Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

KHÁI NIỆM và nội DUNG của hợp ĐỒNG MUA bán HÀNG hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.96 KB, 8 trang )

KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG CỦA HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Chuyên viên Nguyễn Thị Hoài Nhân
Trong quá trình thành lập và hoạt động của mình, việc giao kết
hợp đồng đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại là yếu
tố không thể thiếu của các doanh nghiệp. Tuy nhiên không phải
mọi doanh nghiệp đều có thể nhận thức và áp dụng đúng đắn
những quy định pháp luật. Bài viết dưới đây sẽ cho doanh nghiệp
một cái nhìn tổng quan hơn về Hợp đồng mua bán hàng hóa – một
hợp đồng rất thông dụng đối với các doanh nghiệp hiện nay.
I. Khái niệm của hợp đồng mua bán hàng hóa
- Mua bán hàng hóa: là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có
nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và
nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận
hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận (Điều 3- Luật thương
mại 2005)
- Hợp đồng mua bán hàng hóa trong kinh doanh – thương mại là
một dạng của cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản. Theo Điều 428 –
Bộ luật dân sự “Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các
bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận
tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán”
- Hợp đồng mua bán hàng hóa bao gồm:
+ Hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước
+ Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (Hợp đồng ngoại thương)
II. Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa
Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa phản ánh các quyền và
nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể trong quan hệ mua bán hàng hóa.
Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa gồm những điều khoản
chủ yếu sau:
1. Tên gọi của hàng hóa
Trong điều khoản này, hàng hóa phải được ghi một cách đầy đủ,
rõ ràng, chính xác, có kèm theo tên thương mại. Nếu đối tượng của


việc mua bán gồm nhiều mặt hàng, chủng loại hàng khác nhau thì
phải ghi rõ danh mục của mặt hàng đó. Danh mục các loại mặt hàng
này có thể được coi là phụ lục của hợp đồng.
2. Số lượng hàng hóa
Đây là một trong những điều khoản quan trọng của hợp đồng bởi
vì nó liên quan đến việc xác định rõ đối tượng của hợp đồng mua bán
cũng như trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên. Đối với hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế việc lựa chọn đơn vị đo lường phải căn cứ
vào tính chất của hàng hóa, vào tập quán thương mại quốc tế đối với
các mặt hàng cụ thể.
Theo nguyên tắc, số lượng của hàng hóa có thể được xác định bởi
một số liệu cụ thể hoặc có thể được quy định trong một giới hạn. Ví dụ:
số lượng gạo là đối tượng của việc mua bán là 10.000 tấn (2%). Do tính
chất của một số loại hàng hóa nên cần phải quy định tỷ lệ dung sai, như
đối với hàng hóa có sự bốc hơi hay có sự thay đổi độ ẩm.
Ngoài ra, các bên cần phải thỏa thuận rõ là có hay không tính
trọng lượng của bao bì và khối lượng của hàng hóa. Đối với hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế, trong thực tế bao giờ cũng nói rõ hai loại
trọng lượng: trọng lượng cả bao bì và trọng lượng tịnh.
3. Chất lượng của hàng hóa
Đây là điều khoản quan trọng nhất của mọi hợp đồng mua bán
hàng hóa. Điều khoản về chất lượng của hàng hóa là thỏa thuận của
các bên liên quan đến việc xác định chất lượng và cách thức kiểm tra
chất lượng của hàng hóa. Thông thường điều khoản này cần phải quy
định cụ thể:
Thứ nhất, những yếu tố chủ yếu vể quy cách, phẩm chất của hàng
hóa và phương pháp xác định.
Thứ hai, nghĩa vụ của các bên trong việc xác định thời gian, địa
điểm và cách thức kiểm tra chất lượng. Thông thường địa điểm kiểm
tra chất lượng của hàng hóa do các bên tự thỏa thuận có tính đến tính

