Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Một số giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho lao động nông thôn vùng thu hồi đất huyện quế võ, tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 123 trang )



i
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
2.1. Mục tiêu tổng quát 2
2.2. Mục tiêu cụ thể 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
3.1. Đối tượng nghiên cứu 3
3.2. Phạm vi nghiên cứu 3
4. Ý nghĩa khoa học của luận văn 4
4.1. Ý nghĩa lý luận 4
4.2. Ý nghĩa thực tiễn 4
5. Bố cục của luận văn 4
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5
1.1. Cơ sở khoa học về công nghiệp hóa và đô thị hóa 5
1.1.1. Khái niệm công nghiệp hóa 5
1.1.2. Đô thị hóa 5
1.1.2.1. Khái niệm đô thị hóa: Có rất nhiều khái niệm khác nhau về
đô thị hoá 5
1.1.2.2. Xu hướng phát triển của quá trình đô thị hoá 6
1.1.2.3. Đô thị hóa tác động đến việc làm 7
1.1.3. Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển khu công
nghiệp và đô thị hóa 8
1.1.3.1. Những thành tựu chủ yếu phát triển khu công nghiệp 8
1.1.3.2. Hạn chế, tồn tại phát triển khu công nghiệp 9
1.1.3.3. Đô thị hóa và vấn đề đô thị hóa ở Việt Nam 14



ii
1.1.4. Tác động của phát triển khu công nghiệp và đô thị hóa tới lao
động việc làm khu vực nông thôn 17
1.1.4.1. Tác động tích cực 17
1.1.4.2. Tác động tiêu cực 19
1.2. Cơ sở lý luận về lao động, việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao
động trong nông thôn 20
1.2.1. Lao động và việc làm 20
1.2.2. Thất nghiệp 27
1.2.3. Thiếu việc làm 28
1.2.4. Tạo việc làm, việc làm mới 29
1.2.5. Chuyển dịch cơ cấu lao động 29
1.3. Cơ sở thực tiễn về lao động, việc làm 31
1.3.1. Thực trạng thu hồi đất và tác động của nó tới lao động, việc
làm và chuyển dịch cơ cấu lao động 31
1.3.2. Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho người lao động ở các
tỉnh, thành phố trong nước 35
1.4. Phương pháp nghiên cứu đề tài 41
1.4.1. Khung phân tích 41
1.4.2. Phương pháp thu thập thông tin 42
1.4.2.1. Chọn điểm nghiên cứu 42
1.4.2.2. Thu thập và xử lý thông tin 42
1.4.3. Các phương pháp phân tích chủ yếu 44
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO CÁC
HỘ NÔNG DÂN VÙNG THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
QUẾ VÕ - TỈNH BẮC NINH 46
2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu của huyện Quế Võ 46
2.1.1. Điều kiện tự nhiên 46



iii
2.1.1.1. Vị trí địa lý 46
2.1.1.2. Thời tiết khí hậu 46
2.1.1.3. Địa hình thổ nhưỡng 47
2.1.2. Điều kiện kinh tế-xã hội 47
2.1.2.1. Đất đai 47
2.1.2.2. Dân số lao động 47
2.1.2.3. Kết quả phát triển kinh tế 48
2.1.2.4. Tình hình thu hồi đất 48
2.1.3. Quá trình phát triển công nghiệp, các khu và cụm công
nghiệp của huyện trong thời gian qua 49
2.2. Thực trạng thu hồi đất và tác động của nó tới lao động, việc làm
và chuyển dịch cơ cấu lao động ở huyện 49
2.2.1. Thực trạng thu hồi đất nông nghiệp của huyện 49
2.2.2. Thực trạng thu hồi đất nông nghiệp của các xã điều tra 52
2.3. Thực trạng công tác giải quyết việc làm cho người lao động trong
các vùng bị thu hồi đất ở huyện 53
2.3.1. Các chính sách của tỉnh Bắc Ninh đối với lao động vùng thu
hồi đất 53
2.3.2. Thực trạng công tác dạy nghề và giải quyết việc làm cho
người lao động trong vùng thu hồi đất của huyện 57
2.3.2.1. Thực trạng công tác dạy nghề và giải quyết việc làm cho
lao động trong huyện 57
2.3.2.2. Thực trạng công tác giải quyết việc làm cho người lao
động ở 12/21 xã, thị trấn trong huyện 62
2.3.2.3. Tình hình việc làm của lao động bị thu hồi đất 64
2.3.2.4. Thực trạng công tác đào tạo nghề cho người lao động
trong vùng thu hồi đất 66



iv
2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của các hộ nông dân bị thu
hồi đất 67
2.4.1. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của các hộ
nông dân bị thu hồi đất 67
2.4.2. Đánh giá chung về thực trạng giải quyết việc làm cho hộ
nông dân bị thu hồi đất 71
2.4.2.1. Một số tồn tại trong giải quyết việc làm cho hộ nông dân bị
thu hồi đất 71
2.4.2.2. Nguyên nhân 72
Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN VÙNG THU HỒI
ĐẤT HUYỆN QUẾ VÕ - TỈNH BẮC NINH 85
3.1. Quan điểm, định hướng và mục tiêu giải quyết việc làm cho người
lao động trong vùng thu hồi đất 85
3.1.1. Định hướng 85
3.1.2. Dự báo những biến động về đất đai và lao động của huyện
Quế Võ đến năm 2020 86
3.1.2.1. Dự báo biến động về đất đai 86
3.1.2.2. Dự báo biến động về dân số và lao động 87
3.1.2.3. Dự báo giải quyết việc làm đến năm 2015 88
3.1.3. Định hướng tạo việc làm cho người lao động trong vùng thu
hồi đất huyện Quế Võ trong thời gian tới 88
3.1.4. Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của huyện Quế Võ 89
3.1.4.1. Mục tiêu chung 89
3.1.4.2. Mục tiêu cụ thể 90
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho người lao
động sau khi bị thu hồi đất 91



