Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

bài tiểu luận tài chính quốc tế khủng hoảng tài chính 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.1 MB, 45 trang )

Bài tiểu luận

KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU
NĂM 2008








GVHD: TS Lê Phan Diệu Thảo
Lớp: MBA12C
Nhóm thực hiện:
Trần Ngọc Thương
Đào Phi Lâm
Nguyễn Thanh Nhân
Lương Thị Ngọc Quỳnh
Võ Trí Dũng
Huỳnh Thị Hiền
Hồ Chí Minh, 02/2014
1"
"
MỤC LỤC
I. Diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2
II. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 13
1. Tự do hóa tài chính………………………………………………… 15
2. Bùng nổ tín dụng……………………………………………………. 19
3. Bong bóng bất động sản…………………………………………… 20
III. Hậu quả của khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 23


1. Hệ thống tài chính sụp đổ 23
2. Thị truờng chứng khoán chao đảo, suy giảm mạnh mẽ 25
3. Giá bất động sản giảm mạnh 26
4. Giá cả của hầu hết các mặt hàng trên thế giới đều sụt giảm mạnh 27
5. Lãi suất biến động mạnh 28
6. Đồng USD lên giá so với các đồng tiền khác 29
7. Suy thoái kinh tế diện rộng 31
IV. Giải pháp của chính phủ các nước 36
V. Những bài học được rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 39
Tài liệu tham khảo 44









2"
"
I. DIỄN BIẾN KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU 2008
Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, theo Alan Greenspan (cự u Thố ng đố c Quỹ
Dự trữ Liên bang Mĩ FED), là khủng hoảng kinh tế lớn nhất, là cuộc đại suy thoái của thế
kỉ XXI kể từ cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới 1929- 1933, thế kỉ XX. Cuộc khủng
hoảng này xuấ t phát từ khủ ng hoảng tài chính Mĩ và lan sang hàng loạt các trung tâm
kinh tế lớn của thế giới như EU, Nhật, Trung Quốc, Nga,… gây nên tổn thất vô cùng
nặng nề, khiến cho nền kinh tế thế giới đi xuố ng. Các nước đang phát triển và các nước
nghèo dự ít hay nhiều, cũng không tránh khỏi tác động của cuộc khủng hoả ng này. Trong
khi đó, cuộc khủng hoảng tài chính Mĩ lại bắt nguồn từ tình trạng bong bóng bất động sản

tại Mĩ (khoảng năm 2005- 2006) với những khoản cho vay dưới chuẩn có rủi ro cao và
những khoản thế chấp có lãi suất điều chỉnh. Điều này cho thấy, cuộc khủ ng hoả ng tài
chính tại Mĩ lần này thực chất là những biểu hiện rõ nét của một quá trình khủng hoảng
rất lâu trước đó. Dưới đây là chuỗi những sự kiện chính, nổi bật gây nên tình trạng khủng
hoảng như hiện nay, qua đó có thể thấy khủng hoảng đã được hình thành như thế nào.
• Năm 2000: bong bóng Dot-com vỡ, Cục dự trữ liên bang Mĩ đã hạ lãi suất cho
vay qua đêm liên ngân hàng để cứu nền kinh tế khỏi suy thoái, nhất là từ sau thảm
họa khủng bố 11/09/2001.
• Từ tháng 05/2001 đế n 12/2002: lãi suất liên ngân hàng giảm 11 đợt từ 6,5%
xuống còn 1,75%, tín dụng thứ cấp cũng giảm lãi suất theo ! đi vay ồ ạt kể cả
nhằm mục đích đầu cơ ! hình thành nên bong bóng nhà ở.
• Năm 2002- 2004: giá cả nhà đất tại các bang Arizona,California, Florida, Hawaii,
và Nevada tăng trên 25% một năm. Sự bùng nổ nhà đất ở Mỹ bắt đầu.
• Năm 2005: Bong bóng nhà đấ t ở Mỹ bắt đầu rạn vỡ vào tháng 08/2005. Thị
trường bất động sản tạm gián đoạn tại mộ t vài bang ở Mỹ vào cuố i hè năm 2005
khi tỷ lệ lãi suất tăng từ 1% lên đến 5.35%.
• Năm 2006: Thị trườ ng bất động sản tiếp tục suy giảm ! một lượng nhà dư thừ a
đáng kể. Chỉ số Xây dựng Nhà ở tại Mỹ giữa tháng 08 giảm hơn 40% so với
tháng 08/2006.
• Năm 2007: Kinh doanh bất động sản tiếp tục thất bại. Số lượ ng nhà tồn ước tính
cao nhấ t từ năm 1989. Ngành kinh doanh bất động sản suy giảm với hơn 25 tổ chức cho
vay dưới chuẩn tuyên bố phá sản. Gần 1,3 triệu bấ t động sản nhà ở bị tịch thu để thế chấp
3"
"
nợ, tăng 79% từ năm 2006. Thư ký bộ tài chính Mỹ gọi bong bóng bất độ ng sản lần này
là “mối nguy hiểm ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế”
- Ngày 05/02/2007: Công ty Mortage Lenders Network USA đứng thứ 15 trong
số các nhà cho vay dưới chuẩn nhiều nhất ở Mỹ, với tổng dư nợ 3.3 tỷ đô la vào quý 3
năm 2006, tuyên bố phá sản.
- Ngày 27/02/2007: The Federal Home Loan Mortgage Corporation (Freddie Mac)

tuyên bố không còn khả năng và ngừng cho vay các khoản vay bằng tài sản thế chấp với
độ rủi ro cao.
- Ngày 02/04/2007: New Century Financial, nhà cho vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ,
nộp đơn phá sản theo chương 11 Luật phá sản Mĩ.
- Ngày 07/06/2007: Hồi chuông cảnh báo của phố Wall vang lên khi hai quỹ bảo
đảm tại ngân hàng đầu tư Bear Stearns của New York đang trên bờ vực phá sản vì lượng
tiền đầu tư vào chứng khoán có thế chấp là quá lớn.
- Tính tới thời điểm tháng 7/2007: Số lượng tài sản thế chấp bị tịch thu tại Mỹ đã
lên tới 180.000 bất động sản, tăng 93% so với thời điểm cách đó một năm.
- Ngày 19/07/2007: Chỉ số Dow Jones lần đầu tiên trong lịch sử đóng cửa với mức
14.000 điểm.
- Ngày 31/07/2007: Hai quỹ bảo đảm của Bear Stearns phá sản.
- Ngày 06/08/2007: American Home Mortgage Investment Corporation nộp đơn
phá sản.
- Ngày 16/082007: Tập đoàn tài chính Countrywide, đơn vị cho vay thế chấp lớn
nhất nước Mỹ, đã phải tránh phá sản bằng cách vay khẩn cấp 11 tỷ đô la từ một nhóm các
ngân hàng khác.
- Ngày 17/08/2007: Cục dữ trữ liên bang đã phải hạ mức hệ số chiế u khấu 50 điểm
cơ bản từ mức 6.25% xuống 5.75%.
- Ngày 18/09/2007: Cục dự trữ Liên bang tiếp tục hạ mức hệ số chiết khấu 50
điểm cơ bản xuống còn 5.25%.
- Ngày 15–17/10/2007: Citigroup – Tập đoàn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ - công
bố lợi nhuận quý 3 bất ngờ giảm 57% do các khoản thua lỗ và trích lập dự phòng lên tới
6,5 tỷ USD. Giám đốc điều hành Citigroup, Charles Prince từ chức vào ngày 4.11; Liên
minh các ngân hàng Mỹ được hỗ trợ bởi chính phủ thông báo lập một siêu quỹ trị giá
4"
"
100 tỷ đô la đ ể mua lại các chứng khoán được đảm bảo bằng tài sản thế chấp mà giá trị
thị trường đã bị sụt giảm do khủng hoảng vay dưới chuẩn. Chủ tịch Cục dự trữ Liên bang
Ben Bernake và Bộ trưởng Bộ tài chính Mỹ đều đưa ra những cảnh báo về mối nguy

