Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

nguy cơ bùng nổ chiến tranh tiền tệ giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 33 trang )



2014
GVBM: PGS.TS. Trƣơng Quang Thông
TH: NHÓM 0 TCNH ĐÊM 2 – K22

NGUY CƠ BÙNG NỔ CHIẾN TRANH TIỀN
TỆ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
28/02/2014
1

TCNHĐ2_N0 NGUY CƠ BÙNG NỔ CHIẾN TRANH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY


THÀNH VIÊN NHÓM THỰC HIỆN
1. Nguyễn Đôn Nhã Uyên
2. Nguyễn Thị Tuyết Chi
3. Nguyễn Thị Phương Thảo
4. Lê Vũ Ngọc Anh
5. Đoàn Nhật Thanh
6. Võ Trần Đức Tuấn
7. Trần Thái Phương Nam













2

TCNHĐ2_N0 NGUY CƠ BÙNG NỔ CHIẾN TRANH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN BỘ MÔN
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………….
3

TCNHĐ2_N0 NGUY CƠ BÙNG NỔ CHIẾN TRANH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY


LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập tài chính quốc tế và toàn cầu hóa luôn là chủ đề được quan tâm hàng đầu
trong thời gian qua. Bất kỳ một quốc gia nào khi đã tham gia vào thị trường tài chính thế giới
luôn đón nhận nhiều cơ hội cùng những thách thức, khó khăn cho nền kinh tế. Trong đó, rủi
ro về tỷ giá hối đoái, rủi ro bị tấn công tiền tệ là điều không thể tránh khỏi và phụ thuộc
nhiều vào độ mở của thị trường tài chính trong nước với phần còn lại của thế giới. Bên cạnh
đó nguy cơ xảy ra chiến tranh tiền tệ là không thể tránh khỏi với bất kỳ nền kinh tế nào, và
thực tế đã chứng minh khi các cuộc chiến tranh tiền tệ xảy ra thì tổn thất do nó gây ra đối với
các quốc gia vô cùng to lớn, không thua gì một cuộc chiến thật sự với hàng trăm ngàn binh
lính, tàu chiến cùng các khí tài quân sự khác. Do đó, việc nghiên cứu về nguy cơ xảy ra các
cuộc chiến tranh tiền tệ trong giai đoạn hiện nay là vô cùng quan trọng đối với không chỉ các
nước lớn mà cả các nước đang phát triển và các quốc gia mới đổi trên toàn thế giới.
Được sự phân công nghiên cứu đề tài này của giảng viên bộ môn, nhóm đã cố gắng
tìm hiểu kỹ lưỡng các vấn đề liên quan đến đề tài thông qua việc nghiên cứu các cuộc chiến
tranh tiền tệ đã từng xảy ra trong quá khứ, để từ đó nhận biết các nhân tố có thể dẫn đến
chiến tranh tiền tệ trong giai đoạn hiện nay và đề xuất một số giải pháp cho vấn đề này. Đề
tài được trình bày với cấu phần gồm 03 chương lớn như sau:
- Chương I : Tổng quan lý thuyết về chiến tranh tiền tệ;
- Chương II : Lịch sử chiến tranh tiền tệ và các bài học;
- Chương III: Nguy cơ xảy ra chiến tranh tiền tệ giai đoạn hiện nay;
- Tham khảo.
Trong quá trình thực hiện đề tài, dù đã nỗ lực rất nhiều nhưng không thể tránh khỏi
những sai sót nhất định. Rất hy vọng phần trình bày tiếp sau đây sẽ nhận được sự quan tâm,
góp ý sâu sắc từ thầy bộ môn cũng như các nhóm đề tài khác để bài làm của nhóm được
hoàn thiện hơn.
Chân thành cảm ơn!
Nhóm thực hiện.
4

TCNHĐ2_N0 NGUY CƠ BÙNG NỔ CHIẾN TRANH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………… 3
CHƢƠNG I : TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ CHIẾN TRANH TIỀN TỆ… ……… 5
1.1. Khái niệm chiến tranh tiền tệ………………………………………………………… 5
1.2. Tấn công tiền tệ ……………………………………………………………………… 5
1.2.1. Khái niệm………………………………………………………………………………… 5
1.2.2. Cách thức để thực hiện một cuộc tấn công tiền tệ… …………………………………. 7
1.2.3. Các nhân tố thị trường hỗ trợ cho cuộc tấn công tiền tệ………………………………. 8
1.3. Cách thức tiến hành chiến tranh tiền tệ……………… ……………………………. 10
1.4. Nguyên nhân của chiến tranh tiền tệ….……………… ……………………………. 14
1.5. Tác động của chiến tranh tiền tệ đến nền kinh tế thế giới…….……………………. 14
CHƢƠNG II : LỊCH SỬ CHIẾN TRANH TIỀN TỆ VÀ CÁC BÀI HỌC…………….16
2.1. Cuộc tấn công tiền tệ vào nền kinh tế Nhật Bản những năm 1985………………… 16
2.2. Chiến tranh tiền tệ Châu Á những năm 1997……………………… ……………. 18
2.2.1.Tại Thái Lan……….……………………………………………………………………18
2.2.2.Tại Indonesia……… ………………………………………………………………… 19
2.2.3.Tại Philipines…… ……………………………………………………………………20
2.2.4.Tại Hàn Quốc…… …………………………………………………………………… 20
2.3. Bài học rút ra từ các cuộc chiến tranh tiền tệ những năm 1930… ……………. 20
CHƢƠNG III: NGUY CƠ XẢY RA CHIẾN TRANH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY………………………….…………………………………………………………… 23
3.1. Nguy cơ xảy ra chiến tranh tiền tệ…………………………………………………… 23
3.2. Vấn đề đồng Yen Nhật và đồng Nhân dân tệ……………………………………… 28
3.3. Các nhân tố chính gây ra chiến tranh tiền tệ và giải pháp ……………………… 30
3.3.1.Các nhân tố chính …………………………………………………………………… 30
3.3.2.Một số giải pháp đề xuất…………… …………………………………………………31
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………………… 32



5

TCNHĐ2_N0 NGUY CƠ BÙNG NỔ CHIẾN TRANH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

CHƢƠNG I : TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ CHIẾN TRANH TIỀN TỆ
1.1 Khái niệm chiến tranh tiền tệ:
Cách hiểu thứ nhất là: chiến tranh tiền tệ là một dạng của chiến tranh kinh tế và luôn
có yếu tố lũng loạn thị trường tiền tệ của một quốc gia, gây nên bất ổn tiền tệ làm nền kinh tế
của quốc gia đó khủng hoảng.
Cách hiểu thứ hai là: chiến tranh tiền tệ là việc một quốc gia thực thi chính sách tỷ giá
hối đoái riêng bất chấp tác động của nó tới các quốc gia còn lại (đối tác bên ngoài) nhằm thu
lợi cho nền kinh tế của quốc gia và không quan tâm tới sự thiệt hại của các đối tác.
Tựu chung lại chiến tranh tiền tệ nên được hiểu theo nghĩa đầy đủ là một tổ chức kinh
tế hay chính phủ của một quốc gia sử dụng công cụ tiền tệ để thu lợi cho quốc gia hay một
thế lực kinh tế của quốc gia đó, và làm suy yếu nền kinh tế - tài chính của các đối tác bên
ngoài (các quốc gia khác) ; dùng đồng tiền để chi phối nền tài chính của các đối tác bên
ngoài, và có thể nghiêm trọng hơn khi chính trị của các quốc gia là nạn nhân cũng bị chi phối
bởi cuộc chiến tiền tệ này. Từ định khái niệm này ta có thể thấy rằng việc tấn công tiền tệ
hay bị tấn công tiền tệ cũng gây nên cuộc chiến tranh tiền tệ với những hậu quả to lớn.
1.2. Tấn công tiền tệ:
1.2.1 Khái niệm:
Tấn công tiền tệ là một hình thức bán ra một số lượng lớn đồng tiền của một quốc gia
bởi cả những nhà đầu tư trong và ngoài nước. Hình thức bán ở đây có thể là bán khống hoặc
sử dụng các công cụ phái sinh (đối với các quỹ đầu cơ tiền tệ, các nhà đầu cơ) hay bán giao
ngay (của các nhà đầu tư khác trên thị trường, các doanh nghiệp…), làm cho đồng tiền nước
đó đứng trước khả năng mất giá đột ngột nếu không có sự can thiệp của Ngân hàng Trung
ương hay sự can thiệp đó chưa đủ lực.
Các quỹ đầu cơ khi muốn thực hiện tấn công tiền tệ thường nhắm vào những quốc gia
có những đặc điểm kinh tế như sau:
Thứ nhất, quốc gia đó đang duy trì một cơ chế tỷ giá cố định hay có biến động nhưng

với một biên độ dao động nhỏ so với đồng tiền của một quốc gia khác (thường là đồng Đô la
6