v
3.2.1. Về phía Nhà nước 91
3.2.1.1. Hoàn thiện việc quy hoạch đất đai và quản lý tốt kinh phí
trong đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng 91
3.2.2.2. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế 92
3.2.2.3. Tổ chức đào tạo nghề cho nông dân 95
3.2.2.4. Tăng cường các hoạt động hỗ trợ để khuyến khích người
lao động tìm kiếm việc làm và phát triển sản xuất 97
3.2.2.5. Đẩy mạnh công tác xuất khẩu lao động, tăng cơ hội việc
làm ngoài nước cho người lao động 99
3.2.2.6. Phát triển thông tin thị trường lao động, tổ chức hiệu quả
sàn giao dịch việc làm vệ tinh 100
3.2.2.7. Thành lập quỹ hỗ trợ ổn định đời sống, học tập, dạy nghề
cho người lao động 101
3.2.2. Về phía doanh nghiệp 102
3.2.3. Về phía hộ nông dân 102
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 104
1. Kết luận 104
2. Kiến nghị 106


vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Tổng hợp số xã và cơ sở đào tạo nghề điều tra 43
Bảng 2.1. Phân tổ các xã, thị trấn theo tỷ lệ đất NN chuyển đổi sang đất
phi NN giai đoạn 2006-2010 50
Bảng 2.2. Số hộ có diện tích đất nông nghiệp chuyển đổi của các xã 51
Bảng 2.3. Thực trạng đất đai chuyển đổi của các xã điều tra 52
Biểu đồ 2.1. Kết quả điều tra ý kiến người dân về chính sách đền bù 55

Biểu đồ 2.2. Kết quả điều tra ý kiến người dân về chính sách hỗ trợ sản xuất 56
Biểu đồ 2.3. Kết quả điều tra ý kiến người dân về chính sách hỗ trợ việc làm 57
Bảng 2.4. Số học viên được đào tạo nghề sơ cấp tại Trung tâm dạy nghề
của huyện giai đoạn 2007 - 2010 58
Bảng 2.6. Việc làm của lao động bị thu hồi đất nông nghiệp của 12/21
xã, thị trấn điều tra của huyện (từ năm 2006-2010) 63
Bảng 2.7. Việc làm của lao động sau khi thu hồi đất 64
Bảng 2.8. Thu nhập bình quân của nhân khẩu trong vùng 65
Bảng 2.9. Nguyên nhân không kiếm được việc làm 67
Bảng 2.10. Ảnh hưởng của các yếu tố sản xuất tới thu nhập của hộ sau
thu hồi đất 68
Bảng 2.11. Tình hình mở lớp dạy nghề cho người dân bị thu hồi đất
nông nghiệp 74
Bảng 2.12. Tuổi của lao động bị thu hồi đất nông nghiệp 75
Bảng 2.13. Trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật của lao động 76
Bảng 2.14. Tình hình học vấn của hộ 77
Bảng 2.15. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người lao động 78
Bảng 2.16. Tình trạng việc làm 78
Bảng 2.17. Nhu cầu làm thêm 79
Bảng 2.18. Nghề nghiệp chính của lao động vùng thu hồi đất 79


vii
Bảng 2.19. Số lao động có thể tìm nghề mới 80
Bảng 2.20. Thời gian cần thiết để tìm được việc làm 80
Bảng 2.21. Thực trạng hỗ trợ tìm việc làm 81
Bảng 3.1. Biến động về đất đai của huyện Quế Võ đến năm 2020 86
Bảng 3.2. Dự báo biến động về dân số và lao động 87
Bảng 3.3. Dự kiến cơ cấu kinh tế trong những năm tới 93



viii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1. Kết quả điều tra ý kiến người dân về chính sách đền bù 55
Biểu đồ 2.2. Kết quả điều tra ý kiến người dân về chính sách hỗ trợ sản xuất 56
Biểu đồ 2.3. Kết quả điều tra ý kiến người dân về chính sách hỗ trợ việc làm 57



1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa (CNH) và hiện đại hóa
(HĐH) đất nước, từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới. Vì vậy, việc
phát triển các khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp (CCN), các khu chế
xuất và đô thị (ĐT) là tất yếu. Tuy nhiên, điều đó dẫn đến sự thay đổi nhiều
mặt trong đời sống kinh tế xã hội nông thôn.
Sự phát triển các KCN, khu chế xuất, CCN, ĐT dẫn đến sự thay đổi về
đất đai, lao động, việc làm, thu nhập và cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn. Xét về lâu dài, sự thay đổi này mang tính chất tích cực, tạo điều kiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, thương mại - dịch vụ,
giảm dần tỷ trọng nông nghiệp trong tổng sản phẩm quốc nội, góp phần đẩy
nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước, tạo ra việc làm, nâng cao thu nhập
cho người lao động. Quá trình CNH, HĐH sẽ góp phần hiện đại hoá các quá
trình sản xuất trong nông nghiệp, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, qua đó
làm giảm nhẹ sức lao động trong lĩnh vực nông nghiệp. Nhưng, sự phát triển
các KCN, CCN, khu chế xuất và ĐT cũng tạo ra rất nhiều khó khăn cho
nông dân các vùng có đất thu hồi. Đó là sự mất dần diện tích đất nông

nghiệp và hậu quả của nó là hàng ngàn nông hộ không có hoặc thiếu đất sản
xuất, tăng tỷ lệ thất nghiệp và tạo ra nhiều vấn đề tiêu cực trong xã hội nông
thôn. Đó là việc sử dụng tiền đền bù không đúng mục đích, dẫn đến lãng phí
không cần thiết, đôi khi dẫn đến những hậu quả xã hội không lường. Đó là
sự tăng lên về giá tiêu dùng do tập trung quá nhiều người tiệu thụ hàng hóa.
Đó là các vấn đề xã hội nảy sinh ở các KCN, khu chế xuất… Vì vậy, việc
giải quyết vấn đề việc làm, tăng thu nhập một cách ổn định cho lao động
nông thôn nói chung và cho lao động nông thôn thuộc những vùng thu hồi
đất nông nghiệp nói riêng đang là vấn đề có tính chất thời sự.


