Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

chính sách tỷ giá hối đoái của trung quốc và thương mại khu vực đông nam á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (762.66 KB, 25 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM



BÀI NGHIÊN CỨU

CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA TRUNG QUỐC
VÀ THƯƠNG MẠI KHU VỰC ĐÔNG NAM Á





GVHD : TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo
Lớp : Cao học Ngân hàng Đêm 2 - Khóa 22
Nhóm thực hiện : Nhóm 17











TP.HCM, năm 2013

CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA TRUNG QUỐC VÀ THƯƠNG


MẠI KHU VỰC ĐÔNG NAM Á

Tóm tắt
Bài báo này chỉ ra rằng theo thực nghiệm cho thấy cán cân thương mại của Trung Quốc rất
nhạy cảm với sự biến động tỷ giá hoái đối thực của đồng Nhân dân tệ . Tuy nhiên, với chính
sách tỷ giá hoái đối thì một mình nó không thể giải quyết sự mất cân bằng này thặng dư thương
mại hiện tại. Việc cắt giảm thặng dư thương mại thì có giới hạn bởi vì nhập khẩu của Trung
Quốc không phản ứng như mong đợi với chính sách nâng giá đồng Nhân dân tệ. Trong thực tế,
chúng có xu hướng giảm nhiều hơn là tăng lên. Bằng cách ước lượng cán cân thương mại của
Trung Quốc với các đối tác thương mại lớn, chúng tôi thấy rằng phản ứng của nhập khẩu đối với
chính sách hối đoái được định giá cao chỉ xảy ra đối với các nước Đông Nam Á chứ không phải
là các đối tác thương mại khác. Việc này có thể là là một tác động trực tiếp của việc hội nhập
theo chiều dọc của Châu Á bởi vì phần lớn hàng nhập khẩu của Trung Quốc từ các nước Đông
Nam Á là hướng đến tái xuất. Chúng ta cũng nhận thấy rằng tổng lượng xuất khẩu từ các nước
Đông Nam Á cũng bị tác động xấu do chính sách nâng giá đồng Nhân dân tệ, những nước mà
việc xuất khẩu hàng hóa ph ụ thuộc vào Trung Quốc.

1. Giới thiệu:
a. Tổng quan nội dung chính của paper và các vấn đề nghiên cứu:
Giao lưu thương mại với các nước trên thế giới của Trung Quốc đã tăng trưởng hết sức
nhanh chóng trong thời gian vừa qua. Sự thật, Trung Quốc đã trở thành một trong những quốc
gia x uất khẩu lớn nhất trên thế giới cùng với Đức, và Hoa Kỳ
.(1)

Cán cân thương mại của Trung Quốc đã tăng nhiều trong những năm gần đây. Theo số liệu
thống kê của Hải quan Trung Quốc, thặng dư thương mại đã tăng vượt mức 32 tỷ USD (khoảng
1,7% GDP) trong năm 2004 (Biểu đồ 1). Trong giai đoạn 2005-2007 thương mại đã tăng vọt, nó
đã chạm tới gần 180 tỷ USD trong năm 2006 (gần 7% GDP của Trung Quốc) và có lẽ tăng cao
hơn trong năm 2007. Thật tế, con số thặng dư tài khoản vãng lai đã vượt mức 10% GDP của
năm 2007

.(2)

Một mặt, các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc, họ đã duy trì một tỷ giá thấp hơn thực
tế, vì thế đạt được lợi nhuận từ nhu cầu trên thế giới và thành công khi mà đạt được tốc độ mức
tăng trưởng cao. Mặt khác, có những giả định rằng tỷ giá hối đoái là một công cụ hiệu quả trong
việc giảm thặng dư thương mại, bởi vì Trun g Quốc là một nền kinh tế đang chuyển đổi khi mà
giá cả vẫn giữ vai trò nhất định trong quyết định cung cầu thị trường.
Biểu đồ 1: Cán cân thương mại của Trung Quốc và chỉ số hàng tháng tỷ giá hối đoái thực
đa phương

REER, 2000 =100 cột bên trái
Cán cân thương mại, tỷ USD, cột bên phải
Nguồn: Thống kê của cơ quan Hải Quan Trung Quốc, dữ liệu công ty CEIC, công ty tài chính
quốc tế (IFC)
(1)
Dựa theo thống kê thương mại trực tiếp (tháng 3 năm 2007). Giao lưu thương mại của Trung Quốc trong
tổng nhập khẩu đã cao hơn giao lưu thương mại của Đức, Hoa Kỳ . Tuy nhiên, theo số liệu thống kê của
các nước này, giá trị xuất khẩu từ Đức, Hoa Kỳ v ẫn cao hơn gi á trị xuất khẩu của Trung Quốc.
(2)
Thống k ê cán cân thanh toán của Trung Quốc đã đưa ra thặng dư thương mại lớn hơn một chút so với
thống kê của Hải quan Trung Quốc. Theo cán cân thanh toán, thặng dư thương mại Trung Quốc năm 2006
khoảng 218 tỷ USD hoặc hơn 8% GDP.

Với những tranh luận đầu tiên, Trung Quốc đang đối mặt với sức ép mạnh mẽ từ các quốc
gia công nghiệp phát triển phải nâng giá cao đồn g Nhân dân tệ. Thật ra, tỷ giá hối đoái thực đa
phương đã trải qua một giai đoạn đánh giá chính xác từ năm 1994 tới tận cuối năm 1997 nhưng
khuynh hướng này giảm từ sau năm 1997, cho đến khi chuyển sang ch ế độ tỷ giá hối đoái thả
nổi được công bố vào tháng 7 năm 2005. Sau đó, đồng Nhân dân tệ đã được định giá lại hiệu
quả thực tiễn hơn.
Thặng dư thương mại của Trung Quốc càng lớn làm phát sinh những vấn đề quan trọng

không chỉ của Trung Quốc mà còn tới ph ần còn lại của thế giới. Mặc dù, về tổng quan thì có
lợi,nhưn g những nghiên cứu trước đây thì chưa thể kết luận được điều này. Việc thiếu những dữ
liệu thích hợp và trong một khoảng thời gian dài đã không khuyến khích nghiên cứu về mối liên
hệ giữa tỷ giá hối đoái đồng Nhân dân tệ và thương mại của Trung Quốc. Kể từ mùa hè n ăm
2003, khi có những tranh cãi về việc định giá thấp đồng Nhân dân tệ được nổ ra đầu tiên, n ghiên
cứu về chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc mới bắt đầu được triển khai nhưng phần lớn
thì tập trung vào ước lượng mức cân bằng tỷ giá hối đoái trong dài hạn của Trung Quốc ho ặc
thăm dò về những đường lối điều hành phù hợp nhất của nền kinh tế Trung Quốc. Trong khi cả
hai câu hỏi có liên quan thì đã rõ ràng, vấn đề khẩn cấp nhất- khi đưa ra quy mô mất cân bằng
trong nền kinh tế toàn cầu – thì liệu Trung Quốc có nên n âng giá nội tệ thích hợp như là một
công cụ để làm giảm thặng dư thương mại khổng lồ của nó.
b. Sự cần thiết của nghiên cứu:
Trong bài nghiên cứu của chúng tôi, việc ph ân tích dựa trên câu hỏi dùng cách phân tích
đồng liên k ết và dữ liệu cho giai đoạn 1994-2005. Dựa vào những kết quả này, nâng giá thực
đồng Nhân dân tệ làm giảm thặng dư thương mại của Trung Quốc trong một thời gian dài nhưng
mức ảnh hưởng chỉ ở giới hạn. Những tác động có liên quan thì nhỏ - so sánh với quy mô mức
mất cân bằng - là một cách giải thích chủ yếu bằng sự co giãn r iêng biệt về giá, chúng tôi đã tìm
trong nhập khẩu: cụ thể là nhập khẩu của Trung Quốc ảnh hưởng tiêu cực bởi sự tăng giá thực
của đồng Nhân dân tệ. Bằng cách ước lượng cán cân nhập khẩu song phương, chúng tôi tìm ra
rằng nhập khẩu của Trung Quốc từ các nước châu Á có khuynh hướng giảm. Kết quả trái ngược
với mong đợi được giải thích tốt bởi nền thương mại châu Á, cụ thể là xu hướng liên kết dọc.
Thật sự, nhập khẩu của Trung Quốc từ các quốc gia Đôn g Nam Á thì hầu như đang hướng đến
tái xuất khẩu. Thêm vào đó, chúng tôi đưa ra bằng chứng rằng các quốc gia Châu Á không
dường như không thể được bù đắp lượng giảm xuất khẩu của họ tới Trung Quốc bằng cách tăng
xuất khẩu từ các quốc gia khác. Vì thế tổng x uất khẩu các nước này bị ảnh hưởng xấu do sự định
giá đồng Nhân dân tệ. Phần khác, xuất khẩu từ các quốc gia Đông Nam Á dường như được bổ
sung hơn là sự thay thế các mặt hàng của Trung Quốc.
2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây:
Những nghiên cứu trước đây về tác động của sự tăng giá thực của đồng Nhân dân tệ tới nền
thương mại của Trung Quốc có lẽ được chia làm 2 nhóm tùy thuộc vào chính sách tác động. Thứ

nhất (ý kiến chủ đạo) chỉ ra những bằng chứng rằng chính sách tỷ giá hối đoái thực của đồng
Nhân dân tệ làm giảm cán cân thương mại, thông qua xuất khẩu hoặc nhập khẩu hoặc cả hai.
Quan điểm thứ 2 không có bằng chứng thực nghiệm rằng có sự tác động, ảnh hưởng tới cán cân
thương mại hoặc đôi kh i chỉ là một số yếu tố tích cực. Bảng 1 sẽ trình bày về những tồn tại trong
nghiên cứu cũng như ph ương pháp nghiên cứu đã được sử dụng.
Trong phạm vi quan điểm đầu tiên, Cerra và Dayal- Gulati (1999) ước tính đô co giãn của
xuất khẩu và nhập khẩu theo giá của Trung Quốc trong giai đoạn 1983-1997 với mô hình hiệu
chỉnh sai số và nhận thấy mức ảnh hưởng tiêu cực lên xuất khẩu (-0,3) và ảnh hưởng tích cực
lên nhập khẩu (0,7). Ngoài ra, chúng còn cho thấy rằng cả hai chỉ số này co giãn tăng theo quá
thời gian. Dees (2001) cải thiện thêm những phân tích trước đây bằng cách chia xuất khẩu và
nhập khẩu của Trung Quốc làm 2 nhóm, ngành gia côn g ( nhập khẩu linh kiện để lắp ráp) và
ngành thông thường . Ông ấy cũng đã tìm ra, trong dài hạn việc nâng cao tỷ giá làm giảm xuất
khẩu. Ông ấy cũng đưa ra bản báo cáo rằng hoạt động xuất khẩu truyền thống thì nhạy cảm về
giá hơn là phương pháp x uất khẩu và nhập khẩu gia công trong trường hợp định giá cao đồng
Nhân dân tệ. Bénassy- Quéré và Lahrè che- Révil (2003) dựa trên ảnh hưởng của việc đồng
Nhân dân tệ mất giá 10% và ghi nhận sự tăng trưởng trong xuất khẩu Trung Quốc tới các quốc
gia OECD và giảm nhập khẩu hàng hóa của Trung Quốc từ các nền kinh tế mới nổi ở châu Á
trong trường hợp nếu tỷ giá hối đoái các nước này duy trì cố định.
Kamada và Takagawa (2005) cũng dựa trên một vài mô hình để đo lường tác động của cải
cách tỷ giá hối đoái. Hai ông cũng chỉ ra rằng việc tăng giá 10% sẽ thúc đẩy nhập khẩu của
Trung Quốc một chút trong khi những tác động tới xuất khẩu thì lại không đáng kể. Bốn lý
thuyết chỉ ra rằng với chính sách nâng giá đồng Nhân dân tệ sẽ ảnh hưởng tiêu cực lên xuất khẩu
và ảnh hưởng tích cực lên nhập khẩu . Tất cả các nghiên cứu này sử dụng dữ liệu trước khi mà
Trung Quốc trở thành thành viên của WT O.
Trong một vài nghiên cứu gần đây việc sử dụng các dữ liệu thực tế trước khi gia nhập WT O-
chỉ tập trung nghiên cứu vào xuất khẩu của Trung Quốc. Yue và Hua (2002) và Eckaus (2004)
cả hai ông đã xác nhận rằng các kết quả trước đó ghi nhận sự nâng giá của đồng Nhân dân tệ
làm giảm xuất khẩu của Trung Quốc. Giống như Cerra và Dayal- Gulati, nhưn g với sử dụng các
dữ liệu cập nhật hơn, Yua và Hua cho thấy rằng x uất khẩu Trung Quốc thì trở nên nhạy cảm hơn
về giá. Voon,Guangzhong và Ran (2006) sử dụng dữ liệu hình ngành cho giai đoạn 1978-1998