hiểm của việc vỡ bong bóng bất động sản.
- Ngày 31/10/2007: Cục dự trữ liên bang hạ lãi suất quỹ liên bang 25 điểm xuống
4.5%.
- Tháng 11/2007: Cục dự trữ liên bang bơm thêm 41 tỷ đô la cho các ngân hàng
vay với lãi suất thấp. Đây là lần xuất tiền lớn nhất của cục dự trữ liên bang kể từ 19/ 9/
2001 (50.35 tỷ đô la).
- Tháng 12/2007: Tổng thố ng Bush tuyên bố kế hoạch giúp đỡ cho thêm 1,2 triệu
chủ sở hữu bất động sản trong việc thanh toán các khoản nợ tại ngân hàng.
- Ngày 11/12/2007: Fed hạ lãi suất quỹ liên bang xuống còn 4.25%
• Năm 2008:
- Ngày 11/01/2008: Bank of American đã bỏ ra 4 tỷ USD để mua lại Countrywide
Financial sau khi ngân hàng cho vay thế chấp địa ốc này thông báo phá sản do các khoản
vay khó đòi quá lớn.
Cục Dự Trữ Liên bang tiếp tục hạ lãi suất 50 điểm xuống 3.5%.
- Tháng 02/2008: Fannie Mae, nguồn tiền lớn nhất rót vào các khoản vay bất động
sản Mỹ thông báo chỉ trong quý 4 của năm 2007, hãng đã thua lỗ 3,35 tỉ USD, khoản thua
lỗ cao gấp 3 so với dự đoán, cho thị trường này.
- Ngày 16/03/2008: Bear Stearns bán lại cho JP Morgan Chase với giá 2 đôla một
cổ phiếu để tránh phá sản. Cục dự trữ liên bang phải cung cấp 30 tỷ đô la để trợ giúp các
khoản lỗ của Bear Stearn. Carlyle Capital trở thành nạn nhân của cuộc khủng hoảng tín
dụng Mỹ với khoản nợ lên tới 16,6 tỉ USD. Nước Mỹ cũng phải rút 200 tỉ USD nhằm cứu
vãn Fannie Mae và Freddie Mac thoát khỏi khó khăn.
- Tháng 04/2008: IMF thông báo đã chịu thua lỗ 945 tỉ USD cho cuộc khủng
hoảng tài chính. Bộ trưởng các nước G7 tán thành đề xuất đưa ra các điều chỉnh tài chính
mới để chống lại cuộc khủng hoảng đang ngày càng lan rộng.
- Tháng 06/2008: Một điều đáng nói là trong khi thị trường bất động sản Mỹ ngày
càng khủng hoảng nghiêm trọng hơn thì số lượng người được nhận lại các ngôi nhà đã
5"
"
thế chấp lại tăng gấp đôi. Bear Stearns đã góp sức vào hiện tượng lạ này khi liên hiệp

thành công trong 400 vụ bị buộc tội lừa đảo bằng các văn tự thế chấp.
- Ngày 11/07/2008: Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân hàng
IndyMac Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn nhất từ trước tới
nay sau khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong vòng 11 ngày.
- Ngày 17/07/2008: Các ngân hàng lớn và các tổ chức tài chính trên thế giới đã
báo cáo thua lỗ lên đến 435 tỷ đôla.
- Ngày 07/09/2008: Chính phủ Mỹ nắm quyền kiểm soát Fannie và Freddie sau
khi chi 200 tỉ USD để cứu 2 ngân hàng thoát khỏi tình trạng phá sản.
- Ngày 11/09/2008: Lehman Brothers tuyên bố đang nỗ lực tìm kiếm đối tác để
bán lại chính mình. Cổ phiếu của ngân hàng đầu tư này tụt giảm 45%.
- Ngày 14/09/2008: Bank of America cho biết sẽ mua Merrill Lynch với giá
29USD/cổ phiếu sau khi từ chối đề nghị mua lại của Lehman Brothers.
- Ngày 15/09/2008: Lehman Brothers tuyên bố phá sản. Ngay sau đó, 3 loại chỉ số
ở Mỹ bao gồm chỉ số Dow Jones, NASDAQ và S&P 500 sụt giảm mạnh nhất kể từ sau
sự kiện 11/9/2001. Đây là ngày tồi tệ nhất tại Phố Wall kể từ khi thị trường này mở cửa
trở lại sau vụ khủng bố 2 tòa tháp đôi tại Mỹ tháng 09/ 2001. Lehman Brothers sụp đổ
đánh dấ u vụ phá sản lớn nhất tại Mỹ. Merrill Lynch bị Bank of America thâu tóm.
American International Group (AIG) – tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới mất khả năng
thanh toán do những khoản thua lỗ liên quan tới nợ cầm cố.
- Ngày 16/09/2008: Ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đã đổ hàng tỷ
USD vào các thị trường tiền tệ với nỗ lực hạ nhiệt tình trạng căng thẳng và ngăn chặn sự
đóng băng của hệ thống tài chính toàn cầu. Cổ phiếu AIG giảm gần một nửa. Fed công bố
kế hoạch bơm 85 tỷ USD vào AIG và nắm giữ 80% cổ phần. Ngân hàng Barclays của
Anh mua lại một phần tài sản tại Bắc Mỹ của Lehman với trị giá 1,75 tỷ USD.
- Ngày 17/09/2008: Cổ phiếu của Goldman Sachs và Morgan Stanley giảm mạnh.
Tập đoàn Lloyds TSB của Anh mua lại đối thủ HBOS. Ủy ban Chứng khoán Mỹ kiềm
chế tình trạng bán khống. Và Cục dự trữ liên bang Mỹ cho AIG vay 85 tỷ đô la để giúp
công ty này tránh phá sản.
- Ngày 19/09/2008: Kế hoạch giải cứ u tài chính của bộ trư ở ng tài chính Paulson
trị giá 700 tỷ đô la được công bố sau một tuần bất ổn trên thị trường tài chính và nợ tín

dụng. Tuy nhiên, quốc hội Mỹ đã không thông qua bản dự thảo này.
6"
"
- Ngày 20-21/09/2008: Công bố các chi tiết bản kế hoạ ch giải cứu 700 tỷ USD.
Hai ngân hàng Goldman Sachs và Morgan Stanley được chuyển đổi thành tậ p đoàn ngân
hàng đa năng, đánh dấu sự kết thúc mô hình ngân hàng đầu tư tạ i Phố Wall.
- Ngày 22/09/2008: Tập đoàn Nomura Holdings của Nhật trả 525 USD để thâu
tóm hoạt động của Lehman tại châu Á. Sau đó, Nomura cũng mua lại Lehman tại châu
Âu và Trung Đông. Mitsubishi UFJ Financial đồng ý mua 20% cổ phần Morgan Stanley.
- Ngày 23/09/2008: Warren Buffett trả 5 tỷ USD mua 9% cổ phần Goldman
Sachs. Cục điều tra Liên bang Mỹ (FBI) điều tra Fannie, Freddie, AIG và Lehman vì nghi
ngờ có sự gian lận trong cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ.
- Ngày 25/09/2008: Washington Mutual Inc. (WaMu), một trong những ngân hàng
lớn nhất Mỹ đã sụp đổ cũng do đó đánh cược rất lớn vào thị trường cho vay thế chấp. Cơ
quan Bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) đã đ oạt quyền kiểm soát WaMu và sau đó
bán các tài sản của ngân hàng tiết kiệm lớn nhấ t Mỹ cho JPMorgan Chase & Co. với giá
1,9 tỷ USD (ngày 26/09). Với 307 tỷ USD tổng tài sản, WaMu đã trở thành ngân hàng bị
phá sản lớn nhất trong lịch sử Mỹ. Trong khi đó tại Washinton D.C, các thành viên chủ
chốt trong quốc hội đã đồng ý về những điều khoản chính trong kế hoạch giải cứu 700 tỷ
USD.
- Ngày 29/09/2008: Quốc hội Mỹ bác bỏ kế hoạ ch giải cứu thị trường tài chính Mỹ
do bộ Tài chính Mỹ đề xuất. Phản ứng ngay lập tức với quyết định trên, chỉ số công
nghiệp Dow Jones tụt giảm gần 780 điểm – mức giảm trong một ngày mạnh nhấ t từ trước
tới nay.
- Ngày 30/09/2008: Ngân hàng khổng lồ Wachovia của Mỹ, đồng thời là ngân
hàng cho vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ đ ồ ng ý bán lại bộ phận ngân hàng bán lẻ cho đối
thủ Citigroup.
- Ngày 01/10/2008: Thượng viện Mỹ thông qua bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD
(tỷ lệ 74 – 25) với một số điểm đã được thay đổi, bao gồm: gia hạn đạo luật cắt giảm thuế
thu nhập cho doanh nghiệp và cá nhân (tính sẽ làm ngân sách thất thu 149 tỷ USD); tăng

