Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết - Kinh nghiệm quốc tế và chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.92 KB, 42 trang )

Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ

LI M U
S hợp tác và tham gia phân công lao động quốc tế tăng lên khơng những làm
cho trao đổi hàng hóa trong nước gia tăng mà còn làm cho trao đổi hàng hóa, dịch
vụ giữa các nước phát triển. Trên cơ sở phát triển của các mối quan hệ kinh tế giữa
các nước, sự liên hệ về chính trị và văn hóa giữa các nước ngày càng phát đạt.
Những mối quan hệ thường xuyên về mặt kinh tế, chính trị và văn hóa giữa các
nước đã làm nảy sinh những quan hệ tiền tệ của nước này đối với nước kia. Quan
hệ so sánh đồng tiền của các quốc gia với nhau được gọi là tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đối giữ một vai trị quan trọng đến tình hình ngoại hối của các
nước và ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia, nó sẽ đảm bảo tính
ổn định trong nền kinh tế, ổn định giá cả tạo ra mơi trường an tồn cho các hoạt
động sản xuất kinh doanh mà đặc biệt là hoạt động ngoại thương. Vì vậy, việc áp
dụng một chính sách tỷ giá đúng đắn là một điều kiện tiên quyết để góp phần thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tất nhiên chưa hẳn là một tỷ giá là ưu việt đối với nước này thì đã là phù hợp
với các nước khác, bởi vì mỗi nước có một điều kiện kinh tế cụ thể khác nhau.
Thậm chí ngay trong một quốc gia, việc áp dụng cố định một chế độ tỷ giá khi các
điều kiện kinh tế - chính trị trong nước và quốc tế đã thay đổi cũng không thể đem
lại một kết quả tốt như mong đợi. Điều quan trọng là phải biết trong trường hợp
nào thì cố định tỷ giá phát huy tác dụng tối đa ưu điểm của mình, từ đó sẽ quyết
định lựa chọn việc áp dụng cố định tỷ giá một cách linh hoạt phù hợp với điều
kiện khách quan và mục tiêu ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển đất
nước.
Không dễ dàng về mặt lý thuyết cũng như thực tế khi lựa chọn một hệ thống
tỷ giá thích hợp. Trên thực tế có nhiều tranh luận về lợi thế cũng như bất lợi của
hai chính sách tỷ giá đặc biệt: tỷ giá cố định và tỷ giá thả nổi. Nhưng có nhiều lập
luận ủng hộ sự kết hợp giữa hai chế độ tỷ giá trên, đó là tỷ giá thả nổi có điều tiết.
Nó cho phép tận dụng lợi thế, đồng thời hạn chế những bất lợi của cả hai chế độ.
Vì thế, trên thực tế, một nước có thể có nhiều lựa chọn cỏc kt hp khỏc nhau tựy



Đặng Thanh Phong - Tài ChÝnh A / K10B

1


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
thuc vo cỏc đặc điểm cấu trúc, những cú sốc bên ngồi có thể xảy ra và môi
trường kinh tế vĩ mô.
Trong bối cảnh Việt Nam đang tham gia vào hội nhập kinh tế - tài chính - tiền
tệ quốc tế, việc hình thành một chính sách tỷ giá linh hoạt và sát với những biến
động của thị trường là một trong những nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế quốc dân nói chung cũng như thị trường chứng khốn
cịn non trẻ của nước ta nói riêng.Tuy nhiên, khả năng tận dụng nhân tố này cho
sự thành công của công cuộc hội nhập cũng như công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước đến đâu thì cịn phụ thuộc vào khả năng hoạch định chính sách, sức mạnh
kinh tế của nước ta và đặc biệt là sự phối hợp linh hoạt, đúng đắn, mềm dẻo giữa
hai chế độ tỷ giá để phát huy ưu điểm, hạn chế nhược điểm của chúng, sao cho đạt
được mục tiêu một cách hiệu quả nhất.
Xuất phát từ những nhận định đó, em đi sâu vào phân tích đề tài:
" Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết - Kinh nghiệm quốc tế và chính sách tỷ giá
hối đối của Việt Nam "
Đề án này được chia làm 3 chương:
Chương I. Khái quát chung về tỷ giá hối đoái và hoạt động của tỷ giá thả nổi
có điều tiết
Chương II. Chính sách điều hành tỷ giá của Việt Nam trong thời gian vừa
qua - Thành tích và những mặt cịn hạn chế
Chương III. Những chính sách cho một tỷ giá phù hợp ở Việt Nam trong
thời gian tới
Do trình độ và hiểu biết thực tế còn hạn chế nên đề án này khơng thể tránh

khỏi những sai sót. Kính mong thầy giáo và các bạn đóng góp ý kiến, quan tâm và
chỉ bảo thêm.
Em xin chân thành cảm ơn.

Hà Nội tháng 5/ 2002

Đặng Thanh Phong - Tài Chính A / K10B

2


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ

Chng I :
KHI QUÁT CHUNG VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ THẢ NỔI CÓ ĐIỀU TIẾT
I - TỶ GIÁ HỐI ĐỐI

1. Khái niệm
Có hai khái niệm về tỷ giá hối đoái:
- Các phương tiện thanh toán quốc tế được mua và bán trên thị trường hối đoái
bằng tiền tệ quốc gia của một nước theo một giá cả nhất định. Vì vậy, giá cả của một
đơn vị tiền tệ nước này thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ nước kia được gọi là tỷ
giá hối đối.
Ví dụ: Một người nhập khẩu ở Đức phải bỏ ra 142.000 DEM để mua một tờ séc
có mệnh giá100.000 GBP để trả tiền nhập khẩu từ Anh. Như vậy giá 1GBP là
1,42DEM, đây là tỷ giá hối đoái giữa GBP và DEM.
- Tỷ giá hối đối cịn được định nghĩa ở khía cạnh khác, đó là quan hệ so sánh
giữa tiền tệ của hai nước với nhau.
Trong chế độ bản vị vàng, tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh hai đồng tiền vàng

của hai nước với nhau hoặc là so sánh hàm lượng vàng của hai đồng tiền hai nước
với nhau.
Trong chế độ lưu thông tiền giấy, ngang giá vàng khơng cịn là cơ sở hình thành
tỷ giá hối đoái. Việc so sánh hai đồng tiền với nhau được thực hiện bằng so sánh sức
mua của hai tiền tệ với nhau, gọi là ngang giá sức mua của tiền tệ.
Ví dụ: Một hàng hố A ở Mỹ mua với giá là 1USD, nhưng ở Việt nam lại được
mua với giá là 15.000VND.
Ngang giá sức mua là: 1USD = 15.000 :1 = 15.000 VND
Đây là tỷ giá hối đối giữa đơ la Mỹ và đồng Việt nam.

Từ khi ra đời cho đến nay, lịch sử phát triển của tỷ giá hối đoái trải qua rất
nhiều giai đoạn. Trước thế chiến thứ I (1914) nền kinh tế thế giới hoạt động theo
chế độ bản vị vàng. Trong chế độ này, vàng được coi là tiền tệ thế giới và được dùng
như một công cụ dự trữ và tiền tệ thanh toán cuối cùng giữa các quốc gia. Đồng tiền
của hầu hết các nước đều được đổi ra vàng, hình thnh nờn t giỏ hi oỏi c nh.