và kết hợp các mức độ định giá định giá quá cao của đồng Nhân dân tệ khi dự đoán cán cân xuất
khẩu của Trung Quốc, họ cũng tìm ra những liên kết tiêu cực giữa sự đánh giá cao đồng Nhân
dân tệ và xuất khẩu của Trung Quốc.
Bài nghiên cứu này sử dụng nhiều dữ liệu gần đây để củng cố những kết quả trước đây về
tác dụng ngược chiều lên xuất khẩu của tỷ giá hối đoái linh hoạt nhưng không chỉ ra kết quả là
sự nâng giá đồng Nhân dân tệ sẽ làm tăng nhập khẩu tới Trung Quốc.Lau, Mo, và Li (2004) ước
lượng xuất nhập khẩu của Trung Quốc từ G3 sử dụng dữ liệu hàn g quý. Trong dài hạn , việc
nâng giá tỷ giá hối đo ái thực có tác động đối với giảm x uất khẩu. Thay vào đó, không phải
nhập khẩu thông thường mà cũng không phải nhập khẩu để gia công dường như chịu tác động
bởi tỷ giá hối đoái thực đa phương.
Trong mọi trường hợp , kết quả này khó giải thích bởi không có sự rõ ràng trong tác động
làm thế nào giảm xuất khẩu và nhập khẩu và con số quan sát được khá thấp. Thorbecke (2006)
sử dụng mô hình trong số cho nghiên cứu tác động của sự thay đổi tỷ giá hối đoái trong mô hình
kinh doanh ba bên ở châu Á. Cuối cùng , ông ấy phân chia xuất khẩu ra làm trung gian giữa vốn
và hàng hóa cuối cùng . Kết quả ôn g ấy ch ỉ ra rằng sự nâng giá 10% đồng Nhân dân tệ làm giảm
xuất khẩu cuối cùng của Trung Quốc gần 13%. Tuy nhiên, sự nân g giá này khôn g quan trọng
ảnh hưởng đáng kể nhập khẩu Trung Quốc từ Hoa Kỳ. Cuối cùng, Shu và Yip (2006) ước tính
ảnh hưởng của biến động tỷ giá hối đoái đến nền kinh tế Trung Quốc cũng như tổng thể và thấy
rằng một sự nâng giá có thể làm giảm xuất khẩu bởi vì ảnh hưởng tác động thau thế, do sự co
giãn vừa phải trong tổng cầu.
Trong khi những nghiên cứu trước đó đã đi đến một kết luận rằng sự nâng giá của đồng
Nhân dân tệ đưa tới sự giảm sự thặng dư thương mại của Trung Quốc. Chủ yếu qua tác động
tiêu cực của nó đối với hàng xuất khẩu Trung Quốc, một số bài nghiên cứu khác cung cấp một
cái nhìn hơi khác nhau về cách ch ính sách tỷ giá hối đoái có tác động tới thặng dư thương mại
Trung Quốc. Ví dụ, Jin (2003) đánh giá mối quan hệ giữa lãi suất thực, tỷ giá hối đoái thực, cán
cân thanh toán Trung Quốc và kết luận rằng sự nâng giá thực của đồng Nhân dân tệ có xu hướng
tăng trong thặng dư cán cân thanh toán của Trung Quốc. Cerra và Saxena (2003) sử dụng dữ liệu
ngành để nghiên cứu hành vi của nhà xuất khẩu Trung Quốc và tìm ra rằng giá xuất khẩu cao
hơn đã làm tăng nguồn cung cho xuất khẩu, đặc biệt trong thời gian gần đây. Tác động từ tỷ giá
hối đoái danh nghĩa lên x uất khẩu thì không phải mạnh mẽ. Trong mọi trường hợp, những kết

quả nghien cứu này kết quả cũng như nghiên cứu khác với dữ liệu ngành- nên được thực hiện
một cách cẩn thận vì chỉ một nửa kim ngạch xuất khẩu Trung Quốc đã ghi nhận trong dữ liệu
ngành và chất lượng được báo cáo không được điều chỉnh trọng giá những mặ hàng này.
Một trong những nỗ lực gần đây ước lượng cán cân xuất khẩu và nhập khẩu Trung Quốc thì
có Marquez và Schinder (2006). Họ dùng thị phần của tổng thương mại của thế giới thay vì khối
lương xuất khẩu và nhập khẩu để tránh sử dụng cho giá xuất khẩu và nhập khẩu ủy thác của
Trung Quốc. Kết quả đạt được, sự nâng giá thực của đồng Nhân dân tệ không ch ỉ ảnh hưởng tiêu
cực đến thị phần xuất khẩu của Trung Quốc mà còn ảnh hưởng tới thị phần nhập khẩu, ít nh ất
là cho thương mại bình thường. Trong khi đó, tác động ước tính trên thị phần xuất nhập khẩu
không thể suy luận có thể được trong thương mại qua tài khoản. Thêm vào đó, do không sử dụng
lý thuyết đồng liên kết cho nên chỉ có độ co giãn ngắn hạn có thể ước tính.
Phần tóm tắt dưới đây, phần đông các nghiên cứu trước đây đã được tìm ra rằng sự nâng giá
thực của đồng Nhân dân tệ làm giảm xuất khẩu của Trung Quốc. Kết quả thì đủ mạnh để thay
đổi trong phươn g pháp nghiên cứu, giai đoạn và phạm vi dữ liệu. Tuy nhiên, kết quả trên sự co
giãn tỷ giá hối đoái trong nhập khẩu thì có nhiều mơ hồ. Trong khi các n ghiên cứu trước đây tìm
ra nâng giá đồng Nhân dân tệ làm tăng nhập khẩu của Trung Quốc, các nghiên cứu gần đây
cũng tìm ra kết quả khác nhau. Nhìn chung, không có kết luận rõ ràng về tác động của sự định
giá lại đồng Nhân dân tệ vào cán cân thương mại Trung Quốc được dựa trên nghiên cứu trước
đây.
Bài nghiên cứu này, chúng tôi đã xem xét tác động của tỷ giá hối đoái thực tế lên thương mại
Trung Quốc với nhiều cơ sở dữ liệu gần đây. Ngoài ra, lý thuyết đồng liên kết được sử dụng để
tập trung vào cấu trúc phát triển. Chúng tôi cũng mở rộng phân tích từ tổng hợp cán cân x uất
khẩu và nhập khẩu các quốc gia song phương để mà điều tra xem có sự khác biệt lớn tồn tại giữa
các đối tác thương mại của Trung Quốc. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các quốc gia còn
lại của châu Á cũng như chúng tôi phân tích dưới đây


Bảng 1: tóm tắt các lý thuyết đã có
Tác giả Dữ liệu
Phương

pháp
Tác động TGHĐ thực song
phương lên XK/NK
Độ co
giá
ước
tính
Tác
động
của
Nhu
cầu
Biến
điểu
chỉnh
khác
Bénassy-
Quéré Và
Lahrèche-
Révil,
2003
Năm
1984-
2001
MH
tương
hỗ
Sự giảm giá thực tế đồng Nhân dân
tệ tăng kim ngạch xuất khẩu của
Trung Quốc sang các nước OECD

và làm giảm xuất khẩu của châu Á
sang Trung Quốc
–1.2
(XK)
- -
Cerr a và
Dayal-
Gulati,
1999
Quý
1983-
1997
MH
hiệu
chỉnh
sai số

Không ảnh hưởng đến xuất khẩu /
nhập khẩu cho 1983-1997. Năm
1988 đến năm 1997, tác động tiêu
cực và đáng kể vào xuất khẩu và
tích cực và đáng kể vào nhập khẩu
–0.3
(XK)
0.7
(NK)
Quan
trọng
và tích
cực

cho
giai
đoạn
1988-
1997
dòng
vốn FDI,
sản xuất
công
nghiệp,
khoảng
cách đầu
ra
Cerr a và
Saxena,
2003
DL
ngành,
theo quý
1985 -
2001
PP bình
phương
tối thiểu
động
Độ co giãn của giá đối với hàng XK
tăng dần đến cuối thời kỳ này.
NEER không có một tác động đáng
kể mạnh mẽ và kết quả các cấp độ
ngành côn g nghiệp được phối hợp

với nhau .
1985
-
2001: -
1.0
1994-
2001:
3.8
(nguồn
XK)
-
tín dụng
trong
nước
Tác giả Dữ liệu
Phương
pháp
Tác động TGHĐ thực song
phương lên XK/NK
Độ co
giá
ước
tính
Tác
động
của
Nhu
cầu
Biến
điểu

chỉnh
khác
Dees, 2001

DL theo
tháng
1994-
1999
MH
hiệu
chỉnh
sai số

TGHĐ thực cao làm giảm xuất
khẩu. Ảnh hưởng mạnh vào xuất
khẩu nguyên liệu thô hơn trên hàng
hóa chế biến . Không ảnh hưởng
đáng kể nhập khẩu hàng NVL
nhưng làm tăng nhẹ hàng chế biến
nhập khẩu .
-0.3
(XK)
0.2
(NK
hàng
chế
biến)
Tích
cực và
đáng

kể cho
xuất
khẩu

nhập
khẩu.

phỏng
của một
cú sốc
cho nền
kinh tế
cung cấp
cho các
kết quả
tương tự
Eckaus,
2004
DL theo
năm
1985-
2002

PP bình
phương
tối thiểu
Tác động tiêu cực và đáng kể vào
xuất khẩu sang Mỹ và thị phần
nhập khẩu tại Hoa Kỳ của Trung
Quốc

