Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

TIỂU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM CÁC BƯỚC ĐỘT PHÁ VỀ KINH TẾ DƯỢC THỰC HIỆN TRONG GIAI ĐOẠN 19791981 VÀ 19851986

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.1 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
--- 🙦🕮🙤 ---

TIỂU LUẬN
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
CÁC BƯỚC ĐỘT PHÁ VỀ KINH TẾ DƯỢC THỰC HIỆN TRONG GIAI
ĐOẠN 1979-1981 VÀ 1985-1986


2


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

4

I. Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh:

5

1. Bối cảnh lịch sử:

5

1.1. Bối cảnh lịch sử thế giới:

5

1.2. Bối cảnh lịch sử Việt Nam


6

II. Các quyết định đổi mới của Đảng

7

1. Đảng lãnh đạo đổi mới từng phần từ năm 1979 đến năm 1981

7

1.1. Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IV)

7

1.2. Chỉ thị 100/CT-TW (1-1981)

7

1.3. Quyết định 25/QĐ-CP và Quyết định 26/QĐ-CP

8

1.4. Nghị quyết 26/NQ-TW

8

1.5. Kết quả

9


2. Từ năm 1985 - 1986

10

2.1. Nghị quyết giải quyết vấn đề cấp bách về phân phối lưu thông (1984)

10

2.2. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Giá Lương - Tiền (1985)
11
2.3. Kết luận của HN Bộ chính trị (1986)

13

2.4. Tình hình thực hiện kế hoạch năm 1985

14

2.5. Nhiệm vụ xã hội, kinh tế năm 1986

15

III. Đánh giá và bài học kinh nghiệm

16

1. Đánh giá về các bước đột phá của Đảng giai đoạn này

16


1.1. Giai đoạn 1979-1981

16

1.1.1. Năm 1979

16

1.1.2. Năm 1981:

17

1.2. Giai đoạn 1985-1986

17

2. Ý nghĩa của các bước đột phá và bài học kinh nghiệm

18

2.1. Ý nghĩa của các bước đột phá kinh tế:

18

2.2. Bài học kinh nghiệm

19

KẾT LUẬN


21

Tài liệu tham khảo

22

3


LỜI MỞ ĐẦU
Sau khi giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước (4/1975), cả nước đi lên
chủ nghĩa xã hội. Theo mơ hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội
Đảng lần thứ IV xác định, trong giai đoạn 1976 - 1986, bên cạnh những thắng lợi to
lớn trong bảo vệ Tố quốc và nhiều thành tựu đáng kế trong xây dựng đất nước, tình
hình kinh tế, xã hội của Việt Nam cũng đã bộc lộ nhiều sai lầm, yếu kém và lầm vào
tình trạng khủng hoảng ngày càng trầm trọng hơn. Thực trạng đó của Việt Nam cùng
với những chuyến biến sâu rộng của cục diện thế giới đã đặt ra cho Đảng ta vấn đề
đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong hành trình đi tới đường lối đối mới của Đảng đã diễn ra qua nhiều trăn
trở, tìm tịi, khảo nghiệm, trong đó có 3 bước đột phá lớn. Bước đột phá mở đầu là
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6, khoá IV (8/1979) chủ trương bằng
mọi cách “làm cho sản xuất bung ra”; khơng cịn xem kế hoạch hố là hình thức duy
nhất để phát triển kinh tế; khẳng định sự cần thiết phải kết hợp kế hoạch với thị
trường. Bước đột phá thứ hai là Hội nghị Trung ương 8, khóa V (6/1985) với chủ
trương dứt khốt xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp; thực hiện cơ chế một
giá; xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển hẳn mọi hoạt động sản
xuất, kinh doanh của các ngành, địa phương và đơn vị cơ sở sang cơ chế hạch toán,
kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Bước đột phá thứ ba là Hội nghị Bộ Chính trị khố V
(8/1986 và cuối 1986) với "Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh
tế”. Kết luận trực tiếp định hướng việc soạn thảo lại một cách căn bản dự thảo Báo

cáo chính trị trình Đại hội VI của Đảng.
Những bước đột phá trên có ý nghĩa lịch sử và hiện thực vơ cùng to lớn. Nó là
tiền đề quan trọng của đường lối đổi mới toàn diện đất nước được Đảng ta khởi
xướng từ Đại hội lần thứ VI (12/1986).

4


I. Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh:
1. Bối cảnh lịch sử:
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngày 30/4/1975, cả
nước hoàn toàn độc lập, thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng bước vào thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Ở thời kỳ này, đất nước cịn vơ vàn những khó khăn. Đó là:
Hậu quả của 30 năm chiến tranh đối với cả nước và chủ nghĩa thực dân mới ở miền
Nam phải giải quyết vô cùng nặng nề; miền Nam hậu quả của chiến tranh và chính
sách thực dân kiểu mới của Mỹ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội;
miền Bắc kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội bị tàn phá nặng nề trong hai cuộc chiến
tranh phá hoại năm 1964-1968 và năm 1972; Nền kinh tế quốc dân mất cân đối một
cách gay gắt, nhất là cung-cầu lương thực, sản xuất không đủ tiêu dùng. Điều này,
địi hỏi Đảng ta phải có tư duy, tầm nhìn để lãnh đạo đất nước, cần phải có những chủ
trương, chính sách, biện pháp phù hợp với tình hình mới của đất nước để thúc đẩy
kinh tế – xã hội phát triển. Công cuộc xây dựng đất nước thời kỳ này có những thuận
lợi, khó khăn do tác động của tình hình trong nước và thế giới như sau:
1.1.