2
Kinh tế huyện Quế Võ trong những năm qua đã có những bước phát triển
mạnh mẽ. Tốc độ phát triển kinh tế của Huyện tăng bình quân 14,8% trong
giai đoạn 2006-2010. Tỷ trọng ngành nông, lâm, ngư nghiệp giảm xuống còn
18,3% năm 2010 từ 40% năm 2005; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây
dựng cơ bản tăng nhanh từ 37,6% năm 2005 lên 51,7% năm 2010; thương mại,
dịch vụ tăng từ 22,4% năm 2005 lên 30% năm 2010. Tuy nhiên, hàng năm diện
tích đất nông nghiệp giảm do chuyển sang sử dụng cho mục đích công
nghiệp, dịch vụ, giao thông vận tải ngày càng tăng.
Thực tế cho thấy, hàng ngàn lao động nông nghiệp sau khi bị thu hồi đất
đang có nhu cầu được đào tạo nghề, được bố trí công ăn, việc làm ổn định;
tình trạng lao động trong vùng thu hồi đất không tìm được việc làm, hoặc tìm
được việc làm không ổn định, tình trạng các doanh nghiệp sau khi tuyển dụng
lao động theo cam kết đã sa thải lao động hoặc trả lương quá thấp khiến người
lao động tự bỏ việc không phải là hiện tượng cá biệt. Vì vậy, việc tìm ra các
giải pháp giải quyết việc làm ổn định, tăng thu nhập cho người lao động nhất
là ở vùng thu hồi đất là vấn đề cấp thiết có tính bức xúc không phải chỉ của
riêng huyện Quế Võ mà là vấn đề có tính thời sự cho tất cả các huyện, thành
phố, thị xã trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có đất chuyển đổi mục đích sử dụng

sang phát triển các KCN, CCN và ĐT.
Việc nghiên cứu nhằm đề xuất “Một số giải pháp chủ yếu nhằm giải
quyết việc làm cho lao động nông thôn vùng thu hồi đất huyện Quế Võ,
tỉnh Bắc Ninh” do đó, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Đề xuất một số giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho lao động ở
vùng thu hồi đất, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động trong huyện theo
hướng CNH, HĐH cho giai đoạn 2011-2015.


3
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá những lý luận cơ bản liên quan đến lao động, việc làm
trong quá trình CNH, đô thị hóa (ĐTH) ở vùng thu hồi đất.
- Đánh giá thực trạng công tác giải quyết việc làm vùng thu hồi đất trên
địa bàn huyện.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm làm tốt công tác giải quyết việc
làm cho lao động nông thôn vùng thu hồi đất trên địa bàn huyện cho giai đoạn
2011-2015.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những hộ nông dân bị thu hồi đất
thuộc 05 xã trên địa bàn của huyện bao gồm: Phương Liễu, Phượng Mao,
Châu Phong, Nhân Hòa, Ngọc Xá.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung.
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về KCN,
CCN và ĐT, công tác giải quyết việc làm cho người lao động trong vùng có
đất nông nghiệp có chuyển đổi mục đích sử dụng sang phát triển các KCN,

CCN, ĐT; tình hình thực hiện các chính sách hỗ trợ của Nhà nước với các hộ
có đất thu hồi, những khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm, các giải pháp
nhằm giải quyết việc làm cho người lao động trong những vùng thu hồi đất.
- Phạm vi không gian:
Đề tài được tiến hành trên địa bàn 05 xã của huyện, bao gồm: Phương
Liễu, Phượng Mao, Châu Phong, Nhân Hòa, Ngọc Xá. Đó là các xã trọng
điểm về thu hồi đất nông nghiệp.
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2006 đến 2010.


4
4. Ý nghĩa khoa học của luận văn
4.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài là sự tổng hợp, hệ thống hóa các lý luận hữu quan về giải quyết
việc làm cho lao động nông thôn vùng thu hồi đất trong quá trình CNH, ĐTH.
4.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài là công trình nghiên cứu khoa học có ý nghĩa thực tiễn thiết thực,
là tài liệu tham khảo giúp Ủy ban Nhân dân (UBND) huyện Quế Võ xây dựng
quy hoạch mở rộng, phát triển KCN, CCN và ĐT gắn với công tác giải quyết
việc làm cho lao động vùng thu hồi đất, đồng thời xây dựng kế hoạch phát
triển nguồn nhân lực là lao động nông thôn, đảm bảo tạo công ăn việc làm ổn
định cho lao động nông thôn nói chung và cho lao động nông thôn vùng thu
hồi đất của huyện nói riêng. Từ đó, góp phần ổn định xã hội nông thôn, thực
hiện có hiệu quả kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của huyện giai đoạn 2011-
2015 và những năm tiếp theo có cơ sở khoa học.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được trình bày trong 3 phần chính
- Chương 1: Tổng quan tài liệu và phương pháp nghiên cứu.
- Chương 2: Thực trạng giải quyết việc làm cho các hộ nông dân vùng
thu hồi đất trên địa bàn huyện Quế Võ - tỉnh Bắc Ninh.

- Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho lao
động nông thôn vùng thu hồi đất huyện Quế Võ - tỉnh Bắc Ninh.








5
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở khoa học về công nghiệp hóa và đô thị hóa
1.1.1. Khái niệm công nghiệp hóa
Kết hợp quan niệm truyền thống với quan niệm hiện đại và vận dụng
vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành TW
Đảng Khóa VII đã đưa ra quan niệm mới về CNH, HĐH và đây cũng chính là
quan niệm được sử dụng một cách phổ biến ở nước ta hiện nay. Theo tư
tưởng này CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế-xã hội từ sử dụng lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát
triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học-công nghệ, tạo ra năng suất xã hội
cao (ĐCSVN, 2006).
1.1.2. Đô thị hóa
1.1.2.1. Khái niệm đô thị hóa: Có rất nhiều khái niệm khác nhau về đô thị hoá
Hiểu một cách đơn giản thì đô thị hóa là một biểu hiện của phát triển
kinh tế - xã hội. Theo nghĩa hẹp, đô thị hoá được hiểu là quá trình di cư từ
lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực phi nông nghiệp với biểu hiện bên ngoài

là sự gia tăng tỷ lệ dân số đô thị, sự nâng cao về mức độ trang bị yếu tố kỹ
thuật đô thị. Hiểu theo một cách khái quát hơn, đô thị hóa là quá trình biến
chuyển kinh tế - xã hội - văn hóa và không gian lãnh thổ gắn liền với những
tiến bộ về khoa học kỹ thuật của xã hội loài người trong đó diễn ra sự phát
triển nghề nghiệp mới, sự chuyển dịch cơ cấu lao động, sự chuyển đổi lối
sống, sự mở rộng… Các nước có trình độ phát triển càng cao thì tỷ lệ đô thị
hoá càng cao.


