học viện chính trị hành chính quốc gia
hồ chí minh
********************
Báo cáo tổng hợp
Kết quả nghiên cứu
đề tài khoa học cấp bộ 2007
Mã số : B.07-02
Sự thoái hoá, biến chất
của một bộ phận cán bộ đảng viên
ở nớc ta hiện nay và những giải pháp
ngăn ngừa, khắc phục
Đơn vị chủ trì: Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học
Phụ trách đề tài: TS Nguyễn Trần Thành
Th ký đề tài: Th.s Nguyễn Thị Hà
7011
21/10/2008
Hà Nội. 3/2008
Danh sách cộng tác viên tham gia đề tài
1. GS.TS Hoàng Chí Bảo
2. PGS. TS Nguyễn Đức Bách
3. CN Trần Kim Bình
4. Th.s Nguyễn Thị Hà Th ký đề tài
5. TS Nguyễn Thị Ngân
6. Th.s Nguyễn Tiến Mạnh
7. Th.s Vũ Thị Xuân Mai
8. CN Nguyễn Đức Minh
9. TS Dơng Thị Minh
10. TS Vũ Viết Mỹ Chủ nhiệm đề tài
11. TS Nguyễn Trần Thành Phụ trách đề tài
12. GS Song Thành
13. GS.TS Mạch Quang Thắng
14. TS Đoàn Trờng Thụ
15. GS.TS Trịnh Quốc Tuấn
Mục lục
Trang
Mở đầu 1
Nội dung 6
Chơng 1: Sự thoái hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng
viên trong điều kiện đảng cầm quyền - một số vấn đề lý luận
chung
6
I. Bản chất, nguồn gốc sự thoái hoá, biến chất một bộ phận cán bộ
đảng viên
6
II. Những hậu quả xã hội do thoái hoá, biến chất của một bộ phận
cán bộ, đảng viên
24
Chơng 2: Thực trạng và những nhân tố tác động tới sự thoái hoá,
biến chất một bộ phận cán bộ, đảng viên
32
I. Thực trạng thoái hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng
viên
32
II. Những nhân tố tác động và nguyên nhân sự thoái hoá, biến
chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay
65
Chơng 3: Một số quan điểm và giải pháp ngăn ngừa, khắc phục
sự thoái hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên
76
I. Một số quan điểm định hớng ngăn ngừa, khắc phục sự thoái
hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên
76
II. Một số giải pháp ngăn ngừa, khắc phục sự thoái hoá, biến chất
một bộ phận cán bộ, đảng viên
79
Kết luận 111
Tài liệu tham khảo 117
1
Mở đầU
I- Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện công cuộc Đổi Mới dới sự lãnh đạo của Đảng hơn 20 năm
qua đất nớc ta đã thu đợc nhiều thành tựu quan trọng: kinh tế có sự tăng
trởng mạnh và tơng đối bền vững với tốc độ tăng trởng hàng năm từ 6,5%-
8,55%, đời sống nhân dân ngày càng đợc cải thiện rõ rệt, việc gắn kết giữa
phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tích cực, chỉ
số phát triển con ngời đợc nâng cao; tình hình chính trị cơ bản ổn định, an
ninh quốc phòng đợc giữ vững và tăng cờng, quan hệ quốc tế ngày càng
rộng mở, hiện Việt nam đã hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế quốc tế, có
quan hệ với hàng trăm tổ chức và quốc gia trên thế giới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt đợc đất nớc ta
đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức lớn. Bốn nguy cơ mà Đại hội
ĐảngVIII nêu ra không những cha đợc đẩy lùi mà còn đang có nhiều diễn
biến phức tạp, thậm chí còn đan xen và tác động lẫn nhau làm cho tình hình
thêm phức tạp hơn. Một trong những nguy cơ lớn cản trở nhiều đến sự nghiệp
Đổi mới là sự thoái hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Vấn đề cần nói là, ở nớc ta ngay từ những ngày đầu cách mạng Hồ Chí
Minh và Đảng ta đã ý thức rõ sự thành bại hay tồn vong của cách mạng nớc
ta phụ thuộc một phần lớn vào đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung đặc biệt là
những ngời cán bộ chủ chốt vì họ là những nhân tố quan trọng trong tổ chức
bộ máy của Đảng và Nhà nớc. Hồ Chí Minh viết: "cán bộ là cái gốc của mọi
công việc. Công việc thành hay bại phụ thuộc vào cán bộ tốt hay xấu". Cán
bộ, đảng viên là ngời đa chủ trơng, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà
nớc vào cuộc sống, gắn bó Đảng với nhân dân. Bởi vậy, cũng từ rất sớm
Đảng ta đã có nhiều Nghị quyết về xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên nhằm
đào tạo một đội ngũ cán bộ các cấp vững vàng về chính trị, gơng mẫu về đạo
đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn phục vụ
2
sự nghiệp cách mạng của Đảng. Nhờ vậy, sự nghiệp cách mạng của Đảng đã
thu đợc nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa quyết định. Nhng, bên cạnh đó
cũng có một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất về phẩm chất, đạo
đức, lối sống Khẳng định vấn đề này ngay từ Đại hội VIII (6-1996), trong
văn kiện Đảng ta đã chỉ rõ: Một bộ phận không nhỏ đảng viên, cán bộ thiếu
tu dỡng bản thân, phai nhạt lý tởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý
thức tổ chức kỷ luật, sa đoạ về đạo đức và lối sống. Một số thoái hoá về chính
trị, tuy rất ít nhng hoạt động của họ gây hậu quả hết sức xấu
1
. Đến Đại hội
IX (4-2001), Đảng tiếp tục cảnh báo: Tình trạng tham nhũng, suy thoái về t
tởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
là rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống
chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn
của chế độ ta. Tình trạng lãng phí, quan liêu còn khá phổ biến
2
. Trong Nghị
quyết Đại hội X (4-2006) - Đảng ta thẳng thắn đánh giá rằng: Tình trạng suy
thoái về t tởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, giáo điều, bảo thủ,
chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận
cán bộ, công chức còn diễn ra nghiêm trọng. Nhiều tổ chức cơ sở Đảng bị tê
liệt, thiếu sức chiến đấu và không đủ năng lực lãnh đạo và chỉ đạo để giải
quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh. công tác t tởng còn nhiều bất cập và
thiếu tính thuyết phục, tính chiến đấu. Công tác lý luận cha làm sáng tỏ đợc
một số vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới. Công tác tổ chức và cán
bộ còn bộc lộ nhiều mặt yếu kém. Chất lợng và hiệu quả kiểm tra, giám sát
cha cao
3
.
Quan điểm và thái độ của Đảng và Nhà nớc ta trớc sau nh một là
kiên quyết đấu tranh không khoan nhợng với sự thoái hóa, biến chất của một
bộ phận cán bộ, đảng viên nhng cho đến nay sự suy thoái biến chất này cha
đợc ngăn chăn, đẩy lùi có hiệu quả.
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. CTQG, H., 1996, tr.137
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, H., 2001, tr. 76.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, H., 2006 , tr. 48.
3
Nh vậy, khắc phục sự thoái hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ
đảng viên là nhiệm vụ cấp bách đặt ra hiện nay cho Đảng và nhân dân ta.
II- Tình hình nghiên cứu đề tài.