TCNHĐ2_N0 NGUY CƠ BÙNG NỔ CHIẾN TRANH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Mỹ). Những quốc gia chọn chế độ tỷ giá trên thường có một nền kinh tế nhỏ hay đang phát
triển, nhằm thu hút lượng vốn của các nhà đầu tư nước ngoài (những người lo sợ đồng tiền
mà họ đầu tư vào sẽ giảm giá trong tương lai do lạm phát cao ở các nước đang phát triển…).
Tỷ giá duy trì như vậy chắc chắn sẽ không phản ánh đủ giá trị thực của đồng tiền, chẳng hạn
như đồng nội tệ đươc định giá quá cao. Và nếu nó được thả nổi theo quan hệ cung cầu thực
sự, thì sẽ có một sự biến động lớn trong tỷ giá. Đây là dấu hiệu cho thấy quốc gia đó có khả
năng bị các quỹ đầu cơ tiền tệ chú ý nhiều nhất.
Thứ hai, một nền kinh tế vĩ mô phát triển không bền vững. Tuy nhiên, không phải
quốc gia nào duy trì chính sách tỷ giá cố định đều là mục tiêu tấn công của các quỹ đầu cơ.
Một quốc gia duy trì tỷ giá cố định nhưng gắn liền với một nền kinh tế phát triển bền vững
cũng có thể cản trở ý muốn tấn công của các quỹ này. Nếu quốc gia đó sản xuất ra những
sản phẩm có chất lượng cao, có lợi thế cạnh tranh, xuất khẩu sẽ tăng. Quốc gia đó có hệ
thống tài chính vững mạnh, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ đến xây dựng nhà máy, gửi tiền ở
các ngân hàng, mua trái phiếu, đầu tư vào thị trường chứng khoán nội địa. Để làm những
điều đó họ phải cần có đồng nội tệ. Và với nhu cầu nội tệ cao, tỷ giá sẽ không đổi chiều một
cách đột ngột khi có tấn công. Ngược lại, một quốc gia sẽ trở thành “miếng mồi ngon” cho
các quỹ đầu cơ nếu nó có dấu hiệu cảnh báo như:
Tăng trưởng kinh tế nóng dẫn đến lạm phát và bong bóng tài sản, đẩy tài sản vượt quá
mức giá trị thực của nó (đặc biệt là ở thị trường chứng khoán, bất động sản…). Một tác động
mạnh và đột ngột từ bên ngoài sẽ nhanh chóng làm bong bóng nổ và xì hơi, giá cả trên thị
trường giảm mạnh, thậm chí có thể dẫn đến khủng hoảng.
Hệ thống tài chính yếu kém, thị trường hoạt động không hiệu quả làm cho nhiều
khoản đầu tư có chất lượng kém (hay quá dư thừa) vào các tài sản có lợi nhuận không tương
xứng. Ngược lại hệ thống tài chính hiệu quả sẽ tạo ra khả năng cho Ngân hàng Trung ương
phản đòn nhưng không gây ra tổn thương cho nền kinh tế khi cuộc tấn công tiền tệ đã thực

sự diễn ra.
Thâm hụt tài khoản vãng lai quá mức trong nhiều năm mà không thể bù đắp, gây sức
ép lên tỷ giá khi các công ty trong nước cần có ngoại tệ thanh toán các hợp đồng đến hạn
(nhu cầu đồng Đô la Mỹ để trả nợ được đáp ứng bằng cách bán nội tệ dẫn đến nội tệ giảm
7

TCNHĐ2_N0 NGUY CƠ BÙNG NỔ CHIẾN TRANH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

giá). Bên cạnh đó là các khoản nợ nước ngoài, nếu có tỷ trọng lớn các khoản nợ ngắn hạn
hay sắp đến hạn cũng gây ra áp lực tương tự.
1.2.2 Cách thức để thực hiện một cuộc tấn công tiền tệ:
Khi đã xem xét thấy sớm muộn gì thì đồng nội tệ của quốc gia cũng sẽ bị mất giá, các
nhà đầu cơ tiền tệ bắt đầu cho cuộc tấn công tiền tệ có chiến lược trên quy mô lớn. Theo lý
thuyết, có nhiều chiến thuật khác nhau cho các nhà đầu cơ sử dụng.
Đầu tiên là việc họ có thể vay nội tệ, sau đó bán nội tệ để đổi lấy đồng tiền khác,
chẳng hạn như đôla và đầu tư đồng ngoại tệ đó (ví dụ như gửi tiền lấy lãi). Khi họ liên tục
bán ra nội tệ với quy mô lớn, sẽ làm cho đồng tiền này giảm giá và khi tái thanh toán các
khoản vay cũ ngày đến hạn, họ chỉ cần bỏ ra một lượng ngoại tệ ít hơn. Phần thu lợi là phần
chênh lệch giữa lượng ngoại tệ mà họ nắm giữ và phần ngoại tệ quy đổi ra nội tệ để chi trả
khoản vay.
Trên thực tế, những cuộc tấn công tiền tệ có thể sử dụng chiến lược trên kết hợp với
các công cụ phái sinh như: các hợp đồng futures, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn với
cùng ý tưởng là có thể mua được đồng USD rẻ hơn với giá đã được cố định trước khi đồng
nội tệ mất giá. Đây là ví dụ với chiến lược sử dụng công cụ kỳ hạn (forward). Các quỹ đầu
cơ tiến hành vay mượn nội tệ, sau đó họ mua đồng USD bằng hợp đồng kỳ hạn ở các ngân
hàng thương mại. Để tăng thêm hiệu quả cho cuộc tấn công họ sử dụng các hợp đồng kỳ hạn
không giao nhận, bởi nó giúp làm tăng đòn bẩy về nhu cầu đồng USD chỉ với lượng vốn
bằng một phần nhỏ ban đầu dùng để ký quỹ. Việc ký hợp đồng kỳ hạn như thế tương đương
với việc bán khống nội tệ làm tăng thêm áp lực phá giá đồng nội tệ.
Vào cuối kỳ, do đây là hợp đồng kỳ hạn không giao nhận nên ngân hàng chỉ thanh

toán cho các quỹ đầu cơ phần chênh lệch giữa tỷ giá giao ngay và tỷ giá kỳ hạn. Các quỹ đầu
cơ sẽ dùng khoản tiền này để trả khoản tiền đã vay, phần còn lại là lợi nhuận. Ngoài ra, đồng
thời với việc bán đồng nội tệ với quy mô lớn, họ còn bán khống cổ phiếu trên thị trường
chứng khoán nhằm mục đích tạo thêm áp lực phá giá đồng tiền nội tệ cho Ngân hàng Trung
ương và kiếm thêm lợi nhuận từ việc giá chứng khoán giảm.
8