–0.3
(XK
sang
Mỹ)
Tác
động
tích
cực và
có ý
ngh
ĩa


Kamada và
Takagawa,
2005
DL theo
tháng
1994-
2000


hình lý
thuyết
và bình
phương
tối thiểu
dự toán
Định giá lại gây ra tác dụng sự thúc
đẩy nhập khẩu một lần theo như mô

hình nhưng BP nhỏ nhất cho thấy
không có ảnh hưởng đáng kể
- - -
Lau, Mo
và Li,
2004
DL
ngành,
theo quý
1995 -
2003
PP bình
phương
tối thiểu
động
Tác động tiêu cực và đáng kể vào
xuất khẩu và nh ập khẩu để chế
biến. Không ảnh hưởng đáng kể
nhập khẩu thông thường.
–1.47
(XK) –
1.28
(NK)
để chế
biến
Tác
động
tích
cực
vào

xuất
khẩu
V
ốn
FDI,
hoàn
thuế
GTGT
và xuất
khẩu
Marquez

Schindler,
2006
DL theo
tháng
01/1997-
02/2004
PP bình
phương
tối
thiểu,
nghiên
cứu tác
động
lên thị
phần
của
Trung
Quốc

thế giới
vê XK
và NK
Định giá cao làm giảm nhập khẩu
bình thường nhưng đối với nhập
khẩu chế biến cótác động không
mạnh mẽ. Ảnh hưởng đến xuất
khẩu cũng không mạnh mẽ.
đ
ịnh
giá cao
10%
làm
giảm
thị
phần
xuất
khẩu
của
Trung
Quốc
tăng
0,5%
và thị
phần
nhập
khẩu
0,1%
Tích
cực

cho
nhập
khẩu
nhưng
tác
động
không

ràng
lên
xuất
khẩu.
Vốn FDI
Tác giả Dữ liệu
Phương
pháp
Tác động TGHĐ thực song
phương lên XK/NK
Độ co
giá
ước
tính
Tác
động
của
Nhu
cầu
Biến
điểu
chỉnh

khác
Shu và
Yip, 2006
DL theo
quý
1995 -
2006
MH
hiệu
chỉnh
sai số

Định giá cao làm giảm xuất khẩu
–1.3
(XK)
Tác
động
tích
cực và
có ý
nghĩa
Thị phần
Thorbecke,

2006
DL theo
năm
1982 -
2003
MH

trọng
số, hiệu
chỉnh
sai số,
BP tối
thiểu
Trong mô hình trọng số, một sự
định giá cao làm giảm xuất khẩu
của Trung Quốc. Trong VEC và
OLS, xuất khẩu sang Mỹ giảm
trong trường hợp định giá cao.
Không có trọng số đối với hàng
nhập khẩu. Khi nghiên cứu thương
mại Mỹ-Trung Quốc trong một mô
hìnhtrọng số, không có kết quả rõ
ràng.
–1.3
(XK)
Tích
cực và
đáng
kể cho
xuất
khẩu.
Co
giãn
thu
nhập
đối
với

hàng
nhập
khẩu
không

ràng.
Biến
động tỷ
giá hối
đoái và
độ lệch
Yue and
Hua, 2003
DL theo
năm
1980 -
2000
PP BP
tối
thiểu,
TSLS
và PP
tác
động
nhân tố
cố định
Định giá thấp tăn g xuất khẩu. tỷ giá
tăng trong những năm 1990.
Từ -
0.97

đến -
.16
(XK)
Không
có ý
nghĩa
Năn g lực
sản xuất
trong
nước

3. Phương pháp nghiên cứu:
Để đánh giá độ nhạy của nền xuất nhập khẩu Trung Quốc đối với các thay đổi về tỷ giá thực
tế của đồng Nhân dân tệ, chúng tôi sẽ ước lượng các phương trình xuất nhập khẩu chuẩn. Chúng
tôi sử dụng kỹ thuật đồng liên kết vì quan tâm đến các mối liên hệ dài hạn. Ngoài ra, chúng tôi
sẽ sử dụng dạng công thức rút gọn của các phương trình x uất nhập khẩu để tránh độ lệch do
phương trình đồng thời chỉ có thể gây ra bởi các hàm số cung cầu ước lượng. Tuy nhiên, để
tránh các vấn đề tiềm ẩn liên quan đến các biến số bị loại bỏ, chúng tôi sẽ đưa thêm các yếu tố
quyết định cung cầu vào phương trình dạng thức rút gọn.
(3)



Hai phương trình ước lượng chi phí nh ư sau:

trong đó, là khối lượng xuất khẩu từ Trung Quốc, là khối lượn g nhập khẩu từ Trung Quốc,
là tỷ giá thực đa phương của đồng Nhân dân tệ, là nhu cầu tiêu thụ từ nước ngoài và
là nhu cầu tiêu thụ nội địa. Các thông số ước tính gồm: là độ co giãn tỷ giá xuất khẩu, là
độ co giãn xuất khẩu theo thu nhập, là độ co giãn nhập khẩu theo tỷ giá và là độ co giãn
nhập khẩu theo thu nhập.

Căn cứ vào tầm quan trọng của lĩnh vực gia công đối với kinh tế Trung Quốc, ch úng tôi sẽ
đánh giá các ph ương trình riêng biệt cho xuất khẩu thường và xuất khẩu hàng gia công. Cũng
theo cách đó, chúng tôi phân biệt giữa nhập khẩu hàng gia côn g và nhập khẩu thường.
(4)
Các
biểu đồ A1.1 và A1.2 (Phụ lục) cho thấy các kh uynh hướng trong x uất nhập khẩu thường và
xuất nhập khẩu hàng gia công: cả hai đều tăng trưởng rất nhanh kể từ năm 2001 trở đi, cùng thời
điểm Trung Quốc gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO).
Khó khăn cần lưu ý khi nghiên cứu với dữ liệu thương mại của Trung Quốc là không thể xử
lý các giá trị và định lượng một cách rõ ràng vì không tồn tại bất kỳ chỉ số giá xuất nhập khẩu
nào ở dạng tổng hợp. Do đó, chúng tôi cần sử dụng dữ liệu thay thế cho dữ liệu giá. Chúng tôi
sử dụng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Trung Quốc làm dữ liệu thay thế cho giá xuất khẩu. Lý
do chúng tôi chọn định lượng giá chung chung như vậy là vì Cục Thống Kê Quốc Gia Trung
Quốc không cung cấp cho nhà sản xuất các dữ liệu về chỉ số giá và chỉ số giá bán sỉ không tồn
tại cho toàn bộ điều tra mẫu của chúng tôi.
(5)

________________________________
(3)
.
Xem bài phê bình của Goldstein và Khan (1985 ) về giả định phổ biến thời bấy giờ về các ph ương trình xuất
khẩu trong đó nguồn cung co dãn vô tận.
(4)
. Nhập khẩu hàng gia công bao gồ m nh ập khẩu các phụ tùng và linh kiện sử dụng trong lĩnh v ực gia công là m
nguyên liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu. Hàng xuất khẩu bao gồm các tổ hợp linh kiện Trung Quố c xuất
khẩu sang các nước khác và các cụm hàng hóa xuất khẩu sử dụng linh kiện nhập khẩu. Mậu dịch thông thường liên
quan đến các mặt h àng không cần gia công nhiều và không sử dụng đến linh kiện nhập khẩu.
(5)
. Chúng tôi cũng muốn dùng chỉ số CPI hơn các hệ số bình ổn giá bên ngoài khác như chỉ số gia quyền trung bình
của giá nhập khẩu từ các đối tác của Trung Quốc. Điều này là do cổ phiếu thị trường Trung Quốc tăng trưởng nhanh

chóng và Trung Quốc đã trở thành nước xuất khẩu chính trên thế giới, do đó, rất khó để biện luận rằng Trung Quốc
là nước chấp nhận giá thuần túy.


Đối với giá nhập khẩu, chúng tôi tính toán trọng số gia quyền giá xuất khẩu của hai mươi lăm
đối tác thương mại quan trọng nhất của Trung Quốc và sử dụng giá nhập khẩu của Trung Quốc
với chỉ số này (có thể tìm thấy nguồn dữ liệu tại biểu đồ A1.1, phụ lục). Trong một thử nghiệm
thô, chúng tôi sử dụng giá xuất khẩu Hồng Kôn g như dữ liệu thay thế cho giá xuất khẩu của
Trung Quốc và kết quả vẫn giữ nguyên.
(6)

Tỷ giá thực đa phương (REER) được suy ra từ các thống kê tài chính quốc tế của Tổ Chức Tiền
Tệ Quốc Tế (IMF) và được suy định như sau:

Trong đó, N là số loại tiền tệ có trong chỉ số, là tỷ trọng của đồng tiền ith và là tỷ giá
thực tế song phươn g với mỗi đối tác thương mại của Trung Quốc.
(7)
Chúng tôi cũng sử dụng
REER do BIS suy định như là thử nghiệm thô nhưng kết quả vẫn không thay đổi.
Chúng tôi cho rằng độ giãn tỷ giá x uất khẩu sẽ là âm khi sản phẩm Trung Quốc cạnh
tranh trên thị trường thế giới. Dấu hiệu dự đoán cho độ giãn tỷ giá nhập khẩu ít rõ ràng hơn đối
với trường hợp của Trung Quốc. Việc nâng giá thực tế có thể thúc đẩy nhập khẩu nếu sức mua
cao hơn so với nhu cầu tiêu thụ giảm do xuất khẩu giảm. Phản ứng cũng sẽ phụ thuộc nhiều vào
cơ cấu hàng nhập khẩu. Nếu hàng nhập khẩu là nguồn thay thế chính cho sản xuất nội địa, độ
giãn giá có thể đạt dương, nghĩa là nâng giá có thể thúc đẩy nhập khẩu. Tuy nhiên, nếu hàng
nhập khẩu chủ yếu là linh kiện và hàng hóa đầu tư trực tiếp cho ngành xuất khẩu vốn có quy mô
rất lớn tại Trung Quốc, hàng hóa nhập khẩu và xuất khẩu đều bị ảnh hưởng không tốt khi tăng
giá.
Nhu cầu nước ngoài đối với hàng xuất khẩu Trung Quốc được tính bằng hàng hóa nhập
khẩu trên thế giới (trừ hàng nhập khẩu vào Trung Quốc) và được bình giá bởi chỉ số giá nhập

khẩu toàn cầu. Hiển nhiên, một số phương pháp định lượng trên cơ sở sản lượng cũng có thể
dùng được, nhưng dữ liệu theo tháng khôn g tồn tại. Hơn nữa, loại dữ liệu này có thể gây ra khó
khăn đáng kể hơn trong việc nắm bắt sự tăng trưởng nhanh chóng của thương mại thế giới
những năm vừa qua, rõ ràng là nhanh hơn tăng trưởng GDP, do sự xuất hiện các nền kinh tế mới
nổi.
Về nhu cầu nội địa của Trung Quốc đối v ới hàng nhập khẩu thông thường, ch úng tôi lấy
giá trị sản lượng công nghiệp. GDP tất nhiên có thể là một định lượng rộng hơn cho sản lượng
kinh tế nhưng các cơ quan thống kê Trung Quốc vẫn còn chưa công bố các số liệ thống kê GDP
quý cho giai đoạn 1994-2005 cho đến khi cuộc sửa đổi công tác thống kê 2005. Đối với nhu cầu
hàng hóa nhập khẩu cho gia công, chúng tôi sử dụng hàng hóa xuất khẩu gia công như là hệ số
nhu cầu tiêu thụ dài hạn. Dự đoán đối với độ giãn thu nhập là dương cho cả hàng xuất khẩu và
nhập khẩu.
Các phương trình xuất nhập khẩu được bổ sung thêm các điều chỉnh phù hợp từ các tài
liệu thương mại cũng như trường hợp cụ thể của Trung Quốc. Đối với hàng hóa xuất khẩu,
chúng tôi kiểm tra tính tương thích của các mức chiết khấu thuế giá trị gia tăng (VAT) được sử
dụng tại Trung Quốc như là chính sách côn g cụ khuyến khích hoặc ngăn chặn hàng xuất khẩu
phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế. Dự đoán đối với các mức chiết khấu VAT này hiển nhiên cũng đạt
dương.
(8)