Trong thời gian gần đây đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu có
liên quan tới đề tài:
- PGS.TS.Nguyễn Phú Trọng, PGS.TS Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên):
"Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lợng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc". Nxb CTQG, Hn, 2001.
Công trình tập trung phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và phơng
pháp luận về nâng cao chất lợng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH), khái quát kinh nghiệm xây dựng đội ngũ cán
bộ công chức trong lịch sử nớc ta và thế giới, thực trạng đội ngũ cán bộ và
công tác cán bộ; từ đó đề xuất một số phơng hớng và giải pháp nâng cao
chất lợng đội ngũ cán bộ công chức.
- TS Hồ Bá Thâm:" Đổi mới và phát triển hệ thống chính trị" Nxb Tổng
hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2005.
Trên cơ sở những kết quả điều tra, phân loại về số lợng, chất lợng cán
bộ, đảng viên, công trình đã đề cập khá rõ nét về sự thoái hoá, biến chất và
những phơng hớng, biện pháp khắc phục sự thoái hoá biến chất của một bộ
phận cán bộ, đảng viên ở nớc ta hiện nay.
Đề tài KX02-08: "T tởng Hồ chí Minh về đạo đức"- Chủ nhiệm đề tài
PGS.TS Nguyễn Văn Truy.
Đề tài nghiên cứu tơng đối hệ thống và toàn diện hệ thống t tởng
đạo đức Hồ Chí Minh; khẳng định Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức là cái gốc
của ngời cách mạng. Công trình cũng đã làm rõ Hồ chí Minh là một tấm
gơng sáng về con ngời suốt đời cống hiến cho nhân dân và dân tộc Việt
nam.
- Đề tài khoa học cấp Bộ (2003-2005): "Về nguy cơ thoái hoá, biến chất
của Đảng cầm quyền" do GS Trần Thành - Học viện CTQG- chủ nhiệm đề tài.
4
Đề tài tập trung phân tích bản chất, nguyên nhân, thực trạng suy thoái
biến chất của Đảng cầm quyền, của một bộ phận cán bộ, đảng viên ở nớc ta
về chính trị, t tởng, đạo đức, lối sống; về nguyên tắc tổ chức của Đảng; từ
đó đề xuất một số giải pháp ngăn ngừa, khắc phục.
- Học viện CTQG Hồ Chí Minh- Viện Thông tin; "Thông tin các chuyên
đề tham nhũng và chống tham nhũng ở một số nớc trên thế giới", số 1/2006.
Công trình chuyên khảo đã đề cập tới tính chất dễ lây lan, sự nguy hại của căn
bệnh tham nhũng, những nguyên nhân và một số giải pháp ngăn ngừa, hạn chế
sự tham nhũng ở các quốc gia hiện nay trên thế giới.
- Ngân hàng thế giới: Kiềm chế tham nhũng- Hớng tới một mô hình
xây dựng sự trong sạch quốc gia (Sách tham khảo) - Chủ biên: Rích
Stapenhurst và Sahahr J. Kpundeh.
Đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo đề cập khá toàn diện nguồn
gốc, bản chất, những thủ đoạn và hậu quả tham nhũng; những kinh nghiệm
chống tham nhũng ở một số quốc gia trên thế giới.
- Hội thảo khoa học Việt Nam - Trung Quốc: "Xây dựng Đảng cầm
quyền: kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc" tổ chức tại
Việt Nam ngày16 đến 18- 2- 2004.
Nội dung hội thảo tập trung đề cập đến nhiều vấn đề có liên quan tới
vấn đề Đảng cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng với Nhà nớc, nguyên tắc hoạt
động của Đảng; nhấn mạnh phẩm chất và năng lực đội ngũ cán bộ, đảng viên,
đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt là nhân tố quyết định sự thành bại vai trò
cầm quyền của Đảng
Tuy vậy, đến nay, về mặt thực tiễn, sự thoái hoá, biến chất của một bộ
phận cán bộ, đảng viên vẫn cha đợc ngăn chặn có hiệu quả; và về mặt lý
luận còn nhiều vấn đề cần tiếp tục bổ sung, phát triển. Cụ thể là:
Một là, trong khi khẳng định sự thoái hoá, biến chất bắt nguồn từ nhiều
nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài, nhân tố chủ quan và khách quan
nhng nhân tố nào là quan trọng, có ý nghĩa quyết định mà nếu không có nó
5
không thể nảy sinh sự thoái hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên,
cũng nh nhân tố nào chỉ là môi trờng, điều kiện làm cho sự thoái hoá, biến
chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên diễn ra nhanh hơn, mạnh hơn, phức
tạp hơn chứ không thể làm nảy sinh sự thoái hoá, biến chất thì các công trình
đi trớc cha làm rõ?.
Hai là, cơ chế sự thoái hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng
viên diễn ra nh thế nào, bắt đầu từ đâu, từ trong sự thoái hóa, biến chất về t
tởng chính trị, hay bắt đầu từ đạo đức lối sống nhìn chung các công trình đi
trớc cha phân tích khái quát, sâu sắc?
III. Mục đích và nhiệm vụ đề tài
1- Mục tiêu:
Trên cơ sở phân tích bản chất, nguồn gốc, làm rõ thực trạng công trình,
đề xuất quan điểm và giải pháp ngăn ngừa, khắc phục sự thoái hoá, biến chất
của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay.
2- Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
- Làm rõ bản chất, nguyên nhân và cơ chế sự thoái hoá, biến chất của
một bộ phận cán bộ, đảng viên.
- Phân tích thực trạng sự thoái hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ,
đảng viên.
- Đề xuất quan điểm và một số giải pháp hạn chế, khắc phục sự thoái
hoá, biến chất một bộ phận cán bộ, đảng viên.
IV-Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là
những cán bộ chủ chốt trong một số cơ quan, tổ chức nhà nớc.
Đề tài chủ yếu nghiên cứu, khảo sát ở một số địa bàn tỉnh, thành phố
nh Hà Nội, Hà Tây, Khánh Hoà, Bình Thuận.
V- Kết cấu đề tài
Đề tài có 3 chơng, 7 tiết, với những nội dung cụ thể nh sau.
6
Nội dung
Chơng 1
Sự thoái hoá biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên
trong điều kiện Đảng cầm quyền một số vấn đề Lý luận chung
I - Bản chất, nguồn gốc sự thoái hoá, biến chất một bộ phận cán bộ
đảng viên
1. Theo Từ điển tiếng Việt, sự thoái hoá, biến chất, có nghĩa là: chuyển
biến thụt lùi, thay đổi về chất theo chiều hớng xấu. Sự suy giảm ý chí, đạo
đức nhân cách, dẫn tới t tởng và hành vi xấu trong đời sống xã hội
1
.
Còn theo nghĩa Triết học, một sự vật, hiện tợng trong quá trình vận
động, phát triển bản chất ban đầu đã bị chuyển hoá thành cái đối lập với nó,
đó là sự tha hoá. Sự thoái hoá, biến chất cũng là sự vận động, biến đổi, bản
chất ban đầu không còn nguyên nh cũ mà đã bị biến đổi theo hớng thụt lùi,
thoái bộ. Nh vậy, sự thoái hoá, biến chất vừa có điểm tơng đồng vừa có cả
sự khác biệt với sự tha hoá, biến chất. Sự thoái hoá biến chất ở mức độ cao trở
thành sự tha hoá.