TCNHĐ2_N0 NGUY CƠ BÙNG NỔ CHIẾN TRANH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Điều quan trọng để thành công trong chiến lược đầu cơ này là các quỹ phải dự đoán
chính xác thời gian Ngân hàng Trung ương có thể bảo vệ đồng nội tệ được bao lâu. Sau đó
ký hợp đồng kỳ hạn với thời gian thích hợp, sao cho nó phải đáo hạn sau khi Ngân hàng
Trung ương phá giá đồng nội tệ. Nếu hợp đồng đáo hạn trước khi ngân hàng phá giá, thì các
quỹ này sẽ thanh toán các hợp đồng đó và ký kết các hợp đồng khác nếu muốn tiếp tục thực
hiện tấn công. Nhưng để thanh toán các hợp đồng kỳ hạn trên, các quỹ đầu cơ phải bỏ ra một
số tiền rất lớn. Và nếu họ không có đủ khoản tiền này thì chính họ sẽ là những người thất bại
có thể sẽ bị thua lỗ lớn.
1.2.3 Các nhân tố thị trƣờng hỗ trợ cho cuộc tấn công tiền tệ:
Một cuộc tấn công tiền tệ sẽ có khả năng thành công cao nếu có sự trợ lực từ thị
trường, chẳng hạn như số lượng các quỹ đầu cơ tham gia tấn công. Một vài quỹ đầu cơ đóng
vai trò là người dẫn dắt cho cuộc tấn công. Tiếp đó, khi các nhà đầu cơ tiền tệ khác sẽ thấy
được cơ hội sinh lợi tương tự, họ sẽ tham gia tăng thêm sức mạnh của cuộc tấn công.
Việc sử dụng các công cụ phái sinh tiền tệ (option, forward, futures) có tính đòn bẩy
rất cao, nó làm tăng cầu ngoại tệ lên rất nhiều lần. Tức là chỉ cần bỏ ra một số tiền nhỏ để ký
quỹ những hợp đồng có giá trị giao dịch rất lớn. Các quỹ đầu cơ khi mua số lượng lớn hợp
đồng kỳ hạn ở nhiều ngân hàng sẽ bắt buộc các ngân hàng này thực hiện cân bằng vị thế để
tránh rủi ro. Tức là các ngân hàng này ngay lập tức sẽ thực hiện bán đồng nội tệ trên thị
trường và mua đồng ngoại tệ. Làm như thế thì các ngân hàng thương mại đã vô tình tạo thêm
sức ép làm giảm giá nội tệ.
Tuy nhiên, các thành phần tham gia cuộc tấn công tiền tệ chưa dừng ở đó. Những

dòng chảy vốn quốc tế đi xuyên qua các quốc gia còn có sự hiện diện của các công ty đa
quốc gia, các công ty xuất nhập khẩu, các định chế tài chính có số vốn khổng lồ, các nhà đầu
tư cá nhân tham gia đầu tư bằng cách vay ngân hàng hay sử dụng vốn tự có. Khi họ nhận
thấy đồng tiền mà họ đang nắm giữ đứng trước nguy cơ mất giá, tài sản (bất động sản, chứng
khoán) định danh bằng đồng tiền đó cũng có số phận tương tự thì cho dù không ai muốn
tham gia tấn công nhưng vô hình chung đã tạo ra làn sóng dữ dội bán tháo đồng tiền và tài
sản đó để giảm lỗ. Trong số các nhà đầu tư đang tháo chạy khỏi thị trường với tâm lý tổn
thất càng ít càng tốt, không chỉ có nhà đầu tư nước ngoài mà còn có cả nhà đầu tư trong nước
9

TCNHĐ2_N0 NGUY CƠ BÙNG NỔ CHIẾN TRANH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

nếu lòng tin của họ với đồng tiền nội địa hay với Ngân hàng Trung ương/quốc gia không còn
nữa.
Để tránh cho đồng tiền của quốc gia mình mất giá nặng nề (có thể dẫn đến khủng
hoảng tài chính nghiêm trọng), Ngân hàng Trung ương sẽ dùng những biện pháp can thiệp
trực tiếp, gián tiếp để ngăn chặn cuộc tấn công này. Biện pháp đầu tiên mà các Ngân hàng
Trung ương sử dụng là bán ngoại tệ từ quỹ dự trữ ngoại hối và thu nội tệ vào. Điều này
khiến cho lượng cung ngoại tệ tăng và cung nội tệ cũng giảm làm giảm áp lực lên tỷ giá.
Việc giảm quỹ dự trữ ngoại hối có thể được bù đắp thêm bằng cách đi vay trên thị trường tài
chính quốc tế. Bên cạnh đó có thể can thiệp bằng hợp đồng kỳ hạn đối ứng. Ngân hàng
Trung ương có thể là một khách hàng trên thị trường kỳ hạn. Nếu tác động mua kỳ hạn nội tệ
của Ngân hàng Trung ương ngang bằng với tác động bán kỳ hạn thì can thiệp bằng hợp đồng
kỳ hạn đã có thể hấp thụ việc bán nội tệ giao ngay. Do đó, không cần thiết can thiệp trên thị
trường giao ngay cũng như can thiệp vào cơ sở tiền tệ.
Nếu các quốc gia không muốn ảnh hưởng lớn đến quỹ dự trữ ngoại hối, cũng có thể
sử dụng một cách khác là tăng lãi suất. Mục tiêu của hành động này là ép chặt khả năng
tham gia của các nhà đầu cơ bán khống, bằng cách làm tăng chi phí các khoản vay của các
nhà đầu cơ. Nếu các nhà đầu cơ tham gia thì lợi nhuận của họ sẽ thu hẹp lại. Ngoài ra, sự gia
tăng lãi suất còn thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào trong nước, đẩy nhu cầu đồng

nội tệ tăng lên. Tuy nhiên, việc tăng lãi suất này nếu duy trì trong thời gian dài có thể dẫn
đến ảnh hưởng về gánh nặng lãi suất cho các bộ phận khác của nền kinh tế do lãi suất quá
cao làm cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư có thể vay vốn sản xuất, đầu tư, còn người tiêu
dùng không thể vay để mua sắm hàng hóa.
Để tránh tình trạng trên, chính phủ có thể xây dựng hệ thống cho vay hai lớp. Những
chu chuyển tiền tệ liên quan đến hoạt động giao thương, đầu tư dài hạn, đầu tư vào cổ phiếu
thì được tránh khỏi giới hạn về tín dụng. Các định chế trung gian sẽ bị cấm cho vay đối với
các nhà đầu cơ. Nếu các quỹ đầu cơ thực hiện bán khống chứng khoán trên thị trường chứng
khoán thì Ngân hàng Trung ương có thể mua chứng khoán vào để tránh cho thị trường chứng
khoán bị sụt giảm, ảnh hưởng đến khả năng bảo vệ đồng nội tệ của Ngân hàng Trung ương.

10

TCNHĐ2_N0 NGUY CƠ BÙNG NỔ CHIẾN TRANH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1.3 Cách thức tiến hành chiến tranh tiền tệ:
Thứ nhất, bằng cách thông qua tỷ giá của đồng tiền trong nước so với đồng tiền của
các đối thủ. Thông qua việc sử dụng các biện pháp điều chỉnh tỷ giá của Ngân hàng Trung
ương, các nước tham gia chiến tranh tiền tệ cố tình hạ thấp giá trị thực của đồng tiền quốc
gia, đánh giá thấp đồng nội tệ nhằm khuyến khích hoạt động xuất khẩu và sản xuất trong
nước hay can thiệp vào tỷ giá để làm giảm (hoặc tăng) giá trị của các khoản nợ (hoặc khoản
cho nước ngoài vay). Các quốc gia có thể phá giá đồng nội tệ theo một số cách sau:
In tiền: in tiền càng nhiều càng dẫn đến lạm phát và hệ quả là đồng nội tệ mất giá;
Mua tài sản (Quantitative easing, viết tắt là QE): là dạng chính sách tiền tệ được đưa
ra bởi Ngân hàng Trung ương thông qua việc mua tài sản (thường là mua trái phiếu Chính
Phủ) từ các ngân hàng và các tổ chức khác. QE thường được xem là công cụ in tiền nên gây
ra lạm phát và sự mất giá của đồng nội tệ;
Hạ lãi suất: Lãi suất thấp so với các nước khác thì không hấp dẫn các nhà đầu tư nắm
giữ tài sản và theo đó có ít nhu cầu nắm giữ đồng tiền nước đó, thế nên đồng tiền nước đó bị
mất giá;

Mua nợ của nước khác: việc mua nợ nước khác làm tăng nhu cầu đồng tiền nước đó,
dẫn đến sự tăng giá đồng tiền nước đó so với đồng nội tệ;
Cố định đồng tiền (mua đồng tiền của nước khác): các quốc gia cố định tỷ giá tại một
mức xác định hay trong một biên độ bằng việc bán đồng nội tệ và mua đồng ngoại tệ;
Quản lý dòng vốn: giới hạn dòng vốn đầu tư của nước ngoài ra vào nền kinh tế bằng
các biện pháp như thuế, thủ tục, giới hạn số lượng.