hạn mức bảo hiể m tiền gửi tại Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Liên bang từ 100.000 USD lên
250.000 USD.
- Ngày 03/10/2008: Sau 3 giờ thảo luận và thuyết phục nhau, Hạ viện Mỹ đã bỏ
phiếu lần thứ hai và thông qua dự luật giả i cứu với tỷ lệ phiếu 262 – 171. Không đầ y 2
giờ sau đó, tổng thống Mỹ đặt bút ký để chính thức chuyển kế hoạch thành đ ạo luật.
7"
"
- Ngày 08/10/2008: Trong một nỗ lực phối hợp chưa từng có tiền lệ, Cục Dự trữ
Liên bang Mỹ, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và 4 ngân hàng trung ương các
nước khác đã đồng loạt cắt giảm lãi suất nhằm giảm ảnh hưởng nghiêm trọng của cuộc
khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại suy thoái năm 1930.
- Ngày 14/10/2008: Chính phủ Mỹ công bố dành 250 tỷ USD trong gói giải cứu
700 tỷ USD để rót vào các ngân hàng lớn, đổi lại sẽ nhận được cổ phiếu ưu đãi của các
ngân hàng này. Đây là bước thay đổi lớn trong chiến lược giải cứu, vì trong kế hoạch ban
đầu, Chính phủ vẫn hướng đến giải pháp mua lại nợ xấ u ngân hàng, ko mua cổ phần.
- Tháng 11/2008/2008: AMEX chuyển đổi thành ngân hàng cổ phần. Fed cũng
thông báo chương trình thay đổi theo hướng tổ chức lại và hợp lí hóa các khoản cho vay
thế chấp. Fennie Mae và Freddie Mac tạm thời ngưng tịch thu tài sản thế chấp.
- Tháng 12/2008/2008: Bộ Tài chính Mĩ dành 13.4 tỉ USD và 4 tỉ USD trong gói
giải cứu cho General Motors và Chrysler; GMAC và CIT cũng chuyển đổi thành ngân
hàng cổ phần.
• Năm 2009: các công ty, ngân hàng cố gắng vực dậy sau khủng hoảng. Và Chính
phủ Mĩ cũng đã nâng gói giải cứu kinh tế lên 787 tỉ USD. Nhưng trong năm này
cũng có các vụ phá sản đáng chú ý của các tập đoàn lớn cuốn theo hàng tỉ USD mà
Chính phủ đã rót vào đó. Điều này cho thấy nền kinh tế Mĩ vẫn đang phải vật lộn
khá vất vả sau cuộc khủng hoảng này.
- Ngày 30/04/2009: chịu ảnh hư ởng từ khủng hoảng tài chính, hãng chế tạo ô tô
lớn thứ ba của Mỹ Chrysler tuyên bố nộp đơn bảo hộ phá sản. Khi Tổng thống Mỹ
Barack Obama buộc Chrysler nộp đơn xin phá sản, đối thủ của Chrysler là GM vẫn đang
vật lộn với những đòi hỏi củ a chính phủ Mỹ để được nhận tiền cứu trợ. Sau khi tái cơ

cấu, nhà sản xuất xe hơi đang thiết lập mối hợp tác với hãng xe Fiat đến từ Italy. Hiệp hội
Công đoàn ngành ô tô Mỹ (UAW) sẽ nắm quyền kiểm soát lương hưu của hãng, trong khi
chính quyền Mỹ có nhiệm vụ bơm 12 tỷ USD cho Chrysler.
- Ngày 01/05/2009: Quỹ đầu tư bất động sản và cho vay thế chấp nhà Thornburg
Mortgage nộp đơn bảo hộ phá sản. Thornburg chịu tác động nặng nề từ cuộc khủng
hoảng nợ dưới chuẩn 2007 tại nước này, khiến giá cổ phiếu của quỹ lao dốc không
phanh. Để tránh đổ vỡ, công ty đã ngừng nhận đơn xin vay tiền và huy động thêm vốn
qua con đường phát hành thêm cổ phiếu. Năm 2008, các chủ nợ nhất trí để Thornburg
8"
"
huy động thêm vốn nhưng tới ngày 01/05/2009, quỹ đã tuyên bố sẽ đóng cửa và nộp đơn
xin phá sản theo Chương 11 Luật Phá sản Mỹ, đồng thời bán lại toàn bộ số tài sản còn lại.
- Ngày 01/06/2009: General Motors chính thức nộp đơn xin bảo hộ phá sản. Tính
tới thời điểm nộp đơn xin bảo hộ phá sản, tổng tài sản của GM là 91 tỷ USD, trong khi số
nợ lên tới 172,81 tỷ. Chính phủ Mỹ sẽ tiếp tục bơm tiền cho GM và chuyển 50 tỷ USD
tiền nợ thành 60% cổ phần tại hãng xe mới hình thành sau phá sản. Sau khi tái cấ u trúc,
GM sẽ có quy mô nhỏ hơn nhiều nhưng những nhãn hiệu nổi tiếng như Chevy, Cadillac,
Buick và GMC vẫn được giữ lại. GM đang lên kế hoạch bán chi nhánh Opel tại Đức cho
một nhà sản xuất phụ tùng ôtô từ Canada. Những chi nhánh hoạt động kém hiệu quả khác
sẽ bị bán đi hoặc xóa sổ. Theo như thỏa thuận, chính phủ Mỹ nắm gần 72,5% và Hiệp hội
Công đoàn ngành ôtô Mỹ nắm 17,5% cổ phần của công ty mới.
- Ngày 01/11/2009: Tập đoàn tài chính CIT- một trong những ngân hàng hàng đầu
nước Mỹ chuyên cho vay đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ, đã công bố phá sản.
CIT đã không thể gượng dậy với những khoản nợ khổng lồ từ sau cuộc khủng hoảng tài
chính. Vụ phá sản này còn làm thiệt hại lớ n cho chính phủ Mỹ khi đã bỏ 2,33 tỷ USD vào
CIT.
Trên đây là những diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính Mĩ. Không chỉ dừng
lại ở đây, cuộc khủng hoảng này còn lan sang các khu vực khác trên thế giới với hậu quả
tương tự.
Tại châu Âu:

- Tháng 07-08/2007: Các ngân hàng tại Đức với những khoản đầu tư không sinh
lời tại thị trư ờ ng bất độ ng sản Mỹ cũng bị cuốn vào cuộc khủng hoảng này, bao gồm:
Ngân hàng công nghiệp Đức IKB, Ngân hàng bang Saxony (Sachsen LB) và ngân hàng
bang Bavaria (Bayern LB). Ngân hàng IKB của Đức trở thành ngân hàng đầu tiên tại
châu Âu chịu ảnh hưởng bở i những khoản đầu tư xấu trên thị trườ ng cho vay dưới chuẩn
ở Mỹ. Trong khi đó, ngân hàng SachsenLB của Đức phải nhận sự cứu trợ từ chính phủ.
- Ngày 09/08/2007: BNP Paribas, Ngân hàng lớn nhất của Pháp, ngưng việc mua
lại 3 quỹ đầu tư.
- Ngày 14/09/2007: Ngân hàng Northern Rock (Anh) đã gặp vấn đề nghiêm trọng
về khả năng thanh khoản liên quan đến khủng hoảng cho vay dưới chuẩn. Lần đầu tiên
trong hơn 1 thế kỷ, khách hàng ùn ùn kéo đến bủa vây để đòi rút tiền ở một ngân hàng
lớn tại Anh – Ngân hàng cho vay thế chấp Northern Rock – ngân hàng lớn thứ 5 tại Anh.
9"
"
Chính phủ cũng như Ngân hàng Anh buộ c phải đứng ra bảo lãnh cho các khoản tiền gửi
của khách hàng bằng cách quốc hữu hóa Northern Rock.
- Tháng 01/2008: Ngân hàng khổng lồ của Thụy Sỹ UBS thông báo cắt giảm 18 tỉ
USD vào thị trường bất động sản Mỹ.
- Ngày 30/01/2008: Ngân hàng UBS công bố trích lập dự phòng 4 tỷ USD, nâng
tổng số tiền trích lập dự phòng lên 18,4 tỷ USD do những thất thoát liên quan đến cuộc
khủng hoảng cho vay cầm cố.
- Ngày 17/02/2008: Anh quốc hữu hóa ngân hàng Northern Rock.
- Ngày 28/02/2008: Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào danh sách các nạn
nhân của cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn với tổng giá trị tài sản mất giá là 1,36 tỷ
euro.
- Ngày 16/03/2008: Ngân hàng Đức thông báo thua lỗ 141 triệu euro trong quý 1
năm 2008, trong 5 năm liên tiếp đây là lần đầu tiên ngân hàng này làm ăn thua lỗ.
- Ngày 29/04/2008: Deutsche Bank lần đầu tiên trong 5 năm công bố một khoản
thua lỗ trước thuế sau khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2 tỷ USD cho các khoản nợ xấu
và các chứng khoán được đảm bảo bởi các khoản thế chấp bất động sản.

