liên tục được phát triển trong khi đi du lịch. [114]
Lịch sử nguyên thủy bệnh IBS
Một trong những tài liệu tham khảo đầu tiên khái niệm về một "ruột kích thích" xuất hiện ở
miền núi Rocky Tạp chí Y khoa năm 1950. [115] Thuật ngữ này được sử dụng để phân loại
bệnh nhân phát triển các triệu chứng của bệnh tiêu chảy, đau bụng, táo bón, nhưng khi không
có nổi công nhận nguyên nhân gây nhiễm trùng có thể được tìm thấy. Đầu lý thuyết cho rằng
ruột kích thích là do một rối loạn tâm thần hay tâm thần.
Tổn thất về kinh tế do IBS
Chi phí tổng hợp của hội chứng ruột kích thích ở Hoa Kỳ đã được ước tính ở mức $ 1,7 10 tỷ
USD chi phí trực tiếp y tế, với một $ thêm 20 tỷ USD trong chi phí gián tiếp, với tổng số $
21,7-$ 30 tỷ đồng. [17] Một nghiên cứu của một quản lý công ty so sánh chi phí chăm sóc y tế
của bệnh nhân IBS IBS để không kiểm soát được xác định tăng 49% hàng năm ứong chi phí y

tế liên quan với chẩn đoán của IBS [116] Một nghiên cứu năm 2007 từ một tổ chức chăm sóc
quản lý được tìm thấy, rằng IBS bệnh nhân phát sinh chi phí trung bình hàng năm trực tiếp
5.049 $ và 406 $ vào chi phí trong túi [117] Một nghiên cứu của công nhân vói IBS được tìm
thấy, rằng họ đã báo cáo một mất 34,6% về năng suất, tương ứng với 13,8 giờ bị mất mỗi 40
tuần giờ. [12] Một nghiên cứu về sử dụng lao động liên quan đến chi phí y tế từ một công ty
100 Fortune thực hiện với dữ liệu từ những năm 1990 được tìm thấy IBS bệnh nhân phát sinh
Mỹ $ 4527 ữong tuyên bố chi phí so với $ 3276 cho các điều khiển [118] Một nghiên cứu về
chi phí ỵ tế thực hiện ứong năm 2003 của Trường Đại học Georgia Dược và Novartis được
tìm thấy. IBS có liên quan đến sự gia tăng của $ 962 trong chi phí y tế ở California, và $ 2191
tại Bắc Carolina. IBS bệnh nhân có chi phí cao hom cho các chuyến thăm bác sĩ, bệnh nhân
ngoại trú thăm, và thuốc theo toa. Nghiên cứu đề xuất các chi phí liên quan IBS được so sánh
với những người tìm thấy ở bệnh nhân hen suyễn. [119]
Nghiên cửu về IBS
Gibson và Shepherd đề nghị xem xét một chế độ ăn uống hạn chế lên men Oligo di và
monosacarit và polyols (FODMAPs) bây giờ có một cơ sở băng chứng đủ mạnh đê giới thiệu
ứng dụng rộng rãi của nó trong điều kiện như IBS và IBD. [120] Họ cũng có những hạn chế
của nhà nước FODMAPs trên toàn cầu, chứ không phải là cá nhân, kiểm soát các ứiệu chứng
của rối loạn chức năng đường ruột (ví dụ, IBS), và phần lớn bệnh nhân đáp ứng IBD chỉ là tốt.
Đây là thành công hơn chỉ hạn chế fructose và fructans, mà cũng FODMAPs, như được
khuyến khích cho những người kém hấp thu fructose. Dài hạn phù hợp với chế độ ăn uống là
rất cao.
Một thử nghiệm ngẫu nhiên ữên các bệnh nhân IBS thấy thư giãn một chế độ ăn uống thực
phẩm không dung nạp IgG trung gian dẫn đến sự suy giảm hơn 24% so với những Vrvèvv
c\vế dộ ăn uống loại bỏ vả kết luân loại bỏ ihúrầữ
có thể có hiệu quả trong việc làm giảm các ưiệu cờúĩigĩữS CÚÍỈỴ

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×