Bối cảnh lịch sử thế giới:
Thế giới trong thời gian này, đã và đang diễn ra những biến đổi to lớn, nhất là

vào những năm cuối thập kỷ 80, hết sức bất lợi cho cách mạng thế giới cũng như
cách mạng Việt Nam. Sự kiện nổi bật là các nước xã hội chủ nghĩa, do duy trì q lâu

mơ hình xã hội chủ nghĩa với cơ chế quản lý mệnh lệnh, bao cấp và những sai lầm
nghiêm trọng trong quá trình cải tổ, cải cách đã từng bước lâm vào khủng hoảng
nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn tới Việt Nam.
Mặt khác, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ thế giới phát triển mạnh,
đang tạo nên những thay đổi lớn lao trong đời sống kinh tế - xã hội thế giới, đồng
thời tạo nên những xu thế mới, thách thức các nước đang phát triển trên thế giới trong
quá trình hội nhập, thích nghi và phát triển.
Các nước tư bản phát triển, đứng đầu là Mỹ, sau chiến tranh Việt Nam cũng
có những thay đổi lớn các chính sách đối ngoại, đặc biệt là sự đẩy mạnh chiến lược
5


“diễn biến hịa bình”; đế quốc Mỹ và phản động quốc tế câu kết bao vây, cô lập cách
mạng Việt Nam.
1.2.

Bối cảnh lịch sử Việt Nam
Những thuận lợi cơ bản là cả nước hịa bình, độc lập và thống nhất; khí thế

cách mạng của một dân tộc vừa giành được thắng lợi vĩ đại, thiết tha với độc lập và
chủ nghĩa xã hội, có tinh thần tự lập, tự cường, lại cần cù, thông minh và sáng tạo;
Đảng ta được nhân dân yêu mến và tin tưởng; có lực lượng lao động dồi dào, có đất
đai và tài nguyên thiên nhiên phong phú; có điều kiện mở rộng quan hệ quốc tế và
tiếp thu những thành tựu khoa học – kỹ thuật hiện đại đang phát triển mạnh mẽ trên
thế giới; kế thừa những thành tựu đã đạt được cùng với những kinh nghiệm thành
công và không thành công của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; hệ thống
chính trị của đất nước vững mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước
từ Trung ương đến địa phương và các tổ chức quần chúng cách mạng.
Bên cạnh những thuận lợi, là những khó khăn to lớn: Việt Nam đi lên chủ
nghĩa xã hội từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, nền kinh tế của cả hai miền

Nam, Bắc đều chủ yếu là sản xuất nhỏ, kỹ thuật lạc hậu, năng suất lao động thấp;
phải khắc phục hậu quả ba mươi năm chiến tranh khốc liệt; trình độ phát triển kinh tế
- xã hội không đồng đều ở cả hai miền, tàn dư thực dân và phong kiến còn nhiều ở
miền Nam; phải nhanh chóng thống nhất kinh tế hai miền trong một cơ cấu quản lý
thống nhất, phải điều hành nền kinh tế trong điều kiện từ chỗ được viện trợ khơng
hồn lại với giá trị bằng một nửa giá trị tổng sản phẩm xã hội hàng năm, sang nền
kinh tế tự lực, chủ yếu dựa vào sức mình, kết hợp với nguồn viện trợ giảm đi rõ rệt và
dưới hình thức chủ yếu là tiền vay và trao đổi hàng hóa. Cách mạng nước ta phải
đương đầu với sự chống phá thường xuyên của những thế lực phản động trong nước
và quốc tế. Đế quốc Mỹ cùng các đồng minh thực hiện bao vây, cấm vận, ra sức cản
trở công cuộc xây dựng hồ bình của nhân dân Việt Nam. Chúng ta lại phải đương
đầu với hai cuộc chiến tranh quy mô lớn liên tiếp ở biên giới Tây Nam và phía Bắc
(1975-1979), đấu tranh chống cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các lực lượng
thù địch, để bảo vệ vững chắc lãnh thổ của Tổ quốc, đồng thời làm nhiệm vụ quốc tế
- giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng do Khơme Đỏ gây nên…
6


II. Các quyết định đổi mới của Đảng
1. Đảng lãnh đạo đổi mới từng phần từ năm 1979 đến năm 1981
1.1.

Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IV)
Đứng trước khó khăn, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định triệu

tập Hội nghị lần thứ sáu, khóa IV (8-1979) nhằm tập trung bàn về phương hướng
phát triển hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương để khắc phục tình trạng khan
hiếm hàng tiêu dùng thiết yếu và thúc đẩy công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp phát
triển.
Trước tiên, Nghị quyết về tình hình, nhiệm vụ cấp bách gồm 2 nội dung

chính:
Thứ nhất: Nghị quyết tập trung đánh giá về tình hình hiện tại của đất nước,
đánh giá đúng thực tế đất nước là cở sở Đảng đề ra chiến lược, biện pháp phù hợp với
cuộc sống.
Thứ hai: Xuất phát từ thực tế đất nước, Nghị quyết đề ra 3 nhiệm vụ cấp bách:
- Đẩy mạnh sản xuất, ổn định và đảm bảo đời sống nhân dân
- Tăng cường quốc phòng, an ninh, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc
- Kiên trì khắc phục những mặt tiêu cực trong hoạt động kinh tế - xã hội
Tiếp theo, nội dung của Nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ phát triển
công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương trong tình hình mới. Nhiệm
vụ cơ bản của công nghiệp địa phương là phục vụ đời sống nhân dân địa phương, góp
phần phục vụ nhu cầu của cả nước và xuất khẩu. Sự phát triển của công nghiệp địa
phương chủ yếu phải dựa trên cơ sở phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp
và sự phân công lao động ở địa phương.
Hội nghị Trung ương 6 (8-1979) được coi là bước đột phá đầu tiên đổi mới
kinh tế của Đảng với chủ trương khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý
kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, phá bỏ những rào cản để cho “sản xuất bung
ra”.