- Ngày 17/07/2008: Martina-Fadesa, hãng đầu tư tài sản lớn nhất của Tây Ban Nha
tuyên bố phá sản.
- Ngày 31/07/2008: Deutsche Bank công bố khoản trích lập dự phòng tiếp theo là
3,6 tỷ USD, nâng tổng số tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD. Deutsche Bank trở
thanh 1 trong 10 nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng tín dụng toàn cầu.
- Ngày 29/09/2008: Chính phủ Anh quyết định can thiệp để giữ lạ i nhà cho vay thế
chấp quan trọng Bradford & Bingley. Chính phủ Hà Lan, Bỉ và Luxembourg quyết định
tiếp quản phần lớn ngân hàng Belgian- Dutsch và công ty bảo hiểm Fortis. Bộ Tài chính
Đức thông báo Chính phủ và các ngân hàng hàng đầu đã bơm hàng tỉ euro vào nhà cho
vay thế chấp Hypo Real Estate để cứu vãn khó khăn. Chính phủ Iceland cùng ngân hàng
Glinir chính thức tuyên bố chính phủ sẽ nắm quyền kiểm soát 75 % cổ phiếu của ngân
hàng này.
- Ngày 04/10/2008: Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã triệu tập cuộc họp
thượng đỉnh khẩn cấp với lãnh đạo 4 nước lớn nhất trong Liên minh châu Âu là Anh,
Pháp, Đức và Ý. Phiên họp kết thúc với tuyên bố hợp tác xử lý khủng hoảng nhưng
không thống nhất được một gói giải pháp tổng thể theo mô hình của Mỹ.
10"
"
- Ngày 05/10/2008: Mặc dù Thủ tướng Đức Angela Merkel đã chỉ trích quyết định
của Ireland về bảo hiểm toàn bộ các tài khoản ngân hàng tại Ireland, ngày 5.10 Bộ trưởng
Tài chính Đức đã thông báo tất cả các tài khoản tiền tại ngân hàng tại Đức sẽ được bảo
hiểm không có giới hạn.
- Ngày 06/10/2008: Trong đêm chủ nhật ngày 5.10, ngân hàng BNP Paribas SA
của Pháp gửi email thông báo đã thỏa thuận chi 14,5 tỷ Euro (tương đương 18,9 tỷ USD)
để mua lại ngân hàng Fortis, trong đó có 9 tỷ Euro bằng cổ phiếu và 5,5 tỷ Euro bằng tiền
mặt. BNP sẽ sở hữu 75% Fortis tại Bỉ, 67% Fortis tại Luxembourg, và toàn bộ mảng bảo
hiểm của Fortis tại Bỉ.
Tại các châu lục khác:
- Ngày 17/12/2007: Cuộc khủ ng hoảng tín dụng đã lan sang châu Úc với nạn nhân
là tập đoàn Centro Properties, một chủ sở hữu các phố buôn bán lớn ở Mỹ tại Úc sau khi

tập đoàn này đưa ra cảnh báo lợi nhuận giảm. Cổ phiếu Centro Properties đã tụt giá 70%
tại các giao dịch ở Sydney.
- Ngày 10/10/2008: Tập đoàn bảo hiểm có lịch sử hoạt động 98 năm tại Nhật là
Yamoto Life Insurance Co. chính thức đệ đơn xin được bảo hộ phá sản do các khoản nợ
đã vượt tài sản 11,5 tỷ yen (tương đương 116 triệ u USD). Đây được coi là mốc đánh dấu
cuộc khủng hoảng đã lan sang châu Á.
Danh sách các tổ chức tài chính bị phá sản hoặc phải sáp nhập trong cuộc khủng
hoảng Mĩ

Tên
Quy mô
Thiệt hại
Giải pháp

1
Lehman
Brothers
Tổng tài sản: 639 tỷ
đôla
Tổng vốn góp cổ phần:
$22490 tỷ đôla
Số lượng nhân viên:
26200 người
Là một trong 4 ngân
hàng đầu tư lớn nhất
của Hoa Kỳ
Nợ ngân hàng: 613 tỷ
đôla
Nợ trái phiếu: 155 tỷ
đôla

Cổ phiếu mất giá trên
90% vào ngày
15/09/2008
15/09/2008: nộp đơn phá
sản theo chương 1 Luật
Phá sản Mỹ
Là vụ phá sản lớn nhất
trong lịch sử Hoa Kỳ
11"
"
2
Merrill Lynch
Tổng tài sản: 1,02 nghìn
tỷ đôla
Số lượng nhân viên:
60.000 người
Xếp thứ 32 trong danh
sách Global 2000 (các
công ty lớn nhất thế
giới)
Thua lỗ quý IV/2007:
9,83 tỷ đô
Thua lỗ ròng quý
I/2008: 1,97 tỷ đôla
mất giá tài sản (2007):
16,7 tỷ đôla
Bán cho ngân hàng Mỹ
(BoA) với giá 50 tỷ đôla
3
AIG

Tổng tài sản: 1,05 nghìn
tỷ đôla
Tổng vốn góp ổ phần
78,09 tỷ đôla
Số lượng nhân viên:
116.000 người
Xếp thứ 6 trong danh
sách Global 2000 (các
công ty lớn nhất thế
giới)
Cổ phiếu mất giá 60%
vào ngày 16/09/2008
Thua lỗ 6 tháng đầu
năm 2008: 13,2 tỷ đôla
16/09/2008: Cục Dự trữ
Liên bang Mỹ (FED) cấp
tín dụng 80 tỷ tư ơng
đương 79,9 % cổ phần
4
Countrywide
Financial
Tổng tài sản: 211 tỷ
đôla
Là tập đoàn chiếm 20%
tổng thế chấp của Mỹ,
tương đương 3,5 GDP
Tổ chức tiết kiệm và
cho vay lớn thứ 3, đồng
thời là ngân hàng có tốc
độ phát triển nhanh nhất

trong lịch sử nước Mỹ
Thua lỗ (2007): 2,5 tỷ
đôla
Mất giá tài sản (2007):
1 tỷ đôla
01/07/2008: Bán cho
ngân hàng Mỹ với giá 4,1
tỷ đôla
5
Bear Stearns
Tổng tài sản: 350,4 tỷ
đôla
Tổng vốn góp cổ phần:
66,7 tỷ đôla
Số lượng nhân viên:
15.500 người
Thiệt haiij quý
IV/2007: 859 triệu
đôla
Mất giá tài sản (2007):
1,9 tỷ đôla
30/05/2008: Bán cho JP
Morgan Chase với giá 1,1
tỷ đôla
12"
"
Là công ty chứng
khoans lớn thứ 7 thế
giới
6

IndyMac
Tổng tài sản: 32 tỷ đô
Là tổ chức cho vay và
gửi tiết kiệm lớn nhất ở
Los Angeles. Đồng thời
là tổ chức thế chấp lớn
thứ 7 ở Hoa Kỳ
Tiền gử i khách hàng:
19 tỷ đô
Chi phí 8,9 tỷ đô cho
bảo hiểm tiền gửi
Chi phí 541 triệu đô
cho các khoản tiền gửi
vượt mức bảo hiểm
11/07/2008: Tập đoàn
Bảo hiểm Tiền gửi Liên
bang Mỹ FDIC tiếp quản
7
Freddie Mac
Tổng tài sản: 794,4 tỷ
đôla
Tổng vốn góp cổ phần:
26,7 tỷ đôla
Số lượng nhân viên:
5.281 ngườich
Là công ty công lớn thứ
20 trên thế giới
là công ty tài chính lớn
thứ 2 về thế chấp tại
Mỹ

Thua lỗ (2007): 4,6 tỷ
đôla
Thua llox quý II/2008:
821 triệu đôla
07/09/2008: FED kí hợp
đồng bỏ ra 1 tỷ đô hỗ trợ
cho Freddie Mac, đổi lại
giành quyền kiểm soát
các cổ phiếu ưu đãi đặc
biệt của công ty này.
8
Fannie Mae
Tổng tài sản: 882,5 tỷ
đôla
Tổng vốn góp cổ phần:
44 tỷ đôla
Là tổ chức hàng đầu
trong thị trường thế
chấp dưới chuẩn của
Mỹ
Thua lỗ (2007): 2 tỷ
đôla
Thua lỗ quý II/2008:
2,3 tỷ đôla
07/09/2008: cùng với
Freddie Mac bị FED tiếp
quản
9
New Century
Financial Corp