Đặng Thanh Phong - Tµi ChÝnh A / K10B

3


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Tuy nhiờn, u thế chiến thứ II, chế độ này tan rã, nhường chỗ cho một chế độ tỷ giá
hối đối mới, đó là hệ thống tỷ giá cố định - hệ thống Bretton Woods (1945-1971).
Theo chế độ này, thì các nước phải quy định hàm lượng vàng riêng cho đồng tiền của
mình và so sánh với hàm lượng vàng của USD để có một tỷ giá chính thức với biên độ
giao động không vượt quá 1%. Một nhược điểm của chế độ tỷ giá này là sự biến động
của USD sẽ tác động trực tiếp đến tỷ giá của tất cả các nước, vì vậy, vào năm 1971, hệ
thống Bretton Woods sụp đổ hoàn toàn. Năm 1970, các nước thuộc tổ chức IMF đã
thành lập một cơ chế tiền tệ tín dụng mới để điều tiết cán cân TTQT thông qua SDR

(Special Drawing Right). Mục đích là giúp các nước thuộc tổ chức này có thêm phương
tiện TTQT mà khơng phải dùng đến dự trữ vàng và ngoại tệ. Các nước được tự do lựa
chọn chế độ tỷ giá của nước mình cho phù hợp với điều kiện thực tiễn về kinh tế và mục
tiêu phát triển của mỗi nước trong từng thời kỳ: cố định, thả nổi tự do hay thả nổi có
quản lý.

2. Ưu nhược điểm của chế độ tỷ giá thả nổi và chế độ tỷ giá cố định
Samuelson đã mô tả như sau: “Chế độ tỷ giá cố định cung cấp cho chúng ta một
cái neo, nhưng một con tầu bỏ neo nhiều khi lại nguy hiểm hơn con tàu đang đi, và
nếu để các đồng tiền theo giá cả thị trường tự do thì chúng ta lang thang, quanh quẩn
giống như vị thuỷ thủ say khướt”.
Tất nhiên chưa hẳn là một tỷ giá là ưu việt đối với nước này thì đã là phù hợp
với các nước khác, bởi vì mỗi nước có một điều kiện kinh tế cụ thể khác nhau. Thậm
chí ngay trong một quốc gia, việc áp dụng cố định một chế độ tỷ giá khi các điều
kiện kinh tế - chính trị trong nước và quốc tế đã thay đổi cũng không thể đem lại một
kết quả tốt như mong đợi. Điều quan trọng là phải biết trong trường hợp nào thì cố
định tỷ giá phát huy tác dụng tối đa ưu điểm của mình, từ đó sẽ quyết định lựa chọn
việc áp dụng cố định tỷ giá một cách linh hoạt phù hợp với điều kiện khách quan và
mục tiêu ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển đất nước.
2.1 Chế độ tỷ giá cố định
a. Ưu điểm
- TGCĐ sẽ đảm bảo tính ổn định trong nền kinh tế, ổn định giá cả tạo ra mơi
trường an tồn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh mà đặc biệt là hoạt động ngoại
thương. Các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu không do dự về khả năng mất vốn, thua
thiệt trên mỗi khoản phải đòi hay phải trả do rủi ro của bin ng t giỏ; to nim tin

Đặng Thanh Phong - Tµi ChÝnh A / K10B

4



Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
khụng nhng cho dân chúng mà còn cho các nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư vào
Việt nam.
- Chế độ tỷ giá cố định cũng làm giảm bớt ảnh hưởng của các cú sốc kinh tế từ
bên ngoài tới nền kinh tế trong nước. Điều này có ý nghĩa lớn đối với những nền
kinh tế nhỏ vốn tự nó khơng thể chống đỡ được các tác động ngoại lại mạnh mẽ.
- Hạn chế sự bất ổn về lợi nhuận đầu tư nước ngoài và lợi nhuận trong ngoại
thương và quản lý hành chính, cơng nợ nước ngồi và dự trữ ngoại tệ trong nước.
- Chế độ tỷ giá cố định trong đó tỷ giá được gắn với một ngoại tệ hay một rổ
tiền tệ có xét đến ưu thế, tỷ trọng thương mại và nợ nước ngoài của nước này với các
nước tương ứng. Điều này sẽ giúp ổn định cán cân thanh tốn thương mại cũng như
các khoản nợ nước ngồi.
b. Nhược điểm
- Chế độ tỷ giá cố định chỉ phát huy được trong điều kiện chế độ này được áp
dụng phổ biến trên toàn thế giới và nền kinh tế thế giới cũng đang ổn định, khơng có
biến động mạnh mẽ về giá cả. Nhưng kinh tế chính trị thế giới luôn luôn vận động và
phát triển theo xu thế đi lên, vậy một nước áp dụng và duy trì chế độ tỷ giá cố định
trong điều kiện nói trên là rất khó.
- Chế độ tỷ giá cố định địi hỏi một quốc gia phải có quỹ dự trữ ngoại tệ đủ lớn
để ổn định tỷ giá trước những biến động của cung cầu ngoại tệ, lạm phát và lãi
suất… Điều này không phải quốc gia nào cũng đạt được.
- Chế độ tỷ giá này không khả thi trong điều kiện dự trữ eo hẹp do thâm hụt cán
cân thương mại và cán cân TTQT, nợ nước ngoài cao.
- Trên thực tế khơng phải quốc gia nào cũng có đủ khả năng nắm bắt và cung
cấp chính xác các số liệu thống kê có liên quan trong việc xác định tỷ giá nên sự lựa
chọn mức tỷ giá hối đoái cố định chịu sai số lớn. Sai số này có thể gây ảnh hưởng
không tốt cho nền kinh tế.
2.2 Chế độ tỷ giá thả nổi
Sau khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ hầu hết các nước đều áp dụng chế độ tỷ

giá thả nổi. Có hai loại chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi:
2.2.1 Chế độ tỷ giá thả ni t do

Đặng Thanh Phong - Tài Chính A / K10B

5


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
L ch tỷ giá hối đối mà khơng có sự can thiệp nào của Chính phủ, hồn
tồn do quan hệ cung cầu quyết định. Chế độ này thường được áp dụng ở những
nước có nền kinh tế phát triển cao.
* Ưu điểm
- Phản ánh kịp thời các biến động, các xu thế kinh tế thế giới làm cho nền kinh
tế quốc gia hồ nhập vào tiến trình vận động chung của nền kinh tế thế giới.
- Tạo điều kiện tiền tệ cho cạnh tranh bình đẳng, buộc mọi nhà kinh doanh,
người làm kinh tế phải năng động trước thời cơ, thường xuyên học hỏi, động não để
đánh giá các xu thế kinh tế và đưa ra những quyết định đúng đắn kịp thời, có lợi nhất
cho kinh doanh.
- Do tỷ giá thả nổi hoàn toàn do cung cầu ngoại tệ trên thị trường quyết định,
các chính phủ khơng hề có ý định can thiệp tỷ giá nên khơng cần phải có một quỹ
bình ổn hối đối, tiết kiệm ngoại tệ phục vụ cho những mục đích khác.
* Nhược điểm
- Nền kinh tế trong nước luôn chịu ảnh hưởng của những cú sốc kinh tế thế giới,
gây ra những biến động lớn trong tỷ giá, tác động xấu tới sản xuất nội địa cũng như
hoạt động ngoại thương, làm mất lòng tin trong dân chúng về chế độ kinh tế chính trị
trong nước.
- Nếu việc quản lý ngoại hối trong nước không chặt chẽ có thể gây ra những cú
sốc về cung cầu ngoại thương giả tạo (do hoạt động đầu cơ). Điều đó khơng phản
ánh đúng bản chất kinh tế trong một giai đoạn phát triển gây thiệt hại đến lợi ích

chung.
- Độ rủi ro về biến động tỷ giá là rất cao đối với các nguồn thu nhập từ đầu tư
nước ngoài, nợ nước ngoài… Điều này gây trở ngại cho việc thiết lập một môi
trường ổn định, đáng tin cậy để thu hút đầu tư nước ngoài. Đặc biệt là đối với những
nhà kinh doanh xuất khẩu, những người thường xuyên có những khoản thu chi ngoại
tệ, điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của họ.
- Mức biến động tỷ giá khó xác định trước trong chế độ tỷ giá này có thể gây ra
những quy định vĩ mô sai lầm ảnh hưởng đến mức tăng trưởng kinh tế.
b. Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý

Đặng Thanh Phong - Tài Chính A / K10B

6


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
L ch tỷ giá trong đó có sự can thiệp của Chính phủ vào thị trường hối đối
thơng qua việc mua bán các đồng tiền để can thiệp vào mức cung và cầu tiền tệ. Qua
đó, một tỷ giá hối đối được hình thành và phản ánh được phần nào quan hệ cung
cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, đồng thời thoả mãn được các mục tiêu phát
triển của nền kinh tế quốc gia trong từng thời kỳ nhất định.
* Ưu điểm
- Tỷ giá thả nổi có quản lý phần nào khắc phục được những nhược điểm của
chế độ tỷ giá thả nổi hồn tồn vì nhờ có sự can thiệp đúng mức và kịp thời của
NHNN sẽ giúp cho thị trường ngoại hối trong nước bị ảnh hưởng và biến động ít hơn
trước những cú sốc về kinh tế trên thế giới.
- Cơ chế can thiệp vào tỷ giá thả nổi này sẽ phát huy được vai trị của cơng cụ
giá trong nền kinh tế, không thể để tỷ giá bị trôi nổi trước những hoạt động đầu cơ
ngoại tệ, mà thực sự biến nó thành cơng cụ khuyến khích các hoạt động xuất khẩu,
ngăn cấm nhập khẩu… cải thiện cán cân thương mại.