7


1.2.

Chỉ thị 100/CT-TW (1-1981)
Trước hiện tượng “khoán chui” trong hợp tác xã nông nghiệp ở một số địa

phương, sau khi tổ chức thí điểm, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 100 - CT/TW (11981) về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã nơng
nghiệp. Hình thức khốn mới này đã phát huy được tác dụng tích cực, đúng mục đích
của “Khốn 100”, bước đầu mang tới diện mạo mới cho sản xuất nông nghiệp nước

nhà.
Theo Chỉ thị, mỗi xã viên nhận mức khốn theo diện tích và tự mình làm các
khâu chăm sóc và thu hoạch, cịn những khâu khác do hợp tác xã đảm nhiệm. Chủ
trương đó được nơng dân cả nước ủng hộ, nhanh chóng thành phong trào quần chúng
sâu rộng. Sản lượng lương thực bình quân từ 13,4 triệu tấn/năm thời kỳ 1976-1980
tăng lên 17 triệu tấn/năm thời kỳ 1981-1985; những hiện tượng tiêu cực, lãng phí
trong sản xuất nông nghiệp giảm đi đáng kể. Nhận thấy việc thực hiện “khốn mới”
đã kích thích người nơng dân hăng hái sản xuất, chủ động trong cơng việc, tích cực
chăm sóc, thâm canh nên năng suất và sản lượng cây trồng đều tăng; tận dụng được
thời gian, nguồn lao động và đất đai; việc đóng thuế, bán sản phẩm cho Nhà nước ở
nhiều cơ sở làm nhanh gọn hơn trước.
1.3.

Quyết định 25/QĐ-CP và Quyết định 26/QĐ-CP
Trong lĩnh vực công nghiệp, Chính phủ ban hành Quyết định số 25-CP (1-

1981) về quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí
nghiệp quốc doanh và Quyết định số 26-CP về việc mở rộng hình thức trả lương
khốn, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất
kinh doanh của Nhà nước. Các nghị quyết Trung ương 6, Chỉ thị 100 của Ban Bí thư
và các quyết định 25/CP và 26/CP của Hội đồng Chính phủ cho thấy những ý tưởng
ban đầu của đổi mới, tuy còn sơ khai, chưa cơ bản và tồn diện, nhưng đó là bước mở
đầu có ý nghĩa, đặt những cơ sở đầu tiên cho quá trình đổi mới sau này.
Chỉ thị 100 -CT/TW và các quyết định 25 CP, 26 CP (1981), đã giải phóng
sức sản xuất, tạo ra hình thái song song tồn tại giữa kinh tế cơng hữu kế hoạch hóa
với phi công hữu và thị trường tự do. Đây là nét đặc thù từ sau HNTW6. “Cộng sinh”
8


và “xung đột” giữa hai loại cơ chế kinh tế, hai loại thị trường là đặc trưng cơ bản của

thời kỳ manh nha cho sự ra đời của thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam.
1.4.

Nghị quyết 26/NQ-TW
Ngày 5/8/2008, Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) đã ban hành Nghị quyết

26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thơn. Nghị quyết đã đề ra chiến lược
tổng thể, tồn diện về nông nghiệp, nông dân, nông thôn với các quan điểm và chủ
trương đúng đắn, hợp lòng dân, được nhân dân đồng tình và hưởng ứng tích cực.
Trên cơ sở Nghị quyết, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành,
địa phương tích cực triển khai thực hiện nhiều cơ chế, chính sách, chương trình, đề án
để thúc đẩy nông nghiệp phát triển, nâng cao thu nhập và đời sống cho người nông
dân, xây dựng nông thôn mới.
1.5.

Kết quả
Nông nghiệp tiếp tục phát triển cả về quy mơ và trình độ sản xuất, chuyển

mạnh theo hướng sản xuất hàng hóa năng suất và chất lượng ngày càng cao; hệ thống
tổ chức sản xuất kinh doanh ngày càng được hồn thiện; tỉ lệ nơng sản qua chế biến
tăng dần, thị trường tiêu thụ được mở rộng, xuất khẩu tăng nhanh cả về sản lượng, giá
trị và tỉ trọng sản phẩm chất lượng cao; khẳng định vị thế quan trọng, là trụ đỡ của
nền kinh tế, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, tăng tỷ trọng kinh tế công nghiệp và dịch
vụ.
+ Công nghiệp và dịch vụ ở nơng thơn phát triển nhanh, góp phần tạo việc
làm, nâng cao thu nhập của người dân nông thôn. Số hộ nông thôn hoạt động công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ
năm 2020 chiếm 45% (tăng 10,59% so với năm 2011).

+ Cơ giới hóa trong nơng nghiệp ngày càng được áp dụng rộng rãi, số lượng,
chủng loại máy,
thiết bị tăng nhanh. Công nghiệp chế biến nông sản ngày càng phát triển.