Trong xã hội hiện tợng thoái hoá, biến chất đợc hiểu là sự suy giảm
phẩm chất, năng lực của một cá nhân hoặc một nhóm ngời, một tổ chức dẫn
tới có biểu hiện xấu trong t tởng, hành vi và tác động tiêu cực tới cộng
đồng, xã hội.
C.Mác, Ph.Ăngghen trong cuộc đời hoạt động của mình đã có những
kiến giải sâu sắc về Đảng lãnh đạo giai cấp vô sản giành chính quyền và đa
Đảng cộng sản thành một đảng nắm lấy quyền lực và cầm quyền. Ngoài công
xã Pari, các ông cha có điều kiện biết đến một thực tế nào khác, bởi vậy,
trong di sản của C.Mác, Ph.Ăngghen lý luận về Đảng cộng sản cầm quyền
đợc các ông đặt nền móng và có những đóng góp, song các ông lại cha có
1
Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 4, Nxb từ điển bách khoa, Hn, 2005, tr239
7
thực tiễn để luận bàn về Đảng cầm quyền nên t tởng của các ông một phần
lớn là dự báo về xã hội tơng lai.
Phải đến V.I.Lênin, với sự ra đời nớc Nga Xô viết, nhà nớc XHCN
đầu tiên trên thế giới do Đảng cộng sản lãnh đạo mà V.I.Lênin gọi là Đảng
chấp chính thì địa vị cầm quyền của đảng cộng sản mới thực sự đợc xác lập.
Đảng cộng sản cầm quyền cũng là thời điểm mở đầu cho công cuộc xây dựng
chế độ xã hội mới - xã hội XHCN. Thực tiễn sinh động xây dựng CNXH đã
giúp V.I.Lênin có những quan điểm t tởng và hình thành những luận điểm
về Đảng cộng sản cầm quyền.
Dù thc tiễn không dài chỉ vẻn vẹn có 7 năm (1917-1924), trong đó đã
mất 3 năm nội chiến và khủng hoảng trong bối cảnh áp dụng chính sách cộng
sản thời chiến để chống thù trong giặc ngoài, song những năm V.I.Lênin trực
tiếp lãnh đạo Đảng điều hành Hội đồng dân ủy (Chính phủ nớc Nga Xô viết),
đặc biệt là việc khởi xớng và tổ chức thực hiện chính sách kinh tế mới (NEP)
đã giúp cho V.I.Lênin thấy rõ tình hình và hiện trạng của Đảng cầm quyền, cả
những thuận lợi và khó khăn, cả nguy cơ và thách thức, đặc biệt là sự thoái
hóa, biến chất của Đảng cầm quyền.
Trong cuộc đời của Ngời, những dự án cải cách, đặc biệt là những chỉ
thị về Thanh Đảng và cải cách bộ máy nhà nớc, chống quan liêu và nạn hối
lộ, sự tha hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã thể hiện nhiều
giải pháp cải cách mạnh mẽ, nhiều biện pháp quyết liệt để làm trong sạch bộ
máy và đề cao tính nghiêm minh của pháp luật.
Tác dụng, hiệu quả của NEP làm hồi sinh nhanh chóng nớc Nga, sự
kết hợp cả động lực và đòn bẩy kinh tế với những đảm bảo của chính trị mà
V.I.Lênin là ngời đề xớng đã cho thấy tính đúng đắn của những t tởng cải
cách của V.I.Lênin. Việc V.I.Lênin đa ra những cảnh báo nghiêm khắc và
đấu tranh quyết liệt trớc nguy cơ thoái hóa, biến chất của Đảng cầm quyền,
nhất là ở bộ phận những ngời lãnh đạo có chức vụ, có thẩm quyền đã trở nên
thực sự cần thiết, đúng lúc và có giá trị bền vững đối với Đảng cầm quyền, bởi
8
những chỉ dẫn, nhng cảnh báo của V.I.Lênin là thực sự có giá trị và ý nghĩa
không chỉ trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, trong nhiều thập kỷ xây dựng CNXH
tiếp theo mà còn mãi mãi tới ngày nay với tất cả tính thời sự và hiện đại của nó.
Nhìn vào lịch sử các cuộc khủng hoảng và thời kỳ trì trệ kéo dài của
CNXH hiện thực, từ Liên Xô (cũ) đến các nớc XHCN trên thế giới cho tới
khi đổ vỡ thể chế XHCN ở Liên Xô và Đông Âu, hệ thống XHCN thế giới tan
rã, ta cũng thấy những cảnh báo, tiên liệu của V.I.Lênin là quí giá biết chừng
nào, các nớc XHCN còn lại và các Đảng cộng sản cầm quyền ở đó, trong đó
có nớc ta, trong tiến trình cải cách, đổi mới hiện nay nếu hiểu đúng và làm
đúng theo những chỉ dẫn của V.I.Lênin về đấu tranh không khoan nhợng với
mọi biểu hiện suy thoái, biến chất trong Đảng, ra sức chấn chỉnh, làm cho
Đảng trong sạch, vững mạnh thì chắc chắn sẽ tìm ra con đờng phát triển và
triển vọng tốt đẹp của Đảng cộng sản cầm quyền.
Các Đảng Cộng sản đã từng cầm quyền và sau đó tự đánh mất vai trò
cầm quyền của mình do mắc phải sai lầm trong đờng lối, phơng pháp chính
trị, cũng còn do xảy ra tình trạng thoái hoá, biến chất, thậm chí phản bội lý
tởng, mục tiêu ở trong nội bộ Đảng, càng cần phải nghiêm túc nhận thức lại
di sản kinh điển, nhất là di sản V.I.Lênin để đủ dũng cảm và bản lĩnh làm lại
từ đầu sự nghiệp đã bị đổ vỡ, cả do tự huỷ hoại lẫn do bị phá hoại bởi chủ
nghĩa đế quốc. Đó sẽ là con đờng phục hng chân chính của CNXH trên
trình độ mới, hiện đại không lặp lại những cái lỗi thời, đã bị lịch sử vợt qua.
Trong nhiều tác phẩm của mình V.I.Lênin đã cảnh báo về nguy cơ thoái
hoá, biến chất của đảng cầm quyền. Đó là những căn bệnh quan liêu, nạn hối
lộ, ăn cắp, chủ nghĩa cơ hội, sự xa rời lý tởng giai cấp công nhân của một bộ
phận cán bộ, đảng viên. Đó còn là căn bệnh kiêu ngạo cộng sản, coi ngời
cộng sản là khuân vàng thớc ngọc, là chân lý tuyệt đối, không thể có sai lầm,
do đó chủ quan, kiêu ngạo, tự huyễn hoặc mình, không chịu học tập rèn luyện,
biến dạng về động cơ chính trị, vào Đảng không phải để chiến đấu hy sinh cho
mục tiêu lý tởng của Đảng mà để tìm kiếm danh vọng, bổng lộc, địa vị theo
một chủ nghĩa vụ lợi, vị kỷ cá nhân chủ nghĩa Đã có không ít cán bộ đảng
9
viên sa ngã vào con đờng sa đoạ, h hỏng, lợi dụng, lạm dụng quyền lực để
mu lợi cá nhân. Trong nội bộ Đảng nảy sinh sự chia rẽ, bè cánh, mất đoàn
kết nội bộ cũng chỉ vì mâu thuẫn, xung đột do chủ nghĩa cá nhân gây ra, làm
suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Từ khi nớc Nga Xô viết ra đời cho đến khi thể chế Xô viết sụp đổ là
một khoảng thời gian khá dài, trên 7 thập kỷ. Đó là khoảng thời gian Đảng
Cộng sản thực thi việc cầm quyền rồi tự đánh mất vai trò cầm quyền, để lại
không ít những bài học phải trả giá đắt ngoài ý muốn.