6
Trên quan điểm một vùng: Đô thị hoá là quá trình hình thành, phát triển
các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị.
Trên quan điểm kinh tế quốc dân: Đô thị hoá là quá trình biến đổi về sự
phân bố các yếu tố lực lượng sản xuất, bố trí dân cư những vùng không phải
đô thị thành đô thị.
Đô thị hoá là sự mở rộng của đô thị tính theo tỷ lệ phần trăm giữa số
dân đô thị hay diện tích đô thị trên tổng số dân hay tổng diện tích của một
vùng, khu vực. Nó cũng có thể tính theo tỷ lệ gia tăng của hai yếu tố đó theo
thời gian. Nếu tính theo cách đầu thì nó còn được gọi là mức độ đô thị hoá,
nếu tính theo cách sau còn được gọi là tốc độ đô thị hoá.
Dù hiểu theo cách nào thì quá trình đô thị hoá đều gắn liền với quá
trình hoạt động và mở rộng các thành phố, quá trình đô thị hóa có ảnh hưởng
rất lớn đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội nước ta. Đô thị hoá làm tăng
mật độ dân cư, tập trung sức người vào việc phát triển kinh tế vùng, làm thay
đổi nông thôn dần biến nông thôn thành thành thị. Từ đó, quá trình đô thị hoá
góp phần không nhỏ vào việc nâng cao đời sống người dân. Quá trình đô thị
hoá cũng được hiểu là quá trình cải biến cơ cấu kinh tế của từng khu vực theo
hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ và giảm dần tỷ trọng
ngành nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế. (Nguyễn Đình Hương và Nguyễn
Hữu Đoàn, 2002).

1.1.2.2. Xu hướng phát triển của quá trình đô thị hoá
Biểu hiện của quá trình đô thị hoá là quá trình tập trung dân cư làm cho
quy mô dân số cũng như mật độ dân cư tăng cao; nâng cấp và xây dựng mới
cơ sở hạ tầng; đầu tư, phát triển kinh tế, thành lập các khu công nghiệp; làm
tăng vai trò trung tâm của đô thị đó… Đô thị hoá diễn ra ngày càng nhanh và
tiếp tục phát triển theo xu hướng sau:


7
Thứ nhất: Hình thành các trung tâm công nghiệp, trung tâm thương mại
và dịch vụ ở các đô thị lớn. Tại các đô thị lớn đã có nhiều trung tâm công
nghiệp và thương mại, dịch vụ. Việc hình thành các trung tâm mới sẽ nâng
cao tính cạnh tranh giữa các trung tâm này, nâng cao hoạt động của đô thị, tạo
ra tính chuyên môn cao trong sản xuất. Điều này thúc đẩy quá trình đô thị hoá
theo chiều sâu.
Thứ hai: Hình thành các trung tâm công nghiệp, trung tâm thương mại
và dịch vụ ở các vùng lân cận đặc biệt là các vùng ngoại ô. Điều này làm cho
giảm sự quá tải cho các trung tâm đô thị lớn, mở rộng quy mô ra các vùng
xung quanh.
Thứ ba: Đô thị hoá sẽ phát triển theo hướng nâng cao hạ tầng nông
thôn, chuyển một phần nông thôn thành thành thị. Từ đó sẽ nâng cao mức
sống của người dân ở các vùng nông thôn.
Thứ tư: Song song với việc phát triển đô thị theo chiều sâu là phát triển
đô thị theo chiều rộng bằng việc mở rộng phạm vi đô thị. (Nguyễn Đình Hương
và Nguyễn Hữu Đoàn, 2003).
1.1.2.3. Đô thị hóa tác động đến việc làm
Đô thị hoá là xu thế tất yếu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Quá trình đô thị hoá diễn ra thường xuyên và tốc độ ngày càng nhanh ở nước
ta hiện nay. Nó có tác động rất lớn đến việc làm ở đô thị, có cả tác động tích
cực và tác động tiêu cực.

a) Tác động tích cực
Quá trình đô thị hoá luôn gắn liền với quá trình công nghiệp hoá và
hiện đại hoá của một quốc gia. Vì vậy, đi liền với quá trình đô thị hoá là sự
thành lập của các khu công nghiệp mới, xuất hiện các ngành sản xuất mới
đồng thời là sự mở rộng của các doanh nghiệp sẵn có. Từ đó, tạo thêm được
một khối lượng việc làm rất lớn giải quyết việc làm cho người lao động, giảm
tỷ lệ thất nghiệp trong đô thị. Hơn nữa, quá trình đô thị hoá làm cho đời sống


8
của người dân được nâng cao, chất lượng nguồn lao động cũng như trình độ
của người dân được nâng lên rõ rệt. Đây là điều kiện thuận lợi cho người lao
động tìm được những công việc phù hợp với trình độ cũng như công việc có
thu nhập như mong muốn.
b) Tác động tiêu cực
Bên cạnh những tác động tích cực thì quá trình đô thị hoá cũng có
những tác động xấu đến việc làm đô thị, đó là:
Quá trình đô thị hoá làm biến đổi nông thôn thành đô thị, lao động chủ
yếu là phi nông nghiệp, đòi hỏi lực lượng lao động phải có trình độ cao. Hơn
nữa, cơ cấu kinh tế cũng thay đổi tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ
giảm tỷ trong ngành nông nghiệp, và trong thời gian ngắn số lao động nông
nghiệp trước kia không đáp ứng được yêu cầu đó nên tạm thời khó tìm được
việc làm.
Đô thị hoá làm quy mô dân số đô thị tăng cao, bùng nổ dân số cộng với
di dân từ nông thôn ra thành thị tạo ra sức ép rất lớn về việc làm cho đô thị.
Đồng thời đô thị lại là trung tâm kinh tế - văn hoá - xã hội, là nơi có cơ sở hạ
tầng tốt nhất, do vậy các khu công nghiệp, trung tâm thương mại, ngân hàng,
cơ quan lãnh đạo… đều tập trung ở đô thị. Quá trình đô thị hóa nhờ đó mà thu
hút được một lượng lớn lao động có trình độ văn hoá, tay nghề cao dẫn đến sự
cạnh tranh trong việc tìm kiếm việc làm và sức ép về việc làm càng lớn hơn.