9


+ Kinh tế hộ gia đình ở nơng thơn tiếp tục phát triển, có xu hướng chuyển
dịch sang sản xuất
cơng nghiệp, dịch vụ. Năm 2020, số hộ làm nông nghiệp chiếm 51,6% tổng
số hộ nông thôn (năm 2011 chiếm 62,2% ).
+ Trong hơn 10 năm thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng
nông thôn mới, đã huy động được nguồn lực lớn đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn
với tổng vốn đầu tư giai đoạn 2008 - 2020 là 1.567 nghìn tỷ đồng; trong 5 năm 2016 2020 khoảng 942 nghìn tỷ đồng, tăng gấp 1,9 lần so với 5 năm 2011 - 2015.
+ Trình độ, học vấn của nông dân nước ta từng bước được nâng cao. Tư duy
sản xuất kinh doanh nông nghiệp luôn đổi mới, dần thích ứng với kinh tế thị trường
định hướng XHCN.
Niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta ngày càng được
củng cố. Năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước được nâng cao, phát huy
sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở nông
thôn. Công tác xây dựng Đảng ở nông thơn có nhiều đổi mới; tổ chức đảng, chính
quyền, đồn thể ở nông thôn ngày càng được củng cố và tăng cường.
2. Từ năm 1985 - 1986
2.1.

Nghị quyết giải quyết vấn đề cấp bách về phân phối lưu thông (1984)
Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương (khố IV), Nghị

quyết Đại hội tồn quốc lần thứ V, và tiếp theo là nghị quyết của các Hội nghị lần thứ
3, 4, 5 Ban Chấp hành Trung ương đã đề ra nhiệm vụ cải tiến công tác quản lý theo

hướng mở rộng quyền chủ động, sáng tạo cho cơ sở và địa phương, dưới sự quản lý
tập trung thống nhất của Trung ương về những mặt cơ bản, khuyến khích mạnh mẽ
người lao động hăng hái sản xuất.
Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách quan trọng
nhằm cải tiến một số mặt trong quản lý kinh tế có tác động tích cực đến sản xuất,
kinh doanh. Tuy nhiên, những tiến bộ ấy chưa đồng đều, chưa mạnh mẽ, còn nhiều
khuyết điểm và nhược điểm, trong đó có những mặt kéo dài và nghiêm trọng, khơng
được cải tiến kịp thời phù hợp với tình hình mới.
10


Để thực hiện 4 mục tiêu KT-XH của những năm 80 do Đại hội V của Đảng đề
ra, phương hướng và yêu cầu chủ yếu của việc cải tiến quản lý kinh tế trong thời gian
tới là:
+ Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, thực hiện ba cấp
cùng làm chủ, động viên sức mạnh tổng hợp của cả nước nhằm khai thác tốt nhất các
tiềm năng, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh với năng suất, chất lượng, hiệu quả ngày
càng cao.
+ Củng cố và phát triển thành phần kinh tế XHCN, bảo đảm vai trò chủ đạo
của kinh tế quốc doanh; đẩy mạnh cải tạo kết hợp với xây dựng, kiên quyết chống các
hiện tượng tiêu cực, chống sự phá hoại của địch, phát triển sản xuất gắn liền với bảo
vệ sản xuất, giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh quyết liệt giữa hai con đường xã hội
chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, giữa ta và địch; thiết lập trật tự xã hội chủ nghĩa trong
kinh tế và xã hội theo đường lối của Đảng.
+ Tiếp tục cải tiến công tác phân phối, lưu thơng một cách tích cực và vững
chắc, thiết lập trật tự xã hội chủ nghĩa trong phân phối lưu thông. Trên cơ sở phát
triển sản xuất là gốc và đẩy mạnh cải tạo XHCN, tích cực củng cố và mở rộng thương
nghiệp XHCN; tăng cường quản lý thị trường; xóa bỏ tư sản thương nghiệp, loại trừ
chợ đen; xoá bỏ thị trường tự do về những mặt hàng do Nhà nước độc quyền kinh
doanh.

+ Chấn chỉnh bộ máy quản lý, nâng cao năng lực, phục vụ đắc lực cho cơ sở.
- Đảng và Nhà nước ta xác định trước mắt phải tạo ra một chuyển biến mạnh
mẽ trong quản lý kinh tế, tập trung giải quyết hai loại vấn đề sau đây. Một là, phát
huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tính chủ động, sáng tạo
và mọi khả năng của các cơ sở, tổ chức lại sản xuất, từng bước xây dựng cơ chế quản
lý mới, phân công, phân cấp quản lý đúng đắn. Hai là, giải quyết một số vấn đề cấp
bách về phân phối lưu thông, đặc biệt là các lĩnh vực thị trường-giá-lương-tiền, nhằm
phục vụ tốt cơ sở, đồng thời giải quyết đúng đắn các mối quan hệ phân phối trong
nền kinh tế quốc dân.