Tổng thu nhập (năm
2006): 417 triệu đôla
Giá bán trên thị trường:
1,75 tỷ đôla
Số lượng ngân viên:
Cổ phiếu mất 90% giá
trị (tháng 03/2007)
Giá trị thị trường giảm
xuống còn 55 triệu
Nộp đơn phá sản theo
chương 11 Luật Phá sản
Mỹ
13"
"
Nguồn: IRIC tổng hợp
II. NGUYÊN NHÂN CỦA KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU 2008
Trên đây là toàn bộ những diễn biến chính của cuộc khủng hoảng tài chính Mĩ -
nay đã lan ra thành cuộc khủng hoảng toàn cầu. Thấ t thần, lo âu, sợ hãi, không biết
những gì sẽ xảy ra với mình và với những người xung quanh mình… đó là tâm trạng
chung của tất cả mọi người khi chứng kiến cơn bão tài chính này, nhưng đau đớn hơn hết
là những nạn nhân trực tiếp của nó- giới tài chính. Ai cũng phải hỏi rằng, tại sao mọi thứ
lại diễn ra quá tồi tệ như vậy, có phải với lòng tham của con người, nhưng lòng tham đó
có là gì đâu khi không có những điều kiện thuận lợi - mộ t “mảnh đất màu mỡ” cho nó
phát triển?
Quay trở lại những năm trước khủng hoảng, bong bóng nhà ở đã dần được hình
thành khi mà Fed cho cắt giảm lãi suất để kích thích nền kinh tế sau khủng hoảng
7.200 người
Là tập đoàn cho vay
dưới chuẩn lớn nhất của
Mỹ

đôla
10
Ameri Bank
Tổng tài sản: 115 triệu
đôla
Tiền gử i khách hàng:
102 triệu đôla
Chi phí 42 triệu đôla
cho quỹ bảo hiểm tiền
gửi
19/09/2008: Tập đoàn
Bảo hiểm Tiền gửi Liên
Bang Mỹ FDIC tiếp quản
11
Washington
Mututal Inc
Tổng tài sản: 307 tỷ
đôla
Washington Mutual là
ngân hàng tiết kiệm lớn
nhất Mỹ
Thua lỗ 53 tỷ đôla để
từ tháng 6 và 17 tỷ
đôla trong 2 tuần gần
đây
26/09/2008: Chính phủ
tiếp quản và sau đó bán
lại cho JP Morgan Chase
& Co với giá 1,9 tỷ đôla
12

Wachovia
Là ngân hàng lớn thứ 6
ở Mỹ
Tổng tài sản: 327,9 tỷ
đôla
Giá cổ phiếu của
Wachovia đã sụt giảm
tới 81,6%, còn 1,84
USD/ cổ phiếu
Thua lỗ 9,7 tỷ đôla
trong nửa đầu năm nay
30/09/2008: bị bán lại
hco Citi Group với giá
2,16 tỷ đôla
14"
"
Dot.com và sự kiện khủng bố 11/09/2001. Mức lãi suất quỹ liên bang giảm từ 6,5%
xuống còn 1% (07/2003) và lãi suất này được duy trì trong một thời gian tương đối dài.
Lãi suất thấp khuyến khích một dòng vốn lớn đổ vào thị trường bất động sản. Vì lãi suất
thấp nên dễ vay mượ n, dẫn đến tình trạng người dân đổ xô đi mua nhà, đẩy giá nhà lên
cao. Thị trường bất động sản bùng nổ, dẫn đến hiện tượng đầu cơ với suy nghĩ giá nhà sẽ
tiếp tục tăng cao và tăng hơn nữa trong tương lai, và giá trị gia tăng của nhà cửa có thể
cao hơn cả lãi suấ t vay tiền. Thị trường cho vay thế chấp mua nhà nhanh chóng trở thành
“miền đất hứa” với những nguồn lợi nhuận kếch sù cho các ngân hàng và nhà đầu tư.
Nắm bắt được xu thế đó, những công ty tài chính như Fannie Mae và Freddie Mac- dưới
sự bảo trợ của Chính phủ- đã đứng ra bảo lãnh các khoản cho vay cầm cố dành cho
những người có thu nhập trung bình và thấp, những người nhập cư, da màu,…- những
người mà trước đó không có khả năng mua nhà (cho vay dưới chuẩn). Đ ồ ng thời những
công ty này cũng sẵn sàng bỏ tiền để mua lại các món cho vay cầm cố ở các ngân hàng
thương mại. Bằng cách này, các ngân hàng như được tiếp thêm sức mạnh để tiếp tục mở

rộng cho vay cầm cố.
Đặc biệt, trong những năm gần đây, hệ thống tài chính thế giới chủ yếu là Mĩ đã
phát minh ra một loại dịch vụ tài chính mới, gọi là chứng khoán hóa các món cho vay có
nguồn gốc cầm cố. Các công ty tài chính và các ngân hàng gom các khoản cho vay cầm
cố lại thành những món lớn. Sau đó phát hành chứng khoán dựa trên cơ sở giá trị của
món vay đó (CDO). Các công ty tài chính và các ngân hàng thu được tiền mặt và tiếp tục
mở rộng các khoản cho vay cầm cố dưới sự bảo lãnh của Fannie Mae và Freddie Mac.
Như vậy, một dòng tiền lớn được huy động không phải chỉ từ nướ c Mĩ mà trên khắp thế
giới đổ vào thị trường bất động sản Mĩ vì các chứng khoán hóa các khoản cho vay cầm cố
này được bán ra trên khắp thế giới. Tình trạng này đẩy đầu cơ lên đỉnh điểm trên thị
trường nhà đất Mĩ.
Thêm vào đó, do lo lắng về diễn biến lạm phát, Fed bắt đầu tăng dần lãi suất, dẫn
đến việc thị trường bất động sản bắt đầu chững lại vào đầu năm 2006. Trong khi vào
giữa năm 2003 lãi suất căn bản của Fed chỉ có 1% thì vào giữa năm 2006 nó đó tăng lên
đến 5,25%, bắt buộc các ngân hàng thương mại phải đẩy lãi suất cho vay tiền mua nhà
lên cao hơn nhiều nữa. Tình hình lãi suất cao đó khiến cường độ vay để mua nhà giảm
lại. Giá nhà bắt đầu trượt dốc vỡ cung vượt cầ u. Giá trị thị trường của căn nhà mà họ mua
trước đây dường như đã thấp hơn so với giá trị khoản vay. Rồi những người đã vay tiền
để mua nhà thì cũng không thể có khả năng chi trả nữa vì khoản vay đó là quá lớn so với
15"
"
giá trị căn nhà, có nghĩa là họ có bán nhà thì cũng không thể trả hết nợ. Điều đó dẫn đến
tình trạng bán tháo tất cả, và cả tình trạng bị xiết nợ và phát mại tài sản vì không trả được
nợ.
Tình hình trên ngay lập tức làm cho tất cả những chứng khoán có nguồn gốc cầm
cố không bán được, dẫn đến sự xuống dốc của thị trường vốn. Do không bán được các
chứng khoán loại này và giá trị của chứng khoán đó bị sụt giảm mạnh nên các ngân hàng
thương mại trở nên khan hiếm tiền mặt để tiếp tục cho vay vào nền kinh tế, dẫn đến tình
trạng đóng băng trên thị trường tín dụng. Các ngân hàng ngại không cho nhau vay và
cũng không muốn cho các công ty và người tiêu dùng vay, trong khi chi tiêu của ngư ời