Nói tóm lại, quá trình đô thị hóa tuy có những tác động tích cực nhưng
không tránh khỏi nhưng tác động tiêu cực, nó làm cho vấn đề việc làm ngày
càng căng thẳng. (Nguyễn Đình Hương và Nguyễn Hữu Đoàn, 2002, 2003).
1.1.3. Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển khu công nghiệp và
đô thị hóa
1.1.3.1. Những thành tựu chủ yếu phát triển khu công nghiệp
Năm 1991, khu chế xuất Tân Thuận được thành lập “khai sinh” ra mô
hình các KCN trong chiến lược xây dựng phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam.


9
Từ đó đến nay với nhiều cơ chế, chính sách liên quan đến việc thành lập, hoạt
động của các KCN và khu chế xuât (KCX) được ban hành, điều chỉnh đã tạo
ra hành lang pháp lý cho sự ra đời và phát triển các KCN, KCX trên địa bàn
cả nước. Tính đến nay (năm 2010), Việt Nam đã có 250 KCN, KCX được
thành lập, trong đó có 170 KCN (chiếm 68% tổng số KCN của cả nước) đã đi
vào hoạt động, số còn lại đang trong quá trình xây dựng, hoàn thiện. Các
KCN, KCX chủ yếu được thành lập ở ba vùng kinh tế trọng điểm (vùng kinh
tế trọng điểm phía bắc; vùng kinh tế trọng điểm phía nam; vùng kinh tế trọng
điểm miền trung), song cho đến nay cả nước có 57 tỉnh, thành phố có KCN,
KCX được thành lập.
Hiện nay, các KCN, KCX đã thu hút được 8.500 dự án đầu tư trong và
ngoài nước với tổng vốn đăng ký khoảng 70 tỷ USD, trong đó vốn đầu tư
nước ngoài hơn 52 tỷ (chiếm 30% FDI cả nước), còn lại là vốn đầu tư của các
doanh nghiệp trong nước. Nếu tính về giá trị sản xuất công nghiệp, các KCN,
KCX hiện nay đã đóng góp hơn 30% giá trị công nghiệp của cả nước đã tạo
việc làm cho hơn 1,5 triệu lao động trực tiếp và hàng vạn lao động gián tiếp.
Ngoài ra, các KCN, KCX phát triển đã kéo theo sự đầu tư về cơ sở hạ tầng
(điện, đường, nước ). Những kết quả này cho thấy vai trò quan trọng của
KCN, KCX góp phần cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ðó là thúc

đẩy sản xuất công nghiệp, xuất nhập khẩu; thu hút vốn đầu tư; nộp ngân sách
Nhà nước; tạo công ăn việc làm cho người lao động; đẩy mạnh chuyển dịch
cơ cấu kinh tế; nâng trình độ công nghệ sản xuất; tạo sản phẩm có sức cạnh
tranh, Như vậy, các KCN, KCX thật sự là một động lực mạnh mẽ của sự
nghiệp CNH, HĐH. (Phạm Thanh Hà, 2011).
1.1.3.2. Hạn chế, tồn tại phát triển khu công nghiệp
Thành tựu đem lại từ phát triển các KCN trong suốt thời gian từ năm
1991 đến nay là thực sự to lớn và không thể phủ nhận. Tuy nhiên, bên cạnh


10
những kết quả tích cực đã đạt được, chính sách đầu tư phát triển KCN của
chúng ta thời gian qua vẫn còn nhiều bất cập, trong đó nổi lên bốn vấn đề tồn
tại lớn sau đây:
- Thứ nhất, số lượng các KCN tăng nhanh nhưng hiệu quả hoạt động
chưa cao.
Khả năng thu hút đầu tư của nhiều KCN còn thấp dẫn đến không phát
huy được hiệu quả vốn đầu tư xây dựng KCN. Việc quy hoạch xây dựng các
KCN hiện nay vừa có tình hình không đáp ứng kịp thời nhu cầu thuê đất của
nhà đầu tư, vừa có tình hình để đất trống trong một thời gian dài. Đáng chú ý
là hiệu quả sử dụng đất tại các KCN chưa cao, tỷ lệ lấp đầy bình quan cả nước
mới đạt 46%, riêng tại các KCN đã đi vào vận hành mới lấp đầy được 64%
(nhiều KCN đã thành lập từ năm 1995 nhưng mới chỉ cho thuê được dưới
50% như các KCN Đài Tư, Tịnh Phong, Quảng Phú, Cái Lân ); tỷ lệ thực
hiện vốn đầu tư của các dự án hạ tầng KCN đạt thấp (các dự án KCN có vốn
đầu tư nước ngoài đạt 35,7%; dự án đầu tư trong nước đạt 40,3%). Vốn đầu tư
bình quân một dự án đầu tư nước ngoài trong KCN là 6 triệu USD và vốn đầu
tư trên 1 ha đất xây dựng nhà máy là 1,95 triệu USD, ở mức thấp hơn so với
các nước khác trong khu vực. Giá thuê đất gắn với hạ tầng ở nhiều nơi quá
cao, chưa thu hút được các nhà đầu tư vào KCN.