- Ngày nay với nền kinh tế thị trường, đa số các nước đều áp dụng chế độ tỷ giá
thả nổi có quản lý. Do đó, tỷ giá hối đối đã trở thành cơng cụ tài chính vơ cùng quan
trọng trong q trình quản lý kinh tế vĩ mơ. Chính phủ khơng cịn sử dụng cơng cụ tỷ
giá theo kiểu ấn định nó một cách chủ quan như trong chế độ tỷ giá cố định nữa, mà
chỉ tác động đến nó bằng cách can thiệp vào thị trường hối đối thơng qua việc mua
bán ngoại tệ và các phương pháp điều tiết khác.
Các nước đều thực thi chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý nhưng có sự khác nhau
về mức độ thả nổi và hình thức can thiệp. Một nước có nền kinh tế thị trường tương
đối phát triển và hoàn hảo về một thị trường ngoại hối, thường áp dụng chế độ tỷ giá
thả nổi với sự can thiệp rất ít của nhà nước. Một thị trường hối đối hồn chỉnh với
các quy chế quản lý ngoại hối chặt chẽ và các thành viên có đủ khả năng tham gia
trên thị trường sẽ góp phần hình thành nên một mức tỷ giá hợp lý thể hiện đúng
tương quan sức mạnh của các đồng tiền trên thế giới.
* Nhược điểm
Các nước đang phát triển còn thiếu kinh nghiệm điều tiết thị trường, nền kinh tế
còn chưa đủ mạnh để có thể đứng vững trước các biến động lớn trên thị trường thế
giới thì phải thường xuyên theo dõi và chủ động can thiệp vào thị trng ngoi hi

Đặng Thanh Phong - Tài Chính A / K10B

7


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
m bo đạt được một mức tỷ giá thích hợp với tiến trình phát triển kinh tế của
đất nước.
Qua việc phân tích hoạt động của các chế độ tỷ giá và phân tích những hạn chế
của chúng, ta thấy rằng: để ổn định (đối nội hay đối ngoại) và phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia thì ổn định trong lĩnh vực tỷ giá đóng vai trị quan trọng. Ổn định
khơng có nghĩa là cố định tỷ giá, mà chủ động linh hoạt điều chỉnh (can thiệp) tỷ giá

đi theo hướng có lợi trong những điều kiện cụ thể và theo mục tiêu được đặt ra.
II - HOẠT ĐỘNG ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ CỦA NHNN

1. Mục đích can thiệp
Mặc dù đều nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế đề ra, nhưng mục đích can
thiệp của NHNN khơng hồn tồn giống nhau giữa các quốc gia. Nó phụ thuộc vào
tình hình thực tế và ý đồ chiến lược của mỗi nước trong mỗi thời kỳ khác nhau.
Ở những nước có nền kinh tế phát triển, mục đích can thiệp là để duy trì một
cách hợp lý các quan hệ tiền tệ có tổ chức và khắc phục những biến động lớn của thế
giới. Trong khi đó ở nhiều nước khác, đặc biệt là những nước đang phát triển, mục
đích can thiệp là tạo ra một chế độ tỷ giá hối đoái phù hợp, đáp ứng các mục tiêu ổn
định, phát triển kinh tế đất nước và giảm đến mức thấp nhất rủi ro, thiệt hại do biến
động tỷ giá gây ra. Đối với các nước này vai trị điều tiết vĩ mơ của chính phủ là rất
quan trọng.

2. Các hoạt động can thiệp của NHNN
2.1 Nghiệp vụ thị trường mở
Là biện pháp tác động vào thị trường hối đoái. NHNN hay các cơ quan hối đoái
của nhà nước dùng nghiệp vụ trực tiếp mua bán ngoại hối để điều chỉnh tỷ giá. Khi
tỷ giá hối đoái tăng, NHNN bán ngoại tệ ra để kéo tỷ giá xuống. Ngược lại, khi tỷ giá
giảm, NHNN sẽ dùng nội tệ để mua ngoại tệ vào nhằm kéo tỷ giá xuống.
Nhằm mục đích duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái, nhiệm vụ mua bán ngoại
tệ được thực hiện trên cơ sở cung tiền tệ, diễn biến giá cả ngoại tệ trên thị trường và
ý đồ can thiệp mang tính chủ quan của nhà nước. Việc can thiệp này khơng có tính
chất áp đặt một cách máy móc và vi phạm các quy luật kinh tế của kinh tế thị trường,
mà đây là hoạt động có cân nhắc tính tốn kỹ lưỡng những nhân tố của thực tại cũng
như chiều hướng phát triển trong tương lai của toàn bộ nền kinh tế. Do vậy, vic la

Đặng Thanh Phong - Tài Chính A / K10B


8


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
chn cỏc thi điểm cần mua, cần bán ngoại tệ trên thị trường với tỷ giá nào để đạt
được mục tiêu đề ra - chính là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định.
2.2 Chính sách chiết khấu
Là chính sách mà NHNN dùng cách thay đổi tỷ suất chiết khấu để điều chỉnh
lãi suất trên thị trường tín dụng, do đó ảnh hưởng gián tiếp đến tỷ giá hối đoái trên thị
trường.
Khi tỷ giá hối đoái lên cao đến mức nguy hiểm, muốn làm cho tỷ giá hạ xuống
thì NHNN nâng lãi suất chiết khấu lên làm cho lãi suất trên thị trường tăng lên. Kết
quả là, vốn ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ chạy vào nước mình để thu lãi cao.
Lượng vốn chạy vào sẽ làm dịu căng thẳng của cầu ngoại hối, do đó tỷ giá hối đối
có xu hướng hạ xuống.
Chính sách chiết khấu cũng chỉ có ảnh hưởng nhất định và có hạn đối với tỷ giá
hối đoái bởi giữa tỷ giá hoạt động và lãi suất khơng có quan hệ nhân quả.
Tuy nhiên, khơng nên hồn tồn coi thường chính sách chiết khấu. Nếu tình
hình các nước đều đại thể như nhau thì phương thức đầu tư ngắn hạn vẫn hướng vào
những nước có lãi suất cao. Do đó hiện nay chính sách chiết khấu cũng có ý nghĩa
của nó.
2.3 Quỹ dự trữ bình ổn hối đối
Quỹ dự trữ bình ổn hối đối là hình thức biến tướng của chính sách hối đối,
mục đích của nó là chủ động tạo ra một lượng dự trữ ngoại hối để ứng phó với sự
biến động của tỷ giá hối đối thơng qua nghiệp vụ thị trường mở.
Về ngun tắc thì NHNN các nước khơng chịu trách nhiệm điều tiết sự thay đổi
của tỷ giá hối đoái thả nổi. Song do khủng hoảng ngoại hối trầm trọng, tiền tệ của
các nước ngày một mất giá và tỷ giá thay đổi mãnh liệt đã ảnh hưởng đến sản xuất và
lưu thơng hàng hố, các nước đã thành lập quỹ bình ổn hối đối để điều tiết tỷ giá
của đồng tiền nước mình.

