Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

TIỂU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.81 MB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG

TIỂU LUẬN HỌC PHẦN

LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
Họ và tên: Nguyễn Đặng Thanh Trúc
Mã sinh viên: 2057810021
Lớp: K1 - Du lịch
Khoa: Văn hóa nghệ thuật

Hà Nội, tháng 11, năm 2021


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG

TIỂU LUẬN HỌC PHẦN

LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
Tên đề tài: Phân tích quan điểm chỉ đạo, chủ trương
xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc của Việt Nam hiện nay

Họ và tên: Nguyễn Đặng Thanh Trúc
Mã sinh viên: 2057810021
Lớp tín chỉ số: 01
Thời gian học: Buổi sáng, thứ 3
GVHD: Mai Thanh Hồng

Hà Nội, tháng 11, năm 2021




MỤC LỤC

Tên mục

Trang

A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG

01
02

Chương 1: Cơ sở lý luận về quan điểm chỉ đạo và chủ
trương về xây
dựng, phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc
02
1.1. Khái quát nền văn hóa Việt Nam
02
1.1.1. Khái niệm về văn hóa
02
1.1.2. Qúa trình hình thành và phát triển của văn hóa Việt
Nam
02
1.2. Quan điểm chỉ đạo và chủ trương về xây dựng, phát triển nền
văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
04

1.2.1. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, là
động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
04
1.2.2. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc 07
1.2.3. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng
trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
08
1.2.4. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp chung của tồn dân
do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trị quan trọng
09
1.2.5. Văn hóa là mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là một
sự nghiệp cách mạng lâu dài, địi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì,
thận trọng
09
Chương 2: Việc thực hiện quan điểm chỉ đạo và chủ trương
về xây dựng,
phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở
Việt Nam
hiện nay
10
2.1. Đánh giá việc thực hiện
10


2.1.1. Thực trạng
10
2.1.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.1.3. Giải pháp


12
14

2.2. Những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta trong cuộc chiến chống
đại dịch Covid-19
15
2.2.1. Lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết toàn dân tộc tạo lên sức mạnh
tinh thần to lớn chiến thắng đại dịch
15
2.2.2. Đồng cam cộng khổ vượt qua mọi khó khăn, gian khổ
17
2.2.3. Nhân ái bao dung, nhường cơm sẻ áo
19
C. KẾT LUẬN

21

TÀI LIỆU THAM KHẢO

22


A. MỞ ĐẦU
Cùng với phát triển kinh tế, chính trị, pháp luật thì văn hóa
cũng là một trong những vấn đề quan trọng và khơng thể thiếu
trong q trình phát triển đất nước. Được coi là bước đi đầu trong
giai đoạn phát triển, văn hóa đã chứng tỏ vai trị của nó trong hội
nhập kinh tế. Mỗi dân tộc trên thế giới đều có những bản sắc văn
hóa riêng để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Và Việt Nam
cũng vậy, những giá trị truyền thống được chắt lọc từ lâu đời đã

tạo nên một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt. Thực tiễn chỉ
ra rằng, văn hố đóng vai trị rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
đất nước trong trường kỳ lịch sử và trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng ở thời hiện đại. Văn hóa đóng góp vào nhiều lĩnh
vực của đời sống xã hội, nó đã đi sâu vào lịng người, góp phần
đáng kể tạo ra những giá trị tinh thần và hình thành nhân cách
trong mỗi con người. Trong giai đoạn hội nhập và phát triển của
nền kinh tế, các nền văn hóa khác sẽ theo chân tràn vào nước ta.
Nền văn hóa Việt đang đứng trước những cơ hội lớn đổi mới nền
văn hóa để theo kịp với thời đại và tiến bộ xã hội. Nhưng đó cũng
là những thách thức lớn đối với nền văn hóa nước nhà. Để hiểu rõ
hơn vấn đề này, nhất là con người chúng ta đã áp dụng đúng
những quan điểm về xây dựng, phát triển nền văn hóa hay chưa ?
Vì vậy, em chọn đề tài “Phân tích quan điểm chỉ đạo, chủ trương xây dựng
và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của Việt Nam hiện
nay” làm đề tài cho tiểu luận của mình.

1


B. NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận về quan điểm chỉ đạo và chủ
trương về xây dựng, phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc
1.1. Khái quát nền văn hóa Việt Nam
1.1.1. Khái niệm về văn hóa
Cho đến nay đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa,
mỗi định nghĩa lại phản ánh một cách nhìn nhận và đánh giá khác
nhau của tác giả.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khi nghiên cứu về văn hóa,

Người viết rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống,
lồi người mới phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. Có thể
thấy quan điểm này của Bác xuất phát từ cuộc sống cần lao, cả
đời hy sinh phấn đấu vì hạnh phúc của nhân dân lao động. Văn
hóa phản ánh cuộc sống của tất cả những người lao động, những
sáng tạo từ cuộc sống.
Trong cuốn sách Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, GS.TSKH
Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua
q trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người
với mơi trường tự nhiên và xã hội của mình”.
Theo UNESCO: “Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân
tộc này khác với dân tộc kia”. Cũng trên quan điểm như vậy, ngài
Fedérico Mayor – nguyên Tổng Giám đốc UNESCO cũng đã từng
nói: “Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và sống
động mọi mặt của cuộc sống con người đã diễn ra trong quá khứ
và cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỉ nó
đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm
mỹ, lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc
riêng của mình”.

2


Nhìn chung các định nghĩa về văn hóa đều rất đa dạng. Tuy
nhiên, để thấy điểm chung thì các định nghĩa này đều cùng cho
thấy rõ rằng văn hóa là sản phẩm của con người. Đây là cách hiểu

dễ nhất về văn hóa. Văn hóa bị chi phối bởi con người và mơi
trường sống của họ nên văn hóa sẽ khác nhau ở mỗi nơi, mỗi
vùng, mỗi tộc người. Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị
vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo
ra trong quá trình dựng nước và giữ nước, “văn hóa là đời sống
tinh thần của xã hội”, “văn hóa là giá trị truyền thống, lối
sống”, ...
1.1.2. Qúa trình hình thành và phát triển của văn hóa
Việt Nam
Nền văn hóa truyền thống Việt Nam là sản phẩm của một quá
trình lịch sử lâu dài, từ buổi đầu dựng nước cho đến đầu thế kỉ
XIX, đó là q trình tương tác giữa tự nhiên và xã hội. Nó được
hình thành từ những nền tảng văn hóa bản địa và tiếp thu với
những nền văn hóa bên ngồi để tạo nên 1 bản sắn văn hóa Việt
Nam đậm đà bản sắc dân tộc.
Nền tảng văn hóa bản địa:
Văn hóa Đơng Nam Á thời tiền sử chia làm 2 giai đoạn: thời đại đá
cũ và thời đại đá
mới có niên đại cách chúng ta khoảng 20000 năm đến 7000 năm,
là giai đoạn hình thành những nền tảng đầu tiên của nền văn hóa
Đơng Nam Á, các cộng đồng người sinh tụ trên những địa bàn nay
thuộc lãnh thổ Việt Nam đã có những đóng góp xuất sắc, tiêu biểu
cho tiến trình này.
Văn hóa bản địa Việt Nam thời sơ sử: là thời kì hình thành nhà
nước sơ khai đầu tiên của Việt Nam, Văn Lang – Âu Lạc kéo dài
trong khoảng 2000 năm TCN, trên nền tảng của nền văn minh lúa
nước và văn minh đồ đồng cùng với sự hình thành và phát triển
của nhà nước Văn Lang – Âu Lạc, đã định hình và phát triển 1 nền
văn hóa bản đại Việt Nam – văn hóa Đơng Sơn – đỉnh cao của văn
hóa dân tộc thời sơ sử.