Một số địa phương có nhiều thuận lợi trong phát triển công nghiệp và
đã phát triển các KCN từ lâu nhưng kết quả đạt được còn chưa tương xứng
với tiềm năng. Đặc biệt là thiếu sự phối hợp giữa các KCN, giữa các địa
phương trong vùng. Các KCN phát triển riêng rẽ, đầu tư tất cả các hạng mục
công trình, đầu tư tốn kém, giảm hiệu quả hoạt động của các KCN. Nhiều nơi
do mong muốn đẩy nhanh tốc độ phát triển công nghiệp, thu hút đầu tư nên đã
hình thành các KCN theo nhiều cách khác nhau, thiếu đồng bộ dẫn đến gặp
phải nhiều vấn đề trong quá trình phát triển (về bảo vệ môi trường, về nguồn


11
vốn, các giải pháp kỹ thuật và đặc biệt là phương thức kinh doanh hạ tầng ).
Mặt khác, các KCN còn yếu kém về năng lực cạnh tranh và tính liên kết giữa
các KCN và giữa các tỉnh trong khu vực. Nhiều địa phương tự “xé rào” để tạo
cơ chế ưu đãi riêng, dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh. Nói cách khác,
về tổng thể chúng ta còn thiếu một tầm nhìn chiến lược trong quy hoạch phát
triển KCN. Hậu quả là việc phát triển KCN phân tán, chia cắt, hình thành
khắp cả nước (gần như tỉnh nào cũng có KCN), trong đó nhiều KCN xây
dựng xong không có khả năng lấp đầy, lãng phí rất lớn.
- Thứ hai, phát triển KCN chưa bảo đảm bền vững trên các khía cạnh
xã hội, môi trường
Đầu tư phát triển các KCN thời gian qua chưa đảm bảo các điều kiện về
cơ sở hạ tầng xã hội ngoài hàng rào KCN. Dịch vụ phục vụ KCN, KCX còn
thiếu và chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Đời sống của người lao động
trong KCN, của các hộ dân bị thu hồi đất để xây dựng KCN đã được quan tâm
hơn nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đảm bảo cuộc sống
với thu nhập ổn định cho người lao động và gia đình. Việc tập trung lao động
quá cao ở một số khu vực có nhiều KCN trong khi các điều kiện hạ tầng xã
hội chung của khu vực (đường giao thông, nhà ở, bệnh viện, trường học trung
tâm thương mại ) chưa phát triển đồng bộ để đáp ứng nhu cầu đó, nên tạo ra

tình trạng quá tải cho khu vực, có thể nhận thấy ở các dấu hiệu ách tắc giao
thông, giá cả sinh hoạt tăng cao, nảy sinh các hiện tượng xã hội
Cơ chế, chính sách hiện hành về đầu tư phát triển các hạng mục bảo vệ
môi trường, tiện nghi, tiện ích công cộng trong KCN, KCX và khu dân cư,
nhà ở cho người lao động chưa thực sự khuyến khích các nhà đầu tư. Hiện
nay các khu nhà ở tập trung do Nhà nước đầu tư mới chỉ đáp ứng được
khoảng 10% nhu cầu chỗ ở cho người lao động tại các KCN, còn 90% công
nhân phải tự thu xếp chỗ ở, thuê nhà trọ rải rác tại các khu dân cư lân cận với


12
điều kiện sống tạm bợ, hết sức khó khăn. Công tác bảo vệ môi trường chưa
được đẩy mạnh đúng mức, đặc biệt là công tác kiểm tra, giám sát việc chấp
hành pháp luật về bảo vệ môi trường sau khi cấp phép đầu tư. Theo giám sát
của Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, tỷ lệ các KCN
có hệ thống xử lý nước thải tập trung ở một số địa phương rất thấp, có nơi chỉ
đạt 15-20% như Bà Rịa - Vũng tàu, Vĩnh Phúc. Một số KCN có xây dựng hệ
thống xử lý nước thải tập trung nhưng hầu như không vận hành vì để giảm chi
phí xử lý. Đến nay mới có 60 KCN đã hoạt động có trạm xử lý nước thải tập
trung (chiếm 42% số KCN đã vận hành) và 20 KCN đang xây dựng trạm xử
lý nước thải. Tại một số KCN tình trạng ô nhiễm không khí đang tăng tới mức
giới hạn do có nhiều cơ sở sản xuất xi măng, đốt nhiên liệu dầu FO, DO cung
cấp cho lò hơi, lò sấy, lò nung.
- Thứ ba, các KCN phát triển nhanh nhưng chưa tính đến mục tiêu dài
hạn về cơ cấu ngành nghề, cơ cấu công nghệ
Các địa phương đã chú trọng tới cơ cấu đầu tư vào KCN, KCX theo
hướng ưu tiên ngành công nghệ cao, ít ảnh hưởng tới môi trường, song kết
quả đạt được còn hạn chế, hàm lượng công nghệ trong đầu tư còn thấp. Cơ
cấu đầu tư theo ngành, lĩnh vực công nghệ, các dự án FDI vào KCN hiện nay
chủ yếu là công nghiệp thực phẩm là những dự án thu hút nhiều lao động và

có tỷ lệ xuất khẩu cao.
Các dự án công nghiệp nặng chủ yếu tập trung trong lĩnh vực sản xuất,
lắp ráp các sản phẩm điện, điện tử, vật liệu xây dựng, sắt thép, hoá chất còn
khá khiêm tốn và tập trung phần lớn tại các Vùng kinh tế trọng điểm. Các
ngành công nghiệp có giá trị tăng cao còn chiếm tỷ lệ thấp chưa hỗ trợ hoặc
phối hợp được với nhau trên cùng địa bàn và trong cùng khu vực.
Hiện nay chưa có đánh giá đầy đủ về cơ cấu các ngành công nghiệp
được đầu tư trong các KCN trên cả nước, nhưng có thể thấy rằng phần lớn là