______________________________________
(
6)
. Giả thuyết cơ bản là đa phần hàng xuất khẩu Hồng Kông được sản xuất từ Trung Quốc Đại Lục và mức kê lời tại
Hồng Kông đối với các hàng hóa này là tương đối ổn định.
(7)
. Xem th êm chi tiết trong Bayoumi và những người khác. (2005).
(8)
. Dữ liệu về các mức chiết khấu VAT bắt đầu từ năm 1995 và kết thúc năm 2004 .
Để đưa các xem xét về nguồn cung vào phương trình dạng công thức rút gọn, chúng tôi

dùng cách tính mức sử dụng năng lực sản xuất. Giả định rằng mức sử dụng năn g lực sản xuất
cao có thể chỉ rõ các yếu tố tiềm ẩn ràng buộc nguồn cung, đó là những cái làm cản trở tăng
trưởng xuất khẩu. Mức sử dụng năng lực sản xuất được định nghĩa là sự khác biệt giữa sản
lượng công nghiệp và x u hướng của nó, xu hướng này được tính toán bằng cách sử dụng bộ lọc
Hodrick Prescott.
Biến kiểm soát cuối cùng tron g phương trình x uất khẩu là trữ lượng thực tế vốn đầu tư
trực tiếp từ nước ngoài (FDI). Trong khi quan hệ giữa thương mại và hàng hóa xuất khẩu được
thiết lập rất tốt trên lý thuyết, điều này có thể đặc biệt phù hợp với Trung Quốc nếu căn cứ trên
lượng vốn FDI trực tiếp từ lĩnh vực xuất khẩu. Mặc dù nhìn chung người ta có thể dự đoán việc
tăng dự trữ FDI có thể thúc đẩy hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc, các cấu trúc phức tạp của
dây chuyền sản xuất, trong đó các linh kiện và sản phẩm chưa hoàn thiện có thể được đưa qua
nhiều nước khác nhau trước khi đến thị trường tiêu thụ cuối cùng, có thể khiến giả định này trở
nên phức tạp.
(9)

Với phương trình nhập khẩu, phải nói thêm thuế quan nhập khẩu đã giảm đáng kể đặc
biệt từ khi gia nhập WT O. Yếu tố điều chỉnh thứ hai vẫn lại là dự trữ FDI. Về cơ bản, chúng tôi
cho rằng tìm ra một hệ số dương trên dự trữ FDI trong chừng mực mà các công ty nước ngoài có
vẻ muốn sử dụng máy móc nhập khẩu, linh kiện và phụ tùng trong sản xuất hơn là các công ty
Trung Quốc. Tuy nhiên, khi mà các công ty nước ngoài bắt đầu hướng toàn bộ dây chuyền sản
xuất đến Trung Quốc thì nhu cầu nhập khẩu có thể giảm trên thực tế cùn g với tăng trưởng dự trữ
FDI.
Tóm lại, xu hướng quyết định được bổ sung vào cả phương trình xuất và nhập khẩu khi
nó có tầm quan trọng về mặt thống kê. Biến số xu hướng có thể giúp nắm bắt các cải tiến sản
lượng và các cải cách đang diễn r a trong nền kinh tế Trung Quốc mà ch ún g ta không dễ gì định
lượng.
Tất cả các biến số khác, trừ mức chiết khấu VAT và thuế nhập khẩu – vốn được đo
lường như là sự chia sẻ giá trị xuất và nhập khẩu, đều là các lôgarit. Vì Trung Quốc có thể
không theo kiểu thị trường thời vụ tiêu chuẩn, chúng tôi sử dụng các biến số giả chưa dàn xếp để
tránh đưa vào các thông tin hư cấu cho thời điểm năm mới và tháng 12 của Trung Quốc.

(10)

Chúng tôi sử dụng dữ liệu tháng cho giai đoạn 1994-2005. Bắt đầu phân tích trước 1994 đem lại
rất ít ý nghĩa vì năm 1994 là bước ngoặt cho các cải cách thị trường Trung Quốc. Một số cải
cách đặc biệt phù hợp với vấn đề mà chúng tôi đang đặt ra. Cụ thể là việc hợp nhất hai hệ thống
tỷ giá, loại bỏ bắt buộc đối với hàng nhập khẩu, giảm bớt các yêu cầu và hạn ngạch cấp phép.
Cải cách về giá cũn g được thúc đẩy
(11)
, đồng Nhân dân tệ bắt đầu có thể chuyển đổi trên tài
khoản vãng lai và lợi ích của vực tư nhân tăng lên từ luật doanh nghiệp mới.
Những chuyển biến kinh tế thị trường đã cho phép Trung Quốc gia nhập WTO vào tháng
12/2001. Do sự chuẩn bị trong một thời gian dài cho công cuộc gia nhập và thỏa thuận về thời
kỳ chuyển đổi nên thật khó để ước tính tư cách hội viên WTO của Trung Quốc ảnh hưởng từ lúc
nào và ảnh hưởng bao nhiêu đến thương mại Trung Quốc. Trên thực tế, năm 2000 là thời điểm
mà việc gia nhập của Trung Quốc trở nên rõ ràng. Chúng tôi cũng ủng hộ việc chọn năm 2000
để ngắt mẫu điều tra mẫu của chúng tôi bằng các kỹ thuật thống kê của chúng tôi, cụ thể là
chúng tôi tìm ra sự thay đổi cơ cấu kinh tế vào đầu năm 2000 nhờ vào kiểm định Chow. Cuối
cùng, ch úng tôi kiểm định xem nền ngoại thương Trung Quốc có trở nên nhạy cảm hơn về giá
với WTO bằng cách ch ia kiểm tra mẫu của chúng tôi thành hai thời kỳ: từ 1994 đến cuối 1999
và từ đầu 2000 đến cuối đợt điều tra mẫu.
___________________________________
(9)
. Dữ liệu tháng của Trung Quốc về FDI chỉ tồn tại từ 1997.
(10)
. Phân tích hồi quy cuối cùng chỉ bao gồm các dữ liệu hư cấu khi quan trọng về mặt thống k ê.
(11)
. Theo Khảo Sát Kinh Tế OECD (2005), cổ phi ếu giao dịch theo giá thị tr ường giữa hàng hóa s ản xuất tăng từ
46% năm 1991 lên 78% năm 1995.

4. Nội dung, kết quả nghiên cứu:

a. Nội dung nghiên cứu chính của paper và các kết quả nghiên cứu đã phát hiện được:
Mở đầu, chúng tôi kiểm tra trật tự liên kết các biến số trong phân tích của chúng tôi. Chúng
tôi sử dụng kiểm định Dickey Fuller Bổ Sung (ADF) đối với sự tồn tại của một đơn vị gốc. Gần
như mọi biến số đều không dừng tại ở các mức độ khác nhau nhưng dừng tại ở chênh lệch đầu
tiên
(12).
Sau đó, chúng tôi kiểm tra sự tồn tại của các vectơ liên kết bằng cách sử dụng quy trình
Johansen. Chúng tôi tìm thấy ít nhất một vectơ liên kết cho mỗi nhóm biến số. Như đã từng
được đề cập bởi Phillips và Loretan (1991),
(13 )
điều này cho phép ch úng tôi ước tính quy hồi của
các định thức tụt hậu và sai lệch của chúng bằng phương pháp bình phương tối thiểu phi tuyến.
Phương pháp này sẽ cung cấp các ước tính không chệch và đáng tin về các thông số dài hạn
cũng như ngắn hạn.
(14)
Như đã đề cập trước đó, chúng tôi rút gọn phương trình xuất nhập khẩu cho điều tra mẫu
(1994-2005), và cho giai đoạn ngắn hơn (từ 2000 đến 2005), chủ yếu tập trung vào các trải
nghiệm hậu WT O. Trong cả hai trường hợp, chúng tôi cân nhắc tầm quan trọng khi phân biệt
giữa trao đổi hàng hóa thông thường và trao đổi hàng hóa gia công, và theo đó lập các phương
trình riêng biệt cho mỗi loại trong trường hợp xuất và nhập khẩu. Con số tối đa của độ trễ ngắn
hạn đưa vào phương trình là ba và cuố i cùng, chúng tôi chỉ bổ sung chún g khi nó quan trọng cho
thống kê.
Có thể xem kết quả đầy đủ cho phương trình xuất khẩu tại Biểu đồ A1.2 (Phụ lục).
(15 )
Vì độ
giãn tỷ giá dài hạn của hàng hóa xuất khẩu Trung Quốc – cả gia công và thông thường – là âm
và quan trọng với điều tra mẫu đầy đủ của ch úng tôi kể từ thời điểm gia nhập WT O. Khi được
biến đổi phù hợp (xem Bảng 2), tác động dài hạn dự tính của tỷ giá thực vào khoảng -1.3 đối với
hàng xuất khẩu gia côn g cho cả hai giai đoạn. Đối với hàng xuất khẩu thường thì giảm từ -2.3
cho toàn bộ giai đoạn x uống còn -1.6 cho giai đoạn mới nhất. Các kết quả của chúng tôi gần sát

với các kết quả được tìm thấy trước đó bởi các tác giả sử dụng phân tích liên kết (-1.5 cho toàn
bộ hàng xuất khẩu theo Lau, Mo và Li, 2004 và -1.3 theo Shu và Yip, 2006). Các kết quả này
cũng giống với độ giãn giá xuất khẩu ước tính cho các nước công nghiệp lớn (-1.5 và -1.6 lần
lượt đối với Mỹ và Anh, theo Hooper và những n gười khác, 1998).

