Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Những khó khăn của các doanh nghiệp và cơ sở kinh doanh sản phẩm rau an toàn tại hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.18 KB, 10 trang )

Sản phẩm nghiên cứu thuộc Dự án hợp tác IPSARD – VECO
NHỮNG KHÓ KHĂN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VÀ CƠ SỞ KINH
DOANH SẢN PHẨM RAU AN TOÀN TẠI HÀ NỘI
1. Tình hình chung
Nhu cầu rau an toàn (RAT) tại Hà Nội ngày càng gia tăng, đó là một thực
trạng rõ ràng. Tuy nhiên, một nghịch lý đang diễn ra là trong khi các doanh
nghiệp thường đi tiên phong trong những lĩnh vực có nhu cầu cao thì đối với
thị trường rau an toàn, sự tham gia của các doanh nghiệp vẫn còn rất hạn chế.
Theo số liệu của Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển hệ thống nông nghiệp
(CASRAD), tại Việt Nam có đến 75% diện tích sản xuất nông nghiệp thuộc các hộ
nhỏ lẻ và cung cấp trên 60% nông sản, hầu hết được bán trực tiếp tại các chợ phục vụ
dân sinh. Do thiếu sự tham gia của các doanh nghiệp nên việc tiêu thụ rau an toàn vẫn
mang tính chất mua bán nhỏ lẻ, chưa có chiến lược kinh doanh hay xây dựng thương
hiệu đủ tầm cho rau an toàn. Cũng vì thế mà đến nay mặc dù nhu cầu rau an toàn cao
nhưng người sản xuất rau an toàn vẫn không bán được hàng trong khi người tiêu
dùng cũng chưa mặn mà với những sản phẩm có dán nhãn rau an toàn hoặc được
công bố là rau an toàn bởi không thực sự tin tưởng vào chất lượng.
Quay lại câu hỏi tại sao nhu cầu rau an toàn cao, thị trường đầy tiềm năng
nhưng không thu hút được các doanh nghiệp. Câu trả lời cụ thể phụ thuộc vào trường
hợp của từng doanh nghiệp, nhưng có một phản hồi chung đó là sự không tương
xứng giữa lợi nhuận và rủi ro. Như chúng ta vẫn biết, trong kinh doanh “high risk,
high profit”- tạm dịch ra là “rủi ro cao thì lợi nhuận cao”, nhưng theo nhiều doanh
nghiệp thì kinh doanh rau an toàn rủi ro mà lợi nhuận cũng không nhiều.
1
Sản phẩm nghiên cứu thuộc Dự án hợp tác IPSARD – VECO
Theo thông tin từ phòng Quản lý thương mại Hà Nội, trong hai năm trở lại đây
số lượng cơ sở kinh doanh RAT đăng ký cấp giấy chứng nhận kinh doanh RAT giảm
dần. Nếu như những năm 2008-2009, các cửa hàng rau an toàn xuất hiện nhiều tại các
khu dân cư của Hà Nội thì đến nay không ít trong số đó đã “lặng lẽ rút lui”. Theo tìm
hiểu của tác giả, phần nhiều các cửa hàng này là do xã viên các HTX tự đầu tư nên
khả năng cạnh tranh không cao, tiềm lực tài chính yếu, dẫn đến ngay khi thị trường