11


2.2.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng về

Giá -Lương - Tiền (1985)
Từ sau Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa IV
(tháng 9-1979), Đảng và Nhà nước đã đề ra một số chủ trương, chính sách về sản
xuất và phân phối lưu thông; một số ngành, địa phương và cơ sở đã mạnh dạn áp
dụng những cách làm mới nhằm tháo gỡ vướng mắc, giải quyết một số vấn đề cấp
bách về giá và lương. Tuy nhiên, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước còn
mặt hạn chế rất cơ bản. Để khắc phục và thực hiện các mục tiêu KT-XH do Đại hội
toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra, việc giải quyết các vấn đề giá - lương - tiền phải
nhằm đạt các mục tiêu chủ yếu sau đây:
+ Thúc đẩy sản xuất phát triển theo cơ cấu hợp lý (ngành, vùng, thành phần),
khai thác mọi tiềm năng lao động, đất đai, ngành nghề, cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện
có, nhằm phát triển mạnh sản xuất với năng suất, chất lượng, hiệu quả cao hơn.
+ Ổn định đời sống nhân dân lao động, trước hết là đời sống công nhân, viên

chức và lực lượng vũ trang. Nhà nước làm chủ sản xuất và phân phối lưu thông, làm
chủ thị trường và giá cả; từng bước cân bằng ngân sách và tiền mặt.
+ Góp phần tạo dần nguồn tích lũy từ nội bộ nền kinh tế quốc dân để cơng
nghiệp hố xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Thúc đẩy cải tạo xã hội chủ nghĩa, tăng cường kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể,
phát triển kinh tế gia đình.
+ Góp phần tăng cường quốc phòng và an ninh, kiên quyết chống địch phá
hoại; đấu tranh có hiệu quả chống các hiện tượng tiêu cực.
- Để đạt những mục tiêu đó, tại Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung
ương, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những chủ trương và biện pháp lớn như sau:
+ Về giá cả: Điều chỉnh mặt bằng giá cả và cơ chế quản lý giá dựa trên các
nguyên tắc:
Xác định giá phù hợp với giá trị và với sức mua thực tế của đồng tiền.
Thực hiện hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, chủ động vận
dụng quy luật giá trị và quan hệ cung - cầu.
12


Trong điều kiện nước ta đi từ một nền kinh tế mà tiểu sản xuất hàng hố cịn
phổ biến tiến lên sản xuất lớn XHCN, theo chủ trương của Đảng coi nông nghiệp là
mặt trận hàng đầu, phải lấy giá thóc làm chuẩn để tính tốn các loại giá khác và tồn
bộ mặt bằng giá.
Quản lý giá cả phải có phân công, phân cấp hợp lý theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, phù hợp với thực tế.
+ Về lương: Chính sách tiền lương phải quán triệt nguyên tắc phân phối theo
lao động, xoá bỏ bao cấp, từng bước khắc phục tính chất bình qn, chênh lệch bất
hợp lý; phải nhằm ổn định và từng bước cải thiện đời sống của công nhân, viên chức
và các lực lượng vũ trang; phải khôi phục lại trật tự về tiền lương, tiền thưởng trong
phạm vi cả nước.
+ Về tiền tệ:

Thực hiện chế độ tự chủ tài chính của xí nghiệp, làm cho giá, lương, tài chính,
tín dụng... phát huy đầy đủ chức năng địn bẩy kinh tế, kích thích và địi hỏi các đơn
vị kinh tế phát triển sản xuất, mở rộng kinh doanh xã hội chủ nghĩa, cải tiến kỹ
thuật…
Thực hiện chế độ phân cấp ngân sách trên cơ sở 3 cấp cùng làm chủ, bảo đảm
sự nhất trí giữa 3 lợi ích (xã hội, tập thể, cá nhân người lao động); tạo điều kiện cho
địa phương chủ động hơn nữa trong việc khai thác các tiềm năng để phát triển.
Áp dụng các biện pháp có hiệu lực để cải tiến lưu thông tiền tệ, thu hút tiền
nhàn rỗi, đẩy nhanh nhịp độ quay vịng đồng tiền. Tăng cường sự kiểm sốt bằng
đồng tiền và kỷ luật về tài chính và tiền mặt.
Nghị quyết HNTW lần này về giá - lương - tiền là kết quả rút ra từ thực tiễn
và kinh nghiệm của Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua, thể hiện sự chuyển
hướng mạnh mẽ, sâu sắc trong chủ trương, chính sách của Đảng ta khơng những về
giá cả, tiền lương mà cả về thương nghiệp, tài chính, tiền tệ, về cơ chế kế hoạch hoá
và quản lý kinh tế, nhằm triệt để xoá bỏ quan liêu, bao cấp, chuyển hẳn sang hạch
toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế
nước ta phát triển lên một bước mới.
13


Việc đổi mới chính sách giá, lương và cơ chế quản lý kinh tế là sự thay đổi
lớn có ý nghĩa cách mạng. Ban Chấp hành TW tin tưởng rằng Nghị quyết này sẽ tạo
ra sự nhất trí cao trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân và phát huy mạnh mẽ quyền
làm chủ tập thể của nhân dân cả nước.
2.3.

Kết luận của HN Bộ chính trị (1986)
Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp vào trung tuần

tháng 12 năm 1985, sau khi thảo luận báo cáo về tình hình thực hiện kế hoạch Nhà

nước năm 1985 và phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch Nhà nước năm 1986, đã quyết
định những vấn đề chủ yếu sau đây:
2.4.