Kinh nghiệm đã cho thấy tác dụng của quỹ bình ổn rất có hạn, vì một khi đã bị
khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng ngoại hối, thì lượng dự trữ theo quỹ đó cũng
giảm và khơng đủ sức để điều tiết tỷ giá. Quỹ này chỉ có tác dụng khi khủng hoảng
ngoại hối ít nghiêm trọng và có nguồn tín dụng hỗ trợ.
2.4 Phá giá tiền t

Đặng Thanh Phong - Tài Chính A / K10B

9


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Trong tỡnh trng nghiêm trọng của khủng hoảng ngoại hối, khi mà sức mua của
tiền tệ giảm sút mạnh và không thể đại biểu cho sức mua danh nghĩa của nó, khi mà
trong suốt một thời gian dài tỷ giá hối đoái biến động mạnh thì vấn đề xác định lại tỷ
giá hối đối là một điều khơng thể tránh khỏi. Song phải phá giá tiền tệ lúc nào? mức
độ ra sao? lại phụ thuộc vào mục đích kinh tế chính trị của từng quốc gia. Hiện nay
phá giá tiền tệ đã trở thành một chính sách kinh tế tài chính của các chính phủ để tác
động đến tỷ giá hối đối và cán cân thanh tốn quốc tế. Vì vậy, phá giá tiền tệ có thể
hiểu là sự đánh tụt sức mua của tiền tệ nước mình so với ngoại tệ hay là nâng cao tỷ
giá hối đoái của một đơn vị ngoại tệ.
Tác dụng của phá giá tiền tệ đối với nước tiến hành phá giá có thể là:
- Khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, do đó có tác dụng khôi phục lại
sự cân bằng của cán cân ngoại thương, phần nào cải thiện được cán cân thanh toán
quốc tế.
- Khuyến khích nhập khẩu vốn, kiều hối, hạn chế xuất khẩu vốn ra bên ngoài
cũng như là chuyển tiền ra ngồi nước, do đó làm tăng khả năng cung ngoại hối,
giảm nhu cầu về ngoại hối, nhờ đó tỷ giá hối đối sẽ giảm xuống.
- Khuyến khích du lịch vào trong nước, hạn chế du lịch ra nước ngoài.
Tác dụng chủ yếu của biện pháp phá giá tiền tệ là nhằm cải thiện tình hình của

cán cân ngoại thương. Tuy vậy, tác dụng cải thiện cán cân ngoại thương có trở thành
hiện thực hay khơng cịn tùy thuộc vào khả năng đẩy mạnh xuất khẩu của nước tiến
hành phá giá tiền tệ và năng lực cạnh tranh của hàng hố xuất khẩu của nước đó.
2.5 Nâng giá tiền tệ
Là việc nâng giá chính thức đơn vị tiền tệ của nước mình so với ngoại tệ.
Ảnh hưởng của nâng giá tiền tệ đến ngoại thương của một nước hoàn toàn
ngược lại với phá giá tiền tệ. Nâng giá tiền tệ trong điều kiện hiện nay có thể xảy ra
dưới áp lực của các nước khác khi mà các nước này muốn tăng khả năng cạnh tranh
của hàng hố nước mình vào các nước có cán cân thanh tốn và các cõn thng mi
thng d.

Đặng Thanh Phong - Tài Chính A / K10B

10


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Ngoi ra, mt số nước có nền kinh tế phát triển quá nóng, muốn làm lạnh nền
kinh tế để tránh khủng hoảng thì sẽ dùng biện pháp này để giảm đầu tư vào trong
nước, tăng xuất khẩu vốn, giảm xuất khẩu hàng hoá ra nc ngoi.

Đặng Thanh Phong - Tài Chính A / K10B

11


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ

Chng II :
CHNH SÁCH ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN

QUA
THÀNH TỰU VÀ NHỮNG MẶT CỊN HẠN CHẾ
I - CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986-1989

1. Thực trạng tình hình kinh tế trong giai đoạn 1986 - 1989
Năm 1986 đã đi vào lịch sử Việt nam - đánh dấu một thời kỳ phát triển mới của
đất nước: “thời kỳ đổi mới và mở cửa”. Đường lối “đổi mới và mở cửa” do Đảng
cộng sản Việt nam khởi xướng tại Đại hội lần thứ VI tháng 12/1986.
Cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chính sách điều hành tỷ giá của
NHNN từng bước cũng được cải thiện để phù hợp với từng thời kỳ phát triển kinh tế,
tài chính đất nước. Nền kinh tế vẫn đang trong tình trạng trì trệ kéo dài, lưu thơng
tiền tệ rối loạn, lạm phát tăng nhanh và kéo dài trong nhiều năm. Hiện tượng “đơ la
hố” diễn ra nhanh chóng trong khi chính sách tiền tệ khơng có khả năng điều chỉnh
vĩ mô, khống chế lạm phát. Nợ nước ngồi ngày càng tăng, lại khơng có khả năng
thanh tốn, thâm hụt cán cân vãng lai và cán cân thanh toán quốc tế nặng nề. Dự trữ
ngoại tệ trong giai đoạn này hầu như khơng có.
Ngồi ra, Việt nam cịn phải đứng trước những thách thức lớn. Khủng hoảng
chính trị ở Đơng Âu đã tác động dữ dội vào chính sách kinh tế – xã hội đất nước; nguy
cơ mất ổn định xã hội xuất hiện; niềm tin vào uy tín của Nhà nước bị suy giảm, thậm
chí người ta còn nghi ngờ vào đường lối đổi mới của Đảng; tiến trình đổi mới của Việt
nam bị bao vây cấm vận kinh tế từ phía Mỹ và các nước là đồng minh của Mỹ. Trước
tình hình đó, Việt nam phải mạnh dạn, chủ động và sáng tạo trong cải cách kinh tế.
Chính sách điều hành tỷ giá hối đối cũng cần được đổi mới và thực hiện.

2. Đặc điểm của chính sách tỷ giá
Giai đoạn 1986 - 1989, quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt nam chủ yếu với các
nước XHCN, đặc biệt là Liên Xô (cũ). Quan hệ tỷ giá của VND cũng chủ yếu là đối
với đồng Rup, và các đồng tiền của các nước XHCN khác. Nhà nước lúc này thực
hiện chế độ độc quyền về ngoại thương và quản lý ngoại hối. Nhà nước can thiệp
trực tiếp vào việc xác định tỷ giá mà không xét tới quan hệ cung cầu trên thị trường.

Đây là ch t giỏ c nh v a t giỏ.

Đặng Thanh Phong - Tµi ChÝnh A / K10B

12


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ

Cú ba loi tỷ giá được xác định theo các phương pháp khác nhau:
- Tỷ giá chính thức (tỷ giá mậu dịch): Tỷ giá do NHNN chính thức cơng bố
được áp dụng trong tính tốn chuyển đổi hàng đổi hàng giữa Việt nam và các nước
XHCN khác.
- Tỷ giá phi mậu dịch: Tỷ giá này được áp dụng trong thanh toán phi mậu dịch
giữa Việt Nam và các nước XHCN như việc thanh tốn trong ngoại giao, học tập của
sinh viên, tính lương cho các chuyên gia Liên Xô ở Việt Nam …Tỷ giá này được
tính tốn dựa trên sức mua đối nội của đồng tiền VND với sức mua đối nội của đồng
tiền các nước XHCN khác.
- Tỷ giá kết toán nội bộ: là tỷ giá được dùng để chuyển đổi các khoản thu chi
ngoại tệ ra tiền VND trong tính tốn nội bộ giữa các đơn vị kinh tế trong nước và
NHNT Việt nam.
Do Nhà nước thực hiện chính sách độc quyền về quản lý ngoại hối, toàn bộ số
thu ngoại tệ qua hoạt động xuất khẩu cũng như các nguồn thu khác đều phải kết hối
100% vào quỹ ngoại tệ chung của Nhà nước. Còn các đơn vị xuất khẩu thu VND về
tương ứng với số ngoại tệ thu được tính theo tỷ giá kết tốn nội bộ. Đối với các đơn
vị nhập khẩu khi vay ngoại tệ của ngân hàng cũng tính chi phí bằng VND chuyển đổi
theo tỷ giá kết tốn nội bộ. Chính vì vậy mà tỷ giá này là một thành phần quan trọng
gắn với giá cả, thu nhập của các đơn vị sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu.