Tiếp thu văn hóa ngoại sinh:
Trong 10 thế kỉ đầu cơng ngun, Việt Nam đã có cuộc tiếp xúc và
giao lưu văn hóa với 2 nền văn hóa lớn của phương Đơng là Trung
Hoa và Ấn Độ đã dẫn đến sự thay đổi cấu trúc văn hóa bản địa
thời sơ sử để hình thành cấu trúc văn hóa Việt Nam thời phong
kiến. Tiếp xúc văn hóa với Trung Hoa – sự du nhập của Nho giáo.

3


Giao lưu văn hóa với Ấn Độ - sự du nhập của Phật giáo. Sự xâm
lược của thực dân Pháp gần 100 năm đã tạo nên cuộc giao lưu
văn hóa giữa Việt Nam và phương Tây.
Văn hóa truyền thống được hình thành trên cở sở văn hóa
nơng nghiệp. Trong q trình tương tác với mơi trường tự nhiên và
xã hội, các cộng đồng cư dân sống trên lãnh thổ Việt Nam đã sáng
tạo nên các đặc trưng văn hóa, để rồi qua thời gian, các đặc trưng
ấy đã kết tụ nên bản sắc riêng của dân tộc, được biểu hiện trong
lối sống, thói quen, cách tư duy, ứng xử…, được trao quyền qua
nhiều thế hệ, và đến nay vẫn còn chi phối sâu sắc đến đời sống
của xã hội Việt Nam hiện đại.
Tầng văn hóa bản địa hình thành từ thời tiền sử và sơ sử. Tầng
văn hóa ngoại sinh gồm những yếu tố văn hóa được tiếp nhận qua
quá trình tiếp xúc và giao lưu với 2 nền văn hóa lớn của Phương
Đơng là Trung Hoa và Ấn Độ trong 10 thế kỉ đầu cơng ngun.
Giai đoạn văn hóa hiện đại từ năm 1945 đến nay: Sự phát triển
của văn hóa nghệ thuật chuyên nghiệp. Kế thừa và nâng cao giá
trị truyền thống. Giao lưu văn hóa ngày càng mở rộng.

1.2. Quan điểm chỉ đạo và chủ trương về xây dựng, phát

triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
1.2.1. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục
tiêu, là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Quan điểm này chỉ rõ chức năng, vị trí, vai trị đặc biệt quan
trọng của văn hóa đối với sự phát triển xã hội.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Theo ý kiến của
nguyên Tổng Giám đốc UNESCO: Văn hóa phản ánh và thể hiện
một cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi
cá nhân và các cộng đồng) diễn ra trong quá khứ cũng như đang
diễn ra trong hiện tại; qua hàng bao thế kỉ, nó đã cấu thành nên
một hệ thống các giá trị, truyền thống và lối sống trên đó từng
dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình. Các giá trị nói trên
tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội – vì nó được thấm nhuần
trong mỗi con người và trong cả cộng đồng; được truyền lại, tiếp
nối và phát huy qua các thế hệ; được vật chất hóa và khẳng định
vững chắc trong cấu trúc xã hội của từng dân tộc (ví dụ: cấu trúc
này ở Việt Nam là cấu trúc Nhà – Làng – Nước). Các giá trị này chi
4


phối hằng ngày đến cuộc sống, tư tưởng, tình cảm của mọi thành
viên xã hội bằng môi trường xã hội – văn hóa (bao gồm văn hóa
vật thể và văn hóa phi vật thể).Vì vậy, chúng ta chủ trương làm
cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để các
giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội,
trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội. Đó cũng là con
đường xây dựng con người mới, xây dựng mơi trường văn hóa
lành mạnh đẩy lùi các tiêu cực xã hội,đẩy lùi sự xâm nhập của tư
tưởng, văn hóa phản biện tiến bộ. Biện pháp tích cực là đẩy mạnh
cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa; đẩy

mạnh cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa, phường xã văn
hóa, cơ quan, đơn vị văn hóa; nêu gương người tốt, việc tốt.
Văn hóa là động lực phát triển bền vững. Nguồn lực nội sinh
của sự phát triển của một dân tộc thấm sâu trong văn hóa. Sự
phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới, tiếp nhận cái
mới, tạo ra cái mới nhưng lại không thể tách khỏi cội nguồn. Phát
triển phải dựa trên cội nguồn, bằng cách phát huy cội nguồn. Cội
nguồn của mỗi quốc gia, dân tộc chính là văn hóa. Kinh nghiệm
đổi mới ở nước ta cũng chứng tỏ rằng, bản thân sự phát triển kinh
tế cũng không chỉ do các nhân tổ thuần tuý kinh tế tạo ra. Nền
kinh tế Việt Nam hơm nay đã có một bước tiến đáng kể so với thời
kì thực hiện chế độ kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp. Nguyên
nhân không phải chỉ ở sự tiến triển tự nhiên của các nhân tố kinh
tế, mà còn do sự đổi mới tư duy, đổi mới chính sách và chế độ
quản lí, do sự giải phóng tư tưởng và bước phát triển mới về trình
độ, năng lực của đội ngũ cán bộ khoa học và cơng nghê, cán bộ
quản lí và lực lượng lao động. Nghĩa là động lực của sự đổi mới
kinh tế một phần quan trọng nằm trong những giá trị văn hóa
đang được phát huy. Ngày nay, trong điều kiện của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khi yếu tố quyết định cho
sự tăng trưởng kinh tế là trí tuệ, là thơng tin, là ý tưởng sáng tạo
và đổi mới khơng ngừng thì một nước trở thành giàu hay nghèo
khơng chỉ ở chỗ có nhiều hay ít lao động và tài nguyên thiên
nhiên, mà trước hết là có khả năng phát huy đến mức cao nhất
tiềm năng sáng tạo của nguồn lực con người hay không. Tiềm
năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành văn hóa,
nghĩa là trong tri thức, khả năng sáng tạo, trong bản lĩnh tự đổi
mới của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng. Nói cách khác, hàm
lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống con người càng cao
bao nhiêu thì khả năng phát triển kinh tế - xă hội càng thực hiện

và bền vững bấy nhiêu. Trong nền kinh tế thị trường, một mặt văn
hóa dựa vào tiêu chuẩn của cái đúng, cái tốt, cái đẹp để hướng
dẫn và thúc đẩy người lao động không ngừng phát huy sáng kiến,