Tình hình thực hiện kế hoạch năm 1985
Năm 1985 đánh dấu bước tiến bộ trong lãnh đạo và chỉ đạo kinh tế của Đảng-

Nhà nước ta với việc triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị 6, 7, 8 của Ban Chấp
hành TW Đảng.
Mặc dù bão lụt và hạn hán xảy ra liên tiếp ở nhiều tỉnh, sản lượng lương thực
cả nước năm 1985 vẫn tăng 40 vạn tấn so với năm 1984; giá trị sản lượng công
nghiệp tăng 7,4%, công nghiệp quốc doanh Trung ương tăng 8,5%. Ngành GTVT cố
gắng bảo đảm vận chuyển các mặt hàng quan trọng. Một số cơng trình xây dựng cơ
bản bảo đảm được tiến độ thi công và đưa vào sử dụng đúng thời hạn. Kim ngạch
xuất khẩu tăng 7,6% so với năm 1984.
Công tác KH-KT, giáo dục, y tế, xã hội, các hoạt động VH-NT, TD-TT, thơng
tin đều có cố gắng và tiến bộ. Đáng chú ý là trong cả nước đã có nhiều xí nghiệp,
nhiều huyện quán triệt tốt các Nghị quyết 6, 7, 8 của Ban Chấp hành Trung ương, đổi
mới cách lãnh đạo và quản lý, chỉ đạo sản xuất, kinh doanh có hiệu quả hơn, thể hiện
rõ xu hướng tiến lên. Việc kết hợp kinh tế với quốc phòng trên các địa bàn, trước hết
ở các tỉnh biên giới phía bắc, có những tiến bộ mới.
Tuy nhiên, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp đều chưa ổn định, năng suất,
chất lượng và hiệu quả rất thấp, một số sản phẩm quan trọng khơng tăng, thậm chí có
loại cịn giảm. Kim ngạch xuất khẩu tăng chậm, chất lượng hàng xuất khẩu không
đáp ứng các hợp đồng đã cam kết và không theo kịp yêu cầu của thị trường thế giới.
14


Nhìn chung, nền kinh tế cho đến quý III đã có đà phát triển tốt, song từ quý IV 1985, do có những khuyết điểm trong việc thực hiện Nghị quyết 8 và Nghị quyết 28
về giá - lương - tiền, nên giá cả, thị trường có nhiều diễn biến phức tạp, ảnh hưởng

không tốt đến nhiều mặt hoạt động kinh tế, xã hội.
Có thể nói, đến hết kế hoạch 5 năm 1981-1985, bên cạnh những tiến bộ mới,
những nhân tố mới cần được khẳng định và ra sức phát huy, nền kinh tế nước ta vẫn
đứng trước những khó khăn gay gắt, các cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân như
lương thực, năng lượng, ngoại tệ, vật tư, tài chính cịn rất căng thẳng. Tổ chức sản
xuất và quản lý sản xuất chưa thốt khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, phân tán. Quan hệ
sản xuất mới còn ở trình độ thấp; kinh tế XHCN chưa được củng cố vững chắc. Chất
lượng các hoạt động văn hóa, giáo dục chậm chuyển biến. Kỷ luật của Đảng, Nhà
nước và pháp chế xã hội chủ nghĩa không được chấp hành nghiêm chỉnh. Cơng tác
chỉ đạo, điều hành có nhiều khuyết điểm .
2.5.

Nhiệm vụ xã hội, kinh tế năm 1986
Năm 1986 là năm mở đầu kế hoạch 5 năm 1986-1990, kế hoạch có ý nghĩa rất

quan trọng trong việc thực hiện những nhiệm vụ và mục tiêu KT-XH trong chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ mà Đại hội V đã đề ra. Đó là năm mà quyền làm
chủ tập thể của nhân dân lao động được phát huy, phong trào cách mạng của quần
chúng sôi nổi trong cả nước, công tác lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước
được cải tiến rõ rệt để tạo ra chuyển biến mạnh mẽ trong việc thực hiện những mục
tiêu đã đề ra.
Phương hướng và nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch năm 1986 là:
+ Tiếp tục coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, trước hết là tăng nhanh
lương thực, thực phẩm, phát triển mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu và
các ngành công nghiệp nặng then chốt phục vụ nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu
dùng và GTVT. Đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu và kinh tế đối ngoại.
+ Đẩy mạnh phân cơng, bố trí lại lao động, sắp xếp và tổ chức lại sản xuất
trên địa bàn cả nước, nhất là trên địa bàn huyện, thành phố, khu công nghiệp lớn và
cơ sở; sử dụng tốt lao động, đất đai và cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có để phát triển
mạnh sản xuất và kinh doanh.


15


+ Giải quyết tốt các vấn đề về phân phối, lưu thông; Nhà nước làm chủ thị
trường, từng bước ổn định tình hình giá cả, tài chính, tiền tệ và đời sống nhân dân .
+ Tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa trong cả nước, với những hình thức và bước đi thích hợp. Nâng cao trình độ và
chất lượng hợp tác hóa nơng nghiệp ở Nam Bộ và đẩy mạnh cải trạo công thương
nghiệp tư doanh, cải tạo và tổ chức lại tiểu thương, tăng cường khu vực kinh tế
XHCN và thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh mẽ.
+ Hình thành cơ chế quản lý mới, đặc biệt là bảo đảm quyền chủ động của cơ
sở trong sản xuất, kinh doanh; nâng cao quyền hạn và trách nhiệm của các huyện
trong việc tổ chức và quản lý kinh tế.
+ Chấn chỉnh tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước; phân biệt chức năng quản lý
hành chính với chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh; giảm nhẹ biên chế, sắp xếp
lại hệ thống tổ chức sản xuất, kinh doanh, bố trí lại cán bộ đáp ứng yêu cầu xây dựng
cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý.
+ Củng cố và tăng cường QP-AN, bảo đảm các yêu cầu chiến đấu và sẵn sàng
chiến đấu, đánh bại các hoạt động lấn chiếm ở biên giới và chiến tranh phá hoại nhiều
mặt của địch. + Kế hoạch năm 1986 phải tập trung giải quyết những nhiệm vụ quan
trọng nhất, những nhu cầu bức thiết nhất về nông nghiệp, công nghiệp, GTVT-bưu
điện, xuất nhập khẩu và kinh tế đối ngoại; KH-KT, QP-AN; từng bước ổn định tình
hình kinh tế, xã hội, ổn định đời sống, tạo nguồn tích lũy, chuẩn bị điều kiện thuận lợi
cho những bước phát triển mạnh hơn trong những năm sau.
III.