13
các KCN tổng hợp, có cơ cấu ngành nghề tương đối giống nhau, chưa phân
định rõ ngành nghề chủ đạo, lại giới hạn theo ranh giới hành chính, có nhiều
cơ chế quản lý không đồng bộ giữa các địa phương dẫn đến hiệu quả kinh
doanh hạ tầng kém, gây ô nhiễm môi trường. Mặc dù quy hoạch phát triển các
KCN đã xác định rõ định hướng phát triển và phân bố, quy mô và cơ cấu
ngành nghề thu hút đầu tư nhưng chưa có sự phân loại các KCN theo vị trí,
chức năng và tầm quan trọng của các KCN để tạo điều kiện phân cấp, xác
định cơ chế quản lý và có chính sách đầu tư phát triển phù hợp theo điều kiện
của từng vùng lãnh thổ.
- Thứ tư, nguồn nhân lực tại các KCN chưa đáp ứng được cả về chất
lượng và số lượng.
Do kinh tế phát triển nhanh, nhu cầu phát triển hoạt động sản xuất kinh
doanh tăng mạnh nên nhu cầu về lao động có xu hướng tăng nhanh. Sự khan
hiếm nhân lực tập trung ở số lao động có trình độ, kỹ năng chuyên môn. Sau
khi gia nhập WTO, do thiếu sự đón đầu trong đào tạo và chuẩn bị cho hội
nhập, chúng ta còn thiếu chủ động về nguồn nhân lực. Tình trạng thiếu lao
động không còn dừng lại ở một số ngành nghề và địa phương mà đã trở thành
vấn đề chung của tất cả các KCN hiện nay. Theo báo cáo, mỗi năm các KCN,
KCX trên cả nước thu hút được lực lượng lao động khoảng trên 7 vạn người,

tuy nhiên lao động có trình độ đại học và trên đại học còn chiếm tỷ trọng nhỏ
trong tổng số lao động trong các KCN, KCX (khoảng 4-5%) kỹ thuật viên
chiếm 4 - 5%, công nhân kỹ thuật đã qua đào tạo chiếm hơn 30% và còn lại
hơn 60% là lao động giản đơn. Tỷ lệ này cho thấy, trình độ trung bình của
người lao động trong các KCN, KCX còn rất thấp.
Ở nước ta hiện nay, việc đẩy mạnh công nghiệp hoá đồng nghĩa với
việc gia tăng mạnh mẽ nhu cầu về mặt bằng để xây dựng cơ sở hạ tầng cũng
như các KCN. Mặt trái của quá trình CNH cho thấy thay vì biến người nông


14
dân thành công nhân thì lại biến họ thành những người thất nghiệp, trở thành
gánh nặng cho gia đình và xã hội. Thực tế này đã trở thành một thách thức
lớn, đặt ra yêu cầu cấp bách phải có những chính sách kịp thời từ phía Chính
phủ cũng như doanh nghiệp nhằm tạo cho người dân có việc làm để ổn định
đời sống. Các nhà quản lý chưa thực sự ý thức vấn đề bảo vệ môi trường, đảm
bảo các vấn đề xã hội, đời sống người lao động và nhà ở công nhân trong
quản lý hoạt động các KCN, KCX nhằm mục tiêu phát triển lâu dài và bền
vững KCN, KCX dẫn tới quản lý việc thực hiện các quy định về bảo vệ môi
trường, pháp luật về lao động của doanh nghiệp còn lỏng lẻo. (Phạm Thanh
Hà, 2011).
1.1.3.3. Đô thị hóa và vấn đề đô thị hóa ở Việt Nam
Thuật ngữ ĐTH đã xuất hiện từ thời cổ đại, nó gắn liền với việc thừa
nhận ngày càng phổ biến vai trò và tầm quan trọng của đô thị đối với phát
triển kinh tế - xã hội. ĐTH là quá trình kinh tế - xã hội, lịch sử mang tính quy
luật trên quy mô toàn cầu. Ngày nay, ĐTH chứa đựng nhiều vấn đề phức tạp
với nhiều hiện tượng và biểu hiện dưới nhiều hình thức, mức độ khác nhau
của một xã hội hiện đại.
Theo cách tiếp cận của nhân khẩu học và địa lý kinh tế thì ĐTH là sự di
cư từ nông thôn vào thành thị, là sự tập trung ngày càng nhiều dân cư sống

trong lãnh thổ địa lý hạn chế được gọi là đô thị. Đó cũng là quá trình gia tăng
tỷ lệ dân cư đô thị trong tổng số dân của quốc gia.
Theo cách tiếp cận xã hội học, ĐTH được hiểu rộng hơn, đó là quá trình
tổ chức lại môi trường cư trú của nhân loại; là sự thay đổi phương thức hay
hình thức cư trú của nhân loại. Điều này có nghĩa là ĐTH không chỉ thay đổi
phương thức sản xuất, tiến hành các hoạt động kinh tế mà còn là sự thay đổi
lớn trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và cá nhân, trong đó quan hệ
xã hội, các mô hình và ứng xử tương ứng với điều kiện CNH, HĐH và ĐTH.


15
ĐTH có hai hình thức biểu hiện là ĐTH theo chiều rộng và ĐTH theo
chiều sâu. ĐTH theo chiều rộng tức là ĐTH diễn ra tại các khu vực trước
đây không phải là đô thị. Đó là quá trình mở rộng quy mô diện tích các đô
thị hiện có trên cơ sở hình thành các đô thị mới, các quận, các phường mới.
Với hình thức này, dân số và diện tích đô thị không ngừng gia tăng, các hoạt
động phi nông nghiệp và các hoạt động của kinh tế đô thị không ngừng mở
rộng. Sự hình thành các đô thị mới được tạo nên cơ sở phát triển các KCN,
thương mại và dịch vụ ở vùng nông thôn và ngoại ô. ĐTH theo chiều rộng là
hình thức phổ biến hiện nay ở các nước đang phát triển trong thời kỳ đầu
công nghiệp hóa.
ĐTH theo chiều sâu tức là quá trình hiện đại hóa và nâng cao các đô thị
hiện có. Mật độ dân số có thể tiếp tục tăng cao, phương thức và các hoạt động
kinh tế ngày càng đa dạng, thực lực khoa học kỹ thuật công nghệ ngày càng
tăng cường, hiệu quả kinh tế - xã hội cũng ngày càng được cải thiện và nâng
cao. (Trịnh Duy Luân, 1996).
* Kết quả đô thị hóa ở Việt Nam
Trong vòng 20 năm qua, Việt Nam đã trải qua thời kỳ ĐTH nhanh
chóng và hệ thống đô thị quốc gia đã có nhiều biến đổi về số lượng. Hệ thống
đô thị hiện nay bao gồm 753 khu đô thị, trong đó có hai thành phố loại đặc

biệt là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, 9 khu đô thị loại I, 12 khu đô thị
loại II, 45 khu đô thị loại III, 41 khu đô thị loại IV và 643 khu đô thị loại V.
Từ năm 1990, đô thị Việt Nam mới bắt đầu phát triển. Từ đó đến nay,
đặc biệt là vài năm trở lại đây tốc độ ĐTH càng diễn ra nhanh chóng. Những
năm đầu 1990 tỷ lệ đô thị hóa hàng năm chỉ đạt khoảng 17-18% nhưng nay
mức độ ĐTH đã tăng lên 27% mỗi năm. Trong thời gian tới Việt Nam sẽ có
nhiều khu đô thị mới ra đời theo nhu cầu phát triển của nền kinh tế và xã hội.
Trong nền kinh tế, các đô thị đóng góp 2 phần 3 giá trị của tổng thu nhập và