5


cải tiến kĩ thuật, nâng cao tay nghề, sản xuất ra hàng hóa với số
lượng và chất lượng ngày càng cao đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Mặt khác, văn hóa sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống,
của đạo lí dân tộc để hạn chế xu hướng sùng bái lợi ích vật chất,
sùng bái tiền tệ, nghĩa là hạn chế xu hướng hàng hóa và đồng tiền
“xuất hiện với tính cách là lực lượng có khả năng xuyên tạc bản
chất con người cũng như những mối liên hệ khác” dẫn tới suy
thối xã hội. Nền văn hóa Việt Nam đương đại, với những giá trị
mới, sẽ là một tiền đề quan trọng đưa nước ta hội nhập ngày càng
sâu hơn và toàn diện hơn vào nền kinh tế thế giới. Trong vấn đề
bảo vệ mơi trường vì sự phát triển bền vững, văn hóa giúp hạn
chế lối sống chạy theo ham muốn quá mức của “xã hội tiêu thụ”,
dẫn đến chỗ làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm mơi trường sinh
thái. Văn hóa, nhất là văn hóa phương Đông, cổ vũ và hướng dẫn
cho một lối sống có chừng mực, hài hồ với sức tải của hành tinh
chúng ta. Nó đưa ra mơ hình ứng xử thân thiện giữa con người với
thiên nhiên, vì sự phát triển bền vững cho thế hệ hôm nay và cho
các thế hệ mai sau.
Văn hóa là một mục tiêu của phát triển: mục tiêu xây dựng
một xã hội Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng,
văn minh” chính là mục tiêu văn hóa. Chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội năm 2011-2020 xác định: “phát huy tối đa nhân tố con
người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu

của sự phát triển”. Đồng thời nêu rõ yêu cầu: “Tăng trưởng kinh tế
phải kết hợp hài hồ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống
của nhân dân”. Phát triển hướng tới mục tiêu văn hóa – xã hội mới
bảo đảm sự bền vững, trường tồn.Thực tế cho thấy, mối quan hệ
giữa văn hóa và phát triển là vấn đề bức xúc của mọi quốc gia.
Sau khi thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, các nước
độc lập đang tìm con đường dẫn tới ấm no, hạnh phúc, thì việc
giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển kinh
tế - xã hội lại càng có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, trong nhận
thức và hành động, mục tiêu kinh tế vẫn thường lấn át mục tiêu
văn hóa và thường được đặt vào vị trí đầu tiên trong các kế
hoạch, chương trình, chính sách phát triển của nhiều quốc gia,
nhất là các nước nghèo đang phát triển theo con đường cơng
nghiệp hóa.
Để làm cho văn hóa trở thành động lực và mục tiêu của sự
phát triển thì văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính
trị, xã hội. Phát triển văn hóa phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ
hơn với phát triển kinh tế - xã hội. Cụ thể là: phát triển toàn diện

6


các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hịa với phát triển kinh tế. Xử lí tốt
mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền
tảng tinh thần của xã hội, là một động lực phát triển kinh tế, xã
hội và hội nhập quốc tế. Khi xác định mục tiêu phát triển kinh tế xã hội phải đồng thời xác định mục tiêu văn hóa, hướng tới xã hội
dân chủ, cơng bằng, văn minh. Phải có chính sách kinh tế trong
văn hóa để gắn văn hóa với hoạt động kinh tế, khai thác tiềm
năng kinh tế, tài chính hỗ trợ cho phát triển văn hóa. Xây dựng

chính sách văn hóa trong kinh tế để chủ động đưa các yếu tố văn
hóa thâm nhập vào các hoạt động kinh tế - xã hội, xây dựng văn
hóa kinh doanh, đạo đức kinh doanh, văn minh thương nghiệp;
xây dựng đội ngũ doanh nhân thời hội nhập. Ví dụ như, đánh thức
tiềm năng du lịch qua các lễ hội, đình chùa. Quảng bá hình ảnh lễ
hội đền Gióng để các khách thập phương biết đến, kích cầu du
lịch đem lại nguồn kinh tế cho nhà nước. Chúng ta có thể vừa giới
thiệu văn hóa truyền thống của dân tộc đến với mọi người vừa có
thể hoạt động kinh tế một cách dễ dàng nhờ vào sự liên kết giữa
di sản và du lịch.

Hội Gióng được tổ chức hằng năm tại làng Phù Đổng (Gia Lâm) và đền Sóc (Sóc Sơn) đã
được UNESCO cơng nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại

Văn hóa có vai trị đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng,
phát huy nhân tố con người và xây dựng xã hội mới. Việc phát
triển kinh tế - xã hội cần đến nhiều nguồn lực khác nhau. Chỉ có
tri thức con người mới là nguồn lực vơ hạn, có khả năng tái sinh
và tự sinh không bao giờ cạn kiệt. Năm 1990, UNDP (chương trình
phát triển của Liên Hợp Quốc) đưa ra những tiêu chí mới để đánh

7


giá mức độ phát triển của các quốc gia. Đó là chỉ số phát triển con
người, giáo dục, tuổi thọ bình quân và thu nhập (HDI). Quốc gia
nào đạt thành tựu giáo dục cao, tức là có vốn trí tuệ tồn dân
nhiều hơn thì chứng tỏ xã hội đó phát triển hơn, có khả năng tăng
trưởng dồi dào. Như vậy, văn hóa trực tiếp tạo dựng và nâng cao
vốn “tài nguyên người”. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi vào

cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam chưa có lợi thế về chỉ số
phát triển con người như mong muốn. Tỉ lệ số người biết đọc, biết
viết được xếp vào thứ hạng cao trong khu vực (88%) nhưng nguy
cơ tái mù chữ lại đang tăng, đặc biệt là mù ngoại ngữ, mù tin học.
1.2.2. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc
Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ với nội dung cốt lõi là lí tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người. Tiên tiến
không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện,
trong các phương tiện chuyển tải nội dung.
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống
bền vững của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua
lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là
lịng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn
kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – Tổ
quốc. Đó là lịng nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lí, là
đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử,
tính giản dị trong lối sống… Bản sắc dân tộc còn đậm nét cả trong
các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo. Có thể nói,
bản sắc của một dân tộc là tổng thể những phẩm chất, tính cách,
sức sống bên trong của dân tộc, giúp cho dân tộc đó giữ vững
được tính duy nhất, tính thống nhất, tính nhất quán so với bản
thân mình trong quá trình phát triển. Sức mạnh và sức sáng tạo
này có mối liên hệ gốc rễ, lâu dài và bền vững với môi trường xã
hội – tự nhiên và với quá trình lịch sử mà dân tộc đó đã tồn tại.
Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội: cách tư duy, cách sống, cách dựng nước, giữ nước, cách sáng
tạo trong văn hóa, khoa học, văn học, nghệ thuật…, nhưng được
thể hiện sâu sắc nhất là trong hệ giá trị của dân tộc. Hệ giá trị là

những gì nhân dân quan tâm, là niềm tin mà nhân dân cho là
thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Khi được chuyển thành các
chuẩn mực xã hội, nó định hướng cho sự lựa chọn trong hành
động của các nhân và cộng đồng. Vì vậy, nó là cơ sở tinh thần cho
sự ổn định xã hội và sự vững vàng của chế độ. Hệ giá trị có tính
ổn định rất lớn và có tính bền vững tương đối, có sức mạnh gắn
bó mọi thành viên trong cộng đồng. Trong sự tiến bộ và phát triển
8


của xã hội, các giá trị này thường không biến mất mà hóa thân
vào các giá trị của thời sau, theo quy luật kế thừa và tái tạo. Bản
sắc dân tộc phát triển theo sự phát triển của thể chế kinh tế, thể
chế xã hội và thể chế chính trị của các quốc gia. Nó cũng phát
triển theo q trình hội nhập kinh tế thế giới, quá trình giao lưu
văn hóa với các quốc gia khác và sự tiếp nhận tích cực văn hóa,
văn minh nhân loại. Vì vậy, chúng ta chủ trương xây dựng và
hoàn thiện các giá trị và nhân cách con người Việt Nam trong thời
kì cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng kinh tế thị trường,
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Bản sắc dân tộc
và tính chất tiên tiến của nền văn hóa phải được thấm đượm trong
mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành
tựu khoa học – công nghệ, giáo dục và sáng tạo…, sao cho trong
mọi lĩnh vực hoạt động chúng ta có cách tư duy độc lập, có cách
làm vừa hiện đại vừa mang sắc thái Việt Nam. Đi vào kinh tế thị
trường, mở rộng giao lưu quốc tế, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước phải tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, song phải
luôn luôn phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc.
Để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
chúng ta chủ trương vừa bảo vệ bản sắc dân tộc, vừa mở rộng

giao lưu, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Bảo vệ bản sắc dân
tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc
những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác để bắt
kịp sự phát triển của thời đại. Chủ động tham gia hội nhập và giao
lưu văn hóa với các quốc gia để xây dựng những giá trị mới của
văn hóa Việt Nam đương đại. Xây dựng Việt Nam thành một địa
chỉ giao lưu văn hóa khu vực và quốc tế. Giữ gìn bản sắc dân tộc
phải đi liền với loại bỏ những cái lạc hậu, lỗi thời trong phong tục,
tập qn và lề thói cũ.

Đây
chứng
sinh
động
sức
củaUNESCO
văn hố
Cốm là
Mễ một
Trì sẽ minh
được giới
thiệu tại
Chương
Đờnvề
ca tài
tử lan
Nam tỏa
Bộ được
cơng nhận
trình

Giao
lưu
văn
hóa
ẩm
thực

Nội
với

di
sản
văn
hóa
phi
vật
thể
đại
diện
của nhân
truyền thống Việt Nam trong dịng chảy hội nhập của văn hóa
thế
bạn bè quốc tế
loại
giới, tạo cơ hội để người dân trên toàn thế giới niềm hân hạnh

9


được thưởng thức và hiểu rõ hơn về nền văn hóa tươi đẹp và

phong phú của Việt Nam.
1.2.3. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất
mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Nét đặc trưng nổi bật của văn hóa Việt Nam là sự thống nhất
mà đa dạng, là sự hồ quyện bình đẳng, và phát triển độc lập của
văn hóa các dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam.

Hơn 50 dân tộc trên đất nước ta đều có những giá trị và bản
sắc văn hóa riêng. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau,
làm phong phú nền văn hóa Việt Nam thống nhất và củng cố sự
thống nhất dân tộc.

Cộng đồng các dân tộc Việt Nam

1.2.4. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp
chung của tồn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí
thức giữ vai trò quan trọng
Mọi người Việt Nam phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, cơng bằng, văn minh đều tham gia sự nghiệp xây dựng và
phát triển nền văn hóa nước nhà. Cơng nhân, nơng dân, trí thức là
nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự
nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa dưới sự lãnh đạo của
Đảng, quản lí của Nhà nước. Đội ngũ trí thức gắn bó với nhân dân
giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp này. Sự nghiệp xây dựng và
phát triển văn hóa do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lí.
10


Vai trị của trí thức là hết sức to lớn, đội ngũ trí thức là trụ cột
để xây dựng và phát triển văn hóa, là lực lượng then chốt trong

cách mạng khoa học kỹ thuật và văn hóa. Tại Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương lần thứ bảy khóa X đã nhấn mạnh: “Trí thức Việt
Nam là lực lượng sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc
tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc, xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực
tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng
cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ
thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho
phát triển bền vững”.
1.2.5.CácVăn
hóa
mặt
trận;
xây
phát
đồn viên
đang là
vẫy cờ
chào đón
các đại biểu
tàu dựng
thanh niên và
ASEAN
– Nhật triển văn
Bản,
tháng
11/2015
hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, địi hỏi phải có ý
chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.

Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc,
sáng tạo nên những giá trị văn hóa mới, làm cho những giá trị ấy
thấm sâu vào cuộc sống toàn xã hội và mỗi con người, trở thành
tâm lí và tập quán tiến bộ, văn minh là một quá trình cách mạng
đầy khó khăn phức tạp, địi hỏi nhiều thời gian. Trong cơng cuộc
đó, “xây” đi đơi với “chống”, lấy “xây” làm chính. Cùng với việc
giữ gìn và phát triển những di sản văn hóa quý báu của dân tộc,
tiếp thu những tinh hoa văn hóa thế giới, sáng tạo, vun đắp nên
những giá trị mới, phải tiến hành kiên trì cuộc đấu tranh bài trừ
các hủ tục, các thói hư tật xấu, nâng cao tính chiến đấu, chống
mọi mưu toan lợi dụng văn hóa để thực hiện “diễn biến hồ bình”.
Chương 2: Việc thực hiện quan điểm chỉ đạo và chủ trương
về xây dựng, phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc ở Việt Nam hiện nay
2.1. Đánh giá việc thực hiện
2.1.1. Thực trạng
Từ năm 1986, Đảng ta tiếp tục kế thừa, phát triển, mở rộng
quan điểm về văn hóa của các giai đoạn trước, để đi tới quan
điểm giản dị nhưng sâu sắc: Văn hóa là nhu cầu thiết yếu của đời
sống con người, thể hiện trình độ phát triển chung của đất nước,
là lĩnh vực sản xuất tinh thần, tạo ra các giá trị, sản phẩm làm
giàu đẹp cuộc sống. Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng và đúc
11


kết hệ giá trị chung của con người Việt Nam đương đại, trong đó
phải triển khai đồng thời ba việc lớn: Bảo vệ, giữ gìn và phát huy
những giá trị tốt đẹp của truyền thống; chăm lo nuôi dưỡng,
khẳng định những giá trị mới đang hình thành; tỉnh táo chỉ ra,
khắc phục những hạn chế lịch sử, những thói hư tật xấu của con

người.
Là một nước bị xâm lược, bị đô hộ suốt hàng chục thế kỷ, Việt
Nam đã bị chiếm đoạt, đã mất đi rất nhiều những giá trị văn hoá,
cả văn hoá vật thể lẫn văn hoá phi vật thể. Có một số trong số
những giá trị cịn lại đó hiện được lưu giữ ở một vài nơi trên thế
giới. Nhờ sự hội nhập với thế giới mà một số những giá trị văn hố
từ lâu khơng cịn tìm thấy ở trong nước đã được trở về hoặc ít ra
đã được xác định nơi đang lưu giữ chúng. Là một nước bị xâm
lược, bị đô hộ suốt hàng chục thế kỷ, Việt Nam đã bị chiếm đoạt,
đã mất đi rất nhiều những giá trị văn hoá, cả văn hố vật thể lẫn
văn hố phi vật thể. Có một số trong số những giá trị cịn lại đó
hiện được lưu giữ ở một vài nơi trên thế giới. Nhờ sự hội nhập với
thế giới mà một số những giá trị văn hố từ lâu khơng cịn tìm
thấy ở trong nước đã được trở về hoặc ít ra đã được xác định nơi
đang lưu giữ chúng. Tuy nhiên, với sự tiến triển của nền văn minh
nhân loại các giá trị truyền thống dần bị mai một.
Trong những năm qua, cơ sở vật chất, kĩ thuật của nền văn hóa
mới đã bước đầu được tạo dựng. Quá trình đổi mới tư duy về văn
hóa, về xây dựng con người và nguồn nhân lực có bước phát triển
rõ rệt. Mơi trường văn hóa có những chuyển biến theo hướng tích
cực, hợp tác quốc tế về văn hóa được mở rộng.
Giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới. Quy mơ giáo dục
và đào tạo tăng ở tất cả các cấp, các bậc học. Chất lượng đội ngũ
giáo viên phổ thơng có chuyển biến, cơ sở vật chất – kĩ thuật cho
trường học trên cả nước được tăng cường đáng kể.
Khoa học và cơng nghệ có bước phát triển, phục vụ thiết thực
hơn nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội. Văn hóa phát triển, việc xây dựng đời sống
văn hóa và nếp sống văn minh có tiến bộ ở tất cả các tỉnh, thành
trong cả nước.

Nhờ những định hướng đúng đắn của Đảng, việc xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Đảng, Nhà nước, các cơ
quan quản lý nhà nước các cấp đã ban hành nhiều văn bản pháp

12


lý quan trọng về các lĩnh vực phát triển văn hóa. Đến nay, cả
nước có trên 40.000 di tích văn hóa được xếp hạng, trong đó có
3.491 di tích cấp quốc gia, 105 di tích quốc gia đặc biệt, 8 di sản
văn hóa và thiên nhiên thế giới và 12 di sản văn hóa phi vật thể, 7
di sản tư liệu được UNESCO cơng nhận. Đáng chú ý là có 145/288
di sản văn hóa phi vật thể của các dân tộc thiểu số, được đưa vào
danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; nhiều lễ hội, sự
kiện văn hóa trong và ngồi nước được tổ chức, trong đó có các lễ
hội, liên hoannghệ thuật truyền thống của các dân tộc thiểu số;
hệ thống bảo tàng tiếp tục được mở rộng và ngày càng đổi mới về
nội dung và hình thức trình bày, thực hiện tốt cơng tác giáo dục
truyền thống, nâng cao giá trị văn hóa, khoa học cho người dân,
nhất là thế hệ trẻ; các thiết chế văn hóa được quan tâm xây dựng
và từng bước hiện đại, phát triển rộng khắp từ trung ương tới cấp
xã, bao gồm 21.084 thư viện, phòng đọc và hơn 26.000 thư viện
các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, hệ thống giáo dục quốc
dân, thư viện chuyên ngành. Trung tâm văn hóa, nhà văn hóa
khơng chỉ được mở rộng ở một số quốc gia, ở trong nước cũng
được phát triển đến các thơn, bản; vai trị của gia đình, nhà
trường và xã hội trong xây dựng con người mới, gia đình hạnh
phúc, mơi trường văn hóa lànhmạnh ln được quan tâm.
Những năm gần đây, chúng ta cũng đã triển khai nhiều hoạt

động văn hóa, nghệ thuật của các nước tại Việt Nam, trong đó có
một số hoạt động lớn, có tính quốc tế như Liên hoan phim châu Á
- Thái Bình Dương, Tuần phim châu Âu, Festival Huế, Tuần lễ văn
hóa Nga ở Việt Nam, Triển lãm văn hóa - nghệ thuật ASEAN, các
trại điêu khắc quốc tế,... Đây là một bưóc phát triển mới, mở ra
triển vọng lớn để Việt Nam trở thành một địa chỉ văn hóa quen
thuộc của sự giaolưu văn hóa giữa các nước trong khu vực và
quốc tế.
Những thành
tựu trong sự
nghiệp
xây
dựng văn hóa
chứng tỏ đường
lối, chính sách
văn hóa của
Đảng và Nhà
nước ta đã và
đang phát huy

13


tác dụng tích cực, định hướng đúng đắn cho sự phát triển đời sống
văn hóa.