______________________________________
(12)
. Chỉ có hai ngoại lệ: mức sử dụng năng lực sản xu ất được biểu diễn là I(0), và trữ lượng FDI không tĩnh tại ngay
cả trong chênh lệch đầu tiên. Kết quả liên quan đến trữ lượng FDI có thể do số lượng khá lớn các độ trễ theo như đề
xuất bởi các tiêu chuẩn thông tin Akaike. Nếu chúng tôi chỉ sử dụng một độ tr ễ theo như đề xuất bới tiêu chu ẩn
Schwarz, chúng tôi có th ể loại bỏ đơn vị gốc thậm chí ở mức 1 %.
(13)
. Phương pháp này khắc phục vấn đề về tính đồng thời bằng cách bổ sung các giá trị độ trễ của độ lệch tĩnh tại từ
quan hệ liên kết.
(14)
. Các kết quả cho ki ểm định đơn vị gố c và kiểm định liên kết s ẽ được cung cấp khi có yêu cầu t ừ các tác giả.
(15)
. Tất cả các kết quả báo cáo đều thỏa mãn kiểm định tương quan chuỗi các số sai l ệch.
Ảnh hưởng tích cực dài hạn từ nh u cầu tiêu thụ của thế giới đối với hàng xuất khẩu của Trung
Quốc là rất nhỏ và không có tầm quan trọng về mặt thống kê trong toàn bộ điều tra mẫu của
chúng tôi, nhưng lại trở nên quan trọng sau khi Trung Quốc gia nhập WTO. Trường hợp này
đúng cho cả hàn g xuất khẩu thông thường và gia công. Kết quả này cùng loại với quan điểm cho
rằng trước khi gia nhập WTO, Trung Quốc đang phải đối mặt với các rào chắn đáng kể để có thể
hưởng lợi từ sự tăng trưởng của các quốc gia khác. Hơn nữa, trong điều tra mẫu mới nhất, độ co
giãn theo thu nhập của hàn g xuất khẩu Trung Quốc rất sát với độ co giãn dự đoán trong điều tra
mẫu.
Bảng 2 – Tỷ giá hối đoá dài hạn và các độ giãn nhu cầu tiêu thụ


Hàn g XK

thường
Hàng XK

gia công
Hàng NK
thường
Hàn g NK

gia công
Đ


giãn

tỷ giá
1994
-
2005

2000-2005
-
2.3

-1.6
-
1.3

-1.4
-
1.0


-0.4
-
0.8

(-0.3)






Đ


giãn

nhu cầu
1994
-
2005

2000-2005
(0.5)

1.0
(0.2)

0.8
-

0.3

0.3
(0.2)

0.4
Các giá trị trong ngoặc đơn không quan trọng về mặt thống kê.
Đối với các biến số điều chỉnh, mức sử dụng năng lực sản xuất có tác động đáng kể đến
hàng xuất khẩu chỉ khi cùng lúc hoặc trễ hơn một tháng . Mức sử dụng năng lực sản xuất mang
dấu âm, cùng loại với quan điểm rằng một lượng lớn sản lượng nằm trong thị trường nội địa
trong các thời kỳ tăng trưởng nhanh. Các mức chiết khấu VAT không có ý nghĩa quan trọng về
mặt thống kê và vì thế, chúng tôi loại chúng ra khỏi các ước tính cuối cùng vì chúng có thể rút
ngắn thời gian ước tính do vấn đề ràng buộc dữ liệu.
(16)
Như đã đề cập ở trên, dữ liệu về dự trữ
FDI bắt đầu năm 1997 và được giới thiệu như một biến số giải trình chỉ trong giai đoạn mới đây.
Tuy nhiên, phần nào gây ngạc nhiên là dự trữ FDI không ảnh hưởng đáng kể và mang tính thống
kê đến hàng xuất khẩu Trung Quốc. Biến xu hướng này có tính tích cực và quan trọng đối với
mọi phương trình, trong kh i thị trường thời điểm Năm Mới và Tháng Mười Hai của Trung Quốc
giảm lượng hàng xuất khẩu khá đán g kể. Nếu chúng tôi biến đặt xu hướng này khỏi các ước
tính, các hệ số liên quan đến nhu cầu tiêu thụ của thế giới và dự trữ FDI có thể trở thành dương
và có tầm quan trọng rõ ràng. Tuy nhiên, kết quả của ch úng tôi liên quan đến độ co giãn tỷ giá
lại không thay đổi nhiều.
Các hệ số ước tính của phương trình nhập khẩu được trình bày tại bảng A1.3, phụ lục.
Các yếu tố về nhu cầu tiêu thụ dường như có v ai trò tương đối vừa phải trong giải thích hàng
nhập khẩu trong quá khứ.
(17)
Trong điều tra mẫu con sau này, lượng hàng nhập khẩu cho gia
công có phản ứng tích cực với nhu cầu tiêu thụ bên n goài, được tính bằng lượng hàng xuất khẩu
gia công. Sản lượng công nghiệp nội địa làm tăng lượng hàng nhập khẩu thông thườn g như dự

tính.
_______________________________________
(16)
. Không thể bổ sung các mức chiết khấu VAT nh ư là biến số ngắn hạn vì chúng tôi chỉ có dự lệu năm về biểu giá
và do đó, các thay đổi rất hi ếm xảy ra trong qua trình điều tra mẫu.
(17)
. Trường hợp hàng nhập khẩu thông thường, độ giãn lợi tức nên dương v à quan trọng trong thời ký 1994-2005
nếu chúng tôi đặt biến số xu hướng ra khỏi phân tích hồi quy.
Như mong đợi, dự trữ FDI dường như có tác động tích cực dài hạn đến cả hàng hóa nhập khẩu
thường lẫn gia công. Cuối cùng, việc giảm thuế nhập khẩu dường như thúc đẩy lượng hàng nhập
khẩu cho gia công trong dài hạn.
(18)
Còn về hàn g xuất khẩu, các biến giả cho thị trường Năm
Mới của Trung Quốc và Tháng Mười Hai giữ vai trò quan trọng trong hầu hết trường hợp.
Cuối cùng, độ giãn tỷ giá hàng nhập khẩu luôn âm và nhìn chung là quan trọng. Ngoại lệ duy
nhất là trường hợp hàng nhập khẩu cho gia công trong thời kỳ mà hệ số âm trên tỷ giá hối đoái
chỉ quan trọng ở mức 15%. Ngoài mối liên hệ trực tiếp từ tỷ giá, hàng nhập khẩu cho gia công
còn bị ảnh hưởng gián tiếp thông qua yếu tố nhu cầu tiêu thụ, đó là lượng xuất khẩu gia côn g.
Khi mối quan hệ gián tiếp này được tính toán, phản ứng âm của lượng nhập khẩu cho gia công
đối với việc nâng giá thực của đồng tiền thật sự lớn hơn nhiều so với phản ứng của lượng hàng
nhập khẩu thông thường.
Tóm lại, việc nâng giá thực của đồng Nhân dân tệ trên thực tế có khuynh hướng làm
giảm lượng nhập khẩu hơn là tăng. Dường như khác thường khi tiếp cận lần đầu, nhưng độ co
giãn âm này đã được báo cáo trong nhiều tài liệu mới đây, vì dụ như Marquez và Schindler
(2006). Điều vừa phát hiện này ch ủ yếu chỉ ra rằng lượng hàng nhập khẩu – cả nhập khẩu thông
thường – có mức nh ạy cảm cao hơn với lượng xuất khẩu giảm do nâng giá đồng Nhân dân tệ và
mức nhạy cảm với sự tăng trưởng sức mua.
________________________________
(18)
. Biểu giá nhập khẩu có thể đư ợc bổ sung như biến số ngắn hạn vì chúng tôi chỉ có các dữ liệu năm về biểu giá,

do đó, các thay đổi rất hi ểm xảy ra trong qua trình điều tra mẫu.
b. Thảo luận về kết quả nghiên cứu đạt được:
Thật ra, ảnh hưởng tiêu cực của sự tăng giá thực đồng Nhân dân tệ đối với lượng hàng nhập
khẩu là một hiện tượng thú vị cần phân tích kỹ lưỡng. Điều này càng cụ thể hóa các mối liên hệ
tiêu cực đối với việc giảm thặng dư mậu dịch Trung Quốc trong trường hợp nân g tỷ giá thực.
Giả định của chúng tôi là điều này có liên quan đến các thuộc tính đặc biệt của nền mậu dịch
Trung
Quốc nh ư đã được minh họa bằng các mức chênh lệch giá rất lớn trong cán cân thương mại song
phương của Trung Quốc với các nước (Biểu đồ 2 và 3).
Trung Quốc nhập khẩu một lượng lớn các hàng hóa trung gian từ các nước châu Á để gia công
rồi tái xuất khẩu. Do đó, mức độ cao trong liên kết dọc giữa các ngành xuất khẩu châu Á khiến
cho hàng xuất khẩu của các nước này càng mang tính bổ sung hơn là thay thế cho hàng hóa
Trung Quốc. Điều này ám chỉ rằng sự nâng giá đồng Nhân dân tệ có thể gây ra giảm không chỉ
lượng hàng xuất khẩu mà cả lượng hàng nhập khẩu của Trung Quốc.
Khi mà liên kết dọc càng có hiệu quả đối với ngành gia công, thì cũng không thể quên rằng
nhiều mặt hàng nhập khẩu thông thường có chức năng giống như nguyên liệu đầu vào cho lĩnh
vực xuất khẩu, ví dụ như các mặt hàng đầu tư. Nhìn chung, dường như chỉ một thị phần nhỏ các
sản phẩm nhập khẩu có thể cạnh tranh với hàng sản xuất nội địa của Trung Quốc. Đó là vì thị
phần hàng tiêu dùng chất lượng trung bình trong lượng nhập khẩu của Trung Quốc tương đối
nhỏ. Hơn nữa, một phần đáng kể các mặt hàng nhập khẩu gồm nguyên vật liệu thô, năng lượng
và m ột vài sản phẩm nhập khẩu chỉ ăn theo đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Biểu đồ 2 – C án cân thương m ại song phương của Trung Quốc với các nước năm 2005,
bằng USD









Ghi chú: Dữ liệu từ ph ía đối tác.
Nguồn: Dữ liệu thống kê IMF DOTS, dữ liệu từ Cục Ngoại Thương Đài Loan.
Biểu đồ 3 - Cán cân thương mại song phương của Trung Quốc với các nước năm 2005, %
GDP của m ỗi nước










Ghi chú: Dữ liệu từ ph ía đối tác.
Nguồn: Dữ liệu thống kê IMF DOTS, dữ liệu từ Cục Ngoại Thương Đài Loan.
Để khảo sát vấn đề kỹ hơn với các dữ liệu sẵn có, chúng tôi thực hiện quy hồi song phương đối
với mười đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc nhằm đánh giá các tác động khác nhau có
thể xảy ra do việc nâng giá thực của đồng Nhân dân tệ đối với mỗi nước. Giả định của chúng tôi
là lượng hàng nhập kh ẩu từ các nước Đông Nam Á ph ản ứng tiêu cực với sự nâng giá đồng
Nhân dân tệ, chủ yếu là các sản phẩm trung gian được Trung Quốc lắp ráp và tái xuất khẩu. Nói
cách khác, lượng hàng nhập khẩu từ các nước khác dự tính sẽ phản ứng không rõ ràng hơn đối
với sự nâng giá đồng Nhân dân tệ tùy thuộc vào cơ cấu xuất khẩu của các nước này. Phương
trình song ph ương ước tính có dạng như sau:


Trong đó, hàng xuất khẩu và nhập khẩu của Trung Quốc đến/từ nước j (lần lượt là và )
được giải thích bằng tỷ giá thực song phương ( ), nhu cầu tiêu thụ ngoài và trong nước (
và ) và các biến số điều chỉnh khác. Thật không may, chúng tôi không thể tách biệt hàng xuất

nhập khẩu cho sản phẩm thông thường và gia côn g vì các dữ liệu như thế này không tồn tại. Như
đã thực hiện trước đó, chỉ số CPI được dùng như hệ số bình ổn giá cho hàn g xuất khẩu từ Trung
Quốc và hàn g nhập khẩu vào Trung Quốc được chuyển đổi thành các khối lượng lớn bằng cách
sử dụng chỉ số giá xuất khẩu của mỗi đối tác thương mại.
(19)
Tỷ giá thực song phương giữa đồng
Nhân dân tệ và đồng tiền của mỗi đối tác xuất nhập khẩu của Trung Quốc được tính theo chỉ số
CPI từng thời kỳ. Nhu cầu đối với hàng xuất khẩu của Trung Quốc được đại diện bởi giá trị
GDP thực của mỗi đối tác xuất khẩu của Trung Quốc, trong khi đó, nhu cầu nội địa của Trung
Quốc có được lại nhờ vào sản lượng công nghiệp. Chúng tôi cũng đưa dự trữ FDI son g phương
vào các phương trình xuất khẩu cũng như nhập khẩu. Trước đó, chúng tôi đưa mức sử dụng
năng lực sản xuất vào các phương trình xuất khẩu của Trung Quốc. Kết quả là khuynh hướng sẽ
được bổ sung khi nó có ý nghĩa thống kê.
(20)
Các nguồn dữ liệu cũng được báo cáo tại Bảng
A1.1.
Chúng tôi ước tính các phương trình mậu dịch song phương cho giai đoạn 2000-2005 vì đối với
một số quốc gia, dữ liệu không tồn tại trong toàn bộ thời kỳ. Việc này cho phép chúng tôi so
sánh kết quả giữa các nước và so với kết quả của các phương trình tổng hợp xuất nhập khẩu. Áp
dụng quy trình như trên, chúng tôi tiến hành các kiểm định đơn vị gốc cho tất cả các biến số
song phương. Hầu như tất cả các biến số này đều là I(1) và tìm thấy ít nhất một vectơ liên kết
cho mỗi phương trình xuất nhập khẩu song ph ương.
(21)

___________________________________________
(19)
. Khi lập công thức cho các phương trình song phương, chúng tôi sẽ không sử dụng dữ liệu thương mại của
Trung Quốc mà sử dụng dữ liệu thống kê của các đối tác thương mại để giảm bớt tính toán không chính xác giữa
thương mại Trung Quốc-Hồng Kông. Số liệu thống kê của Trung Quốc cho thấy một lượng lớn hàng xuất khẩu sang
Hồng Kông, nhưng thực tế chỉ là qu á cảnh Hồng Kông để đến các nước khác. Trong mọi trường hợp , dữ liệu mà

chúng tôi sử dụng luôn có các cảnh báo phổ biến. Ví dụ, do tình trạng lỏng lẻo và có cầu cảng lớn, Hà Lan thường
được ký hiệu là điểm đến cuối cùng mặc dù hàng hóa có thể tiếp tục chuyển sang các nước châu Âu khác. Điều này
giải thích vị thế quan trọng của Hà Lan – một trong các đối tác thương mại lớn của Trung Quố c – và cả tình trạng
nhập siêu với Trung Quốc. Trên thực tế, phương trình thương mại song phương giữa Trung Quốc và Hà Lan ph ản
ánh các động lực thương mại giữa Trung Quố c và Châu Âu một cách tổng quát hơn.
(20)
. Số lượng các độ trễ ngắn hạn bổ sung vào các ước tính cuối cùng lại dựa trên tầm quan trọng thống kê. Hiện tại,
chúng tôi sử dụng dữ liệu do các tác giả điều chỉnh theo thời vụ chương trình CensusX12 để tránh các biến động giá
thời vụ trong dữ liệu của đối tác thương mại của Trung Quốc. Nếu quan trọng về mặt thống kê, chúng tôi tiếp tục
đưa dữ liệu hư cấu vào thời điểm Năm Mới của Trung Quốc và Tháng Mười Hai.
(21)
. Mức sử dụng năng lực s ản xuất lại là I(0). Kết quả của các kiểm định đơn vị gốc và kiểm định liên kết sẽ được
các tác giả cung cấp khi có y êu cầu.

Kết quả cho các phương trình xuất khẩu song phương rất giống với các ước tính tổng hợp của
chúng tôi v à trải rộng trên nhiều nước (bảng A1.4).
(22)
Sự nâng tỷ giá thực song phương của
đồng Nhân dân tệ so với các đối tác lớn của Trung quốc làm giảm lượng xuất khẩu của Trung
Quốc, mặc dù mối liên hệ không có ý nghĩa về mặt thống kê đối với Mỹ và Đài Loan. Ngoại lệ
duy nhất là Hồng Kông với hệ số dương nhưng không quan trọng về mặt thống kê. Kết quả với
Hồng Kông không gây ngạc nhiên do các khó kh ăn khi giải trình các dữ liệu thương mại giữa
Trung Quốc Đại Lục và Hồng Kông. Sau chuyển đổi (xem bảng 3), độ giãn tỷ giá là cao nh ất
đối với hàng xuất khẩu sang Singapore nếu chúng tôi bỏ qua hệ số vô nghĩa đối với hàng xuất
khẩu sang Mỹ.
Chúng tôi cũng thấy rằng hoạt động kinh tế tại các nước đối tác thương mại của Tr ung Quốc làm
tăng lượng hàng x uất khẩu của Trung Quốc như dự tính. Độ co giãn thương mại song ph ương
giữ vai trò rất quan trọng đối với tất cả các quốc gia, ngoại trừ Đức. Đối với Mỹ và các nước
châu Âu, các độ giãn như thế này là rất lớn.
(23)

Điều này có thể do khoảng thời gian khá n gắn kể
từ ngày Trung Quốc gia nhập WTO, chuyển đổi cơ cấu k inh tế quan trọng đối với nền mậu dịch
thế giới. Hơn nữa, điều này chỉ rõ tầm quan trọng của các yếu tố nhu cầu tiêu thụ nhằm giải
thích sự mất cân đối thương mại đang gia tăng giữa Trung Quốc và Mỹ hoặc các nước châu Âu.
Trong vài trườn g hợp, cách tính năng suất tăng lên, biến số xu hướng, cũng đạt dương và quan
trọng. Tuy nhiên, đối với Hàn Quốc và Đài Loan, xu hướng lại âm. Đối với nguồn vốn FDI, tăng
trưởng về nguồn vốn FDI từ Hàn Quốc và Đài Loan đổ vào Trung Quốc làm tăng lượng hàng
xuất khẩu của Trung Quốc sang các nước này, nhưng tác động này lại bị đảo n gược đối với Đức
và Ý. Điều này có thể do hành vi ứng xử khác nhau giữa các quốc gia châu Á và châu Âu khi
giao dịch với thị trường Trung Quốc. Như đề cập ở trên, mối liên hệ tiêu cực có thể phản ánh sự
chuyển giao toàn bộ các quy trình sản xuất đến Trung Quốc. Trong khi trước đây, đó có thể là
các bán thành phẩm xuất khẩu từ Trung Quốc sang Đức và chỉ sau một số thay đổi mới được
giao hàng đến thị trường đích, bây giờ thì toàn bộ quy trình sản xuất có thể được chuyển đến
Trung Quốc và không cần phải tiếp t ục chuyển hàng sang Đức nữa. Tuy nhiên, kết quả này nên
được làm rõ một cách cẩn trọng vì cần có phân tích sâu hơn.
Kết quả cho các ph ương trình nhập khẩu song ph ương ít đồng nhất hơn như trình bày tại bảng
A1.5, phụ lục.
(24)
Trước hết, các độ giãn giá dài hạn mà chúng tôi ước tính chỉ ra rằng sự tăng
giá thực đồng Nhân dân tệ làm giảm lượng hàng nhập khẩu từ tất cả các nước châu Á vào Trung
Quốc. Hệ số này rất đáng kể đối với Hàn Quốc và Thái Lan. Đối với các n ước có thu nhập cao –
Mỹ, Đức và Nhật – hệ số là âm nhưng không có ý nghĩa về mặt thống kê. Chỉ đối với Nga và
Úc, hệ số đạt dương mặc dù cũng không có ý nghĩa về mặt thống kê.
Nhìn chung, các độ giãn theo thu nhập đều dương mặc dù khá thấp và luôn không có ý nghĩa về
mặt thống kê. Lượng hàng xuất khẩu của hầu hết các nước sang Trung Quốc đều tăng theo dự
trữ FDI song phương. Lượng hàn g nhập khẩu của Trung Quốc từ Nhật, Đài Loan, Đức, Nga,
Malaysia và Thái Lan đều tăng theo nguồn vốn FDI từ các nước này. Hàn Quốc lại là trường
hợp ngoại lệ với hệ số âm và không thể hiện mức ý nghĩa liên quan đến nguồn vốn FDI. Bảng 3
tóm tắt các thay đổi về độ co giãn về giá và thu nhập trong dài hạn cho các phương trình xuất
nhập khẩu song phương của Trung Quốc.

__________________________________
(22)
. Chúng tôi không báo cáo phương trình cho l ượng hàng xuất khẩu của Trung Quốc sang Nhật vì ph ương trình
này không thỏa mãn các kiểm định thông số sai lệch. Tất cả các kết quả được báo cáo đều thỏa mãn kiểm định L M
về tương quan chuỗi các số sai lệch .
(23)
. Độ giãn lợi tức cao của hàng nh ập kh ẩu Trung Quốc sang Mỹ do Mann và Plück tì m ra (2005).
(24)
. Ngoài mười đị a điểm nhập khẩu quan trọng nhất của Trung Quốc, chúng tôi loại Sing apore vì các vấn đề liên
quan đến toán kinh tế. Tất cả các kết quả được báo cáo đã thỏa mãn kiểm định L M về tương quan chuỗi các số sai
lệch.
Bảng 3 – Tỷ giá hối đoái dài hạn song phương và các độ giãn nhu cầu tiêu thụ

Phương tr
ình xu

t kh

u


Phương tr
ình nh

p kh

u


T



giá song phương

Nhu c

u


T


giá song
phương

Nhu c

u

M


(
-
2.0)

5.9

Nh


t B

n

(
-
0.4)

(
-
0.7)

H

ng Kông

(0.2)

1.5

Hàn Qu

c

-
0.8

2.7

Nh


t*



M


(
-
3.1)

1.2

Đ

c

-
0.6

(2.0)

Đài Loan

-
1.1

6.8


Hàn Qu

c

-
0.6

2.8

Đ

c

(
-
0.5)

(0.0)

Hà Lan

-
1.1

7.0

Singapor e*




Anh

-
0.6

8.2

Nga

(1.2)

(
-
0.5)

Singapore

-
1.6

1.8

Úc

(0.1)

1.3

Ý


-
1.3

3.6

Malaysia

(
-
0.3)

(0.2)