3. Ảnh hưởng của chính sách tỷ giá đến hoạt động quản lý kinh tế vĩ mô và

hoạt động ngoại thương
3.1 Đối với hoạt động quản lý v mụ

Đặng Thanh Phong - Tài Chính A / K10B

13


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Hot ng qun lý của Nhà nước trên thị trường ngoại hối bị mất dần tác dụng.
Tỷ giá hối đối giữ vai trị thụ động, là phương tiện để ngân hàng theo dõi tình hình
xuất nhập khẩu hàng hố. Do vậy sự chênh lệch giữa tỷ giá thị trường và tỷ giá chính
thức là rất lớn. Chính vì tỷ giá của nhà nước quy định ở mức thấp nên các tổ chức và
cá nhân có ngoại tệ sẽ sử dụng ngoại tệ trực tiếp trên thị trường. Ngoại tệ hầu như bị
thả nổi, tự do mua bán trên thị trường. Điều này không chỉ gây thiệt hại cho các
khoản thu của Nhà nước mà còn làm phát sinh nhiều tiêu cực trong xã hội. Nó sẽ có
tác động trở lại tỷ giá kết toán nội bộ làm cho diễn biến tỷ giá trên thị trường càng
thêm phức tạp.
Nhà nước đã không phát huy được vai trò điều tiết giá cả trên thị trường ngoại
hối. Kết quả là hoạt động mua bán trao đổi ngoại tệ trên thị trường chợ đen càng
tăng, vượt khả năng kiểm sốt của Chính phủ. Điều này cũng ảnh hưởng tiêu cực đến
tình hình thu chi và hạch tốn ngân sách. Cùng với việc bù lỗ cho các doanh nghiệp
do trượt giá, việc bù lỗ qua thanh toán bằng tỷ giá kết toán nội bộ đã làm cho NSNN
bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
3.2 Đối với hoạt động ngoại thương
Vì nhà nước can thiệp trực tiếp vào việc xác định tỷ giá mà không xét tới quan
hệ cung cầu ngoại hối trên thị trường nên đã gây rất nhiều ảnh hưởng tiêu cực tới
hoạt động ngoại thương. Tỷ giá hoạt động cố định với thời gian tương đối dài trong
bối cảnh lạm phát ở mức cao là một trở ngại lớn cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Trong khi đó, chi phí sản xuất trong nước tăng nhanh. Hàng hố xuất khẩu của ta

vốn ít lợi thế cạnh tranh lại càng khó đứng vững trên thị trường thế giới.
Trong một chế độ điều hành tỷ giá như vậy, VND đã được đánh giá cao so với
đồng USD và một số ngoại tệ khác do TGHĐ chính thức do NHNN cơng bố khơng
phản ánh đúng diễn biến tình hình thực tế trên thị trường. Điều này không những gây
bất lợi cho hoạt động xuất khẩu mà cịn kích thích nhập khẩu. Nhập khẩu tăng đã đe
dọa sự phát triển và đứng vững của các doanh nghiệp vốn đang bỡ ngỡ bước vào
kinh tế thị trường. Hơn nữa, lý thuyết và thực tế cho thấy việc định giá cao đồng bản
tệ sẽ gây thiệt hại lớn cho các hoạt động xuất khẩu, nếu tình trạng này kéo dài trong
khi năng lực tài chính ốm yếu thì sớm muộn những bất ổn sẽ xuất hin khi ton cu
húa ngy cng tng.

Đặng Thanh Phong - Tµi ChÝnh A / K10B

14


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Vi nhng c điểm nêu trên, trong nền kinh tế mở theo hướng thị trường, Nhà
nước cần phải để công cụ tỷ giá giữ đúng vai trị của nó và chính sách điều hành tỷ
giá cần phải tuân theo những quy luật khách quan nhất định.
II - CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1989-1996
Giai đoạn 1989-1996 được coi là giai đoạn cải cách trong điều hành chính sách
tỷ giá. Cùng với sự hồn thiện từng bước chính sách kinh tế, việc điều hành tỷ giá
của Chính phủ cũng được cải cách để phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất
nước.
* Đối với hoạt động ngoại thương, chính phủ chủ trương:
Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thông qua hai biện pháp “phá giá” vá “tự do
hoá” một bộ phận đáng kể xuất khẩu vì xuất khẩu gia tăng có tác động tốt đối với
việc điều hành tỷ giá. Hoạt động nhập khẩu cũng được nới lỏng hơn nhưng có quản
lý thơng qua việc quy định hạn ngạch và chính sách thuế nhập khẩu. Mặt khác, chính

phủ cịn tiến hành cải cách thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập
khẩu.
* Đối với lĩnh vực tiền tệ - tín dụng:
- Nhà nước thực hiện đổi mới nội dung và phương pháp điều chỉnh chính sách
tiền tệ, cải cách hệ thống ngân hàng. Để ngăn chặn xu thế lạm phát cao đang hoành
hành, NHNN đã nâng lãi suất tiết kiệm lên có thời kỳ tới 12%/ tháng; đồng thời cắt
giảm hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế, nhất là đối với khu vực kinh tế quốc tế
quốc doanh; giảm mức phát hành tiền tệ cho chi tiêu ngân sách. Các biện pháp này
cũng gián tiếp góp phần hạn chế tốc độ mất giá của đồng nội tệ.
- Chính phủ thực hiện việc cắt giảm chi tiêu cho các cơng trình đầu tư chưa cấp
thiết hoặc khơng quan trọng; cắt giảm, xố bỏ tình trạng bao cấp, bù lỗ thơng qua
ngân sách; tăng cường các khâu tài chính. Những biện pháp này có tác dụng làm
giảm cầu hàng hố và tiền mặt.
- Bắt đầu từ năm 1990, chính phủ chuyển dần cơ chế bù đắp thâm hụt NSNN
bằng vay dân, vay nước ngồi thay vì phát hành tiền để trang trải như trước đây.
Điều này đã làm tăng khả năng kiểm sốt lạm phát của chính phủ, hỗ trợ quá trình
thống nhất tỷ giá trên thị trường tự do.

Đặng Thanh Phong - Tài Chính A / K10B

15


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
- phự hợp với tình hình mới, tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu và hoạt
động đầu tư nước ngồi, chính phủ đã có những cải cách về chế độ quản lý ngoại hối
theo hướng: giảm các thủ tục hành chính, nới dần các hạn chế, tăng cường quản lý
bằng các công cụ kinh tế.
- Để hạn chế tác động của yếu tố tâm lý, đầu cơ, đặc biệt là sau sự kiện Liên xơ
sụp đổ năm 1991, khủng hoảng tín dụng 1990-1991, Chính phủ Việt nam đã kịp thời

cơng khai hoá các chỉ số kinh tế quan trọng như tỷ giá chính thức, tỷ giá thị trường
tốc độ lạm phát, chỉ số biến động của vàng.
Để thuận lợi cho việc đánh giá, phân tích cơ chế điều hành tỷ giá của Chính
phủ, chia giai đoạn 1989 - 1996 làm hai thời kỳ:

1 - Thời kỳ 1989-1992
1.1 Cơ sở của việc lựa chọn chính sách tỷ giá hối đối
Mục tiêu quan trọng nhất của thời kỳ này là: “ Đẩy lùi, kiềm chế lạm phát; ổn
định kinh tế vĩ mơ; tìm lối thốt ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thối bởi khủng hoảng
kéo dài cho nền kinh tế “
Các quan điểm chủ đạo:
Thứ nhất: Chúng ta khơng thể duy trì chế độ tỷ giá cũ vì nó q phức tạp lại
khơng có khả năng quản lý ngoại hối, cản trở hoạt động xuất khẩu, và đặc biệt nó
khơng cịn ý nghĩa thực tế khi tình trạng đối nội và đối ngoại có nhiều thay đổi.
Thứ hai: Để thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, nâng cao dự trữ ngoại tệ của
Chính phủ và ổn định tiền tệ thì trong tình hình lúc đó khơng có cách nào khác hơn
là phải phá giá đồng nội tệ.
Thứ ba: Mức độ phá giá phải hợp lý để thực hiện được các mục tiêu đề ra.
Thứ tư: Việc điều chỉnh tỷ giá phải gắn với ngoại tệ mà đại đa số dân chúng v
cỏc doanh nghip ớt nhiu cú hiu bit v nú.