Mĩ là một yếu tố quan trọng, chiếm tỉ trọng 2/3 trong tăng trưởng GDP của Mĩ. Tình
trạng kiệt quệ tiếp tục lan sang các công ty bảo hiểm đã mạo hiểm tham gia vào việc bảo
hiểm những sản phẩm tổng hợ p và kết cấu. Vấn đề nghiêm trọng đã hiện ra trên thị
trường hoán đổi vỡ nợ tín dụng (CDS). Các công ty bảo hiểm như AIG cũng đứng trên bờ
vực phá sản do đó nhúng tay vào quá trình bảo hiểm các chứng khoán có liên quan đến
các khoản vay dưới chuẩn. Mặc cho các ngân hàng trung ương và chính phủ đã có những
biện pháp cứu trợ tạm thời nhưng vẫn không thể ngăn chặn hết đ ượ c những gì sắp xả y ra,
và tất cả đều vỡ tan…
Đó là cách mà cuộc khủng hoảng đã hình thành.
1. Tự do hóa tài chính
Cuộc khủng hoảng tài chính có nguyên nhân từ cơ cấu và cơ chế vận hành nền
kinh tế Mỹ. Sau cuộc đại khủng hoảng kinh tế Thế giới 1929-1933, các học thuyết kinh tế
đề cao vai trò tự điều tiết của thị trường, điề u tiết của “bàn tay vô hình” bị phê phán,
những học thuyết kinh tế mới của Keynes đề cao vai trò điều tiết của nhà nước trong nền
kinh tế thị trường đã ra đời. Cơ chế phối hợp giữa điều tiết của thị trường và điều tiết của
nhà nước đã giúp nền kinh tế thị trường thế giới phát triển tương đối ổn định và bền vững
trong suốt hơn 60 năm qua (khắc phục, giảm bớt được quy mô, tính tàn phá của các cuộc
khủng hoảng kinh tế chu kỳ). Nhưng vào những năm 80 của thế kỷ trước, các trường phái
kinh tế Tân tự do (Tân cổ điển) lại được đề cao. Những tư tưởng đổi mới trong các học
thuyết tài chính ra đời trong thập niên 1980 và 1990 đã nêu lên tầm quan trọng của vấn đề
phi can thiệp hoá thị trường tài chính. Những tư tưởng này là tiền đề cho cuộ c cách mạng
lớn trong lĩnh vực tài chính diễn ra trong 3 thập niên sau đó tại Mỹ. Giáo sư Coase đưa ra
giải thiết là “Trong mộ t thị trường khi thông tin là hoàn hảo và không tồn tại chi phí giao
dịch thì những người tham gia vào thị trường luôn tìm cách tự điều chỉnh những hành vi
cá nhân, mà tổng hoà nhữ ng điều chỉnh đó là sự hình thành 1 cơ chế gọi là thị trường tự
16"
"
quản, nhằm phân bổ có hiệu quả các nguồn lực. Trong một công trình nghiên cứu khác,
giáo sư Kendall lưu ý rằng: “Biến động trong giá cả cổ phiếu là ngẫu nhiên và giả thiết
rằng biến động này là kết quả của phản ứng của nhà đầu tư khôn ngoan và duy lý, đáp lại

sự xuất hiện của thông tin mới và không thể dự báo”. Hai luồng tư tưởng này kết hợp tạo
thành một cuộc cách mạng thự c sự trong khoa học tài chính, tạo nền tảng vững chắc để
giới cầm quyền Mỹ nới lỏng các can thiệp vào thị trường tài chính trong thời gian sau đó.
Những năm 70, các quan điểm được ủng hộ rộng rãi đã cho rằng việ c can thiệp của chính
phủ vào thị trường tài chính nói riêng và các khu vực khác nói chung, đã tạo nên sự bóp
méo thị trường, dẫn đến việc phân bổ kém hiệu quả các nguồn lực kinh tế. Năm 2000,
chính phủ thông qua đạo luật Gramm-Lech-Bliley, chấm dứt đạo luật Glass-Steagall, kết
thúc việc ngăn cấm không cho các công ty chủ quản hoặc các ngân hàng đư ợc đồng thời
cung cấp dịch vụ Ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm. -> chấp nhận lời đề nghị phi
điều tiết thị trường trong thời gian trước đó. Việc thông qua đạo luật mới cung cấp khả
năng đa dạng hoá các hoạt động cho các tổ chức này và góp phần giảm thiểu rủi ro của
các công ty chủ quản. Mỹ cho phép ngân hàng thương mại hoạt động đa năng và rộng
khắp cả nước, thay vì hạn chế mỗi ngân hàng ở một bang, ngân hàng được phép hoạt
động trên khắp liên bang. Trước đó ngân hàng thương mại chỉ hoạt động thu nhận tiền ký
gửi rồi cho vay. Sau thay đổi, ngân hàng thư ơng mại cũng được hoạt động như một công
ty đầu tư tài chính, loại công ty này chỉ được làm dịch vụ tạo vốn đầu tư, tức là phát hành
và buôn bán cổ phiếu công ty, trái phiếu… Loại hoạt động nhận tiền ký gửi và cho vay
chịu sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước như Fed, còn loại hoạt động sau liên quan đến
chứng khoán không bị một rào cản nào, trừ việc tuân thủ các định chế buôn bán chứng
khoán trên thị trường và nội dung các hợp đồng đã ký kết. Việc này cung sẽ khuyến
khích các hoạt động tư lợi 1 cách duy lý của các ngân hàng, dẫn đến kết quả tất yế u là sự
phân chia nguồn lực tài chính phù hợp giữa các thị trường và phân khúc thị trường. Ngoài
ra, Mỹ còn cho mở cửa tự do cho mọ i loại công cụ tài chính mới xuất hiện mà không có
sự kiểm soát nào. Quốc hội Mỹ cũng thông qua đạo luật “Commodity Futures
Modernization”, cho phép loại trừ 1 số sản phẩm tài chính phái sinh đã đạt được các tiêu
chuẩn theo luật định trước đó ra khỏi danh sách các sản phẩm tài chính được giám sát. Sự
“phi điều tiết thị trường này” làm bùng nổ các loại chứng khoán phái sinh như CDS,
CDO, MBS Mỹ cho phép công ty bảo hiểm cả những gì gần như không thể bảo hiểm
được như bảo hiểm giá trị chứng khoán (nợ hay cổ phiếu), nhất là chứng khoán không có
bảo chứng, hoàn toàn chỉ dựa vào niềm tin là thị trường không bao giờ xuống dốc (nhìn

một cách tổng thể). Ngoài ra, Mỹ cũng cho phép các hành động đầu tư hoàn toàn mang
tính đầu cơ, cho phép bán khống trần trụi. Đây là hành động mà giới tài chính có thể sử
dụng để đẩy giá một loại chứng khoán nào đó xuống. Tại thời điểm bấy giờ, các sản
phẩm phái sinh không được quản lý bởi Ủy ban chứng khoán Hoa Kỳ SEC hay Ủy ban
17"
"
giao dịch hàng hóa tương lai CFTC. Những hàng hóa này được giao dịch hầu hết trên thị
trường phi tập trung OTC và hầu hết được thông qua cơ chế thỏa thuận.
Sự tự do hóa tài chính được thể hiện dưới các phát kiến tài chính cụ thể như sau:
Chứng khoán hóa là một quá trình tài chính cơ cấu, tại đó các tài sản thế chấp khác
nhau của những người đi vay được tập hợp và đóng gói rồi được dùng làm đảm bảo để
phát hành các trái phiếu (gọi chung là trái phiếu đảm bảo bằng tài sản). Tiền từ người
mua các chứng khoán này sẽ được chuyển đến các tổ chức tài chính cho vay thế chấp để
các tổ chức này cho người đem thế chấp tài sản vay tiền. Chứng khoán hóa chính là quá
trình đưa các tài sản thế chấp sang thị trường thứ cấp nơi mà chúng có thể trao đi đổi lại.
Nó đã biến các tài sản kém thanh khoản thành những chứng khoán thanh khoản cao.
Có 4 loại chủ thể kinh tế chủ yếu liên quan đến quá trình chứng khoán hóa, đó là:
1) người thế chấp và đi vay, 2) tổ chức tập hợp và đóng gói tài sản thế chấp rồi phát hành
chứng khoán, 3) nhà đầu tư mua bán chứng khoán, và 4) tổ chức tín dụng cho vay. Với 4
loại chủ thể kinh tế thay vì 2 loại là người thế chấ p - đi vay và tổ chức tín dụng cho vay,
rủi ro đượ c chuyển từ tổ chức tài chính sang nhà đầu tư trái phiếu đảm bảo bằng tài sản.
Việc gộp nhiều loại tài sản thế chấp khác nhau vào một tập hợp cũng là một hình thức
phân tán rủi ro. Ngoài ra, chứng khoán hóa còn giúp giảm chi phí huy động tài chính. Dù
người đi vay có mức xếp hạng tín nhiệm không cao nhưng với tài sản đem thế chấp tốt thì
chứng khoán đảm bảo bằng tài sản này vẫ n có thể được xếp hạng tín nhiệm cao và dễ
bán. Chính vì thế, chứng khoán hóa tạo thuận lợi cho việc vay và cho vay có thế chấp.
Chứng khoán hóa xuất hiện đầu tiên ở Mĩ vào năm 1970. Fannie Mae và Freddie
Mac - hai công ty được chính phủ Mỹ bảo trợ - là những công ty đầu tiên và cho đến nay
vẫn luôn là những công ty tích cực nhất trong hoạt động chứng khoán hóa. Hai công ty
này đã phát minh ra chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp (hay MBS). Sau đó, các