Đài Loan

(
-
0.4)

5.6

Thái Lan

-
1.0

(0.5)

Các giá trị trong ngoặc đơn không quan trọng về mặt thống kê.
* Các phương trình song phương cho nền mậu dịch với Nhật và Singapore không thỏa mãn các

kiểm định thông số sai lệch.
Để hiểu thêm các kết quả khác nhau cho độ giãn tỷ giá nhập khẩu của Trung Quốc, chúng tôi
xem xét cơ cấu hàng nh ập khẩu của Trung Quốc từ mỗi đối tác thương mại lớn của Trung Quốc
(bảng 4). Úc và Nga chủ yếu xuất khẩu năng lượng và nguyên vật liệu thô sang Trung Quốc,
điều này có thể giải thích phản ứng yếu từ các quốc gia này đối với các thay đổi về tỷ giá thực
song phương của hàng nhập khẩu Trung Quốc. Phần nào gây ngạc nh iên là tăng trưởn g hoạt
động kinh tế của Trung Quốc không có tác động tích cực đáng kể đến lượng hàng nhập khẩu từ
Nga. Trên thực tế, mối liên hệ là âm mặc dù vẫn có ý nghĩa về mặt thống kê. Điều này có thể
được giải thích bởi vận chuyển kém phát triển giữa Nga và Trung Quốc. Nếu dung lượng vận
chuyển đường ống đã không tăng, sẽ không có bất kỳ lượng dầu nào chuyển đến Trung Quốc bất
kể mức độ yêu cầu. Ngược lại, lượng hàng nhập kh ẩu từ Úc tăng trưởng theo giá trị gia tăng
công nghiệp của Trung Quốc.
Bảng 4 – C ơ cấu hàng nhập khẩu vào Trung Quốc từ các đối tác lớn như là toàn bộ thị
phần hàng nhập khẩu năm 2005

Nông
nghiệp
Khoáng
sản
Hóa
chất
D

t
may
Kim lo

i
thường
Máy

móc
Đi

n
tử
Phương ti

n
vận tải
D

ng c


quang họ c
Úc

4.5

52.8

10.2

8.2

12.7

1.9

0.8


1

0.4


0.2

0.2

6.9

0.6

7.8

35.9

13.1

11.9

6

Nh

t

0.2


1.5

8.8

3.7

11.4

21.5

30.0

4.5

8.7

Hàn

0.6

4.7

10.2

3.8

9.7

9.5


33.6

2.8

14.8

Malaysia

6.4

2.6

4.1

0.7

1.8

8.6

63.0

0.1

1.3

Nga

5.0


13.9

13.9

0.0

16.2

0.5

0.4

1.2

0.0

Đài Loan

0.1

7.4

7.4

4.5

10

9.7


38.7

0.5

16.1

Thái Lan

6.1

4.4

4.4

2.6

2.9

27.5

26.5

0.3

1.3

M


8.6


11.3

11.3

4.3

6.7

17.1

17.5

8.9

7.8

Nguồn: CEIC.
Nhóm thứ hai mà chúng tôi có thể tách ra dựa trên kết quả gồm các quốc gia có thu nhập cao.
Lượng hàng xuất khẩu từ Đức, Nhật và Mỹ không nhạy với các thay đổi về tỷ giá thực song
phương. Trong khi lượng hàng nhập khẩu rõ ràng bị chi phối bởi nguồn vốn FDI trong các
trường hợp của Đức và Nhật, thì lượng hàng nhập khẩu từ Mỹ lại dường như hưởng lợi nhiều
hơn từ toàn bộ sự phát triển kinh tế của Trung Quốc. Điều này hoàn toàn tự nhiên khi xem xét
kỹ cơ cấu nhập khẩu từ các quốc gia này. Trong khi gần một nửa lượng hàng xuất khẩu từ Đức
và Nhật sang Trung Quốc là máy móc và hàng điện tử - các sản phẩm này thường được sử dụng
trong các nền công nghiệp định hướng xuất khẩu và có sở hữu n ước ngoài – thì lượng nhập khẩu
từ Mỹ lại phong phú hơn nhiều, từ đậu nành cho đến máy bay và vi mạch công nghệ cao. Trong
khi rất nhiều các sản phẩm này được chuyển vào khu vực nội địa, không có sản phẩm thay thế
hoặc cạnh tranh từ Trung Quốc đối với các sản phẩm này, điều này giải thích rất nhiều về độ
giãn tỷ giá thấp và âm.

Nhóm thứ ba gồm các quốc gia châu Á mới nổi có lượng xuất khẩu sang Trung Quốc chịu tác
động tiêu cực từ sự nâng giá đồng Nhân dân tệ. Các nước này chủ yếu xuất khẩu sản phẩm, phụ
tùng và linh kiện cho ngành công nghiệp xuất khẩu của Trung Quốc và vì thế, hàng hóa x uất
khẩu từ các nước này sang Trung Quốc có mối liên hệ tiêu cực với sự nâng giá đồng Nhân dân
tệ.
Như chúng ta có thể thấy từ BIỂU ĐỒ 4, thị phần hàng xuất khẩu vào Trung Quốc Đại Lục
chiếm lượng rất lớn từ các quốc gia châu Á. Nếu chúng tôi giả định rằng một phần lượng hàng
xuất khẩu sang Hồn g Kông cũng có đích đến là Trung Quốc Đại Lục, thị phần này thậm chí sẽ
trở nên lớn hơn. Ví dụ, lượng hàng xuất khẩu từ Đài Loan sang Trung Quốc Đại Lục và Hồng
Kông chiếm gần 40% toàn bộ lượng hàng xuất khẩu từ Đài Loan.
Biểu đồ 4 – Thị phần hàng xuất khẩu vào Trung Quốc Đại Lục và Hồng Kông từ các nước châu
Á năm 2005, %



Lượng hàng xuất khẩu vào Trung Quốc Đại Lục
Lượng hàng xuất khẩu vào Trung Quốc Đại Lục và Hồng Kông










Nguồn: Dữ liệu thống kê IMF DOTS, dữ liệu từ Cục Ngoại Thương Đài Loan.
Do đó, các kết quả mà chúng tôi có được chỉ rõ việc tăng giá đồng Nhân dân tệ làm giảm
lượng nhập khẩu từ các nước châu Á khác vào Trung Quốc có thể trở thành mối lo ngại của

nhiều quốc gia châu Á. Mối lo ngại này còn có thể lớn hơn nếu các quốc gia này không thể bù
đắp lại tác động này bằng cách tăn g x uất khẩu đến các nước khác. Điều này phụ th uộc rất nhiều
vào mức độ liên kết giữa hàng hóa xuất khẩu châu Á và phản ứng của các dây chuyền cung ứng
của châu Á đối với sự định giá lại đồng Nhân dân tệ. Trong khi việc kiểm định giả thuyết này có
thể cần đến các phân tích ngành chi tiết, chúng tôi nỗ lực đưa ra m ột đáp án sơ khởi bằng cách
ước lượng các phương trình xuất khẩu cho các đối tác thương mại chính yếu của Trung Quốc tại
châu Á.
Dạn g thức của phương trình xuất khẩu tương tự như chúng tôi đã lập cho Trung Quốc
trước đó, để mà ch úng tôi có thể giải trình lượng xuất khẩu bằng tỷ giá hối đoái thực của mỗi
quốc gia và nhu cầu tiêu thụ của thế giới. Hơn nữa, chúng tôi đưa vào phương trình tỷ giá hối
đoái thực của Trung Quốc như một biến số giải trình bổ sung. Dữ liệu về tỷ giá lại dựa trên chỉ
số CPI và nhu cầu tiêu thụ của thế giới được tính bằng tổng lượng nhập khẩu trên toàn thế giới.
Sẽ bổ sung xu biến xu hướng nếu quan trọng về mặt thống kê.
Chúng tôi ước tính các phươn g trình xuất khẩu cho các đối tác thương mại chính của
Trung quốc trong giai đoạn 2000-2005.
(25)
Dữ liệu chúng tôi sử dụng được các tác giả điều chỉnh
theo thời vụ bằng việc sử dụng chương trình CensusX12. Chúng tôi lại phát hiện các biến hội tụ
ở cấp độ một và tồn tại ít nhất một vectơ liên kết giữa mỗi nhóm biến số.
(26)

Kết quả chi tiết từ các phương trình xuất khẩu cho các quốc gia châu Á được báo cáo in bảng
A1.6.
(27)
Khi biến đổi các h ệ số dại hạn đạt được (bảng 5), chúng tôi có thể thấy rằng lượng xuất
khẩu từ hầu hết các quốc gia châu Á chịu tác động tiêu cực bởi sự nâng tỷ giá thực của đồng
Nhân dân tệ. Tác động tiêu cực của việc nâng giá đồng Nhân dân tệ đối với Hàn Quốc, Đài Loan
và Thái Lan có ý nghĩa về mặt thống kê. Ngoại lệ duy nhất là Malaysia, với lượng xuất khẩu có
thể hưởng lợi từ việc nâng giá trị thực của đồng Nhân dân tệ. Tuy nhiên, kết quả ngoại lệ này có
thể vì lý do ngoài mặt hàng điện tử, Malaysia cũng x uất khẩu một lượng đáng kể dầu và n guyên

vật liệu thô khác. Do đó, kết quả từ các phương trình xuất khẩu trên cơ sở quốc gia rất gần với
các kết quả mà chúng tôi tìm thấy cho các phương trình nhập khẩu song phương của Trung
Quốc, để mà hàng hóa xuất khẩu từ nhiều quốc gia châu Á khác có vẻ như không bị chuyển
hướng toàn bộ sang các quốc gia khác khi nhu cầu nhập khẩu của Trung Quốc giảm. Các độ
giãn thu nhập ước tính luôn đạt dương trong trường hợp của Philippines và T hái Lan dù không
có n ghĩa về mặt thống kê. Vì thế, các kết quả của chúng tôi rất gần với Ahearne và những người
khác (2006) và Cutler và những người khác (2004) – những người tìm thấy các yếu tố chung
như nhu cầu tiêu thụ của thế giới có thể chi phối hàng hóa xuất khẩu từ cả Trung Quốc và các
nền kinh tế châu Á khác.
Bảng 5: Phương trình xuất khẩu cho đối tác thương m ại lớn trong khu vực của Trung
Quốc
____
______________________________
(25)
. Chúng tôi phải loại Indonesia từ điều tra mẫu dữ liệu vì thiếu thông tin.
(26)
. Kết quả của các kiểm định đơn vị gốc và kiểm định liên kết sẽ được cung cấp theo yêu cầu từ các tá c giả.
(27)
. Tất cả các kết quả báo cáo đều thỏa mãn kiểm định thông số sai lệch LM.
5. Kết luận:
Trong vài năm gần đây, có nhiều tranh cãi mạnh mẽ giữa Trung Quốc và các quốc gia trên
diễn đàn thế giới về nâng giá cao đồng Nhân dân tệ. Có nhiều ý kiến tranh luận rằng chính sách
tỷ giá hối đoái đã không phục vụ cho mục đích giảm thặng dư thương mại lớn của Trung Quốc.
Bài viết này chỉ ra rằng cán cân thương mại Trung Quốc thì nhạy cảm với sự dao động giá cả
trong tỷ giá hối đoái thực. Thực sự, ước lượng độ co giãn trong dài hạn về xuất khẩu v à nhập
khẩu Trung Quốc thay đổi trong tỷ giá hối đoái thực đa phương trong giai đoạn từ 1994- cuối
năm 2005. Chún g tôi tìm ra những bằng chứng mạnh mẽ rằng sự nâng giá thực đồng Nhân dân
tệ làm giảm xuất khẩu trong dài hạn. Trong cả hai trường hợp vừa x uất khẩu gia công (ví dụ nh ư
biến đổi và tái xuất hàng hóa) và xuất khẩu thông thường. Tuy nhiên, việc nâng giá cao tỷ giá
hối đoái thực cũng làm giảm nhập khẩu tới Trung Quốc. Mức giới hạn này tác động tới chính