Đặng Thanh Phong - Tµi ChÝnh A / K10B

16


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Xut phỏt t những quan điểm đó, Chính phủ đã lựa chọn phương án “phá giá,
thả nổi có quản lý, gắn với đồng USD”. Phương án này vừa sử dụng được lợi thế của
các yếu tố thị trường và sự can thiệp hợp lý của Nhà nước, vừa là tối ưu cho nền kinh

tế Việt nam thời kỳ đó.
Cơ chế điều hành và xác định tỷ giá cũng theo hướng mới. Phương pháp đồng
giá sức mua được loại bỏ. Thay vào đó, việc xác định tỷ giá chính thức được tiến
hành trên cơ sở như sau:
- Biến động của chỉ số giá cả
- Tình hình cán cân thanh tốn
- Mục tiêu của chính sách tiền tệ
- Biến động của tỷ giá trên thị trường tự do.
1.2 Hoạt động điều hành tỷ giá của NHNN
Bắt đầu từ năm 1989, hoạt động điều hành tỷ giá của NHNN có nhiều đổi mới
rõ rệt. Trên cơ sở phương án lựa chọn như trên, chính phủ đã thả nổi TGHĐ nhằm
tạo lập quan hệ cung cầu đồng thời mạnh dạn nâng lãi suất tiền gửi lên mức “siêu
cao”để thu hút tiền gửi từ nền kinh tế. Các NHTM áp dụng tỷ giá giao dịch của mình
trong biên độ 5% so với giá chính thức ( biên độ này sau đó được mở rộng đến 10%,
15%, 30%). Mặc dù vậy cơ chế xác định tỷ giá chưa thực sự linh hoạt, tỷ giá chính
thức vẫn được coi là chậm được điều chỉnh do tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị
trường chợ đen ngày càng chênh lệch.
Trước tình trạng giá USD leo thang, VND bị mất giá mạnh, giá cả hàng nhập
khẩu tăng nhanh - thúc đẩy lạm phát; từ năm 1992, Chính phủ đã thay đổi chính sách
quản lý ngoại tệ và đổi mới cơ chế điều hành TGHĐ giữa VND và USD :
- Thay thế biện pháp hành chính, bắt buộc các đơn vị kinh tế quốc doanh có
ngoại tệ phải bán cho ngân hàng theo tỷ giá ấn định bằng biện pháp kinh tế như mở
trung tâm giao dịch ngoại tệ để cho các doanh nghiệp và ngân hàng trao đổi, mua
bán ngoại tệ với nhau theo giá thoả thuận.
- Bãi bỏ hình thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong thanh tốn ngoại thương
giữa ngân sách và các tổ chức tham gia hoạt động xuất nhập khẩu. Thay vào đó, trên
cơ sở tỷ giá hình thành tại các phiên giao dịch ngoại tệ, NHNN cụng b t giỏ chớnh
thc.

Đặng Thanh Phong - Tài ChÝnh A / K10B


17


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
- Chớnh ph đã sử dụng những biện pháp để thắt chặt tiền tệ như khống chế mức
cung tiền, hạn chế tối đa việc cấp phát cho chi tiêu NSNN. NHNN đã thành lập các
trung tâm giao dịch ngoại tệ và việc điều hành tỷ giá của NHNN được thông qua các
trung tâm giao dịch ngoại tệ đó, gồm trung tâm giao dịch ngoại tệ ở thành phố Hồ
Chí Minh và một trung tâm giao dịch ở Hà Nội. NHNN không can thiệp trực tiếp
vào tỷ giá như trước nữa mà chỉ điều hành thơng qua cơng cụ gián tiếp là quỹ điều
hịa ngoại tệ. Khi cần thiết, quỹ này được dùng để mua ngoại tệ hay bán ngoại tệ tại
các phiên đấu giá. Trên cơ sở tỷ giá chính thức do NHNN công bố, NHTM quy định
tỷ giá ngoại tệ bán ra trong phạm vi biên độ 1%: chênh lệch giữa tỷ giá bán và tỷ giá
mua ngoại tệ của các NHTM tối đa là 0,5%.
NHNN đã tiến hành điều chỉnh thành công trước “cơn sốt” ngoại tệ 1991 (giá
USD tăng cao). Nội dung điều chỉnh:
- NHNN và NHTM đồng loạt bán USD ra thị trường chính thức.
- NHNN thơng báo và bán vàng không hạn chế để thu tiền nội tệ.
Các biện pháp trên đã hạn chế lượng cung tiền VND và làm giảm cầu ngoại tệ. Do
đó tỷ giá đã dần được ổn định, tạo tâm lý yên tâm trong dân chúng.
1.3 Diễn biến tỷ giá
Tỷ giá USD/ VND bình quân hàng năm (1989-1992):
Chỉ tiêu

1989

1990

1991


1992

Tỷ giá chính thức (USD/VND)

4.200

6.650

12.720

10.720

Tỷ giá trên thị trường tự do

4.575

7.050

12.550

10.650

Chỉ số tăng tỷ giá chính thc (%)

158,3

191,3

84,3


Ch s tng t giỏ trờn TTTD (%)

154,1

187

84,8

Đặng Thanh Phong - Tµi ChÝnh A / K10B

18


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Ngun: Hc Vin Ngân Hàng
Cùng với sự khởi sắc của hoạt động ngoại thương và hoạt động đầu tư nước
ngoài, đồng USD trong thời kỳ này đã tăng liên tục so với đồng nội tệ. Diễn biến của
tỷ giá được thể hiện rõ trong bảng trên.
Trong thời gian này, NHNN đã dần nâng tỷ giá, nhưng vẫn chỉ là “ lẽo đẽo”
theo sau tỷ giá chợ đen nên đã làm cho số ngoại tệ thu hút bị giảm đi. Khi giá USD
tăng cao đã kích thích tâm lý dự trữ USD để tránh bị trượt giá nếu giữ bằng VND và
hiện tượng đầu cơ USD để hưởng chênh lệch giá. Ngoại tệ mạnh vốn đã khan hiếm
lại không được dùng cho hoạt động xuất nhập khẩu mà bị bn bán vịng vèo qua
các cá nhân, tổ chức trong nước.
Trong tình hình như vậy, NHNN khơng phát huy được vai trị quản lý ngoại tệ
của mình. Về mặt chính sách, chính phủ đã tiến hành quản lý chặt đối với lưu thông
ngoại tệ và tỷ giá hối đoái. Nhưng trên thực tế tỷ giá hối đoái đã bị “thả nổi”, vượt
tầm kiểm soát nhất định của NHNN nên thời kỳ 1989 - 1992 còn được coi là thời kỳ
“thả nổi tỷ giá”.

1.4 Ảnh hưởng của chính sách tỷ giá và những biến động của tỷ giá đối với hoạt
động ngoại thương trong thời kỳ này
Hoạt động ngoại thương trong thời kỳ 1989 - 1992 có những chuyển biến rõ rệt.
Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng liên tục qua các năm. Trong thời kỳ này, xuất khẩu
gia tăng, thâm hụt cán cân thương mại giảm dần qua các năm, đặc biệt là năm 1992.
Khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam tăng lên năm 1992 có sự góp
phần quan trọng của đồng VND bị phá giá mạnh tới 60% so với USD (1991).