loại chứng khoán đảm bảo bằng tài sản khác ra đời, như giấy nợ đảm bảo bằng tài sản
(hay CDO) và các thứ tương tự CDO. Nếu như MBS đóng gói các tài sản thế chấ p thực
thụ khác nhau lại, thì CDO, xuất hiện từ năm 1987 và chỉ thực sự phổ biến từ cuối cuối
thập niên 1990, thậm chí lại còn đóng gói MBS và một số tài sản khác. Nghiên cứu của
Mason and Rosner (2007) cho biết vào năm 2005, có đến 81% tài sản đảm bảo cho CDO
là từ MBS, tức là vào khoảng 200 tỉ USD Mĩ. Do đó có quan điểm cho rằng CDO là sản
phẩm tái chứng khoán hóa các loại chứng khoán khác. Và thứ giấy nợ đảm bảo bằng tài
18"
"
sản này có thể có nhiều loại là sản phẩm chứng khoán hóa của việc đóng gói các loại tài
sản có mức độ rủi ro khác nhau, và hướng tới các đối tượng nhà đầu tư khác nhau.
Cùng với sự ra đời và phát triển của CDO là sự xuất hiện của những tổ chức cung
cấp dịch vụ bảo hiểm cho nhà đầu tư CDO và của những tổ chức liên kết cung cấp hợp
đồng hoán đổi tốn thất tín dụng (CDS). CDS là một thỏa thuận giữa hai bên, trong đó một
bên trả phí dịch vụ định kỳ cho bên kia và được cam kết nhận đủ số tiền cho vay tín dụng
nếu bên thứ ba không trả được nợ. Bên nhận được “bảo hiểm tín dụng” được gọi là bên
mua. Bên cung cấp dịch vụ “bảo hiểm tín dụng” được gọi là bên bán. Bên có thể bị phá
sản hay không thanh toán được nợ được gọi là bên liên quan. Dịch vụ CDS trở nên phổ
biến khi các rủi ro tín dụng xuất hiện ngày càng nhiều trong 7 năm qua ở Mỹ. Các ngân
hàng cho rằng, với CDS, các ngân hàng này có thể dàn trải rủi ro trên khắp toàn cầu.
CDS giống như một hợp đồng bảo hiểm, vì chúng có thể được các chủ nợ mua để đề
phòng nguy cơ bên vay không thanh toán được nợ. Tuy nhiên, trên thực tế, do không có
yêu cầ u cầm cố bất cứ tài sản nào nên CDS cũng có thể được sử dụng cho các mục đích
đầu cơ. Do ngày càng có nhiều các công ty của Mỹ không thanh toán được số chứng
khoán phát hành khi suy thoái kinh tế ngày một lún sâu nên sự đổ vỡ của các CDS là điều
không thể tránh khỏi, và phản ứng dây chuyền sự đổ vỡ của các CDS hoàn toàn có thể
dẫn đến khủng hoảng tài chính.
Khi nền kinh tế đi xuống, người vay tiền mua nhà không trả được các khoản vay
mua nhà thì rủi ro tín dụng được chuyển sang các gói trái phiếu có các danh mục tín dụng
bất động sản làm tài sản đảm bảo. Khủng hoảng càng gia tăng thì việc phát mại tài sản

càng tăng, làm giá bất độ ng sản càng giảm. Điều này có nghĩa giá trị tài sản đảm bảo của
trái phiếu càng giảm và rủi ro tín dụng càng tăng. Vũng xoáy khủng hoảng cứ tiếp tục
như vậy, làm cho giá chứng khoán sụt giảm mạnh. Các ngân hàng đầu tư mặc dù không
nắm giữ toàn bộ rủi ro nhưng cũng trực tiếp hoặc gián tiếp duy trì một số danh mục
chứng khoán liên quan đến bất đ ộng sản. Hậu quả là hàng loạt ngân hàng đầu tư lần lượt
báo cáo các khoản lỗ kinh doanh.
Tóm lại, sự buông lỏng cơ chế quản lý nhà nước và những sai lầm trong chính
sách kinh tế của chính phủ Mỹ là nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng tài chính ở
Mỹ vừa qua. Nhìn vào nền kinh tế Mỹ, ta thấy rằng thị trường chủ yếu dựa trên sở hữu tư
nhân, lợi nhuận là động cơ mạnh mẽ thúc đẩy các doanh nghiệp năng động, nhưng cũng
là nguyên nhân thúc đẩy các doanh nghiệp đầu cơ, thậm chí sẵn sàng vi phạm pháp luật,
19"
"
vi phạm các chuẩn mực đạo đức xã hội, phá vỡ những cân đối duy trì sự phát triển ổn
định của nền kinh tế, dẫn tới khủng hoảng.
2. Tín dụng bùng nổ.
Trong bối cảnh chung của các nước trên thế giới thực hiện các chính sách tự do
hoá kinh tế, Chính phủ Mỹ còn thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ trong một thời gian
dài. Để phục hồi nền kinh tế Mỹ sau cuộc khủng hoảng của các công ty công nghệ thông
tin năm 2000 và sự kiện khủng bố Trung tâm thương mại quốc tế WTC vào ngày
11/9/2001 cùng với dòng chảy vốn mua trái phiếu chính phủ Mỹ từ các nước phát triển ở
Châu Á và OPEC, FED đã điều chỉnh hạ liên tục lãi suất cơ bản từ 6,5% xuống mức thấp
kỷ lục là 1% vào năm 2003. Chính sách nới lỏng tiền tệ (chính sách đồng USD rẻ) đã
kích thích người dân vay tiền mua nhà và các tổ chức tín dụng thì sẵn sàng cho vay, đầu
tư mạo hiểm.
Đồ thị: Lãi suất Mỹ giai đoạn 1997-2014
(Nguồn:
Tín dụng mở rộng, nhưng nhu cầu vay vốn củ a các doanh nghiệp giảm sau các bê
bối tài chính tại Mỹ như Enron, Worldcom, khủng hoảng dot.com và các chính phủ cũng
ngày càng kiểm soát thâm hụt ngân sách để tránh việc vay vốn bên ngoài. Sự bất cân đối

20"
"
cung cầu về vốn dẫ n đến việc thừa các nguồn vốn mà thị trường không sử dụng hiệ u quả.
Cho vay nợ dưới chuẩn là một giải pháp để giải quyết bài toán thừa vốn nhằm tối đa hóa
lợi nhuận. Nợ dưới chuẩn được hiểu là các khoản cho vay cho các đối tượng có mức tín
nhiệm thấp. Những đối tượng đi vay này thường là những người nghèo, không có công
ăn việc làm ổn định, vị thế xã hội thấp hoặc có lịch sử thanh toán tín dụng không tốt
trong quá khứ. Những đối tượng này tiềm ẩn rủi ro không có khả năng thanh toán nợ đ ến
hạn và do đó rất khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng truyền thống vốn chỉ
dành cho những đối tượng trên chuẩn. Chính vì vậy, nợ dưới chuẩn có mức độ rủi ro tín
dụng rất cao song bù lại có mức lãi suất cũng rất hấp dẫn. Tại Mỹ, nợ dưới chuẩn được
thực hiện đối với các sản phẩm cho vay thế chấp mua nhà, thế chấ p mua trả góp ô tô, thẻ
tín dụng Các đối tượng tín dụng dưới chuẩn phần nhiều là dân nhập cư vào Mỹ. Nó
cũng đư ợ c gọi là tính dụng thứ cấp, hay tín dụng “hạng B”, để phân biệt với tín dụng
“hạng A” (hay tín dụng ưu tiên, tín dụng hạng nhất) dành cho những ngườ i vay có độ tín
nhiệm cao.
Vào giữa năm 2006, khi Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) tăng lãi suất đề
phòng lạm phát, lãi suất của các khoản vay dưới chuẩn bắt đầu tăng theo (do các hợp
đồng vay đa số là các khoản vay theo lãi suất điều chỉnh), người dân mất khả năng thanh
toán, ngân hàng mất khả năng thanh khoản dẫn đến sự sụp đổ hàng loạt củ a hệ thống tài
chính.
3. Bong bóng bất động sản
Lãi suất thấp, việc tiếp cận nguồn vốn dễ dàng cùng với niềm tin giá bất động sản
không thể sụt giảm, các khoản cho vay dưới chuẩn được đảm bảo bằng bất động sản được
ưa chuộng và phát triển mạnh. Nhu cầu nhà đất lớn, cùng với kỳ vọng giá nhà đất sẽ tăng
dẫn đến cuộc đua về giá nhà đất tăng vọt. Theo chỉ số S&P, giá nhà đất tăng khoảng 8,3%
từ quý 1/1990 đến quý 1/1997. Sau đó giá nhà tăng nhanh đột biến, đỉnh điểm vào quý
2/2006, giá nhà đất tăng trên 132% so với quý 1/1997. Bong bóng bất động sản ngày
càng phình to.
21"