Đánh giá và bài học kinh nghiệm

1. Đánh giá về các bước đột phá của Đảng giai đoạn này

1.1.

Giai đoạn 1979-1981

1.1.1.

Năm 1979

Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (tháng 8-1979) với chủ trương và quyết tâm
làm cho sản xuất "bung ra" là bước đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới ở nước ta.
- Hội nghị đã tập trung vào những biện pháp nhằm khắc phục những yếu kém
trong quản lý kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa;
16


- Điều chỉnh những chủ trương, chính sách kinh tế, phá bỏ rào cản, mở đường
cho sản xuất phát triển:
- Ổn định nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần dôi ra được bán cho Nhà
nước hoặc lưu thông tự do; khuyến khích mọi người tận dụng ao hồ, ruộng đất hoang
hố;
- Đẩy mạnh chăn ni gia súc dưới mọi hình thức (quốc doanh, tập thể, gia
đình);
- Sửa lại thuế lương thực, giá lương thực để khuyến khích sản xuất;
- Sửa lại chế độ phân phối trong nội bộ hợp tác xã nông nghiệp, bỏ lối phân
phối theo định suất, định lượng để khuyến khích tính tích cực của người lao động,...
1.1.2.

Năm 1981:

Ngày 13-1-1981 của Ban Bí thư về cải tiến cơng tác khốn, mở rộng khốn

sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp đã ra đời, làm
cho người lao động thực sự gắn bó với sản phẩm cuối cùng, do đó mà đem hết nhiệt
tình lao động và khả năng ra sản xuất, đã bước đầu tạo ra một động lực mới trong sản
xuất nơng nghiệp
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa IV, trong Chỉ thị 100-CT/TW của
Ban Bí thư và trong các Quyết định của Chính phủ thời kỳ này như sau:
Đó là những tư duy kinh tế ban đầu, tuy cịn sơ khai, chưa cơ bản và tồn
diện, nhưng là bước mở đầu có ý nghĩa quan trọng.
Tư duy kinh tế nổi bật trong những tìm tịi đó là “cởi trói”, "giải phóng lực
lượng sản xuất" , “làm cho sản xuất bung ra”, trên cơ sở khắc phục những khuyết
điểm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, tạo ra động lực cho sản
xuất : chú ý kết hợp ba lợi ích, quan tâm hơn lợi ích thiết thân của người lao động.
Những tư duy kinh tế ban đầu đó đã đặt những cơ sở đầu tiên cho quá trình đổi mới
sau này.
Tuy nhiên, do những khó khăn bởi chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam
gây ra, do thiếu đồng bộ của tư tưởng đổi mới và chưa có đủ thời gian để những chủ
trương đổi mới phát huy tác dụng, những tìm tịi đổi mới ban đầu đó đã phải trải qua
các thử thách rất phức tạp.

17


1.2.

Giai đoạn 1985-1986
Hội nghị Trung ương 8 khoá V (tháng 6-1985) đánh dấu bước đột phá thứ hai

về đổi mới tư duy kinh tế với chủ trương dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan
liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một giá; xoá bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá
thấp; chuyển mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh doanh

xã hội chủ nghĩa; chuyển ngân hàng sang nguyên tắc kinh doanh. Điểm quan trọng là
Hội nghị này đã thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng
hố.
Tháng 8-1986, trong q trình chuẩn bị Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại
hội VI, Bộ Chính trị đã xem xét kỹ các vấn đề lớn, mang tính bao trùm trên lĩnh vực
kinh tế, từ đó, đưa ra Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế: a)
Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng
đầu; ra sức phát triển công nghiệp nhẹ; cơng nghiệp nặng được phát triển có chọn lọc;
b) Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một
đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; c) Trong cơ chế quản lý
kinh tế, lấy kế hoạch làm trung tâm, nhưng đồng thời phải sử dụng đúng quan hệ
hàng hoá - tiền tệ, dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp; chính sách
giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá. Đây là bước đột
phá thứ ba về đổi mới tư duy kinh tế, có ý nghĩa lớn trong đổi mới tư duy lý luận về
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
2. Ý nghĩa của các bước đột phá và bài học kinh nghiệm
2.1.

Ý nghĩa của các bước đột phá kinh tế:
- HNTW6 là bước đột phá kinh tế đầu tiên của Đảng, Đảng ta đã thẳng thắn

khắc phục được những sai lầm, chủ quan trong quản lý kinh tế, để cho sản xuất bung
ra. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 đã nhanh chóng được nhân dân cả nước đón
nhận và nhanh chóng biến thành cơng tác cụ thể, nhanh chóng. Chỉ một thời gian
ngắn, nước ta đã xuất hiện rất nhiều điển hình về cách làm ăn mới. Chỉ thị
100-CT/TW, của Ban bí thư đã làm cho người lao động thực sự gắn bó với sản phẩm
cuối cùng, nhiệt tình tham gia lao động sản xuất, tạo động lực mới trong sản xuất
18