1.5 Nhận xét
Qua nghiên cứu chính sách tỷ giá và tác động của nó đến hoạt động ngoại
thương trong thời kỳ 1989 - 1992, có thể kết luận rằng chính sách tỷ giá và hoạt động
ngoại thương có mối quan hệ qua lại với nhau rất chặt chẽ. Trong giai đoạn này, do
tỷ giá được xác định thông qua các giao dịch tại hai trung tâm ngoại tệ nên đã sát với
tình hình thị trường. Tuy nhiên, việc điều hành và xác định tỷ giá như vậy vẫn còn
những hạn chế nht nh:

Đặng Thanh Phong - Tài Chính A / K10B

19


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
- TGH xỏc định qua các trung tâm không phản ánh được quan hệ cung cầu
ngoại tệ trên phạm vi cả nước.
- Việc kiểm soát trạng thái ngoại hối của NHNN đối với các NHTM cịn lỏng
lẻo, chưa có quy định cụ thể. Hoạt động giao dịch ngoại tệ của một số NHTM đơi lúc
cịn mang tính đầu cơ, đặc biệt khi tỷ giá biến động mạnh.
- Mức độ can thiệp của NHNN đối với tỷ giá đơi khi cịn q lớn. Thậm chí
trong nhiều phiên giao dịch chỉ có NHNN là người mua hay người bán duy nhất.
Với những đặc điểm trên, việc điều hành tỷ giá của NHNN vẫn cần được cải thiện

hơn nữa. Như vậy mới có thể tạo điều kiện để “đẩy mạnh xuất khẩu, thay thế nhập
khẩu” theo tinh thần nghị quyết Đai hội Đảng VII.

2. Thời kỳ 1993 - 1996
2.1 Hoạt động điều hành tỷ giá của NHNN
Có thể nói, thời kỳ 1993 - 1996 là một thời kỳ có nhiều nét đổi mới quan trọng
trong chính sách điều hành tỷ giá của NHNN. Việc điều hành tỷ giá của NHNN
khơng những đã sát hơn với tình hình thực tế mà cịn góp phần ổn định thị trường
tiền tệ, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước. NHNN thực hiện đồng
thời nghiệp vụ “thị trường mở “ và công cụ lãi suất trong điều hành tỷ giá.
Ngày 20/ 9/ 1994 NHNN ra quyết định 203A/ QĐ-NH13 thành lập thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng (TTNTLNH). Quyết định này nhằm tạo ra thị trường ngoại
tệ thống nhất với quy mô lớn hơn; trong đó NHNN tăng cường kiểm sốt đối với các
giao dịch ngoại tệ. Cùng ngày, thống đốc NHNN đã ra quyết định số 206/ QĐ-NH7
về “Quy chế xác định, điều chỉnh và cơng bố tỷ giá hối đối của VND với ngoại tệ”.
Theo đó các NHTM được điều chỉnh tỷ giá linh hoạt hơn và NHNN chỉ thực hiện
chức năng là người giao dịch cuối cùng. Sự can thiệp của NHNN cũng chỉ ở mức độ
cần thiết, nhằm theo đuổi mục tiêu chính sách tiền tệ của từng thời kỳ. Tỷ giá hối
đoái cũng được xác định một cách khách quan hơn, phù hợp hơn với quan hệ cung
cầu ngoại hối trên thị trường.
Cũng nhờ quyết định kịp thời đó mà khoảng cách giữa tỷ giá trên TTNTLNH
và trên thị trường tự do được thu hẹp dần. Ngân hàng ngày càng thu hút thêm nhiều
ngoại tệ tiền gửi. Điều này góp phần làm tăng khả năng thu hút đầu tư trực tip nc
ngoi ca Vit Nam.

Đặng Thanh Phong - Tài Chính A / K10B

20



Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Nh vy trong thời kỳ này NHNN đã thi hành chính sách tỷ giá “mềm dẻo,
năng động, phù hợp với quan hệ cung cầu ngoại hối trên thị trường và hướng điều
tiết của chính phủ nhằm ổn định giá cả của VND và khuyến khích hoạt động xuất
khẩu”.
2.2 Diễn biến tỷ giá
Tình hình tỷ giá trong giai đoạn này nhìn chung tương đối ổn định, mức độ dao
động nhỏ.
Tỷ giá USD bình quân các năm như sau:
Năm

1993

1994

1995

1996

Tỷ giá chính thức
Tỷ giá trên thị trng t do

10.642
10.705

10.956
10.978

11.021
11.041


11.025
11.010

Đặng Thanh Phong - Tài Chính A / K10B

21


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Ngun: V Qun Lý Ngoại hối – NHNN
Trong thời kỳ này, khoảng cách giữa tỷ giá trên TTNTLNH và trên thị trường
tự do được thu hẹp dần. Biến động về tỷ giá qua các năm ở mức độ nhỏ nên thời kỳ
1993 - 1996 còn được gọi là “thời kỳ ổn định tỷ giá”.
2.3 Tác động của chính sách tỷ giá đối với hoạt động Ngoại thương.
Trong thời kỳ này, chính sách tỷ giá và hoạt động điều hành tỷ giá của NHNN
đã có nhiều đổi mới, góp phần ổn định thị trường tiền tệ nước nhà. Sự ổn định của tỷ
giá hối đối đã tạo điều kiện cân đối lợi ích giữa xuất khẩu và nhập khẩu, phù hợp
với chiến lược phát triển kinh tế hướng vào xuất khẩu, thay thế nhập khẩu của đất
nước. Hơn nữa, việc duy trì tỷ giá tương đối ổn định trong thời gian khá dài đã góp
phần củng cố sức mua đối nội của VND, kiềm chế lạm phát, tạo niềm tin cho các nhà
đầu tư trong và ngoài nước. Mặc dù vậy, do tỷ giá được ổn định quá lâu, chậm được
điều chỉnh nên vai trị khuyến khích xuất khẩu của nó hầu như vẫn chưa có tác dụng.
Cán cân xuất nhập khẩu ln bị thâm hụt trong thời kỳ này, nhập siêu liên tục và đạt
mức cao vào năm 1995, 1996.
Theo số liệu thống kê, tỷ lệ lạm phát từ năm 1993 đến 1996 là 37%, trong khi tỷ
giá USD/ VND chỉ tăng hơn 2%. Như vậy VND đã bị đánh giá cao tương đối so với
USD. Đây là một trở ngại đối với hoạt động xuất khẩu và kích thích nhập khẩu. Tại
thị trường nội địa hàng hoá của các nhà sản xuất trong nước bị cạnh tranh gay gắt bởi
một lượng lớn hàng nhập khẩu từ bên ngồi vào nên càng khó thâm nhập và đứng

vững trên thị trường quốc tế. Thực trạng này địi hỏi chính phủ phải linh hoạt hơn
nữa trong điều hành tỷ giá để tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu, góp phần ổn
định và phát triển kinh tế đất nước.

3. Nhận định chung về chính sách điều hành tỷ giá hối đoái của Việt nam
trong giai đoạn 1993 - 1996
Giai đoạn 1993 - 1996, Việt nam đã thu được nhiều thành tựu trong việc ổn
định và phát triển kinh tế xã hội. Lạm phát cao đã bị đẩy lùi và ở mức có thể kiểm
sốt được. Tăng trưởng GNP bình quân thời kỳ 1990-1995 là 8,2%/ nm, riờng nm
1996 l 9,4%.