sách tỷ giá hối đoái trong thặng dư thương mại.
Dựa trên những ước lượng co giãn của giai đoạn kể từ khi gia nhập WTO, việc nâng giá
thực 5% của đồng Nhân dân tệ ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái - trường hợp khác được đưa ra - đã
dẫn tới giảm 7% khối lượng xuất khẩu năm 2005. Khi chúng tôi đưa vào liên kết trực tiếp từ tỷ
giá hối đoái trong nhập khẩu cũng như là liên kết gián tiếp từ giảm xuất khẩu trong nhập khẩu
gia công, tổng khối lượng của nhập khẩu có thể giảm khoảng 4%. Theo cách ước lượng trên,
thặng dư thương mại đã giảm đi khoảng 1/4 từ 100 tỷ USD tới ít hơn 80 tỷ USD. Tuy nhiên,
những tìm tòi này chỉ mang tính chất nghiên cứu, cũng như chỉ mang tính toán đơn giản không
tác động tới tài khoản. Ví dụ, những ảnh hưởng xuyên suốt từ tỷ giá hối đoái trong giá xuất nhập
khẩu và kể cả đến trong thặng dư thương mại. Nó giống như là sự đánh giá quá cao nên giảm
thặng dư thương mại của Trung Quốc bằng cách nâng giá tiền của giá xuất khẩu được định bởi
đồng tiền nước ngoài sẽ tăng để có thể tác động thực tới cán cân thương mại thực sự nhỏ hơn
một cách đáng kể. Trong trường hợp khác, sự dao động trong tỷ giá đồng Nhân dân tệ có lẽ
không ảnh hưởng nhiều như sự tăng giá dầu trên thị trường thế giới, vì vậy thông qua đó tác
động xuyên suốt trong giá nhập khẩu Trung Quốc có thể thấp hơn. Đáng tiếc, ảnh hưởng xuyên
suốt tới Trung Quốc thì khó khăn trong việc ước tính vì thiếu dữ liệu giá xuất nhập khẩu trong
thời gian dài.
Mặc dù có những điểm không hoàn toàn , kết quả nghiên cứu của chúng tôi về nhập khẩu
của Trung Quốc giảm như là kết quả của sự nâng giá tỷ giá hối đoái, kết quả này thì rất thú vị và
đáng để nghiên cứu sâu hơn. Chúng tôi đã khám phá ra sâu hơn bởi quá trình hội nhập song
phương của thương mại Trung Quốc với đối tác thương mại chính. Nó có vẻ nh ư rằng việc nâng
giá cao tỷ giá song phương với đồng tiền của các bạn hàng xét về tổng quát làm giảm xuất khẩu
của các nước ch âu Á. Kết quả của nhập khẩu Trung Quốc từ quốc gia châu Á là giải thích cho
bằng chứng về mức độ hội nhập cao theo chiều dọc về mảng xuất khẩu giống như dây chuyền
làm ra sản phẩm từ các nước châu Á thì là các sản phẩm bổ sung hơn là sản phẩm thay thế . Giả
thuyết này được hỗ trợ bởi kết quả nghiên cứu của chúng tôi theo như tổng giá trị xuất khẩu từ
quốc gia châu Á (không chỉ là xuất khẩu tới Trung Quốc) bị ảnh hưởng xấu bởi sự nâng giá cao
của đồng Nhân dân tệ.
Kết quả nghiên cứu này tập trung vào thời kỳ phản ứng tăng cao ở các nước châu Á, sự
đột nhiên tăng giá của đồng Nhân dân tệ, nhất là nếu các nước châu Á cũng định giá chống lại

đồng tiền của quốc gia khác. Mặc dù sự nghiên cứu n ày chỉ tập trung vào khối lượng xuất khẩu
và nhập khẩu- để mà đưa ra những kết luận không dễ hiểu. Nó phục vụ cho những điểm quan
trọng về quá trình đầu tư hiệu quả mang tính lâu dài từ nâng giá đồng Nhân dân tệ và sự kết nối
chính sách tỷ giá hối đoái khác nhau trong châu Á. Mặc dù những con số của bài báo được đưa
ra, người nghiên cứu dùng những dữ liệu mới là cần thiết.
Cuối cùng, trong khi xuất khẩu của Trung Quốc có lợi nh uận một cách rõ ràng từ sự tăng
trưởng nhanh của n ền kinh tế. Độ co giãn trong thu nhập của nhập khẩu Trung Quốc thì khá thấp
trong bài viết này. Nó dường như chỉ ra rằng nhập khẩu tới Trung Quốc thì phụ thuộc nhiều vào
đầu tư trực tiếp nước ngoài hơn là ho ạt động của nền kinh tế trong nước. Mặc dù dữ liệu mẫu
trong bài viết này chỉ chạy tới cuối năm 2005, kết quả cho thấy cũng xác nhận bởi sự phát triển
kinh tế trong thời gian gần đây. Nhu cầu trên thế giới lớn và tăn g trưởn g dòng vốn đầu tư nước
ngoài giữ cho xuất khẩu và nhập khẩu Trung Quốc tăng nhanh tới tận mùa hè năm 2008. Sau đó,
nền kinh tế toàn cầu suy thoái và giảm sút trong vốn đầu tư nước ngoài đã làm cho xuất khẩu
Trung Quốc có thể giảm đi nhiều hơn cũng như nhập khẩu, đặc biệt từ các đối tác của Trung
Quốc. Thật sự, nền thương mại bên trong khu vực châu Á đã trở nên giảm mạnh trong vài tháng
gần đây.
A.G H& T.K
(28)

(28)
. Những ý kiến được phát biểu trong tựa đ ề này l à của tác gi ả và không cần thiết có trong những BIS hay ng ân
hàng của Thụy Điển. Những ý kiến hữu ích được tiếp nhận bởi Claudio Borio , Carmen Broto, Pertti Haaparanta,
Dong He, Likk Korhonen , Li-gang liu, Arnaud Mehl , Aaron Mehrotra, Madhusudan Mohaty, Eiji Ogawa,Ji mmy
Ran, Eli Remolona,Daniel Santabarbara, Sweta Saxena, Chang Shu, Francisco Vazquez, Raymond Yip and G eng
Xiao . Chúng tôi cũng đánh giá cao những trợ giúp nghiên cứu của Eric Chan và Enrique Martinez Casillas. Chắc
chắn, Vẫn còn những lỗi của tác giả.


Tài liệu tham khảo:
1. Ahearne, A.G., Fernald, J.G., Loungani,P.,Schindler,J.W.,2006. Flying geese or sitting

ducks, China’s impact on trading fortunes of other Asian economies, International
Finance Discussion Paper 887, Board of Governors of the Federal Reserve System.
2. Bayo umi, T.,Lee, J.Jayanthi, S.,2005. New rates from new weights, IMF Working paper
99.
3. Be1n assy-Quéré, A., Lahr èche-Révil,A.,2003. Trade linkages and exchange rates in
Asia: The role of China, CEPII Working paper 2003-21
4. Cerr a, V., Dayal-Gilati, A.,1999. China’s trade flows: Changing price sensitivities and
the reform process, IMF Working paper 33/1
5. Cerr a, V. Saxena, S.c.,2003. How responsive is Chinese export supply to market signal,
ChinaEconomic Review 14,350-70
6. Cutlerm, J., Chow, K., Chan, C., Li, U.,2004. Intra-regionnal trade and the role of
Mainland China. HongKong Monetary Authority, Quarterly Bulletin, December,5-24
7. Dees,s.,2001. The real exchange rate and types of trade – Hetero geneity of trade
behaviours in China, Paper pr esented at workshop on China’s Economy organised by
CEPII in December 2001.
8. Exkaus,R.S.,2004. Should Chin a appreciate the Yuan, MIT work ing paper 04-16.
9. Goldstein, M.,Kahn,M.,1985. Income ang price effect in foreign trade; in the Handbook
of International Economics, North Holland, Amsterdam.
10. Hooper, P.,Jonhson,K.,Marquez,J.,1998. Trade elasticities for G-7 countries,
International Finance Discussion Paper 609, Board of Governor s of the Federal Reserve
System.
11. Jin, Z., 2003. The Dynmanics of real interest rates, real exchange rates and the balance of
paym ents in China: 1980-2002, IMF Working paper 03/67.
12. Kamada, K., Takagawa,I.,2005. Policy coordination in East Asia and across the Pacific,
Bank of Japan Working paper 05-E-4.
13. Lau,F., Mo,Y.,Li., 2004. The impact of Renmibi appreciation on global imbalances and
intra-regional trade, HongKong Monetary Authority, Quarterly Bulletin, March, 16-26.
14. Philip, M., Loretan, P.C.B,1991. Estimating long-run economic equilibria, Review of
Economic st udies 58, 407-36.
15. Mann, C., Luck,K., 2005. The U.S trade deficit: A disaggregated perspective, Peterson

Institute for International Economics Working paper 05-11.
16. Marquez, J.Schindler, J.W.,2006. Exchange – rate effects on China’s trade : an interim
report, International Finance Discussion Paper 861, Board of Governors of the Federal
Reserve System.
17. OECD,2005. Economic Survey on China, OECD Publishing, Paris.
18. Shu C. anh Yip, R., 2006. Impact of Exchange rate movements on Chinese Economy,
HongKong Monetary Authority, Mumber 3/06, July 2006.
19. Thorbecke, W.,2006. The effect of exchange rate changes on trade in East Asia, RIETI
Discussion Paper series 009.
20. Voon,J.P. Guangzhong, L., Ran, J., 2006. Does China really lose from RMB
revaluation? Evidence from some export industries. Applied Economics 38,1715-23.
21. Yue, C., hua, P., 2002. Does comparative advantage explain export pattern in China?
China Economic Review 13,276-96.




MỤC LỤC
Tóm tắt 2
1. Giới thiệu: 2
a. Tổng quan nội dung chính của paper và các vấn đ ề nghiên cứu: 2
b. Sự cần thiết của nghiên cứu: 4
2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây: 5
3. Phương pháp nghiên cứu: 9
4. Nội dung, kết quả nghiên cứu: 13
a. Nội dung nghiên cứu chính của paper và các kết quả nghiên cứu đã phát hiện được: 13
b. Thảo luận về kết quả nghiên cứu đạt được: 15
5. Kết luận: 21
Tài liệu tham khảo: 23






×