không thuận lợi thì không thể tiếp tục kinh doanh.
Đối với hệ thống cửa hàng RAT do các doanh nghiệp đầu tư, đã có một thời
gian các cơ sở kinh doanh RAT rất nhiệt tình với việc đăng ký để được cấp giấy
chứng nhận cửa hàng đủ điều kiện, cấp mã vạch để người dân có thể truy xuất nguồn
gốc rau. Tuy nhiên, do kinh doanh không thuận lợi nên những doanh nghiệp đầu tiên
gắn mã vạch cho rau lại đang rất khó khăn trong việc duy trì kinh doanh. Có thể lấy
ví dụ tiêu biểu là công ty cổ phần Công nghệ Nông lâm nghiệp Việt Nam. Thương
hiệu "rau an toàn Bảo Hà" của công ty này được đăng ký gắn mã vạch từ tháng
12/2004. Nguồn nguyên liệu của rau chủ yếu từ hợp tác xã (HTX) Đạo Đức (xã Vân
Nội) và HTX Đìa (xã Nam Hồng) huyện Đông Anh với diện tích trên 14 ha. Tuy
nhiên, do đầu tư cho chất lượng nên giá rau của công ty không thể cạnh tranh được
với giá rau không an toàn; lượng rau an toàn Bảo Hà được tiêu thụ trên thị trường chỉ
khoảng 4-5 tạ/ngày, quá nhỏ so với tổng lượng rau tiêu thụ của Hà Nội(khoảng 1.200
tấn/ngày).
Có thể nói, với tình hình thị trường như hiện nay, kinh doanh RAT đầy rủi ro
bởi sự tác động của nhiều yếu tố như sản phẩm mang tính đặc thù chỉ bán được trong
ngày, giá trị thấp, lãi ít, chi phí vận chuyển, thuê cửa hàng lại cao.. Số lượng doanh
nghiệp tham gia đầu tư vào sản xuất RAT thấp do rủi ro cao trong khi lợi nhuận thấp
2
Sản phẩm nghiên cứu thuộc Dự án hợp tác IPSARD – VECO
và chưa có chính sách hỗ trợ thỏa đáng. Một số doanh nghiệp tham gia thị trường
RAT nhưng gặp rất nhiều khó khăn như công ty Năm Sao, công ty Ngọc Quang…
Hai doanh nghiệp lớn tham gia lĩnh vực này là Công ty Hương Cảnh và Công ty Tôn
Kin sau một năm thực hiện cũng đang cần sự hỗ trợ lớn từ Nhà nước để tồn tại và
phát triển sản phẩm kinh doanh rau an toàn.
Theo thống kê sơ bộ, toàn thành phố Hà Nội mới có khoảng 40 cơ sở sơ chế
và chế biến RAT nhưng đều ở dạng công suất nhỏ. Hà Nội có 8 chợ đầu mối chuyên
buôn bán rau, nhưng chỉ có chợ Vân Nội (Đông Anh) là chợ đầu mối bán RAT. Mạng
lưới kinh doanh RAT ở Hà Nội còn quá ít so với nhu cầu của người tiêu dùng. Theo
tính toán của một số chuyên gia thì cứ khoảng trên 30km2 mới có một cửa hàng rau

an toàn, gây khó khăn cho các bà nội trợ trong việc mua rau an toàn phục vụ bữa ăn
hàng ngày.
2. Yêu cầu của việc tăng cường sự tham gia của các doanh nghiệp
Có thể nói sự tham gia của các doanh nghiệp vào thị trường RAT là điều kiện
quan trọng cho sự chuyên nghiệp hóa của thị trường này. Xu hướng doanh nghiệp tổ
chức sản xuất kinh doanh, có sự chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm của nhà kỹ
thuật, song song với mô hình của các hộ cá thể, sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho sản
phẩm RAT so với rau không an toàn như hiện nay.
Một thực tế cho thấy khi doanh nghiệp đứng ra kinh doanh RAT, họ sẽ thuê
đất và thuê nhân công 100% có thể khắc phục được mô hình cá thể của nông dân. Khi
đó, người nông dân sẽ không phải chịu nhiều áp lực về lợi nhuận, họ làm công ăn
lương, theo chỉ đạo trực tiếp của các cán bộ kỹ thuật của công ty nên “không nhắm
mắt làm liều” trong việc sử dụng thuốc trừ sâu và thuốc kích thích tăng trưởng.
3
Sản phẩm nghiên cứu thuộc Dự án hợp tác IPSARD – VECO
Đối với xuất khẩu rau quả có chất lượng cao, an toàn sang thị trường khó tính,
vai trò của doanh nghiệp là hết sức quan trọng, vì hầu hết người sản xuất nông nghiệp
nhỏ lẻ Việt Nam chưa đủ sức vươn ra thị trường xuất khẩu, nhất là các thị trường khó
tính mà lại có đối tượng kiểm dịch
3. Những khó khăn của các
3.1. Khó khăn của các doanh nghiệp
- Khó khăn về đầu ra:
Mặc dù nhu cầu thị trường cao nhưng một trong những khó khăn nổi bật đối
với các doanh nghiệp kinh doanh RAT hiện nay lại chính là “đầu ra”. Có nhiều
nguyên nhân dẫn đến thực tế này như: (i) Hệ thống phân phối chưa chuyên nghiệp
dẫn đến nguồn tiêu thụ không ổn định. (ii) Người tiêu dùng chưa thể phân biệt rõ
ràng RAT và rau không an toàn, tâm lý nghi ngờ các sản phẩm rau gắn nhãn an toàn
vẫn còn khiến người tiêu dùng chưa “mặn mà” với RAT. (iii) Do giá cao nên kém
cạnh tranh…
Đại diện Công ty trách nhiệm hữu hạn Hương Cảnh, đơn vị đã mạnh dạn đầu