Đặng Thanh Phong - Tài Chính A / K10B

22


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Nhng kt qu đó đã minh chứng cho tính hợp lý của chính sách kinh tế vĩ mơ,
mà trong đó có cả chính sách tỷ giá hối đối. Mặc dù tình trạng mất cân đối trong
cán cân thương mại ngày càng tăng, nhưng điều này là do nhiều nguyên nhân và
không thể đổ lỗi cho riêng TGHĐ.
Chính phủ tiến hành phá giá VND để thúc đẩy xuất khẩu ngăn chặn xu hướng
lên giá của VND thì sẽ rơi vào tình thế “lợi bất cập hại”. Nền kinh tế của ta mới được
chuyển đổi và đạt được những thành tựu bước đầu nên mục tiêu “ổn định kinh tế vĩ
mô“ là quan trọng nhất. Trong hồn cảnh kinh tế nước ta lúc đó nếu như Chính phủ
tun bố phá giá VND thì chắc chắn những bất ổn sẽ xuất hiện.
Chính vì những đặc điểm đó mà có thể nhận định rằng chính sách tỷ giá hối
đoái trong giai đoạn 1993 - 1996 của Việt nam nhìn chung là hợp lý - thể hiện những
nỗ lực của chính phủ và NHNN trong việc cải cách và hoàn thiện cơ chế điều hành
tỷ giá. Song cũng phải thừa nhận rằng chính sách này vẫn chưa thực sự rõ ràng, việc

đánh giá VND vẫn chưa phản ánh đúng sức mua của đồng nội tệ. Điều này đòi hỏi
NHNN cần phải linh hoạt hơn nữa trong việc xác định và điều hành tỷ giá. Có như
vậy chúng ta mới có thể đi lên với những bước tiến vững chắc trên tiến trình cơng
nghiệp hóa, hiên đại hóa đất nước trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
III . CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ CỦA VIỆT NAM TỪ 1997 ĐẾN NAY

1. Tình hình kinh tế - tài chính trong nước
a. Tăng trưởng kinh tế và lạm phát
Từ năm 1997 đến năm 1999, tốc độ tăng trưởng GDP có xu hướng giảm dần,
như năm 1997: tăng 8,8%, năm 1998: tăng 3,8%; năm 1999: tăng 5,7%; Tốc độ tăng
trưởng như vậy được đánh giá là chưa đủ để giải quyết những nhu cầu phát triển của
đất nước. Hiện tượng “suy thoái” đang kéo theo nguy cơ gây bất ổn định kinh tế vĩ
mơ khi có những biến động lớn. Tuy nhiên, từ năm 2000 đến nay, tình hình kinh tế
đã có dấu hiệu tăng trưởng trở lại, năm 2000 tốc độ tăng trưởng đạt 6,7%; chín tháng
đầu năm 2001 tăng 7%, dự kiến mức tăng trưởng cả năm là 7,1%.
Trong giai đoạn này tình hình lạm phát có nhiều biến động thất thường song
vẫn thuộc phạm vi kiểm sốt của Chính phủ. Lạm phát năm 1997: 3,7%; năm 1998:
3,5%; năm 1999 chỉ số giá tiêu dùng tăng 0,1%; năm 2000 chỉ số giá tiêu dùng đã
giảm 0,6%; năm 2001 chỉ số tiêu dùng chỉ tăng ở mức 5,2% so với năm 2000.

Đặng Thanh Phong - Tài Chính A / K10B

23


Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
b. Tỡnh hỡnh tài chính và hoạt động ngân hàng.
Tình hình hoạt động tài chính và hoạt động ngân hàng được đánh giá là khá
trầm lắng và tẻ nhạt. Thâm hụt ngân sách tiếp tục tăng, năm 1997 là 3,5%; năm 1998
là 3,6%; năm 1999 là 5,5%. Trong khi đó, số các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua

lỗ ngày càng nhiều, đặc biệt là năm 1997 là 35%. Nợ nước ngoài của Việt nam hiện
đang ở mức cao, năm 1997 số dư nợ đã lên tới hơn 10 tỷ USD. Tuy trong hai năm
trở lại đây, tình hình có vẻ khả quan hơn. Tuy hệ thống ngân hàng đã có những bước
cải tổ khá mạnh mẽ kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á năm 1997,
nhưng tình trạng nợ quá hạn tại các NHTM vẫn là một điều đáng lo ngại. Khơng chỉ
có vậy, hàng xuất khẩu của Việt nam liên tục chịu sức ép về giá trên thị trường quốc
tế. Đồng VND cũng ở trong tình trạng tương tự do sự phá giá mạnh của các đồng
tiền trong khu vực.
Bối cảnh thực tế như vậy đã tác động lớn đến sự ổn định kinh tế vĩ mơ của nước
ta. Diễn biến tình hình địi hỏi chính phủ phải có những quyết sách kịp thời để hạn
chế thấp nhất ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng khu vực và nguy cơ suy thối tồn
cầu, duy trì tốc độ tăng trưởng như mục tiêu đã đề ra.

2. Cơ chế điều hành tỷ giá của Việt nam từ 1997 đến nay
2.1 Chính sách tỷ giá
Trước diễn biến phức tạp của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, Việt
nam đã kịp thời có những giải pháp về tiền tệ và tỷ giá nhằm hạn chế đến mức thấp
nhất tác động tiêu cực của nó. Chính phủ chủ trương: “ tiếp tục thực hiện chính sách
tỷ giá linh hoạt có sự điều tiết của Nhà nước nhằm góp phần củng cố sức mua của
VND, duy trì tỷ giá hối đối tương đối ổn định, phù hợp với quan hệ cung cầu ngoại
tệ trên thị trường tài chính và chính sách xuất khẩu của Nhà nước ...”.
NHNN thực hiện chức năng là người giao dịch cuối cùng để tăng cường hiệu
lực các quyết định điều tiết thị trường. Nhưng sự can thiệp này cũng chỉ ở mức độ
cần thiết phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Bên cạnh đó, cơ
chế quản lý ngoại hối cũng được điều chỉnh, cụ thể là trong năm 1998, NHNN ó
tng cng kh nng kim soỏt lung ngoi t.

Đặng Thanh Phong - Tµi ChÝnh A / K10B

24



Đề án Lý thuyết tài chính tiền tệ
Ngy 12/ 9/ 1998 chính phủ ban hành quyết định số 173/ 1998 QĐ/ TTg về
nghĩa vụ bán và quyền mua ngoại tệ của người cư trú là tổ chức. Đây được coi là giải
pháp tình thế để giảm bớt căng thẳng giữa cung và cầu ngoại tệ.
Ngày 30/ 8/ 1999 Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 18/ 1999 QĐ/ TTg
theo đó người cư trú là tổ chức phải bán ngay tối thiểu 50% số ngoại tệ thu được từ
các nguồn thu vãng lai cho các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ thay vì
80% như trước đây. Mặt khác để tăng cường hồ nhập quốc tế, Chính phủ đã ban
hành cơ chế quản lý ngoại hối mới thay cho cơ chế quản lý ngoại hối cũ, thể hiện ở
nghị định 63/ NĐ-CP (17/ 8/ 1998). để tăng cường vai trò quản lý ngoại hối của nhà
nước.
Ngày 25/2/1999 Thống đốc NHNN đã ban hành quyết định số 46 về việc “cơng
bố tỷ giá hối đối của VND với các ngoại tệ” và quyết định 65 về việc “quy định
nguyên tắc xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép kinh
doanh ngoại tệ”.
Như vậy, từ tháng 2/ 1999 Việt Nam đã áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái MARS
( Market Average Rate System - hệ thống tỷ giá bình quân thị trường). Theo hệ
thống này thì thay vì thơng báo tỷ giá chính thức (USD/ VND) với biên độ dao động
7%, NHNN thơng báo tỷ giá liên ngân hàng trung bình của ngày hôm trước và các
giao dịch ngoại hối được phép giao động trong biên độ 0,1%. Với việc ban hành hai
quyết định trên, NHNN tiếp tục hồn thiện chính sách tỷ giá hối đoái, phù hợp với
các mục tiêu chung của toàn bộ nền kinh tế. Điều này cũng cho thấy xu hướng tự do
hóa rõ rệt hơn trong điều hành tỷ giá hối đối có sự điều tiết của Nh nc.
2.2. Hot ng iu hnh t giỏ ca NHNN

Đặng Thanh Phong - Tµi ChÝnh A / K10B

25



×