16
chiếm 30% tổng số dân. Ngày nay sự thay đổi của nền kinh tế đã tạo điều kiện
cho các đô thị phát triển mạnh mẽ. Một số đô thị chọn hướng phát triển theo
nền kinh tế dịch vụ như Đà Lạt, Phan Thiết, Phú Quốc, Vũng Tàu
Theo quy hoạch, đất đô thị chỉ có 105.000 ha phân bổ khắp 63 tỉnh
thành. Vì vấn đề quy hoạch đô thị chậm đổi mới nên không gian sống ở các
đô thị ngày càng chật hẹp. Hiện nay, Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội tăng
trưởng rất mạnh mẽ và có sức lan tỏa rộng đến các vùng xung quanh.
Theo nghiên cứu của nhiều tổ chức, đô thị Việt Nam đang phát triển
nhưng cũng gặp phải không ít thách thức. Bộ Xây dựng dự báo tỷ lệ ĐTH của
Việt Nam vào năm 2020 sẽ đạt khoảng 40% tương đương với số dân cư sinh
sống tại đô thị chiếm trên 45 triệu dân. Mục tiêu đề ra diện tích bình quân đầu
người là 100 m
2
mỗi người. Nếu đạt tỷ lệ này, sẽ cần có khoảng 450.000 ha
đất đô thị, nhưng hiện nay, diện tích đất đô thị vẫn đang ở quy mô 105.000 ha.
Do vậy, tình trạng thiếu nhà ở cho dân thành thị đang diễn ra trầm trọng. Tình
trạng nhà ở chật chội, nhà tạm còn chiếm phần nhiều và tồn tại ở 2 thành phố
lớn của cả nước phổ biến nhất. Theo thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh còn
có 300.000 người đang sống trong các nhà ổ chuột, 30% dân số Hà Nội phải

sống trong môi trường chật chội với diện tích ở không quá 3 m
2
mỗi người.
Đô thị phát triển nhanh nhưng đời sống người dân thành thị chưa được
quan tâm đầy đủ. Ngay tại Thành phố Hồ Chí Minh, người dân một số quận
huyện chưa được cung cấp nguồn nước máy. Dân số, nhà cửa ngày càng nở ra
nhưng các dịch vụ công ích như cung cấp nước phải theo kế hoạch nhất định
hằng năm. Bên cạnh đó, hệ thống cơ sở hạ tầng không đáp ứng đủ, đường sá
giao thông tắc nghẽn, nguồn nước ngầm và các dòng sông bị đe dọa nhiễm
bẩn nghiêm trọng vì chất thải, không khí ngày càng ô nhiễm nặng nề vì bụi
bặm công trường, khói xe, khói nhà máy sản xuất công nghiệp. Như khảo sát
của các nhà chuyên môn tại các thành phố lớn vẫn còn 20% và các đô thị nhỏ
còn khoảng 45% rác thải xả vào môi trường tự nhiên, chưa được thu gom.


17
Các vấn đề phát sinh khi quá trình ĐTH nhanh đều do sự ảnh hưởng
bởi tình trạng dân nhập cư tại khu vực thành thị. Một phần họ là những nông
dân chán cảnh “chân lấm tay bùn” dắt díu nhau vào các đô thị kiếm việc làm.
Một bộ phận là tầng lớp thanh niên trẻ ở lại thành thị lập nghiệp và làm việc
sau thời gian học tập.
Hiện nay các khu đô thị, thành phố trên cả nước đang đau đầu và khắc
phục những sai sót trong quá trình quy hoạch đô thị trước đây về cơ sở hạ tầng
như đường sá, hệ thống thoát nước, xử lí nước thải Đây là hệ quả của việc quy
hoạch đô thị không đồng bộ. (Bộ Xây dựng, Cục phát triển đô thị, 2010).
1.1.4. Tác động của phát triển khu công nghiệp và đô thị hóa tới lao động
việc làm khu vực nông thôn
1.1.4.1. Tác động tích cực
-Thứ nhất, phát triển KCN và ĐTH tạo mở nhiều việc làm mới trong
lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, thương mại và dịch vụ. Để tiến hành ĐTH

đòi hỏi phải thúc đẩy xây dựng, cải tạo, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật với
việc hình thành các KCN, khu du lịch, khu dịch vụ, thương mại ngày càng
hiện đại. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại sẽ kích thích gia tăng hội tụ các
nguồn đầu tư cho sản xuất, thúc đấy hoạt động kinh tế phi nông nghiệp diễn
ra ngày càng sôi động, đa dạng hóa và phát triển các ngành nghề công nghiệp,
xây dựng, thương mại và dịch vụ,… đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu lao động
từ nông nghiệp sang các ngành phi nông nghiệp. Theo một nghiên cứu thì với
1 ha đất nông nghiệp ở nước ta hiện chỉ sử dụng 3 - 5 lao động và tạo ra giá trị
khoảng 22,5 triệu đồng/năm (2004). Nhưng nếu chuyển sang xây dựng KCN
có thể thu hút 50 - 100 lao động và tạo ra giá trị trên 500 triệu đồng/năm. Thu
nhập của người lao động ở các KCN cũng cao hơn so với làm nông nghiệp.
-Thứ hai, phát triển KCN và ĐTH làm tăng chỗ việc làm trong khu vực
kinh tế không chính thức. ĐTH thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao thu

×