Đảng Cộng sản cầm quyền đã mở ra cho Đảng những thuận lợi và thời
cơ phát triển đầy triển vọng. Đó là:
- Đảng có điều kiện hoạt động công khai, sự lãnh đạo của Đảng đợc
thể chế hóa thành pháp luật. T tởng, đờng lối, nghị quyết của Đảng có điều
kiện đi vào cuộc sống một cách nhanh chóng qua các hệ thống giáo dục, tuyên
truyền và các phơng tiện thông tin đại chúng.
- Quyền lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nớc và xã hội đợc ghi nhận
và khẳng định thành một điều luật trong Hiến pháp, là luật cơ bản, có giá trị
pháp lý cao nhất. Từ đây, địa vị pháp lý về quyền lãnh đạo của Đảng nh một
quyền lực chính trị cao nhất, đảm nhận trọng trách lịch sử dẫn dắt nhân dân,
dân tộc và giai cấp công nhân tới CNXH đợc thừa nhận và đợc luật pháp
bảo vệ.
- Đảng có điều kiện bố trí cán bộ, đảng viên của Đảng vào các cơ quan
của bộ máy nhà nớc, các đoàn thể cũng nh trong hệ thống bộ máy của Đảng
từ Trung ơng tới địa phơng và tới tận cơ sở.
- Đảng mở rộng ảnh hởng của mình trong xã hội và trong các quan hệ
quốc tế.
- Đảng có những điều kiện vật chất thuận lợi để triển khai các hoạt
động. Những điều kiện đó đợc nhà nớc đảm bảo bằng nguồn kinh phí lấy từ
ngân sách nhà nớc.
10
Đó là những thuận lợi rất cơ bản làm cho hoàn cảnh, điều kiện hoạt
động và vị thế xã hội của Đảng khác rất xa so với thời kỳ cha cầm quyền,
còn hoạt động bí mật, bị coi là bất hợp pháp dới lăng kính của các thế lực
cầm quyền thống trị vốn là đối tợng phải bị lật đổ của cách mạng.
Song chính những thuận lợi đó, không chỉ nói lên thời cơ phát triển mà
còn báo hiệu cả những nguy cơ tiềm ẩn của suy thoái rất dễ xảy ra, tức là
những thách thức mà Đảng phải đủ trí tuệ - đạo đức - bản lĩnh để vợt qua.
Đây là điều mà các nhà kinh điển, đặc biệt là V.I.Lênin đã từng cảnh
báo nghiêm khắc. Những thách thức đó là:
- Do cầm quyền và có những thuận lợi về vật chất nên cán bộ đảng viên,
nhất là những ngời giữ chức vụ, có quyền hạn rất dễ trở nên quan liêu, xa
dân, làm suy giảm mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với quần chúng. V.I.Lênin
lo ngại về tình trạng đội tiền phong (Đảng) thoát ly thực tiễn, chủ quan, duy ý
chí, tự tách mình ra khỏi xã hội, đứng trên xã hội, xa rời quần chúng nhân dân,
làm cho Đảng mất sức sống và sức chiến đấu. Theo V.I.Lênin, đây là nguy cơ
lớn nhất, là tình huống nguy hiểm nhất đối với một đảng cách mạng.
Nguy hiểm ở chỗ, bệnh quan liêu, mệnh lệnh hành chính hóa kiểu nhà
nớc đã làm cho Đảng tự suy yếu do suy yếu cơ sở xã hội của mình, tức là sức
mạnh của dân, sự tin cậy, ủng hộ của dân.
- Do xa dân, xa thực tiễn nên đờng lối, chính sách của Đảng trở nên
không phù hợp với thực tiễn, không phản ánh đợc lợi ích, ý nguyện, tâm
trạng quần chúng, chẳng những không đợc lòng dân mà còn mất lòng dân.
Đảng lãnh đạo bằng đờng lối, nghị quyết, cơng lĩnh nên những sai sót
trong lĩnh vực này nếu xảy ra sẽ dẫn Đảng tới sai lầm trong lãnh đạo. Đó là
tình trạng mất phơng hớng. V.I.Lênin đã từng chỉ rõ, trong những thời điểm
bớc ngoặt hoặc trong những tình thế phức tạp, nếu hoạt động lãnh đạo của
Đảng xuất hiện những sự tròng trành, dao động, những mất phơng hớng thì
điều đó có nghĩa là tự sát về chính trị. Biểu hiện dễ nhận thấy là mất sức chiến
đấu, không giữ đợc sự kiên định về nguyên tắc, từ bỏ mọi nguyên tắc.
11
Việc từ bỏ nguyên tắc ý thức hệ (chủ nghĩa Mác - Lênin), từ bỏ tập
trung dân chủ, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng trong Hiến pháp mà Đảng Cộng
sản Liên Xô dới thời Goóc ba chốp đã mắc phải là một sai lầm chết ngời, ví
nh tự giết chết mình. Đảng không còn là một Đảng chiến đấu, một Đảng
hành động mà là một câu lạc bộ hỗn loạn, bàn suông và kết cục là tan rã, mặc
dù Đảng đã từng có lịch sử 100 năm hoạt động với một đội ngũ 19 triệu đảng
viên.
- Nguy cơ rơi vào trì trệ, sơ cứng về t duy và t tởng, lạc hậu về lý
luận, trở nên không ngang tầm với tình hình, nhiệm vụ, tự đánh mất vai trò
tiên phong của mình.
- Một thách thức, nguy cơ khác là khi đã cầm quyền, việc cán bộ, đảng
viên đợc bố trí vào các cơ quan quyền lực, có quyền, có chức, có danh, có
lợi, nhiều ngời đã không vợt qua nổi những cám dỗ ấy và bắt đầu xuất hiện
những biến dạng, tha hóa.
Đó là biến dạng về động cơ chính trị. Vào Đảng không phải vì chiến
đấu hy sinh cho mục tiêu lý tởng cộng sản mà để tìm kiếm danh vọng, bổng
lộc, địa vị theo một chủ nghĩa vụ lợi, vị kỷ, cá nhân chủ nghĩa. Đã không ít
ngời rơi vào tình huống này mà trở nên sa đọa, h hỏng, lợi dụng, lạm dụng
quyền lực để mu lợi cá nhân nh Hồ Chí Minh đã phê phán, gọi là quan
cách mạng, quan chủ. Trong nội bộ Đảng không tránh khỏi nảy sinh sự
chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết.
Về đạo đức và nhân cách, xuất hiện sự tách rời giữa lời nói và việc làm,
đó là thói đạo đức giả, cơ hội chính trị, vi phạm điều lệ Đảng, vi phạm pháp
luật, làm mất uy tín và sự tin cậy nơi dân chúng. Điều đáng tiếc là, những
nguy cơ đó đã sớm đợc cảnh báo, V.I.Lênin đã sớm nhận thấy, nhìn thấy từ
xa mà rốt cuộc cũng không tránh khỏi, nó không còn là nguy cơ nữa mà đã
hiển hiện thành một thực tế đa Đảng tới sự suy thoái, biến chất. Khái quát
những tình huống đó, V.I.Lênin đã chỉ rõ, 3 kẻ thù nguy hiểm nhất của
CNXH, của Đảng và của những ngời cộng sản đã nắm chính quyền, đó là:
12
+ Bệnh kiêu ngạo cộng sản, coi ngời cộng sản, Đảng Cộng sản là
khuôn vàng thớc ngọc, là chân lý tuyệt đối, không thể có sai lầm, do đó chủ
quan, kiêu ngạo, tự huyễn hoặc mình, không chịu học tập rèn luyện.