Việt Nam và Nga đã ký “Chương trình hợp tác văn hóa giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch Việt Nam và Bộ Văn hóa Liên bang Nga giai đoạn 2019-2021

Như vậy, nhờ sức sống nội tại và bản lĩnh của văn hóa Việt

Nam, do đã từng trải nghiệm qua một quá trình lịch sử lâu dài biết
sàng lọc và tiếp thu các giá trị văn hóa từ bên ngồi vào Việt
Nam, và do đường lối chỉ đạo phù hợp với quy luật, nên từ những
năm đổi mới, cùng với quá trình hội nhập và giao lưu vănhóa quốc
tế, nền văn hóa Việt Nam đã trở nên phong phú, đa dạng và hiện
đại hơn. Một số giá trị văn hóa truyền thống được bổ sung, điều
chỉnh cho phù hợp hơn với thời đại và với sự phát triển đang vươn
lên hiện đại hóa của dân tộc ta.
2.1.2. Hạn chế và nguyên nhân

 Hạn chế
Một là, so với yêu cầu của thời kì đổi mới, trước sự biến đổi
ngày càng phong phú trong đời sống xã hội những năm gần đây,
những thành tựu và tiến bộ đạt được trong lĩnh vực văn hóa cịn
chưa tương xứng và chưa vững chắc, chưa đủ để tác động có hiệu
quả đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực tư
tưởng. Đạo đức, lối sống tiếp tục diễn biến phức tạp, có một số
mặt nghiêm trọng hơn, tổn hại khơng nhỏ đến uy tín của Đảng và
Nhà nước, niềm tin của nhân dân.
Hai là, sự phát triển của văn hóa chưa đồng bộ và tương xứng
với tăng trưởng kinh tế, thiếu gắn bó với nhiệm vụ xây dựng và

14


chỉnh đốn Đảng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến
quá trình phát triển kinh tế và nhiệm vụ xây dựng Đảng. Nhiệm
vụ, xây dựng con người Việt Nam trong thời kì cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa chưa tạo được chuyển biến rõ rệt. Mơi trường văn
hóa cịn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, sự lan tràn của các sản

phẩm và dịch vụ văn hóa mê tín, dị đoan, độc hại, thấp kém, lai
căng… Sản phẩm văn hóa và các dịch vụ văn hóa ngày càng
phong phú nhưng còn rất thiếu những tác phẩm văn học, nghệ
thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, có ảnh hưởng tích
cực và sâu sắc trong đời sống.
Ba là, việc xây dựng thể chế văn hóa cịn chậm chưa đổi mới,
thiếu đồng bộ, làm
hạn chế tác dụng của văn hóa đối với các lĩnh vực quan trọng của
đời sống đất nước.
Bốn là, tình trạng nghèo nàn, thiếu thốn, lạc hậu về đời sống
văn hóa – tinh thần ở nhiều vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và vùng căn cứ cách
mạng trước đây vẫn chưa được khắc phục có hiệu quả. Khoảng
cách chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền, khu
vực, tầng lớp xã hội tiếp tục mở rộng. Những khuyết điểm, yếu
kém nói trên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan,
song cần nhấn mạnh các nguyên nhân chủ quan là: Các quan
điểm chỉ đạo về phát triển văn hóa chưa được quán triệt đầy đủ
và cũng chưa được thực hiện nghiêm túc. Bệnh chủ quan, duy ý
chí trong quản lí kinh tế - xã hội kéo dài 20 năm đã tác động tiêu
cực đến việc triển khai đường lối phát triển văn hóa. Chưa xây
dựng được cơ chế, chính sách và giải pháp phù hợp để phát triển
văn hóa trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế. Một bộ phận những người hoạt động trên lĩnh
vực văn hóa có biểu hiện xa rời đời sống, chạy theo chủ nghĩa
thực dụng, thị hiếu thấp kém.
Có thể thấy, bên cạnh việc hình thành tư duy sống chất lượng,
lối sống ích kỷ, vụ lợi cá nhân cũng bắt đầu hình thành và ngày
càng xâm nhập vào nhiều tầng lớp trong xã hội. Lối sống thiên về
hưởng thụ, sống gấp đang huỷ hoại dần nhân cách của nhiều

người dẫn đến nhiều giá trị truyền thống dần trở nên mai một.
Trong khi đó, khủng hoảng niềm tin cũng đang là một trở ngại lớn
đối với việc thiết lập các quan hệ xã hội và thực hiện các mục tiêu
kinh tế, chính trị. Điều tra giá trị châu Á năm 2008 của Viện
Nghiên cứu con người cho biết: có tới 58,5% người Việt Nam cho
rằng không thể tin vào bất kỳ ai mới tiếp xúc. Bệnh “ngợp bởi vật
chất” cũng khiến khơng ít người, nhất là giới trẻ hiện nay thiên

15


lệch về nhu cầu vật chất, thể hiện xu hướng thái quá hơn trên mọi
khía cạnh. Những “trào lưu”, “thị hiếu”, “thời thượng” chế ngự
khơng ít những cá nhân đang tìm đủ cách kiếm tiền, sống gấp...
Về lĩnh vực văn học nghệ thuật, 20 năm hội nhập thì văn
chương nghệ thuật thế giới ồ ạt tràn vào nước ta, cả những tác
phẩm hay và những tác phẩm dở. Văn hóa bạo lực, tình dục
ngang nhiên thách thức những thuần phong mỹ tục, những tác
phẩm rẻ tiền cơng kích những giá trị sâu sắc, thâm nghiêm. Tệ
xâm hại tình dục, ngược đãi trẻ em, hành vi lệch chuẩn của học
sinh, sinh viên có xu hướng gia tăng; bạo lực học đường phổ biến
ở cả những học sinh nữ; một bộ phận thầy, cô giáo suy giảm nhân
cách, đạo đức làm ảnh hưởng xấu đến hình ảnh nghề giáo… làm
gia tăng sự khủng hoảng niềm tin trong xã hội. Cùng với đó, tình
trạng thiếu hiểu biết pháp luật, nhân cách kém và sự thiếu hụt,
lệch lạc của giáo dục truyền thống cũng đang ảnh hưởng không
nhỏ tới giới trẻ…
Chiến lược xây dựng nền văn hóa Việt Nam phong phú, đậm đà
bản sắc dân tộc là hoàn toàn đúng đắn, nhưng triển khai xây
dựng quản lý văn hóa tồn xã hội là vơ cùng khó khăn phức tạp,

là thách thức lớn cần có sức mạnh của nhiều cấp nhiều ngành mới
có thể làm được.