chất của từng loại hàng và điều kiện giao hàng. Hàng hóa có thể kiểm
tratoàn bộ hay một phần theo xác xuất tùy theo tính chất của hàng
hóa. Đối với hàng không đặc định thường kiểm tra theo xác xuất, đối
với hàng đặc định thì kiểm tra toàn bộ. Các bên có thể thuê các cơ
quan chức năng hay các giám định viên thực hiện việc kiểm tra chất
lượng hàng hóa.
4. Thời gian, địa điểm giao hàng
Đây là điều khoản quan trọng của hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế bởi vì nó liên quan đến một số quyền và nghĩa vụ của các
bên, thời điểm chuyển quyền sở hữu và rủi ro, liên quan đến giá cả
của hàng hóa.
Việc quy định địa điểm giao hàng có ý nghĩa hết sức quan trọng
không những về mặt pháp lý mà còn trong khía cạnh thương mại bởi
trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cho phí vận chuyển trong
nhiều trường hợp chiếm 40-50% giá trị của hàng hóa. Thông thường
địa điểm giao hàng do các bên quy điịnh trong hợp đồng bằng cách
lựa chọn điều kiện giao hàng theo INCOTERMS.
5. Giá cả
Điều khoản giá cả là điều khoản gắn liền với các điều khoản đối
tượng hợp đồng. Giá trong hợp đồng thường được xác định dựa trên
những căn cứ như đơn giá, điều kiện cơ sở tính giá, điều khoản bảo
lưu về giá hàng hóa…
Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, giá cả cần phải được
xác định trên cơ sở giá quốc tế và xuất phát từ điều kiện giao hàng.
Theo nguyên tắc giá cả cần phải được quy định rõ, đúng và chính
xác. Trong nhiều trường hợp người mua yêu cầu người bán ghi giá ít
hơn giá thực tế để trốn thuế nhập khẩu ở nước mình, hoặc ngược lại
để tránh việc kiểm soát ngoại tệ của nước mình, người mua cũng có
thể yêu cầu người bán ghi giá cao hơn giá thực tế để chuyển phần
chênh lệch vào tài khoản của người mua ở nước ngoài.

Mặc dù pháp luật Việt Nam chưa có quy định về hậu quả pháp lý
của việc hạ thấp hay nâng cao giá ghi trong hợp đồng so với giá thực
tế được các bên thỏa thuận, tuy nhiên trong thực tiễn thương mại
quốc tế, việc trong hợp đồng ghi giá không đúng với thực tế thường
dẫn đến việc hợp đồng không có hiệu lực pháp lý.
6. Thanh toán
Thời hạn thanh toán cần phải quy định hết sức rõ ràng và chặt chẽ.
Khi thỏa thuận thời hạn thanh toán không bao giờ sử dụng từ
“sau”. Ví dụ: Trong một hợp đồng mua bán hàng thủy sản giữa 2
công ty quy định rằng người mua phải thanh toán cho người bán sau
3 ngày tính từ ngày hàng đến cảng. Rõ ràng thời hạn thanh toán được
quy định không rõ rang như trên hoàn toàn bất lợi cho người bán.
Theo điều khoản này thì trong khỏn thời gian 3 ngày sau khi hàng cập
cảng, việc thanh toán không thể xảy ra mà việc thanh toán chỉ được
thực hiện khi hết thời hạn 3 ngày đó nhưng vào chính ngày nào thì
không thể xác định được.
Để tránh những rủi ro đáng tiếc, trong mọi trường hợp cần phải
xác định thời hạn thanh toán bằng cách thỏa thuận: “thanh toán trước
thời điểm…” hoặc “thanh toán trong khoản thời gian từ…đến…”. Ví
dụ: người mua phải có nghĩa vụ thanh toán trong khoảng thời gian 20
ngày làm việc của ngân hàng tính từ ngày hàng được giao cho người
vận chuyển.
7. Bao bì đóng gói
Đối với mỗi loại hàng hóa đòi hỏi phải có một loại bao bì hoặc
được đóng gói phù hợp bởi vì bao bì và quy cách đóng gói ảnh hưởng
đến chất lượng và nhiều khi đến cả giá cả của hàng hóa, đặc biệt là
trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Trong trường hợp hợp
đồng không có quy định khác, người bán có nghĩa vụ đóng gói bằng
cách nào để hàng đến nơi an toàn cũng như có thể dễ dàng xếp dỡ
trong thời gian quá cảnh hay tại điểm đến. (Khoản 3 Điều 60 Luật