+ Tệ quan liêu, tập nhiễm thói quan liêu nhà nớc vào trong Đảng, làm
hỏng phơng pháp, phong cách công tác Đảng.
+ Nạn hối lộ, tham ô, lãng phí.
Theo V.I.Lênin, nếu không nhổ cho hết cỏ dại quan liêu, không đủ sức
chiến thắng những bệnh hoạn tệ hại đó, thì Đảng sẽ mau chóng suy yếu và,
thất bại của sự nghiệp cách mạng là điều không tránh khỏi.
V.I.Lênin đã nhìn thấy, dự cảm sâu xa rằng, nếu CNXH có bị thất bại,
có bị tiêu diệt thì chính là vì đã không đủ sức mạnh, bản lĩnh chống lại những
kẻ thù đó mà Ngời có lần đã phẫn nộ phê phán trong một chỉ thị: nhổ hết cỏ
dại, treo cổ những tên quan liêu lên
Trong lịch sử cải cách thể chế nhà nớc, V.I.Lênin đã trù tính một chỉ
thị: cấm tuyệt đối không để cho những ngời có họ hàng, bà con thân quen,
những ngời trong gia đình cùng làm việc trong một cơ quan nhà nớc.
Chỉ thị nghiêm túc và quyết liệt này đã không đợc những ngời đơng
thời thi hành nghiêm túc, thậm chí còn có những mu toan kéo dài những sự
trì trệ, chống lại cải cách và đổi mới, tạo ra tình huống hình thức hóa, vô hiệu
hóa chỉ thị của V.I.Lênin.
Tình hình trở nên xấu hơn khi V.I.Lênin mất, khi chính sách kinh tế
mới và chỉ thị thanh Đảng, làm cho Đảng trong sạch, những chỉ thị cải cách
nhà nớc mà V.I.Lênin đề ra làm cho nhà nớc mạnh, dân chủ và pháp quyền
đã không còn đợc thực hiện.
Từ di sản lý luận đến thực tiễn cho thấy vấn đề Đảng cầm quyền, chống
suy thoái, biến chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự là một vấn đề cốt
yếu, hệ trọng cần đợc nghiên cứu, tổng kết, đánh giá và đặc biệt coi trọng
công tác xây dựng Đảng. Thành hay bại của sự nghiệp cách mạng là tùy thuộc
một cách quyết định vào Đảng, ở chỗ, Đảng có trong sạch, vững mạnh hay
13
không. Đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng có phẩm chất, năng lực và đạo
đức hay không. Tính thời sự trong những chỉ dẫn của các nhà kinh điển là ở đó.
Trên thực tế, các nhà kinh điển đã nêu lên nhiều luận điểm tiêu biểu,
quan trọng có ý nghĩa cảnh báo và đấu tranh trớc nguy cơ thoái hóa, biến
chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên trong điều kiện Đảng cầm quyền.
Trớc hết, C.Mác, Ph.Ăngghen tuy đề cập rất ít những vấn đề trực tiếp
của Đảng cầm quyền, chẳng hạn, các ông đã luận bàn về tổ chức quản lý
chính quyền công xã, nhất là cơ chế trả lơng cho ngời có chức vụ và quyền
bãi miễn của cử tri đối với những đại biểu tỏ ra không còn xứng đáng cầm
quyền nữa nhng những chỉ dẫn đó lại rất có giá trị, có ý nghĩa về nhiều mặt
cần đợc nhận thức cho đúng. Ngoài trờng hợp nghiên cứu về công xã,
C.Mác, Ph.ăngghen cũng để lại một số luận điểm khác về thể chế, về quan hệ
lợi ích và t tởng, về phơng pháp nhận thức và ứng xử xã hội, song ngay
trong những t tởng của các ông cũng có nhiều giá trị gợi mở, cần thiết phải
vận dụng, nó có ích cho công việc cầm quyền của Đảng để phòng ngừa những
sự thoái hóa biến dạng.
Có thể hệ thống hóa thành những điểm dới đây:
- Phê phán quan liêu và chủ nghĩa quan liêu: theo C.Mác, quan liêu là
căn bệnh phát sinh từ thể chế, trong bộ máy nhà nớc và trong hoạt động của
công chức. Những ngời cách mạng khi chiến thắng, nắm đợc chính quyền
cũng thờng mắc vào khuyết tật này. Nó cũng là một biểu hiện của thoái hóa
biến chất phải phòng ngừa và khắc phục.
Quan liêu là xa lạ, đối lập với dân chủ. Tập trung quan liêu là đối lập
với tập trung dân chủ.
C.Mác chỉ rõ, trong một hệ thống bộ máy và thể chế quan liêu, trong
hành vi quan liêu, các giá trị bị đảo lộn. Nhân dân không còn đợc nhận thức
là những chủ thể tích cực, chủ động, sáng tạo nữa mà là đối tợng và khách
thể bị động, thụ động.
14
Cái vốn là phơng tiện biến thành mục đích cứu cánh, tự tại, còn mục
đích chân chính của nó bị làm cho lệch lạc và lu mờ đi.
Ông mô tả rất rõ ràng, những công việc của Nhà nớc và Chính phủ bị
biến thành những công việc của bàn giấy, của những sự tẻ nhạt, đơn điệu,
hành chính của các viên chức văn phòng.
Những quyết định của Chính phủ bị hạ thấp xuống thành những quyết
định có tính sự vụ, hành chính, chìm ngập trong những giấy tờ, hội họp của bộ
máy văn phòng, nói theo ngôn ngữ ngày nay là bệnh giấy tờ, bệnh hội họp,
che lấp mất cuộc sống hiện thực, cách biệt với quan hệ công chúng, dân
chúng.
Trong tổ chức bộ máy và phơng thức điều hành của thể chế, quan liêu
đã gây ra sự ách tắc, trì trệ, chậm chễ trong việc giải quyết công việc trong khi
cuộc sống thực tiễn lại biến đổi mau lẹ. Sau này, trong thực tiễn lịch sử cầm
quyền, một căn bệnh phổ biến ở tất cả các Đảng cộng sản cầm quyền, của tất
cả các nhà nớc do Đảng Cộng sản lãnh đạo, đều có tình trạng Đảng bị Nhà
nớc hóa và Nhà nớc bị hình thức hóa và đảng hóa. Sự lẫn lộn, chồng chéo
chức năng, nhiệm vụ này làm suy yếu cả Đảng lẫn Nhà nớc. Tình trạng song
trùng nhà nớc do hệ thống Đảng bị nhà nớc hóa và quyền lãnh đạo chính trị
biến thành quyền lực nhà nớc, đồng nhất Đảng với Nhà nớc.