11

TCNHĐ2_N0 NGUY CƠ BÙNG NỔ CHIẾN TRANH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY


Nhìn chung, hầu hết thời điểm phá giá tiền tệ của các quốc gia đều không giống nhau
và sau mỗi lần phá giá thì đa số các quốc gia đều thành công vì đồng tiền nước mình đã yếu
đi phần nào so với thời điểm trước khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008, chỉ trừ một số
đồng tiền mạnh như đồng EUR, đồng Bảng Anh GPB.
Cụ thể, ta thấy trong năm 2013, Nhật Bản đã phá giá đồng Yên và chấp nhận lạm phát
2% so với mục tiêu bằng hình thức mua tài sản, mà cụ thể ở đây là Nhật Bản đã mua trái
phiếu Chính Phủ từ ngân hàng và một số tổ chức khác để tung thêm đồng Yên Nhật ra thị
trường. Từ đó làm đồng Yên mất giá và lạm phát tăng cao. Trước đó, tức là trước thời điểm
12

TCNHĐ2_N0 NGUY CƠ BÙNG NỔ CHIẾN TRANH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

năm 2011, Nhật Bản đang hứng chịu tai họa kép là sóng thần – hạt nhân vào tháng 3/2011
làm cho đồng Yên tăng lên mức cao nhất kể từ năm 1945 với tỷ giá USD/JPY đạt 76,29.

Đứng trước tình hình đó, nên nhóm G7 đã có những biện pháp can thiệp trực tiếp để kéo giá
đồng Yên xuống thấp trở lại và tỷ giá USD/JPY đạt khoảng trên 80. Tuy nhiên sự can thiệp
chỉ tồn tại ngắn ngủi khi các thị trường tài chính thất bại trong việc ngăn chặn sự tăng giá
của đồng Yên. Cùng thời gian đó, khủng hoảng nợ công Châu Âu và Mỹ đã làm cho các quỹ
đầu tư xem Yên Nhật là nơi trú ngụ an toàn nên đã vô tình làm cho đồng Yên lại tăng giá
mạnh trở lại.
Kế đến là đồng Franc Thụy Sĩ, ở thời điểm tháng 7/2011, để phá giá đồng tiền nước
mình thì Thụy Sĩ đã sử dụng hai biện pháp đồng thời đó là tăng cung tiền và hạ lãi suất đến
0%. Và sau đó, khoảng đến tháng 9/2011 thì Ngân hàng Trung ương Thụy Sĩ thông báo sẽ
thông qua tỷ giá quy đổi tối thiểu là 1,2Franc/1EUR cộng với việc Thụy Sĩ sẵn sàng mua lại
ngoại tệ với khối lượng lớn nhằm bảo vệ đồng nội tệ và cái đích cuối cùng là bảo vệ ngành
xuất khẩu chủ lực của quốc gia này. Thụy Sỹ đã thu được kết quả như mong đợi, đó là đồng
Franc đã giảm giá đáng kể so với thời điểm trước đó.
Khi nhắc đến tiền tệ thì chúng ta không thể bỏ qua một đồng tiền mà thế giới đặc biệt
quan tâm trong thời gian gần đây, đó là đồng nhân dân tệ của Trung Quốc. Trước thời điểm
năm 2010, Trung Quốc thực hiện chế độ neo tỷ giá vào đôla Mỹ và phá giá Nhân dân tệ một
cách mạnh mẽ để phục vụ cho lĩnh vựt xuất khẩu. Sau thời gian đó, với sự lên tiếng của thế
giới mà chủ yếu là của Mỹ, cùng với việc phá bỏ chế độ neo tỷ giá vào đồng đôla Mỹ, Trung
Quốc cho phép biên độ dao động của đồng Nhân dân tệ so với đôla Mỹ là 1%, nên trong năm
2013 đồng Nhân dân tệ đã tăng 2,6% và trở thành đồng tiền có mức tăng giá mạnh nhất ở
Châu Á, với tỷ giá USD/CNY là 6,0723. Tính từ thời điểm năm 2005 cho đến cuối năm
2013 thì đồng nhân dân tệ đã tăng 36%.




13

TCNHĐ2_N0 NGUY CƠ BÙNG NỔ CHIẾN TRANH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY



Nhìn vào hình vẽ ta thấy, điểm mốc là năm 2008 - thời điểm diễn ra khủng hoảng
kinh tế thế giới, cho đến tháng 7/2008 thì hầu hết là đồng tiền của tất cả các nước đều mạnh
hơn trước đó. Tuy nhiên sau tháng 7/2008 thì đã có sự phân rẽ thành hai nhánh dưới tác động
của khủng hoảng. Các đồng tiền mạnh trước đây như EUR, bảng Anh thì đã trở nên yếu hơn
so với trước khủng hoảng. Còn đồng Yên Nhật thì trở nên mạnh hơn cùng với đồng Nhân
dân tệ của Trung Quốc.
Việc phá giá đồng nội tệ có một số ưu điểm như kích thích xuất khẩu, đồng tiền yếu
đi làm hàng hóa xuất khẩu trở nên rẻ hơn so với các nước khác, xuất khẩu tăng dẫn đến tăng
trưởng kinh tế; Tạo việc làm: xuất khẩu mạnh kích thích thuê công nhân nhiều hơn và theo
đó gia tăng tiêu dùng và tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên hành động phá giá nội tệ cũng có một số tác động ngược như gây ra lạm
phát nếu tác động đến cung tiền, đồng tiền yếu đi làm tăng chi phí nhập khẩu hàng hóa và
dịch vụ, có nguy cơ dẫn đến lạm phát trong tương lai, đặc biệt đối với các quốc gia xuất
khẩu có tỷ trọng đầu vào nhập khẩu ở mức cao; Chi phí trực tiếp: một vài phương pháp
hướng tới sự phá giá đồng tiền có thể gây chi phí trực tiếp lớn ví dụ như một nước A sử dụng
dự trữ ngoại hối để mua trái phiếu nước B với lãi suất thấp và bán trái phiếu nội tệ với lãi
suất cao, điều này hàm ý nước A phải trả nhiều hơn so với thu nhập mà họ nhận được từ trái
phiếu B. Và hành động đó sẽ không có gì đảm bảo rằng đồng nội tệ nước A sẽ bị giảm giá.
14

TCNHĐ2_N0 NGUY CƠ BÙNG NỔ CHIẾN TRANH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Nguy hiểm nhất của việc phá giá tiền tệ chính là sự trả đũa, vì các quốc gia khác có
thể phản ứng lại hành động phá giá đồng tiền bằng việc phá giá chính đồng tiền nước họ, và
nếu những công cụ quản lý dòng vốn và thuế được dùng thì điều này sẽ dẫn đến chiến tranh
tiền tệ.
Thứ hai là thông qua hoạt động đầu tư quốc tế các quốc gia có tiềm lực kinh tế tài
chính mạnh sẵn sàng rót một lượng lớn vốn ngoại tệ vào một quốc gia khác tạo nên bong
bóng kinh tế và rồi chính các nhà đầu tư này sau một thời gian lại rút sạch tiền của mình về