 Nguyên nhân
Trước một loạt những hạn chế yếu kém về văn hóa và đạo đức
hiện nay, đã đến lúc chúng ta phải réo lên tiếng chuông cảnh tỉnh
người dân nói chung và bộ phận giới trẻ nói riêng về tình trạng
trên. Vậy đâu là ngun nhân của tính trạng yếu kém này? Ta có
thể làm rõ vấn đề này qua 2 phương diện sau: Nguyên nhân
khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Về nguyên nhân khách quan, thứ nhất là do sự tác động mạnh
mẽ của những mặt trái do q trình tồn cầu hóa kinh tế. Nó như
là con dao hai lưỡi đối với nền văn hóa nước ta, vừa đem lại những
thành tựa tích cực bên cạnh đó cũnggây lên sự xâm nhập tràn lan
những sản phẩm văn hóa khơng hợp với thuần phong mỹ tục của
người Việt Nam. Từ đó dẫn đến những tư tưởng phức tạp trong đời
sống văn hóa, xã hội. Thứ hai, nước ta còn tồn tại nhiều yếu kém
về những tiền đề vật chất để xây dựng nền kinh tế, mức sống và
dân trí của nhân dân cịn thấp so với các nước trong khu vực và
cộng đồng quốc tế. Do đó, người dân dễ bị lơi kéo vào những sai
lệch văn hóa. Thứ ba là, cơ chế thị trường và sự hội nhập quốc tế,
bên cạnh những tác động tích cực to lớn, cũng đã bộc lộ mặt trái
16


của nó, ảnh hưởng tiêu cực đến ý thức tư tưởng, đạo đức, lối sống
của nhân dân ta. Nguyên nhân khách quan cuối cùng phải kể đến
đó chính là do kinh tế nước ta còn nghèo, tuy nhu cầu về văn hóa
lớn nhưng chưa đáp ứng đủ vì thiếu thốn về vật chất.
Tồn tại song song cùng những nguyên nhân khách quan là

những nguyên nhân chủ quan xuất phát từ chính chúng ta, có thể
kể đến một số ngun nhân như sau. Nguyên nhân quan trọng
đầu tiên là do nhận thức trong Đảng từ Trung ương đến cấp ủy
đảng các cấp về vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa cịn chưa
thật đầy đủ. Các quan điểm chỉ đạo, phương hướng nhiệm vụ xây
dựngvà phát triển văn hóa chưa quán triệt và tổ chức thực hiện
nghiêm túc. Việc tổ chức thực hiện cịn thiếu tập chung, chưa
đồng bộ, khơng kiên quyết. Hơn thế nữa, do nhà nước tập trung
vào phát triển kinh tế nên vai trò và nhiệm vụ xây dựng văn hóa
có nơi cịn bị xem nhẹ, khơng được chú trọng nhiều. Bên cạnh đó,
trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay thì chúng ta vẫn chưa xây dựng được cơ
chế, chính sách và giải pháp phù hợp để phát triển văn hóa. Cuối
cùng là, một số bộ phận tri thức, văn nghệ sỹ, những người hoạt
động trên lĩnh vực văn hóa, thơng tin, báo chí có những biểu hiện
xa rời đời sống, lúng túng trong định hướng sáng tạo và hoạt động
nghiệp vụ, chạy theo chủ nghĩa thực dụng, tạo ra một số sản
phẩm văn hóa kém chất lượng, thậm chí sai trái.
2.1.3. Giải pháp
Để nâng cao, phát triển đội ngũ tri thức trẻ trong thời đợi cơng
nghiệp hóa - hiện đại hóa cần: Nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lí, nội dung, phương
pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa,
dân chủ hóa và hội nhập quốc tế”, chấn hưng nền giáo dục Việt
Nam. Bồi dưỡng các giá trị văn hóa trong thanh niên, học sinh,
sinh viên, đặc biệt là lí tưởng sống, lối sống, năng lực trí tuệ, đạo
đức và bản lĩnh sáng tạo của con người Việt Nam. Đổi mới hệ
thống giáo dục đại học và sau đại học, gắn đào tạo với sử dụng,
trực tiếp phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao động, phát triển nhanh
nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là chuyên gia đầu ngành.

Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài; nhanh
chóng xây dựng cơ cấu nguồn nhân lực hợp lí về ngành nghề,
trình độ đào tạo, dân tộc, vùng miền… Tăng cường hợp tác quốc
tế về giáo dục và đào tạo. Tiếp cận chuẩn mực giáo dục tiên tiến
của thế giới phù hợp với yêu cầu phát tiển của Việt Nam; tham gia
đào tạo nhân lực khu vực và thế giới. Có cơ chế quản lí phù hợp
đối với các trường do nước ngoài đầu tư hoặc liên kết đào tạo .
17


Tăng cường công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức của
cộng đồng về tầm quan trọng của việc hiểu biết về bản sắc văn
hóa dân tộc, từ đó hình thành ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc một cách chủ động, tích cực tự giác. Chỉ có như vậy cốt cách
dân tộc, lịng tự tơn dân tộc mới ln giữ vai trị hạt nhân trong
q tình phát triển kinh tế và phát triển nói chung của dân tộc.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh
vực văn hóa. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn
hóa. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm cơng tác văn hóa. Tăng cường
nguồn lực cho lĩnh vực văn hóa.
Đối với cơng tác xây dựng đội ngũ cán bộ làm cơng tác văn
hóa, Nghị quyết khẳng định: Coi trọng quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa, cán bộ làm công
tác khoa học, chuyên gia đầu ngành, cán bộ ở cơ sở... Đổi mới đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hóa theo hướng hiện đại và hội nhập
quốc tế... Xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trong các dân tộc
thiểu số, có chính sách khuyến khích họ trở về cơng tác tại địa
phương, tham gia vào q trình xây dựng và phát triển văn hóa
dân tộc.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII Đảng Cộng sản

Việt Nam khẳng định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát triển toàn diện
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”.
2.2. Những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta
trong cuộc chiến chống đại dịch Covid-19
Sự thành công lớn trong “cuộc chiến chống đại dịch Covid-19”
là tổng hợp sức mạnh của cả dân tộc ta, trong đó cần nhấn mạnh
là sức mạnh tinh thần dân tộc, kết tinh từ những giá trị văn hóa
truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Đó là lịng u nước
nồng nàn, tinh thần tự lực, tự cường, đồng cam cộng khổ, khoan
dung nhân ái của cả dân tộc. Truyền thống cao đẹp đó một lần
nữa đã được phát huy đúng lúc cùng với quyết tâm chính trị cao
của Đảng, Nhà nước ta trong “cuộc chiến” đối với dịch Covid-19
hiện nay.
2.2.1. Lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết toàn dân
tộc tạo lên sức mạnh tinh thần to lớn chiến thắng đại dịch