Cùng với điều ấy là sự thiếu vắng chế độ trách nhiệm, bởi hiện tợng
khá phổ biến hiện nay trong các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nớc là
ngời cán bộ, đảng viên có thể quyết sai, làm sai, gây hậu quả xấu nhng vẫn
ở bên ngoài trách nhiệm. Đó là một tình huống không thể đem lại phát triển
lành mạnh, làm suy yếu một thực thể kéo theo suy yếu của cả hệ thống.
- Đấu tranh với quan liêu và phòng ngừa xu hớng quan liêu hóa,
C.Mác lấy trờng hợp công xã, với những ngời trong Chính phủ hành pháp,
các ủy viên công xã sẽ phải làm cho lợi ích của họ phụ thuộc vào đánh giá của
công nhân, áp dụng trả lơng cho ủy viên công xã chỉ bằng mức l
ơng cao
nhất của công nhân. Điều đó để nhằm ngăn chặn đặc quyền, đặc lợi và đặt lợi
15
ích, quyền lực của ngời cầm quyền trong sự giám sát, đánh giá của quần
chúng.
- Xác lập chế độ trách nhiệm, thẩm quyền bãi miễn, bằng cách nhân dân
có quyền bãi miễn đại biểu bất kỳ lúc nào khi họ tỏ ra không còn xứng đáng
là đại biểu của dân nữa. ý tởng sâu xa ở đây chính là dân chủ và sức mạnh
dân chủ trong quyền lực nhân dân.
Quyền lực không phải là bất biến, nó thay đổi không chỉ trong nhận
thức mà còn trong hành động thực tiễn.
Bài học công xã về quản lý, chính sách, cơ chế là bài học dân chủ trong
gây dựng thể chế, loại bỏ các công chức thoái hóa, biến chất.
Ph.Ăngghen còn chú trọng đến lý luận, nhất là phải dùng lý luận nh
một phơng pháp, đó là sự trởng thành rất cao của trí tuệ, sự nâng cao học
vấn, học thức của ngời lãnh đạo, cầm quyền. Sai lầm về phơng pháp sẽ làm
giảm thiểu tác dụng, thậm chí triệt tiêu hiệu quả quản lý, lãnh đạo.
Ph.Ăngghen phê phán tình trạng nhà nớc nhân danh bảo vệ dân, đem
lại lợi ích cho dân nhng lại bất lực trong việc giải quyết các nhiệm vụ kinh tế.
- C.Mác, Ph.Ăngghen còn chỉ ra tính hiện thực của t tởng là ở lợi ích,
một khi tách rời t tởng khỏi lợi ích thì t tởng dù có cao quý đến đâu cũng
không thực hiện đợc. Đó là lúc t tởng tự làm nhục bản thân nó.
Những ngời cộng sản cầm quyền nếu chỉ nói suông mà không hành
động, chỉ thuần túy cổ vũ tinh thần mà không chăm lo lợi ích cho ngời dân
thì việc suy nghĩ, tự phê phán, tự khắc phục theo những luận điểm nêu trên
của các nhà kinh điển là rất cần thiết.
- Ph.Ăngghen phòng ngừa và phê phán căn bệnh giáo điều, không
tởng, cố chi tiết hóa về xã hội tơng lai, trong khi xã hội tơng lai đó còn
cha hoàn toàn định hình, tr
ởng thành thì không sao tránh khỏi bệnh không
tởng, đó là căn bệnh lấy tởng tợng chủ quan thay cho thực tế khách quan,
bệnh phóng họa lịch sử một cách sai lầm và rơi vào không tởng. Nh đã nói,
suy thoái, biến dạng không chỉ là sự h hỏng đạo đức mà còn là trí tuệ t
16
tởng không tơng dung với công việc, nhiệm vụ. Trong trờng hợp đó, lãnh
đạo quản lý chẳng những không thúc đẩy phát triển mà còn kìm hãm sự phát
triển lành mạnh.
Đến cuối đời, Ph.Ăngghen còn nói rõ vấn đề phơng pháp, và khuyên
những ngời cách mạng không nên giáo điều lệ thuộc, phải tự do và sáng tạo,
tự vợt qua những giới hạn của nhận thức mà tiến tới.
Đến giai đoạn V.I.Lênin, khác với C.Mác, Ph.Ăngghen, chủ yếu là luận
chứng tính tất yếu lịch sử của CNXH, chủ nghĩa cộng sản và dự báo xã hội
tơng lai, V.I.Lênin đã trực tiếp xử lý những tình huống phát sinh trong
CNXH hiện thực. Hệ thống những luận đề chỉ dẫn của V.I.Lênin là ở trong bối
cảnh chuyển tiếp từ chính sách cộng sản thời chiến sang chính sách kinh tế
mới (NEP).
- Trớc hết, V.I.Lênin chỉ ra căn bệnh cố hữu chủ quan, khi tình hình
đã thay đổi mà không biết thay đổi cách nghĩ, cách làm, cách ứng xử và hành
động. ông cho rằng không nên giải quyết những nhiệm vụ của ngày hôm nay
chỉ bằng kinh nghiệm của ngày hôm qua. Tất yếu sẽ trở nên bất cập. Đây là
quán tính, thói quen, sức ì mà cũng còn là thiếu tri thức. ông có một nhận xét
phê phán và cũng tự phê phán rất sâu sắc rằng khuyết điểm chẳng quan chỉ là
u điểm đợc sử dụng quá mức cần thiết.
- V.I.Lênin vạch trần các căn bệnh: chủ quan, kiêu ngạo, gọi là kiêu
ngạo cộng sản, xa lạ với việc tích lũy học vấn, học thức, mắc vào thói ba hoa
trống rỗng, mang nặng những định kiến chủ quan, thói dị ứng với tri thức và
trí thức, coi mình là chân lý, không chịu học, không quan sát, không biết tranh
luận đối thoại.
Cùng với điều đó, giáo điều hữu khuynh và giáo điều tả khuynh,
chúng đều có hại cho sự nghiệp cách mạng, là rào cản của chân lý.
- Tệ quan liêu, thoát ly thực tế và nạn hối lộ, lợi dụng chức vụ, quyền
hạn để vụ lợi, vị kỷ, lạm dụng quyền lực và sự ủy quyền của dân chúng.
17
Ta nhớ lại hành động dũng cảm của V.I.Lênin khi đi tới một quyết định
khó khăn: thanh Đảng. Ông tính rằng phải đuổi ra khỏi Đảng từ 15-20 vạn
ngời, đó là những tên cộng sản ngu dốt và khoác lác, không hiểu đợc xu thế
và cản trở việc thi hành cải cách.
Lại một hành động dũng cảm và bản lĩnh của V.I.Lênin khi ông cho
rằng, sẵn sàng đánh đổi hàng tá, hàng tá những tên cộng sản ngu dốt và khoác
lác để lấy một chuyên gia t sản có tài vì lợi ích của CNXH.
- Vạch rõ sự thật của tình trạng thiếu thốn về văn hóa, trong đó có văn
hóa lãnh đạo quản lý.
Theo V.I.Lênin, ngời mù chữ sẽ đứng ngoài chính trị, học chủ nghĩa
cộng sản không phải nh những kẻ giáo điều, những con mọt sách cộng sản,
phải biết gắn với hoạt động thực tiễn, sống và lao động cùng với công nông,
ngời cộng sản phải biết làm giàu trí tuệ của mình bằng tất cả kho tàng tri
thức nhân loại. Chủ nghĩa cộng sản phát sinh từ tổng số những kiến thức ấy
mà nếu không nh vậy thì mãi mãi chủ nghĩa cộng sản cũng chỉ là một ớc
nguyện mà thôi. Do vậy, nhiệm vụ của Đoàn Thanh niên cộng sản chỉ quy vào
một chữ: học chủ nghĩa cộng sản.