tư tổ chức sản xuất RAT trên diện tích 50ha theo hướng VietGap tại xã Văn Đức,
huyện Gia Lâm cho biết công ty đã đầu tư gần 7 tỷ đồng xây dựng hoàn thiện nhà sơ
chế RAT trên diện tích 2.200 ha/ngày tại Văn Đức, gồm các hạng mục chính như nhà
xưởng, nguồn nước sạch, bể rửa rau, bể sục, bàn đóng gói, kho lạnh bảo quản…Công
ty cũng cam kết thu mua 100% sản phẩm RAT của nông dân tại đây theo giá thoả
thuận trong hợp đồng. Tuy nhiên, với hình thức bán “ký gửi,” không ổn định tại một
số siêu thị, vào những thời điểm rau thu hoạch nhiều, RAT khó cạnh tranh được với
rau thường về giá thành nên doanh nghiệp khó có thể thu được lợi nhuận ổn định từ
kinh doanh rau an toàn. Ngoài ra, khi đầu tư xây dựng và duy trì mạng lưới phân phối
4
Sản phẩm nghiên cứu thuộc Dự án hợp tác IPSARD – VECO
rau an toàn, doanh nghiệp cũng gặp nhiều khó khăn. Nếu đưa rau vào siêu thị, trung
tâm thương mại thì lượng hàng tiêu thụ chưa nhiều do nhiều bà nội trợ không vào
siêu thị hàng ngày (nhiều người do bận rộn nên một tuần mới vào siêu thị một lần và
chỉ mua những thứ có thể để được qua ngày). Trong khi đó, để đưa được rau vào các
siêu thị, doanh nghiệp cần cung cấp nhiều loại hóa đơn, chứng từ cần thiết và buộc
phải chấp nhận ký gửi hàng đến 90% (tức là nếu không bán được thì bị trả lại, nhưng
rau một khi đã bị trả lại thì hầu như không còn giá trị sử dụng)
- Khó khăn trong công tác thu mua
Một khó khăn khác đối các doanh nghiệp kinh doanh RAT là vấn đề đầu vào,
tức là hạn chế trong công tác thu mua. Trong khi nhiều nông dân vẫn “than thở” là
sản phẩm sau thu hoạch bị ế thừa thì nhiều doanh nghiệp lại không thể thu mua được
một lượng rau theo đúng yêu cầu về chất lượng và chủng loại. Một số nông dân chưa
tuân thủ quy định sản xuất RAT, làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Cán bộ cơ
sở một số nơi chưa nhận thức được vai trò, trách nhiệm trong công tác quản lý sản
xuất RAT nên việc phối hợp với cơ quan chuyên môn để phát hiện và xử lý vi phạm
còn hạn chế. Ngoài ra, sản xuất RAT còn nhỏ lẻ, manh mún, số lượng hộ nông dân
tham gia quá lớn gây khó khăn cho việc thu mua một lượng hàng ổn định cả về chất
và lượng.
- Khó khăn do ý thức tiêu dùng của người dân:

Nhận thức của người tiêu dùng giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với khả
năng phát triển của sản phẩm kinh doanh rau an toàn. Tuy nhiên, hiện nay nhận thức
của người tiêu dùng về RAT vẫn chưa đầy đủ. Trong khi đại bộ phận người tiêu dùng
tỏ ra lo lắng về sự độc hại của thuốc trừ sâu, phân bón và thuốc kích thích tăng
trưởng trên các sản phẩm rau mình tiêu thụ hàng ngày thì chỉ một tỷ lệ rất thấp trong
5

×