nông nghiệp. Tuy là những tư duy kinh tế ban đầu, cịn sơ khai, chưa tồn diện nhưng
đó là những bước cởi trói làm cơ sở cho q trình đổi mới sau này.
- HNTW8 khoá V là bước đột phá thứ hai về đổi mới tư duy kinh tế đã thừa
nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng hố.
- Tháng 8-1986, trong q trình chuẩn bị Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội
VI, Bộ Chính trị đã xem xét ký các vấn đề lớn, mang tính tổng quát và bao trùm lên
lĩnh vực kinh tế, từ đó đưa ra kết luận đối với một số vấn đề thuộc quan điểm kinh tế.
Đây là bước đột phá thứ ba về đổi mới tư duy kinh tế, có ý nghĩa lớn trong đổi mới tư
duy lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
=> Những tư duy đổi mới về kinh tế đó tuy mới mang tính chất từng mặt,
từng bộ phận, chưa cơ bản và tồn diện, bên cạnh đó cũng có những sai lầm, khuyết
điểm khiến kinh tế đất nước rơi vào khủng hoảng kéo dài. Tuy nhiên, những bước đột
phá về kinh tế là những nhận thức về sự cần thiết trong giải phóng mạnh mẽ lực
lượng sản xuất, tạo ra động lực thiết thực cho người lao động, đó là quan tâm đến lợi
ích kinh tế, lợi ích vật chất thiết thân của người lao động,... nhưng lại là những bước
chuẩn bị quan trọng, tạo cơ sở thiết yếu cho bước phát triển nhảy vọt ở Đại hội VI.
2.2.

Bài học kinh nghiệm
Ngoài ý nghĩa to lớn, các bước đột phá về kinh tế đã để lại những bài học

kinh nghiệm vô cùng quý giá.
Trước hết, chúng đã chỉ ra sự cần thiết rằng những chính sách, hành động của
Đảng phải ln xuất phát từ thực tế, tránh hành động chủ quan, nóng vội, cần tơn
trọng quy luật khách quan. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy nghĩa Mác - Lênin làm nền
tảng tư tưởng, lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử làm
phương pháp hoạt động. Tuy nhiên, khơng phải khơng có lúc Đảng rơi vào bệnh chủ
quan duy ý chí, vì lẽ đó dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội trong thập kỷ 80 thế kỷ
XX. Từ sự khủng hoảng đó, một trong những bài học kinh nghiệm quan trọng được
rút ra trong suốt thời kỳ đổi mới là Đảng phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn

trọng và hành động theo các quy luật khách quan Việc Đảng ta lãnh đạo chuyển từ
thể chế kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường định hướng XHCN, chuyển từ chế độ

19


đơn sở hữu sang đa sở hữu, chuyển từ hệ thống chun chính vơ sản sang hệ thống
chính trị XHCN, thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế... chính là
tơn trọng và hành động theo các quy luật khách quan. Và nhờ vậy, đất nước đã có
những sự thay đổi vượt bậc trên nhiều mặt. Bài học này khơng chỉ có tác dụng hiện
nay, mà cịn có tác dụng chỉ đạo trong suốt q trình cách mạng. Bởi thực tiễn ln
vận động, điều đó địi hỏi nhận thức của con người, đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước phải thay đổi để đáp ứng yêu cầu của thực tế.
Bài học tiếp theo là phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại
trong điều kiện mới. Trong mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại,
Hồ Chí Minh nhấn mạnh sức mạnh dân tộc là nguồn lực nội sinh giữ vai trò quyết
định, còn sức mạnh thời đại là nguồn lực bên ngồi, nó sẽ làm cho sức mạnh dân tộc
được tăng lên và nó cũng chỉ phát huy tác dụng thơng qua nhân tố bên trong, đó là
sức mạnh dân tộc. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Việt Nam đã phát huy tối đa
sức mạnh quốc tế, sức mạnh thời đại; kết hợp chúng một cách vô cùng hiệu quả với
sức mạnh dân tộc. Bởi vậy, đã làm thay đổi tương quan lực lượng ngày càng có lợi
trong chiến đấu và chiến thắng thực dân, đế quốc, các thế lực phản động, làm nên một
trong những bản hùng ca đẹp nhất của loài người tiến bộ trong thế kỷ XX. Trong 30
năm đổi mới, một lần nữa phong cách Việt Nam kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại lại để lại dấu ấn đặc sắc qua các kết quả, thành tựu to lớn, bước ngoặt.
Hơn nữa cơng cuộc đổi mới cịn nêu lại bài học “Lấy dân làm gốc”, xây dựng
và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Đây là bài học xuyên suốt trong thời
kỳ đổi mới, là sự tiếp nối truyền thống của lịch sử dân tộc ta. Tuy nhiên, từ thực tiễn
công cuộc đổi mới, Đảng ta ngày càng nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về nội dung, ý
nghĩa của bài học này. Sự nghiệp đổi mới bắt đầu từ những sáng kiến của quần chúng

nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với mong muốn, lợi ích của nhân dân,
được nhân dân đồng tình ủng hộ: “Đường lối ấy hình thành trên cơ sở phát huy tinh
thần độc lập, tự chủ, tổng kết những kinh nghiệm sáng tạo của nhân dân, của các cấp,
các ngành, hợp quy luật, thuận lịng người, nên nhanh chóng đi vào cuộc sống”. Tuy
nhiên, điểm mới ở đây là khẳng định “nhân dân là trung tâm”, “lấy hạnh phúc, ấm no
của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu” của Đảng và cả hệ thống chính trị. Kinh
20



×