nước, sự tháo chạy đột ngột của dòng ngoại tệ này gây ra một cú sốc lên đồng nội tệ làm cho
Ngân hàng Trung ương không thể kiểm soát chính sách tiền tệ. Và một lượng lớn tài sản
quốc gia chảy ra ngoài vào túi các nhà đầu cơ ngoại quốc. Hành động này biểu hiện như một
cuộc tấn công tiền tệ.
1.4 Nguyên nhân của chiến tranh tiền tệ:
Nguyên nhân của chiến tranh tiền tệ trực tiếp xuất phát từ lợi ích kinh tế của các quốc
gia, không một quốc gia nào muốn lợi của mình giảm đi trong lát cắt của miếng bánh kinh tế.
Nên một khi quốc gia nào đó có động thái nhằm tăng lợi ích kinh tế của mình tức là sẽ có
một phần lợi ích kinh tế của quốc gia khác đang bị giảm đi. Và tất nhiên để bảo vệ lợi ích
của mình các quốc gia khác sẽ có những động thái phản ứng lại và nếu điều đó xảy ra thì một
cuộc chiến tranh tiền tệ sẽ bùng nổ.
Bên cạnh đó, nguyên nhân sâu xa của cuộc chiến này có thể chính là lợi ích kinh tế và
tham vọng của các ông trùm tài chính, muốn dùng tiềm lực tài chính của mình và uy thế
chính trị của quốc gia trên trường quốc tế can thiệp vào nền kinh tế của các quốc gia khác
nhằm làm suy yếu nền kinh tế - chính trị của các nước đo và bắt đầu chi phối về mọi mặt
thông qua các quan hệ kinh tế tài chính quốc tế.
1.5 Tác động của chiến tranh tiền tệ tới nền kinh tế thế giới:
Đối với vấn đề các quốc gia thao túng đồng nội tệ: một khi có quốc gia nào đó thao
túng đồng nội tệ vì lợi ích của mình mà phớt lờ đi áp lực chính trị từ các nước là đối tác
thương mại thì ắt các nước khác cũng chạy đua theo nước đã khơi mào cho cuộc chiến. Sự
bất phân thắng bại này sẽ làm cho các bên liên tiếp đưa ra các biện pháp đối phó nhằm bảo
15

TCNHĐ2_N0 NGUY CƠ BÙNG NỔ CHIẾN TRANH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

hộ cho sản xuất trong nước - các hàng rào thương mại, thuế quan sẽ từng bước hình thành.
Và từ đó thương mại toàn cầu sẽ suy yếu, ảnh hưởng đến quá trình phát triển bền vững của
kinh tế thế giới.
Về lâu dài thì chính sách đồng nội tệ yếu sẽ khiến cho các nước đua nhau sản xuất để
xuất khẩu trong khi cầu thế giới lại không tăng kịp so với cung, từ đó có thể xảy ra khủng

hoảng thừa (tương tự như năm 1939 dẫn tới chiến tranh thế giới lần thứ 2).
Các nước lớn lao vào cuộc chiến này sẽ làm các hàng hóa của nước vốn dĩ có đồng
tiền yếu và trình độ khoa học kỹ thuật chưa cao (như các quốc gia đang phát triển ở châu Á,
châu Phi ) càng ít cạnh tranh hơn khi xuất sang các nước khác, làm cho xuất khẩu giảm.
Thêm vào đó là sự rẻ đi tương đối của hàng hóa ngoại càng làm cho tình hình các quốc gia
này xấu hơn. Cuối cùng, điều này có thể khiến các nước kém phát triển và đang phát triển bị
suy yếu về kinh tế, và một khi các nước này cũng áp dụng chính sách bảo hộ thương mại thì
kinh tế thế giới càng tồi tệ hơn.
Hơn thế nữa, khi một đồng tiền giảm giá sẽ sảy ra hiệu ứng domino, làm cho những
đồng tiền khác tăng giá một cách không mong muốn và theo sau nó là một loạt các hệ lụy
khác. Hiện nay nguy cơ bùng nổ chiến tranh tiền tệ đang được chú ý là cuộc chiến chưa có
hồi kết giữa Trung Quốc và Mỹ quanh vấn đề tỷ giá USD/CNY.
Đối với vấn đề đầu tư quốc tế, khi các luồng vốn đầu tư vào một quốc gia bị rút đi đột
ngột sẽ tạo nên một cú sốc nặng với nền kinh tế và ảnh hưởng của nó lan tỏa tới các quốc gia
lân cận có điều kiện tương đương; đồng thời làm cho chính việc kiểm soát tiền tệ của Ngân
hàng Trung ương không còn tác dụng kịp thời. Đồng nội tệ sẽ mất giá trầm trọng và khoản
nợ nước ngoài của các quốc gia này sẽ tăng cao chóng mặt gây ra nguy cơ vỡ nợ của các
quốc gia. Những nền kinh tế mới nổi sẽ phải tiếp nhận một lượng tiền khổng lồ từ các dòng
vốn đầu tư nước ngoài vào từ chính sách nới lỏng định lượng (in thêm tiền vào lưu thông)
của các quốc gia đó. Điều này có thể tạo nên tình trạng bong bóng tài sản, và gây áp lực tăng
giá đông nội tệ của các nước có luồng tiền đầu tư vào.


16

TCNHĐ2_N0 NGUY CƠ BÙNG NỔ CHIẾN TRANH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

CHƢƠNG II : LỊCH SỬ CHIẾN TRANH TIỀN TỆ VÀ CÁC BÀI HỌC
2.1 Cuộc tấn công tiền tệ vào nền kinh tế Nhật Bản những năm 1985:
Nguyên nhân: Trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất, vị trí chủ nợ quốc tế của Anh

đã mất về tay Mỹ. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nền kinh tế của các quốc gia Đông Á
không ngừng lớn mạnh trong đó nổi bật nhất là Nhật Bản.
Sự thuần thục trong kỹ thuật chế tạo mạch điện và chíp máy tính trừ máy xử lý trung
tâm, ưu thế của việc sáng chế các robot công nghiệp phục vụ sản xuất cũng như sức lao động
giá rẻ đã giúp Nhật Bản nâng cao vị thế cạnh tranh trước các cường quốc như Mỹ, Anh,…về
các hàng hóa công nghiệp như: ô tô, các sản phẩm điện tử khác. Khi các sản phẩm của người
Nhật dần dần chiếm lĩnh thị trường Âu – Mỹ thì sự bất an của các nhà tài phiệt ở Anh và Mỹ
càng dâng cao.
Ngoài ra, việc thực hiện chính sách lãi suất cao ở Anh và Mỹ vào đầu những năm 80
nhằm củng cố niềm tin vào đồng đô la cũng như hạ gục một loạt các quốc gia đang phát triển
ở Châu Phi và Châu Mỹ Latin đã gây ảnh hưởng lớn đến nền công nghiệp Mỹ, tạo điều kiện
cho các sản phẩm Nhật chiếm lĩnh thị trường Mỹ mạnh mẽ hơn.
Đứng trước nguy cơ phát triển bùng nổ của nền công nghiệp Nhật Bản với các công
ty lớn như Sony, Toshiba, Hitachi được xem là có khả năng mua lại IBM và Intel lúc bấy
giờ, các nhà tài phiệt quốc tế đầu tư vào thị trường Âu – Mỹ đã lên kế hoạch làm sụp đổ nền
tài chính Nhật, loại bỏ mối đe dọa đến sự giàu có của các quốc gia này.
Cách thức thực hiện: Tháng 09/1985: Nhật Bản chịu sức ép từ Mỹ nên phải cùng ký
kết “Thỏa thuận Plaza” gồm 5 nước: Mỹ, Anh, Nhật, Đức và Pháp với mục đích là để đồng
Đô la Mỹ mất giá một cách “có kiểm soát” so với các loại tiền tệ chủ yếu khác. Sau thỏa
thuận này, tỉ giá đồng Yên Nhật từ 250 yên đổi 1 Đô la Mỹ đã tăng lên mức 149 yên đổi 1
Đô la Mỹ.
Tháng 10/1987: khi thị trường cổ phiếu New York suy sụp, một lần nữa trước sức ép
và hứa hẹn từ Mỹ, ngân hàng Nhật Bản tiếp tục hạ lãi suất xuống còn 2.5%. Như vậy, lãi
suất ở Mỹ cao hơn ở Nhật đã tạo sức hút nguồn vốn từ thị trường chứng khoán Tokyo chảy
ngược về thị trường chứng khoán New York. Sự thay đổi của thị trường hối đoái khiến xuất
khẩu của Nhật Bản bị thiệt hại nặng nề, các doanh nghiệp rẽ sang hướng đầu tư vào chứng
17