18


Chủ tịch Hồ Chí Minh từng đúc kết: “Dân ta có một lịng nồng
nàn u nước, đó là một truyền thống quý báu của ta”. Mỗi khi
đất nước gặp khó khăn như thiên tai, dịch họa, truyền thống đó lại
tỏa sáng, kết nối toàn dân tộc thành một khối thống nhất, tạo nên
sức mạnh to lớn đưa đất nước vượt qua khó khăn. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết. Thành
cơng, thành cơng, đại thành cơng. Đây là quan hệ nhân quả: đồn
kết tạo nên sức mạnh, sức mạnh được thống nhất sẽ đưa tới
thành cơng. Đồn kết dân tộc xuất phát từ lịng u nước nồng

nàn của nhân dân, sức mạnh đồn kết đó bắt nguồn từ truyền
thống lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Trước diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19, một lần nữa
truyền thống đoàn kết toàn dân tộc lại kết thành làn sóng mạnh
mẽ vượt qua khó khăn, thách thức, đồng lịng, chung sức cùng
Đảng, Chính phủ thực hiện tốt các biện pháp ngăn ngừa và kiểm
soát dịch bệnh. Với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, dưới
sự lãnh đạo của Đảng cả hệ thống chính trị của đất nước đã vào
cuộc, với mục tiêu cao nhất là đảm bảo sức khỏe, tính mạng của
nhân dân.
Những tấm lịng, sự đồn kết, sự sẻ chia của nhân dân, những
tấm gương nhân ái, người tốt, việc tốt ở khắp các địa phương đã
được đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng: Người góp
tiền, người góp cơng, người góp nhu yếu phẩm ủng hộ, phát cơm
miễn phí… những đội xung kích tình nguyện “đi từng ngõ, gõ từng
nhà” để nắm bắt tình hình và hỗ trợ kịp thời cho người dân yếu
thế.
Sự tự nguyện của đội ngũ y, bác sĩ đã nghỉ hưu, của sinh viên
các trường y, các trường Công an, Quân đội xung phong ra tuyến
đầu chống dịch. Sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị
chức năng trên tuyến đầu và cả ở hậu phương trong chiến dịch
phòng, chống Covid-19.
Sự đoàn kết của những chiến binh áo trắng các tỉnh thành
khơng quản ngại hiểm nguy, nơi khơng có dịch tăng cường lực
lượng hỗ trợ nơi có dịch để tổ chức xét nghiệm, cách ly, chăm sóc,
cứu chữa cho các bệnh nhân… Tất cả đều đáng trân trọng và góp
phần lan tỏa tinh thần đồn kết, góp sức cho cuộc chiến đẩy lùi
đại dịch

19



Cục CSGT tăng cường cán bộ, chiến sĩ vào TP Hồ Chí Minh chống dịch.

Cán bộ, giảng viên, sinh viên trường Đại học Y Hà Nội lên đường vào miền Nam hỗ trợ phòng,
chống dịch Covid-19

Nhờ sự huy động kịp thời, sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ
thống chính trị, sự đồn kết, đồng lịng, chung sức của nhân dân,
Việt Nam đã khống chế thành công cả 3 đợt dịch bùng phát trong
cộng đồng, được quốc tế ghi nhận và đánh giá cao, coi là tấm
gương trong phòng chống dịch COVID-19. Trong cuộc chiến chống
dịch COVID-19 bùng phát lần 4 vừa qua diễn biến rất phức tạp, tốc
độ lây lan nhanh, số ca nhiễm tăng cao nhưng với sự đồng lịng
của nhân dân, chúng ta từng bước thốt ra khỏi đại dịch và trở về
cuộc sống bình thường mới.
2.2.2. Đồng cam cộng khổ vượt qua mọi khó khăn, gian khổ

20


Trải qua các cuộc đấu tranh chống chọi với tự nhiên và địch
họa, nhân dân Việt Nam luôn hiểu thấu triết lý, ý nghĩa của tình
đồng bào, đồng chí, anh em, sớm tạo nên một đặc trưng văn hoá
nổi bật của Việt Nam: tư tưởng yêu nước thấm sâu và bao trùm
mọi lĩnh vực. Các yếu tố cộng đồng có nguồn gốc nguyên thuỷ đã
sớm được cố kết lại, trở thành cơ sở phát triển chủ nghĩa yêu
nước, đoàn kết, ý thức tự lực, tự cường, tự tôn dân tộc, nhân văn,
nhân ái, thủy chung… Những lúc khó khăn gian khổ tinh thần
đồng cam, cộng khổ càng tỏa sáng.

Thực tiễn cho thấy, giữa lúc tình hình đại dịch trong nước có
diễn biến phức tạp, ngay lập tức, ngày 30/3/2020, Tổng Bí thư,
Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng gửi Lời kêu gọi tới đồng bào,
đồng chí, chiến sĩ cả nước và đồng bào Việt Nam ở nước ngoài
cùng vào cuộc chống dịch Covid -19. Lời kêu gọi của Tổng Bí thư,
Chủ tịch nước khơng chỉ là lời hiệu triệu tồn Đảng, tồn qn,
tồn dân chung sức, đồng lịng chiến thắng đại dịch, mà còn khơi
dậy niềm tin, sự quyết tâm cao trong mỗi người Việt Nam đồng
lòng, chung sức quyết chiến, chiến thắng dịch Covid – 19. Ngày
31/3/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg về
các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid -19, thực hiện
nghiêm việc cách ly xã hội, giữ khoảng cách giữa người với người,
cộng đồng với cộng đồng, nhằm giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm
cộng đồng, yêu cầu người dân “Ở nhà là yêu nước” để hạn chế tối
đa ra ngoài, trừ các trường hợp thật sự cần thiết. Thủ tướng cũng
chỉ đạo “Mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo
đài” chống sự lây nhiễm của Covid -19. Ngay từ khi có ca nhiễm
virus đầu tiên, các địa phương, bộ ngành đã chủ động nắm tình
hình và đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm hỗ trợ những người gặp
khó khăn trong cuộc sống. Từ đó, chủ động ứng phó và giải quyết
những tình huống diễn biến phức tạp do dịch bệnh gây ra.
Đối với đồng bào bị mắc kẹt ở các nước có dịch, nhiều chuyến
bay từ Việt Nam đã sang đón họ trở về quê hương với phương
châm chỉ đạo của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: “Những trường hợp
thật sự cần thiết phải về nước, dù cịn nhiều khó khăn nhưng
Đảng, Nhà nước và nhân dân trong nước luôn nỗ lực hết sức để lo
cho bà con. Đó là nghĩa đồng bào”. Cùng Chính phủ “chống dịch
như chống giặc”, nhiều người dân trên mọi miền Tổ quốc góp sức
người, sức của để mua phương tiện y tế, khẩu trang, dung dịch
diệt khuẩn. Những phòng điều trị áp lực âm trị giá hàng tỉ đồng,

cùng nhiều trang thiết bị y tế được quyên góp bởi nhiều nghệ sĩ,
doanh nhân và những khoản quyên góp từ tấm lòng của người
dân cả nước đã thể hiện đậm nét truyền thống nhân văn “một

21


×