thương mại Việt Nam).
Trong một số trường hợp người mua có thể từ chối nhận hàng nếu
chúng không được đóng gói phù hợp với chỉ dẫn hay tập quán thương
mại. Hiện nay ở nhiều nước việc gắn nhãn hiệu lên bao bì được quy
định một cách nghiêm ngặt, do vậy nên thỏa thuận về bao bì và đóng
gói với người mua khi đàm phán hợp đồng.
8. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
Trong trường hợp này, các bên có thể thỏa thuận mức phạt do
chậm thực hiện nghĩa vụ. Ngoài ra các bên nên thỏa thuận điều khoản
miễn trừ trách nhiệm trong trường hợp bất khả kháng.
Trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế các bên đừng bao giờ
quên đưa vào hợp đồng điều khoản “trách nhiệm sản phẩm”. Điều
khoản này xác định ai là người phải chịu trách nhiệm trong trường
hợp hàng hóa vì có khuyết tật mà gây thiệt hại cho người khác.
Thông thường trong những trường hợp nói trên thì nhà sản xuất phải
chịu trách nhiệm bồi thường.
9. Trách nhiệm đối với sản phẩm
Hiện nay, trong thế giới hiện đại khi mà hầu hết các nước, đặc biệt
là các nước phát triển, dành sự quan tâm đặc biệt đến thương mại
công bằng, đến sức khẻo của con người thì luật pháp có khuynh
hướng hướng đến sự điều chỉnh những quan hệ phát sinh từ chất
lượng của sản phẩm, tức là xác định trách nhiệm của người bán hay
của người mua trong trường hợp hàng hóa, do những khuyết tật của
mình, đã gây ra thiệt hại cho người khác. Về vấn đề này, có thể nói
pháp luật của Việt Nam nói chung, các quy định của pháp luật về hợp
đồng nói riêng chưa có sự điều chỉnh. Vì vậy để tránh những rủi ro
đáng tiếc các doanh nghiệp Việt Nam khi kí kết hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế cần phải có sự thỏa thuận trước trong hợp đồng về
việc phân chia trách nhiệm.
10. Luật áp dụng cho hợp đồng (hợp đồng mua bán hàng hóa

quốc tế)
Các bên có thể tự thỏa thuận luật áp dụng cho hợp đồng.
11. Giải quyết tranh chấp.
Ở điều khoản này, các bên thỏa thuận thủ tục giải quyết tranh
chấp phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng. Đối vói hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế các bên phải thỏa thuận và thống nhất tòa
án hay trọng tài thương mại của nước nào giải quyết tranh chấp trong
trường hợp các bên không thể giải quyết bằng con đường thương
lượng. Hiện nay,Việt Nam đã có trọng tài thương mại và đã tham gia
công ước New York 1958 về việc công nhận phán quyết của trọng tài,
vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam nên chọn trung tâm trọng tài quốc
tế Việt Nam.
Ngoài các nội dung nói trên,trong hợp đồng mua bán hàng hóa
các bên có thể thỏa thuận thêm những nội dung khác tuy nhiên các
điều khoản đó không được trái với quy định của pháp luật Việt Nam
về thương mại.
/>hp-ng/97-khai-nim-va-ni-dung-ca-hp-ng-mua-ban-hang-hoa.html

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì hoạt động mua bán
hàng hóa ngày càng đa dạng. Đối tượng của mua bán hàng hóa rất rộng, nó không
chỉ là những mặt hàng sẵn có, hiện hữu mà có thể là các mặt hàng sẽ có trong
tương lai. Hàng hóa tương lai có thể hiểu là những hàng hóa chưa có tại vào thời
điểm mua bán nhưng nó sẽ có vào một thời điểm trong tương lai. Việc mua bán
hàng hóa tương lai này được pháp luật quy định chặt chẽ và có một số điểm khác
so với mua bán hàng hóa thông thường. Ví dụ một số hàng hóa tương lai phải được
mua bán qua Sở giao dịch hàng hóa. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này chúng ta sẽ
cùng đi phân tích khái niệm và đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở
giao dich hàng hóa.
Khoản 1 Điều 63 Luật thương mại năm 2005 quy định: “Mua bán hàng hóa
qua sở giao dịch hàng hóa được hiểu là hoạt động thương mại theo đó các bên