TCNHĐ2_N0 NGUY CƠ BÙNG NỔ CHIẾN TRANH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY


khoán do tận dụng việc vay tiền với lãi suất thấp từ các ngân hàng. Tỉ lệ tăng trưởng của thị
trường chứng khoán Nhật do đó lên đến 40%/năm, bất động sản vượt ngưỡng 90%. Một
bong bóng bất động sản khổng lồ đã bắt đầu hình thành.
Từ năm 1987: các ngân hàng Mỹ âm mưu sử dụng vũ khí tài chính nguy hiểm: Stock
Index Futures. Lợi dụng vào niềm tin dân tộc vô cùng mạnh mẽ của Nhật Bản vào việc mình
đã thực hiện được cú đại nhảy vọt của nền kinh tế trong những năm 80, khi niềm tin ấy cũng
được áp dụng vào thị trường cho rằng thị trường chứng khoán Nhật không thể nào trượt giá,
các thế lực muốn tấn công hệ thống tài chính Nhật Bản đã tung một lượng lớn hiện kim để
mua “khả năng trượt giá” của thị trường chứng khoán từ các công ty bảo hiểm Nhật.
Tháng 01/1990: Sau khi chỉ số Nikkei của Nhật đạt kịch trần, Sở giao dịch Mỹ tung ra
chứng quyền đặt bán chứng khoán ở thời điểm phát hành (Nikkei Put Warrants). Qua trung
gian là vương quốc Đan Mạch, các thế lực tấn công điển hình là công ty Goldman Sachs
gián tiếp bán lại các quyền chọn chỉ số đã mua từ ngành bào hiểm Nhật cho những người
mua chứng quyền. Tiếng tăm của vương quốc Đan Mạch đã tạo sức hút tiêu thụ đối với
quyền chọn chỉ số, từ đó tăng sức mua chứng quyền. Một lượng lớn các ngân hàng đầu tư
Mỹ nắm bắt thời cơ tranh nhau bán chứng quyền ra thị trường khiến chứng khoán Nhật trượt
giá thảm hại.
Kết quả:thị trường chứng khoán Nhật sụp đổ, tác động mạnh mẽ đến ngành ngân
hàng, bảo hiểm và sản xuất của nước này. Từ năm 1990, nền kinh tế Nhật Bản rơi vào thời
kỳ suy thoái kéo dài mười mấy năm. Thị trường chứng khoán sụt giá 70%, giá bất động sản
liên tục rớt trong 14 năm sau đó. Tổn thất về tài sản tài chính trong năm 1990 của Nhật Bản
gần tương đương với thất bại của Nhật trong chiến tranh thế giới thứ hai (theo tác giả
Yoshikawa Mototada trong cuốn sách “Thất bại tài chính”).
Như vậy, trong vòng chưa đầy năm năm trước sức ép và âm mưu phá hoại lâu dài của
các tài phiệt ngân hàng quốc tế, hệ thống tài chính của Nhật Bản đã phải chịu sự tàn phá
nặng nề. Nền kinh tế Nhật Bản vốn đang có triển vọng tăng trưởng mạnh mẽ vào những năm
80 đã sớm lụi tàn và quay về mốc khởi điểm.


18


TCNHĐ2_N0 NGUY CƠ BÙNG NỔ CHIẾN TRANH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

2.2 Chiến tranh tiền tệ Châu Á những năm 1997:
2.2.1 Tại Thái Lan:
Có thể nói Thái Lan là nơi châm ngòi cho cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong
khu vực Châu Á bởi chiến dịch tấn công ồ ạt của các quỹ đầu cơ tiền tệ. Từ năm 1985 đến
năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng năm là 9%. Theo báo cáo
Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã cảnh báo nền kinh tế Thái Lan tăng trưởng quá
nóng và bong bóng kinh tế có thể không giữ được lâu. Cuối năm 1996, thị trường chứng
khoán Thái Lan bắt đầu có sự điều chỉnh. Cả mức vốn hóa thị trường vốn lẫn chỉ số thị
trường chứng khoán đều giảm đi. Hệ thống tài chính ngân hàng không phát triển tương ứng
với chính sách kinh tế vĩ mô dẫn đến tốc độ kinh tế giảm (từ 9% năm 1995 xuống còn 6,4%
năm 1996). Không những thế, nợ nước ngoài tăng quá lớn so với dự trữ ngoại hối (nợ nước
ngoài là 90 tỷ USD, trong đó nợ ngắn hạn chiếm tới 40%).
Mặt khác, việc Chính phủ Thái Lan giữ cố định tỷ giá đồng Bath đối với đồng Đô la
Mỹ trong suốt 13 năm khiến đồng Bath trở nên kém linh hoạt và gây cản trở đối với việc
xuất khẩu; đồng Bath lên giá theo Đô la Mỹ đã làm cho hàng hóa Thái Lan trở nên quá đắt
trên thị trường Châu Âu và quốc gia này cũng mất đi hàng tỷ đôla đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Như vậy từ việc mua sản phẩm và dịch vụ nước ngoài nhiều hơn là thu nhập từ xuất
khẩu và đầu tư thấp hơn đã khiến Thái Lan trở thành nước có mức thâm hụt tài khoản vãng
lai cao nhất thế giới (khoảng 8% so với GDP năm 1996).
Không những thế, chính sách quản lý ngoại hối của Thái Lan tương đối tự do, cơ chế
chuyển đổi ngoại tệ bằng đồng Bath khá dễ dàng, tạo điều kiện cho luồng vốn nước ngoài đổ
vào hoặc chảy ra bất cứ lúc nào. Chính vì vậy, khi có biến động trên thị trường tài chính tiền
tệ, luồng vốn ngoại tệ chảy ra mạnh kéo theo đồng Bath xuống giá. Do đó, với những bất ổn
về mặt kinh tế và sự sơ hở trong cơ chế quản lý ngoại hối đã thúc đẩy các nhà đầu cơ tiền tệ
trong và ngoài nước phá giá đồng nội tệ để kiếm lời.
Ngân hàng Trung ương Thái Lan (Bank of Thailand – BoT) đã nâng lãi suất lên rất
cao khi một số hợp đồng kỳ hạn đáo hạn nhằm hạn chế khả năng các quỹ đầu cơ vay đồng

Baht để có thể ký tiếp các hợp đồng kỳ hạn. Tuy nhiên BoT đã mất cảnh giác trong ba tháng
19

TCNHĐ2_N0 NGUY CƠ BÙNG NỔ CHIẾN TRANH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

đầu năm 1997 để các quỹ đầu cơ tích trữ được một lượng lớn hợp đồng kỳ hạn (xấp xỉ 15 tỷ
USD) có thời hạn rất dài (12 tháng). Một điều đáng tiếc nữa là chính BoT đã tham gia trực
tiếp vào thị trường kỳ hạn để cố gắng ngăn chặn sức ép lên đồng Baht. Ngày 14 tháng 5 và
ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng Baht Thái bị tấn công đầu cơ quy mô lớn. Khi lãi suất đã
được đẩy lên quá cao, nền kinh tế Thái Lan đã không chịu nổi chi phí vốn cao trong thời
gian dài như vậy nên đã bắt đầu có dấu hiệu suy sụp. Ngày 30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan
Chavalit Yongchaiyudh tuyên bố sẽ không phá giá Baht, song rốt cục lại phải thả nổi Baht
vào ngày 2 tháng 7 để giải cứu nền kinh tế.
Đồng Baht ngay lập tức mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến
mức 56 baht mới đổi được 1 Đô la Mỹ. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ
mức 1.280 điểm cuối năm 1995 xuống còn 372 điểm cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn
hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Điển hình có Finance
One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan đã tuyên bố phá sản. Ngày 11 tháng 8, IMF
tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ Đô la Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20 tháng 8,
IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ USD. Tất nhiên cuộc khủng hoảng này có
tác hại không chỉ giới hạn trong nền kinh tế Thái Lan mà còn nhanh chóng lan sang các nước
khác như Indonesia, Malaysia, Philipines.
2.2.2 Tại Indonesia:
Vào khoảng tháng 7 và tháng 8 năm 1997, đoán trước được áp lực trên đồng USD của
Indonesia do nhu cầu mua Đô la Mỹ trả nợ nước ngoài quá lớn, sau khi đã tấn công Thái
Lan, các tay đầu cơ chuyển hướng tấn công nền kinh tế Indonesia. Phương thức hoạt động
của các nhà đầu cơ chuyên nghiệp này thông thường là cùng lúc đán vào hai mặt trận tiền tệ
và thị trường chứng khoán. Ban đầu họ ra sức bán khống nội tệ và cổ phiếu theo đúng bài
bản và chỉ trong vòng 6 tháng, cả đồng USD lẫn chỉ số của Thị trường chứng khoán Jakarta
rớt xuống một cách thảm hại, kéo theo sự sụp đổ toàn bộ của cả nền kinh tế Indonesia.