Đủ hiểu vì sao V.I.Lênin phê phán gay gắt những ngời cộng sản không
chịu trau dồi học vấn, chỉ là những kẻ ba hoa đầu lỡi, hành động không có gì
giống với chủ nghĩa cộng sản cả.
- V.I.Lênin còn đặc biệt nhấn mạnh Đảng phải là tiêu biểu cho lơng
tâm, danh dự, trí tuệ của thời đại. Thái độ của một Đảng mác xít là dũng cảm
vạch trần sự thật, nói rõ sự thật. Vũ khí là ở trong sự thật, đó là sức mạnh của
chúng ta.
- Một Đảng mà đi bao che (ô dù) cho những kẻ vô lại thì là một nỗi nhục
nhã, một sự sỉ nhục. Một Đảng mà không có dũng khí phê bình, tự phê bình sẽ
không còn là một Đảng mác xít nữa. Hồ Chí Minh gọi đó là một Đảng hỏng
Những luận điểm nói trên cho thấy tình trạng suy thoái biến chất của
Đảng cầm quyền có nhiều biểu hiện, nó không chỉ là phẩm chất đạo đức bị
18
suy giảm và h hỏng mà còn là trí tuệ, t duy lý luận trở nên sơ cứng, lạc hậu,
bất cập, là quan liêu, mất dân chủ, là sự lỏng lẻo tổ chức kỷ luật, là xa rời dân
chúng và cả sự thiếu hụt văn hóa
Đủ hiểu vì sao, xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền phải
rất toàn diện: chính trị, t tởng, tổ chức, đạo đức, lối sống.
Hồ Chí Minh khái quát lại là phải chống chủ nghĩa cá nhân, một thứ giặc
nội xâm, giặc ở trong lòng. Phải xây dựng Đảng cầm quyền thực sự tiêu biểu
cho đạo đức và văn minh. Đảng cách mạng và mỗi ngời cách mạng phải:
- Giữ chủ nghĩa cho vững.
- ít lòng tham muốn vật chất.
- Gắn bó mật thiết với dân.
- Dựa vào dân mà xây dựng Đảng, xây dựng nhà nớc, xây dựng chế độ.
Trau dồi đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công vô t, thực
hành dân chủ, là ngời lãnh đạo và đầy tớ trung thành của nhân dân, đó là
những biện pháp chủ động phòng ngừa sự suy thoái, biến chất.
Đó là ý nghĩa và phơng châm hành động đợc rút ra từ những chỉ dẫn
cảnh báo của các nhà kinh điển, đặc biệt của V.I.Lênin và Hồ Chí Minh.
ở nớc ta hiện nay, đội ngũ cán bộ, đảng viên không phải là những
ngời thờng dân mà là những ngời có chức vụ, quyền hạn, giữ vị trí nòng
cốt trong một tổ chức thuộc bộ máy Nhà nớc, hoặc bộ máy Đảng, Đoàn thể.
Họ- những cán bộ, đảng viên- nh Hồ chủ Tịch đã nói- là công bộc của dân,
luôn cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô t, suốt đời không ngừng phấn đấu
hy sinh cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân. Do vậy, xét về bản
chất, cán bộ, đảng viên phải là ngời gơng mẫu trong mọi công việc của
Đảng, vừa phải có năng lực chuyên môn, vừa có phẩm chất đạo đức trong
sáng, phải biết lo trớc dân, khổ trớc dân, sớng sau dân.
Trong thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc, những cán bộ, đảng viên
của chúng ta luôn là những ng
ời đầu tầu gơng mẫu trong mọi công việc của
19
Đảng và Nhà nớc, gánh vác công việc chung của Đảng, sẵn sàng hy sinh sức
lực, xơng máu vì nền độc lập của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Trong xây dựng CNXH cán bộ, đảng viên là những con ngời không
ngừng tu dỡng phẩm chất đạo đức, luôn học hỏi tri thức, kinh nghiệm từ nhà
trờng và trong nhân dân để làm giàu cho đất nớc, cho gia đình và xã hội.
Khi đất nớc chuyển sang cơ chế thị trờng cạnh tranh khốc liệt, đa
phần cán bộ, đảng viên đều là những con ngời vững vàng về phẩm chất đạo
đức, có lối sống lành mạnh, đồng thời cũng là những ngời có chuyên môn,
bản lĩnh chính trị vững vàng không bị mặt trái của cơ chế thị trờng cám dỗ,
lôi kéo. Nhng bên cạnh đó, cũng đã có một bộ phận cán bộ, đảng viên mặc
dù một thời có công lao, thành tích trong công cuộc giải phóng đất nớc và
dựng xây CNXH, khi bớc vào cơ chế thị trờng, do không đợc rèn luyện
bản lĩnh chính trị, tự tu dỡng đạo đức, lối sống đã có lối sống buông thả,
chạy theo vật chất tầm thờng mà bị sa ngã, biến chất, tham ô, hủ hoá, quan
liêu, tham nhũng mà trở thành ngời có tội với nhân dân.
Sự thoái hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện đang là
vấn đề nhức nhối của xã hội vì để lại những hậu quả nghiêm trọng về tinh thần
và gây tổn hại về kinh tế - vật chất cho xã hội, làm băng hoại đời sống đạo đức
xã hội, làm suy yếu tổ chức bộ máy và sẽ nguy hại hơn nếu không đợc phát
hiện và ngăn chặn kịp thời có thể làm suy yếu và đe doạ sự sống còn của đất
nớc, của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề cả xã hội quan tâm và đòi
hỏi phải đợc giải quyết nhanh, không chậm chễ
.
2- Sự thoái hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên không
thuộc bản chất của đảng cộng sản cầm quyền, nhng đấu tranh hạn chế, khắc
phục hiện tợng tiêu cực này lại không hề đơn giản chút nào vì bản chất,
nguồn gốc, cơ chế hình thành sự thoái hoá, biến chất hết sức phức tạp.
Trớc đây, C.Mác, Ph.Ăngghen đã cảnh báo nguy cơ thoái hoá, biến
chất của quyền lực nhà nớc bắt nguồn từ sự suy thoái, biến chất của đội ngũ
cán bộ, công chức, rằng sự quan liêu là căn bệnh cố hữu của bộ máy nhà nớc
20
trong xã hội có giai cấp, đó là cái lôgíc khách quan nội tại, thuộc về bản chất
của các nhà nớc bóc lột. Còn trong CNXH chủ nghĩa quan liêu chỉ là tàn d
của xã hội cũ để lại nên có thể hạn chế, khắc phục.
V.I.Lênin là ngời trực tiếp kế thừa, phát triển lý luận của C.Mác,
Ph.Ăngghen về nhà nớc vô sản trong điều kiện nớc Nga Xô viết xây dựng
CNXH đã nêu rõ việc xây dựng nhà nớc vô sản thực sự trở thành nhà nớc
của dân là công việc khó khăn lâu dài, phức tạp bởi đó là một kiểu chế độ nhà
nớc xa nay cha từng có. Những yếu kém chủ yếu của nhà nớc kiểu mới,
trớc hết và chủ yếu, là cha thoát khỏi căn bệnh quan liêu, bộ máy cồng
kềnh, tệ ăn hối lộ của các viên chức nhà nớc vốn là tật bệnh thuộc về nhà
nớc của giai cấp thống trị, bóc lột.