"
Đồ thị: Chỉ giá nhà đất của mộ t số thành phố ở Mỹ giai đoạn Quý 1/1990 đến Quý
1/2013

(Nguồn:
Người đi vay sử dụng bất động sản đã có để thế chấp hoặc thế chấ p bằng tài
sản hình thành trong tương lai với hy vọ ng có thể kiế m lời từ việc tăng giá bất động sản.
22"
"
Người cho vay tự tin có thể thu hồi vốn cho vay thông qua hình thức kê biên tài sản nế u
người đi vay mất khả năng chi trả nên việc cho vay dưới chuẩn cũng được xem là một
hình thức an toàn. Chính vì lẽ đó, hàng loạt các sản phẩm cho vay thế chấp dưới chuẩn
được giao dịch trong suốt giai đoạn tiền khủ ng hoảng năm 2008 (bao gồm các khoản cho
vay thế chấp theo lãi suất điều chỉnh ARMs, quyền chọn ARMs, các khoản vay trả
dần….) đều là các khoản cho vay mà trong đó, ngườ i đi vay bắt buộc phải sử dụng bất
động sản mà mình có ý định giao dịch làm tài sản ký quỹ. Sự phát triển các khoản vay
này phụ thuộc phần lớn vào khả năng giá cả nhà đất tiếp tục gia tăng. Đến thời điểm năm
2006, gầ n 20% các khoản cho vay thế chấp ban đầu là các khoản vay dưới chuẩn và 80%
các khoản vay gốc được chứng khoán hóa. Chứng khoán hóa các khoản cho vay dưới
chuẩn vừa giữ vai trò góp phầ n thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của bong bóng nhà đất
Mỹ, vừa là một trong nhữ ng nguồn gốc chủ yế u gây nên cuộc khủng hoảng tài chính khi
giá nhà đất bắt đầu sụ t giảm. Lợi nhuận cao kết hợp với lòng tham đã dẫn đến lạ m dụng
việc cho vay nợ dưới chuẩn. Các thủ tục thẩm định thực hiện bởi các đại lý cho vay diễn
ra hết sức lỏng lẻo và việc tiếp cận vố n tín dụng mua nhà trở nên nhanh chóng, dễ dàng
hơn bao giờ hết. Những người có thu nhập thấp, đặc biệt là dân định cư đầu tiên có cơ hội
mua nhà. Cho vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn lan nhanh ra toàn nước Mỹ. Giá bất
động sản gia tăng nhanh chóng. Trước nguy cơ lạ m phát, FED bắt đầu tăng lãi suất làm
lượng cầu của các khoản vay dưới chuẩn giả m mạnh. Mức lãi suất thả nổi mà người đi
vay phải gánh chịu gia tăng theo sự gia tăng của lãi suất cơ bản. Chính vì vậy, ngưỡi
người đi vay bắt buộc phải chi trả với mức lãi suất cao trong khi không thể tái cấu trúc

các khoản vay thông qua vay đảo nợ và bắt đầu trở nên mất khả năng chi trả và lâm vào
tình trạng phá sản. Không trả được nợ, hàng loạt người mua nhà bị xiết nợ và phát mại tài
sản. Cleveland (Ohio) là thành phố đầu tiên châm ngòi cho cuộc khủng hoảng kinh tế,
khoảng 1/10 số nhà tại Cleveland bị thu hồi để phát mại. Những người nhập cư với giấc
mơ mua nhà lại trở về tay trắng. Giá nhà tại Mỹ giảm thảm hại trong quý 3/2007, mức tồi
tệ nhất từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1930. Ngay lập tức, Cụ c dự trữ liên bang Mỹ
và Ngân hàng Trung ương Châu Âu phải bơm số vốn khổng lồ vào thị trường. Từ tháng
9/2007, Cục dự trữ liên bang Mỹ đã liên tụ c cắt giảm lãi suất chiết khấu đồng USD. Đây
là những biện pháp rất mạnh nhằm cứu vãn nền kinh tế Mỹ khỏi cuộc khủng hoảng này.
Nhìn chung, nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính 2008 được tóm gọn lại
như sau:



23"
"








III. HẬU QUẢ CỦA KHỦNG HOẢN TÀI CHÍNH TOÀN CẦU 2008
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 đã diễn ra như vậy đó và sức tàn phá
của nó cũng thật ghê gớm, giống như một cơn bão lớn, một trận sóng thần, từng đợt sóng
cứ nối tiếp nhau, hết đợt này đến đợt khác để rồi tất cả đổ ập vào bờ và cuốn trôi đi hết
mọi thứ trên đó, để lại những đống đổ nát. Cả thế giới lại phải đối mặt với một cuộc Đại
suy thoái kinh tế mới mà cả 100 năm mới có một lần này với hi vọng sẽ chứng kiến sự

trỗi dậy, vươn lên vượt bậc và đầy nỗ lực của các quốc gia trên toàn cầu.
1.Hệ thống tài chính sụp đổ
Số các ngân hàng bị phá sản, sát nhập, giải thể hoặc bị quốc hữu hóa tăng lên
nhanh chóng. Trong năm 2008, tại Mỹ đã có 25 ngân hàng bị phá sản, riêng từ ngày
15/09/2008 đến cuối năm 2008 là 15 ngân hàng. Từ đầu năm 2009 đến 24/07/2009 thì số
ngân hàng bị phá sản càng tăng mạnh hơn, lên đến 64 ngân hàng. Từ 22/02/2008 đến
29/03/2009 thì tổng số ngân hàng của Mĩ và các nước EU bị mua lại là 33.

Lãi suất thấp kéo dài
sau 11/09/2009
Vai trò của Fannie
Mae và Freddie Mac
Chứng khoán hóa các
khoản cho vay cầm cố
Bong bóng bất động
sản nhà ở
Nổ bong bóng bất
động sản tháng
7/2007
Khan hiếm tín
dụng và ngân hàng
phá sản hàng loạt
Suy thoái nền kinh tế
thực vì thiếu tín dụng
cho sản xuất và tiêu dùng
24"
"




Có thể nói, sự sụp đổ của Lehman Brotherước ngày 15/09 là bước ngoặt tạo nên
tình trạng hỗn loạn trong hệ thống tài chính hiện nay. Trước đó, thị trường tài chính đã
chứng kiến hiệu ứng domino những vụ đổ vỡ của một loạt tên tuổi lớn liên quan đến cho
vay dư ới chuẩn như Bear Stearn (tháng 6), IndyMac Bancorp (tháng 7) rồi việc quốc hữu
hóa Fannie Mae và Freddie Mac vào tháng 9. Thiệt hại ước tính có thể lên tới hàng trăm
tỉ USD. Nhưng thị trườ ng vẫn vận hành bình thường cho đến khi những đại gia khác như
Lehman Brothers, AIG và Merrill Lynch tận số trong những ngày từ 13 đến 15 tháng 9.
Những sự kiện này vượt quá sức chịu đựng của một thị trường vốn đã rất rất mỏng manh
và dễ bị tổn thương trước đó. Thị trường tài chính trở nên hỗn loạn, người ta trở nên nghi
ngờ và đánh mất niềm tin vào các ngân hàng, các tổ chức tài chính. Chính những người
cho vay cũng từ chối những người đi vay vì sợ họ sẽ vỡ nợ và không có khả năng chi trả.
Tất cả đều muốn tháo chạy. Sau vụ đổ vỡ của Lehman Brothers thì người ta cũng chứng
kiến cảnh một loạt các ngân hàng, các tổ chức tài chính không chỉ tại Mĩ mà cả tại Anh,
Pháp, Đức, Bỉ, Hà Lan, sụp đổ, phá sản hoặc bị sát nhập, bị quốc hữu hóa. Cổ phiếu của
các ngân hàng này cũng tức thì suy giảm. Ông Mervyn King- Thống đốc Ngân hàng

×