Chính phủ nước này đã phải công bố nới rộng khung can thiệp tỷ giá từ 8% lên 12%
vào ngày 11/7/1997 bởi quy mô nhỏ bé về dự trữ ngoại hối và khả năng bảo vệ đồng tiền
chống lại các nhà đầu cơ tiền tệ là rất hạn chế. Sau một tuần mở rộng khung can thiệp, tỷ giá
tăng lên mức 2520RP/USD, tỷ lệ mất giá khoảng 8,2% vượt quá mức độ phá giá trước đây
20

TCNHĐ2_N0 NGUY CƠ BÙNG NỔ CHIẾN TRANH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

(4-6%). Cuối cùng đến ngày 14/8/1997 Ngân hàng Trung ương Indonesia buộc phải tuyên bố
thả nổi đồng Rupi để rồi sau đó giá trị của nó nhanh chóng lao dốc thêm 4,5% ngay sau thời
điểm công bố. Vào tháng 9/1997, tỷ giá RP/USD là 3260. Sau đó với hàng loạt những biến
động về kinh tế và chính trị thì đồng tiền nước này lại càng mất giá trầm trọng xuống mức
10.000RP/USD (tháng 1/1998) hay nói cách khác là đồng tiền nước này đã giảm 77% giá trị
so với cuối tháng 6/1997.
2.2.3 Tại Philipines:
Với những khó khăn nội tại của nền kinh tế nhất là việc thâm hụt lớn trong cán cân
vãng lai (13% GDP) và tác động khủng hoảng từ Thái Lan, vào đầu tháng 7/1997 Ngân hàng
Trung ương Philipines đã phải chi 2 tỷ Đô la Mỹ để bảo vệ đồng Peso. Cũng như Thái Lan,
do không chịu được sức ép tỷ giá quá lớn, ngày 7/7/1997 Ngân hàng Trung ương Philipines
đã công bố nới rộng biên độ dao động tỷ giá Peso với USD mà thực chất là phá giá đồng tiền
không chính thức như ở Thái Lan. Đầu năm 1998 đồng tiền nước này bị mất giá tớ 45% so
với thời điểm cuối tháng 6/1997.
2.2.4 Tại Hàn Quốc:
Trong số các trường hợp khủng hoảng tại các quốc gia châu Á thì cuộc khủng hoảng
ở Hàn Quốc có thể coi là một trong số những cuộc khủng hoảng nặng nề nhất. Trong suốt
cuộc tấn công tiền tệ, Đồng Won đã mất giá liên tục (tỷ giá Won/USD từ 966 vào tháng
11/1997 tăng lên 1450 vào tháng 12/1997). Sự mất giá nhanh chóng của đồng tiền này buộc
Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc phải công bố thả nổi đồng Won. Cán cân thanh toán của
quốc gia này cũng thâm hụt khoảng gần 2 tỷ USD năm 1997. Giá trị của đồng nội tệ đã bị
giảm 40% so với thời điểm trước khủng hoảng tiền tệ. Cùng với sự giảm giá của đồng tiền,

giá cổ phiếu cũng tụt dốc trên thị trường chứng khoán Hàn Quốc.
2.3 Bài học rút ra từ các cuộc chiến tranh tiền tệ từ những năm 1930:
Kịch bản chiến tranh tiền tệ nổ ra luôn được các nhà kinh tế học lưu tâm bởi đây
chính là nguyên nhân chủ đạo dẫn đến cuộc đại suy thoái hồi những năm 1930, đặc biệt là
trong thời kỳ 1931 – 1933. Kinh tế thế giới đã phải mất tới một vài thập kỷ để chữa lành
những vết thương mà chiến tranh tiền tệ gây ra cho nền thương mại toàn cầu.
21

TCNHĐ2_N0 NGUY CƠ BÙNG NỔ CHIẾN TRANH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Tuy nhiên, liệu kịch bản này có xảy ra ở giai đoạn hiện nay hay không. Thực chất, các
chính sách ngày nay khác xa so với các chính sách ở thời kỳ trước và do đó hậu quả chắc
chắn cũng sẽ khác. Trước hết, cần phải hiểu rõ chiến tranh tiền tệ nổ ra khi các chính sách
được thiết kế với mục đích bóp méo giá trị của 1 đồng tiền (thông qua lạm phát trong nước
hoặc giảm tỷ giá hối đoái).
Nếu một nền kinh tế là biệt lập, điều này không gây ra hậu quả trong dài hạn bởi nếu
lạm phát tăng lên thì cuối cùng tỷ giá phải giảm xuống. Tuy nhiên, trong chính sách “biến
hàng xóm thành ăn mày”, một nước sẽ giảm tỷ giá danh nghĩa trong khi giữ nguyên tỷ lệ lạm
phát. Thời kỳ tồi tệ nhất của chiến tranh tiền tệ trong những năm 1930 được châm ngòi bởi
sự kiện đồng bảng Anh rời khỏi chế độ bản vị vàng vào năm 1931, kéo theo việc đồng tiền
này giảm giá so với tất cả các đồng tiền còn lại. Các nước còn lại không phản ứng bằng cách
rút khỏi chế độ bản vị vàng mà áp dụng các biện pháp quản lý đối với thương mại tự do.
Hàng loạt chính sách thuế quan, hạn ngạch và kiểm soát tỷ giá hối đoái được đưa ra.
Kết quả là, thương mại tự do sụt giảm rõ rệt. Hoạt động sản xuất toàn cầu chao
đảo. Trở lại với thị trường tiền tệ ngày nay, Barry Eichengreen và Douglas Irwin đã nghiên
cứu về các đợt phá giá tiền tệ cũng như các biện pháp bảo hộ thương mại của từng nước để
có thể rút ra kết luận về các cuộc chiến tranh tiền tệ thời hiện đại. Họ lập luận rằng các nước
từ bỏ chế độ bản vị vàng khá sớm (ví dụ như khối sử dụng đồng bảng Anh) phụ thuộc ít hơn
vào các biện pháp bảo hộ thương mại trực tiếp. Trong khi đó, các nước theo đuổi chế độ bản
vị vàng lâu nhất (ví dụ như Pháp - ở lại cho đến năm 1936) phụ thuộc nhiều hơn.

Điều này rất quan trọng bởi phá giá tiền tệ đem lại những tác động hoàn toàn khác
biệt so với các biện pháp bảo hộ thương mại trực tiếp. Ví dụ, với trường hợp của Anh, rời bỏ
chế độ bản vị vàng và phá giá đồng bảng cho phép nước này dễ dàng triển khai các chính
sách tiền tệ nhằm giúp kinh tế phục hồi sau suy thoái.
Các nước còn lại (như Pháp) cũng không hoàn toàn là kẻ thua cuộc. Pháp đã áp mức
thuế 15% cho tất cả các loại hàng hóa nhập khẩu. Các nước khác cũng sử dụng những biện
pháp kiểm soát thương mại tương tự. Cuối cùng thì, thương mại thế giới giảm tới hơn 60%
trong vòng 6 năm. Hoạt động sản xuất công nghiệp trên toàn cầu cũng sụt giảm mạnh. Điều
22