Trong nhà nớc vô sản, quan liêu mặc dù chỉ là tàn d, là ảnh hởng
bản chất của nhà nớc các giai cấp bóc lột để lại chứ không thuộc về bản chất
nhà nớc vô sản nhng vấn đề là ở chỗ, trong điều kiện Đảng cầm quyền và
chính quyền thuộc về tay giai cấp công nhân nhng vì sao quyền lực nhà nớc
từ chỗ là của dân trở thành "thống trị" nhân dân, cán bộ, đảng viên là công
bộc của dân trở thành ngời "đứng trên" nhân dân, tình trạng lợi dụng chức
năng của nhà nớc là cơ quan phục vụ nhân dân, cán bộ công chức là công
bộc của dân thành phơng tiện thăng quan phát tài, kiếm chác bổng lộc, đặc
quyền, đặc lợi, lại là vấn đề cha có biện pháp đấu tranh hạn chế, khắc phục
có hiệu quả.
ở nớc ta, ngay từ những ngày đầu mới thành lập n
ớc, Hồ Chí Minh
cũng đã thấy rõ những nguy cơ của một Đảng cầm quyền, đó là tình trạng suy
thoái về t tởng chính trị, tệ quan liêu, tham nhũng; đặc biệt Ngời đã cảnh
báo về nguy cơ một bộ phận cán bộ đảng viên thoái hoá, biến chất trong tổ
chức Đảng bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân. Vì chủ nghĩa cá nhân mà sống vị
kỷ, chỉ nghĩ đến mình mà không nghĩ đến ngời khác. Rằng, chủ nghĩa cá
nhân dẫn con ngời ta đến một cuộc sống thấp hèn "không có dũng khí cách
mạng, ít lo nghĩ về trách nhiệm của mình, không quyết tâm vơn lên phía
trớc. Họ hững hờ nh ngời không có lý tởng, đến đâu hay đến đó, qua
21
tháng qua ngày "
1
. Và, "do chủ nghĩa cá nhân mà ngại gian khổ, khó khăn,
cuối cùng là sa vào tham ô, hủ hoá, có cuộc sống lãng phí xa hoa. Họ tham
danh, trục lợi, thích địa vị, quyền hành, tự cao, tự đại, coi thờng tập thể, xem
khinh quần chúng, độc đoán chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực
tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh Tóm lại, do chủ nghĩa cá nhân mà phạm
nhiều sai lầm"
2
dẫn tới sự thoái hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng
viên thể hiện trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực khác nhau.
Nói đến thoái hoá, biến chất, là nói đến những cán bộ, đảng viên, những
ngời có chức vụ, quyền hạn, chứ không phải nói đến những ngời dân không
có chức vụ, quyền hành, mặc dù những ngời dân bình thờng cũng có thể
thoái hoá, biến chất.
Sự thoái hoá, biến chất, trớc hết và chủ yếu, là do sử dụng chức quyền,
quyền lực công để t lợi cá nhân chứ không phải trong công việc nhà nớc.
Nói cách khác, nếu sử dụng quyền lực công vào việc công thì không gọi là tha
hoá, biến chất. Lợi dụng quyền lực công t lợi cá nhân là điều kiện tiên quyết
đảm bảo hành vi đó có là thoái hoá, biến chất hay là không.
Hơn nữa, vì có chức vụ, quyền hạn nên khi phạm pháp những con
ngời này đã dùng quyền lực, tiền bạc do tham nhũng, do lợi dụng chức quyền
mà có để chạy tội, che dấu hành vi thoái hoá, biến chất của mình nên càng để
lại hậu quả tiêu cực hơn cho xã hội.
Thực tế, tự nó, cán bộ, đảng viên không có chức quyền, mà chức quyền
là do ngời dân "uỷ nhiệm", và do "uỷ nhiệm" mà cán bộ, đảng viên có chức,
có quyền. ở đây, chức quyền là công cụ để quản lý công việc công, công việc
của Nhà nớc chứ không thể là công cụ sử dụng vào công việc t. Nhng trên
thực tế, quyền lực công bị lợi dụng trở thành công cụ, phơng tiện để t lợi cá
nhân. Điều này có nghĩa là, quyền lực là của dân, và do dân tạo dựng nên
nhng vì cơ chế "uỷ quyền" không đi kèm với cơ chế kiểm soát quyền lực hữu
hiệu nên "uỷ quyền" rồi để mất quyền. Điều này lý giải tại sao đã có một bộ
1
Hồ Chí Minh Toàn tập, NXB CTQG Hn 2002 t11, tr373
2
Hồ Chí Minh toàn tập, t12. NBCTQG, Hn 2002, tr 438, 439
22
phận cán bộ, đảng viên ban đầu thì nhiệt tình trong công việc, nhng sau khi
đợc đề cử, quyết định vào các vị trí lãnh đạo, quản lý chủ chốt ở cơ quan,
đơn vị, địa phơng họ trở thành ngời có chức, có quyền nhng lại không chịu
tu dỡng đạo đức, lối sống, sống buông thả, thực dụng, chạy theo chủ nghĩa cá
nhân, bị đồng tiền cám dỗ trở nên thoái hoá, biến chất, đi ngợc lại lợi ích của
nhân dân, thậm chí còn "đứng trên" nhân dân, trở thành ông chủ, không còn
xứng đáng là công bộc của dân.
Từ thực tiễn và lý luận cho thấy, sự thoái hóa, biến chất của một bộ
phận cán bộ, đảng viên là sự thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống. Nhng
cũng không nên nhận thức giản đơn sự thoái hoá biến chất của một bộ phận
cán bộ, đảng viên chỉ là sự suy thoái, biến chất về mặt đạo đức, phẩm giá,
trong điều kiện Đảng cầm quyền. Trên thực tế, có biết bao vấn đề đặt ra: đó
là sự lạc hậu, bất cập, trì trệ, sơ cứng về quan điểm lý luận, t tởng. Điều đó
phải đợc coi là một biểu hiện suy thoái không thể xem thờng khi nói về suy
thoái và biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên
Đó còn là những căn bệnh quan liêu, tham nhũng, làm suy yếu Đảng,
Nhà nớc và các đoàn thể chính trị.
Sự thoái hoá, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên có thể xảy ra
ở nhiều đối tợng, và nhiều mức độ khác nhau. Có khi là những cá nhân mà
cũng có thể là một tập thể, một tổ chức, hoặc nhiều tổ chức khác nhau, mức độ
vi phạm và sự nghiêm trọng cũng không giống nhau.
Thực tiễn sự khủng hoảng cuối cùng là sụp đổ của CNXH ở Đông Âu,
Liên xô (cũ) cho thấy rõ một thực tế, bên cạnh sự chống phá của chủ nghĩa đế
quốc thì có nguyên nhân sâu xa do sự thoái hóa, biến chất về t tởng chính
trị của một bộ phận đảng viên lãnh đạo, đặc biệt là lãnh đạo cấp cao của Đảng
nh IACốp Lev, XêVátNatde, GoocBachốp khi xa rời những nguyên tắc của
Đảng mà phản bội Đảng, phản bội nhân dân, cuối cùng là chệch hớng, đi
theo con đờng TBCN.