TCNHĐ2_N0 NGUY CƠ BÙNG NỔ CHIẾN TRANH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

gì sẽ xảy ra nếu như Pháp quyết định phản ứng với đồng bảng giảm giá bằng cách từ bỏ chế
độ bản vị vàng và giảm giá đồng franc. Các nhà sản xuất Pháp có thể được hưởng lợi nhưng
dòng chảy thương mại sẽ không sụt giảm mạnh như vậy. Thêm vào đó, Pháp có thể dễ dàng
nới lỏng chính sách tiền tệ và từ đó kích thích nhu cầu trong nước.
Các ví dụ trên cho thấy hậu quả mà các động thái giảm giá đồng nội tệ hoặc nới lỏng
chính sách tiền tệ có thể đem lại sẽ thấp hơn rất nhiều so với các biện pháp kiểm soát thương
mại và tỷ giá. Và, bài học này đã được áp dụng kể từ năm 2008. Các nước từ Nhật Bản đến
Thụy Sĩ thi nhau giảm giá đồng nội tệ trong khi các biện pháp kiểm soát thương mại rất ít
được sử dụng.
Kết quả là, thương mại thế giới chỉ giảm nhẹ và nhanh chóng phục hồi. Nguyên nhân
có thể là do các biện pháp hạn chế thương mại trực tiếp như chống phá giá hay các hàng rào
thuế quan và kỹ thuật hiếm khi được áp dụng. Ngoài ra, vẫn có rất nhiều lý do khác khiến
các nước không còn hào hứng với lựa chọn này. Sự tồn tại của các hiệp ước thương mại
quốc tế cùng các tổ chức như WTO và IMF đã có tác dụng lớn. Hơn nữa, các công ty cũng
phụ thuộc nhiều hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Áp lực chính trị cũng giảm xuống rất
nhiều. Đồng thời, bài học của thời kỳ những năm 1930 được giảng dạy trên toàn thế giới và
được các quốc gia này luôn ghi nhớ.
Tuy nhiên chúng ta không thể chủ quan vì chiến tranh tiền tệ vẫn có thể phát triển

thành chiến tranh thương mại trực tiếp. Kể cả khi điều đó không xảy ra, chiến tranh tiền tệ
vẫn đem lại những hệ lụy khôn lường như lạm phát hay bong bóng tài sản ở các nền kinh tế
mới nổi.





23

TCNHĐ2_N0 NGUY CƠ BÙNG NỔ CHIẾN TRANH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

CHƢƠNG III: NGUY CƠ XẢY RA CHIẾN TRANH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY
3.1 Nguy cơ xảy ra chiến tranh tiền tệ:
Thời gian gần đây nhiều cảnh báo đã liên tục được đưa ra liên quan đến vấn đề "chiến
tranh tiền tệ" toàn cầu khi mà hàng loạt các nước sử dụng các biện pháp tiền tệ để hạ giá
đồng tiền nước mình nhằm thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Với những đặc điểm
khác biệt so với các cuộc chiến tiền tệ trong lịch sử, vấn đề "chiến tranh tiền tệ" giai đoạn
2010 - 2013 vẫn còn nhiều tranh cãi. Tuy nhiên, nếu thực sự đang xảy ra một cuộc chiến tiền
tệ thì hậu quả của nó đối với kinh tế thế giới là rất nghiêm trọng.
Đặt biệt sau khi Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) thông báo triển khai gói nới lỏng định
lượng lần thứ 3 (QE3) song song với việc cam kết giữ lãi suất thấp sát 0% đến giữa năm
2015. QE3 được coi là biện pháp nới lỏng tiền tệ mạnh tay nhất trong lịch sử Fed kể từ sau
khủng hoảng Đại suy thoái 1929 - 1933 bởi Fed cam kết quy mô "in tiền" 85 tỷ USD/tháng
sẽ được duy trì liên tục cho đến khi tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ xuống dưới 6,5% (hiện nay tỷ lệ
thất nghiệp của Mỹ- vẫn xấp xỉ 8%). QE3 cùng với cam kết giữ lãi suất thấp gần 0% đến
giữa năm 2015 đã dẫn đến nhiều chỉ trích cho rằng Fed đang cố tình hạ giá đồng USD với
mục đích tăng sức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu của Mỹ.
Thực tế, tính đến ngày 14/9/2012 - một ngày sau khi kết thúc cuộc họp ủy ban điều

hành thị trường mở Fed FOMC với tuyên bố về QE3 - đồng USD đã giảm giá xấp xỉ 5% so
với đồng EUR khi đồn đoán về động thái nới lỏng mạnh tay của Fed lan rộng trên thị trường
và từ đó tiếp tục giảm mạnh cho đến ngày 1/2/2013, tỷ giá EUR/USD chạm ngưỡng cao nhất
trong vòng 15 tháng, ở mức 1,3639 USD ăn 1 EUR. Thâm hụt thương mại tháng 12/2012
của Mỹ thu hẹp mạnh xuống 38,5 tỷ USD - mức thâm hụt thương mại theo tháng thấp nhất
trong vòng hơn 2 năm qua.
Một tuần sau quyết định QE3 của Fed, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản cũng bất
ngờ công bố quyết định nới lỏng quyết liệt chính sách tiền tệ của mình. Sau khi mở rộng
chương trình mua tài sản thêm 10 nghìn tỷ Yên lên mức 80 nghìn tỷ Yên (tương đương 101
tỷ USD) vào tháng 9/2012, NHTW Nhật Bản liên tục mở rộng gói mua tài sản vào tháng 10,
24

TCNHĐ2_N0 NGUY CƠ BÙNG NỔ CHIẾN TRANH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

11 và gần đây nhất, ngày 22/1/2013, quy mô chương trình mua tài sản đã được tăng lên mức
111 nghìn tỷ Yên (tương đương 113 tỷ USD) và sẽ kéo dài vô thời hạn.
Mặc dù, Chính phủ Nhât khẳng định động thái nới lỏng một cách quyết liệt là nhằm
đảm bảo kinh tế Nhật Bản "không chệch ra khỏi xu hướng hồi phục về mức tăng trưởng dài
hạn trong bối cảnh lạm phát ổn định", nhưng điều này có thể khẳng định chiến lược "Nhật
Bản phải tự bảo vệ mình bằng cách duy trì một đồng yên yếu nhằm chống lại việc các nước
khác đang giảm giá đồng tiền của mình" và khẳng định mức tỷ giá 90 Yên ăn 1 USD sẽ đem
lại lợi nhuận cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Nhật Bản, việc tỷ giá dao động quanh mức
80 thực sự là một khó khăn lớn đối với doanh nghiệp xuất khẩu Nhật Bản khiến các quốc gia
đối thủ cho rằng Nhật Bản đang công khai chủ động phá giá đồng Yên với mục đích rõ ràng
là hỗ trợ xuất khẩu. Đồng Yên Nhật đã giảm giá mạnh khoảng 17% so với đồng USD chỉ
trong 3 tháng sau đó.
Thực chất, lo ngại về chiến tranh tiền tệ đã bắt đầu từ năm 2010 khi Mỹ khởi đầu
chiến dịch nới lỏng định lượng khiến USD giảm giá mạnh, kéo theo một loạt các nước cũng
tìm mọi cách bảo vệ đồng tiền của mình không tăng giá, nổi bật nhất là Brazil và Thụy Sỹ.
Tháng 8/2011, bất chấp lạm phát vẫn cao hơn mức mục tiêu, Ngân hàng Trung ương

Brazil đột ngột quyết định cắt giảm lãi suất và tuyên bố rằng Brazil sẽ không ngần ngại can
thiệp để giảm giá đồng Real. Đến năm 2012, Ngân hàng Trung ương liên tục can thiệp trực
tiếp vào thị trường ngoại hối bằng cách bán ra các hợp đồng hoán đổi tiền tệ đảo nghịch và
Chính phủ Brazil nhấn mạnh rằng sẽ không để đồng Real tăng giá.
Cùng lúc đó, trong bối cảnh đồng Franc Thụy Sỹ tăng giá mạnh so với nhiều đồng
tiền với vai trò dự trữ an toàn, thì tháng 9/2011, lần dầu tiên kể từ năm 1978, Ngân hàng
Trung ương Thụy Sỹ đưa ra quyết định mua không giới hạn các ngoại tệ nhằm giữ tỷ giá
luôn trên ngưỡng 1,20 Euro ăn 1 Franc, khiến đồng Franc ngay lập tức giảm giá 8,1% so với
Euro chỉ trong vòng 1 ngày sau khi Ngân hàng Trung ương bắt đầu can thiệp.
Cho đến chiến dịch giảm giá tiền tệ gần đây giữa Mỹ và Nhật Bản đang gây lo lắng
sâu sắc rằng nó có thể lan rộng thành một cuộc chiến tiền tệ toàn cầu với sự tham gia của

×