thỏa thuận thực hiện việc mua bán một lượng nhất định của một loại hàng hóa
nhất định qua sở giao dịch hàng hóa theo những tiêu chuẩn của sở giao dịch hàng
hóa với giá được thỏa thuận tại thời điểm giao kết hợp đồng và thời gian giao
hàng được xác định tại một thời điểm trong tương lai”.
Chính phủ quy định chi tiết về hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch
hàng hóa.
Các quan hệ mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch được thực hiện thông qua
hình thức pháp lí là hợp đồng mua bán. Hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao
dịch có bản chất của hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung nhưng được quy định
chặt chẽ hơn với các điều khoản bắt buộc về điều kiện giao sau và biện pháp bảo
đảm, phù hợp với đối tượng của hợp đồng là hàng hóa tương lai. Tuy nhiên hợp
đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa chỉ là một bộ phận của hợp
đồng mua bán hàng hóa tương lai.
Hàng hóa tương lai có thể là các hàng hóa thông thường như gạo, cà phê,
vàng, bạc…; cũng có thể là các công cụ tài chính như chỉ số chứng khoán, tỷ giá
hối đoái, lãi suất… Tuy nhiên hàng hóa là các công cụ tài chính này không áp dụng
các quy định của mua bán hàng hóa trong Luật thương mại. Các hàng hóa tương lai
như gạo, cà phê… là những mặt hàng đã được tiêu chuẩn hóa về chất lượng, số
lượng. Sau khi được thiết lập chính những hàng hóa này được mua đi bán lại tại Sở
giao dịch hàng hóa. Việc tiêu chuẩn hóa các mặt hàng hóa này nhằm giao dịch
hàng hóa nhanh chóng, thuận tiện mà vẫn tuân thủ pháp luật. Các điều khoản được
tiêu chuẩn hóa bao gồm tên hàng, chất lượng, số lượng hàng hóa, thời gian giao
hàng, địa điểm giao hàng…
Theo Điều 64 Luật thương mại năm 2005 thì hợp đồng mua bán hàng hóa
qua sở giao dịch hàng hóa bao gồm hợp đồng kì hạn và hợp đồng quyền chọn. Hợp
đồng kì hạn là thỏa thuận, theo đó bên bán cam kết giao và bên mua cam kết nhận
hàng hóa tại một thời điểm trong tương lai theo hợp đồng. Ví dụ: Công ty A kí kết
hợp đồng kỳ hạn 5 tháng mua của anh Ba 20 tấn café với giá là 50 triệu đồng. Như
vậy, công ty A được coi là người mua, anh Ba được là người bán trong hợp đồng
kỳ hạn. Sau 5 tháng anh Ba có trách nhiệm phải bán cho công ty A 20 tấn café với

giá là 50 triệu đồng và công ty A có trách nhiệm mua 20 tấn café cũng với giá 50
triệu đồng cho dù vào thời điểm giao hàng thì giá café có tăng lên hoặc giảm
xuống thì nó cũng không ảnh hưởn đến hợp đồng đã kí kết giữa công ty A và anh
Ba. Hợp đồng về quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán là thỏa thuận, theo đó bên
mua quyền có quyền được mua hoặc quyền được bán một hàng hóa xác định với
mức giá định trước (gọi là giá giao kết) và phải trả một khoản tiền nhất định để
mua quyền này (gọi là tiền mua quyền). Bên mua quyền có quyền chọn thực hiện
hoặc không thực hiện việc mua hoặc bán hàng hóa đó.
Hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở giao dịch (hợp đồng mua bán hàng hóa
tương lai) là một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa, chính vì vậy nó
mang các đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa như:
- Về chủ thể: hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở giao dịch được thiết lập bởi
các thương nhân.
- Hình thức của hợp đồng: Hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở giao dịch được
thực hiện thông qua hình thức bằng văn bản mẫu, được cơ quan nhà nước duyệt và
các bên chấp nhận đưa vào giao dịch tại sở giao dịch tại sở giao dịch.
- Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch là hàng hóa., cụ
thể đó là hàng hóa tương lai.
- Về nội dung: hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở giao dịch thể hiện quyền
và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mua bán hàng hóa.
Ngoài những đặc điểm trên thì hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở giao dịch
hàng hóa còn có những đặc điểm riêng sau đây:
- Thứ nhất, hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa là một hợp
đồng song vụ, các bên cam kết thực hiện nghĩa vụ của mình nhưng các nghĩa vu đó
được thực hiện tại một thời điểm trong tương lai. Trong hợp đồng kì hạn, bên bán
phải có nghĩa vụ giao một khối lượng hàng háo xác định cho bên mua và có quyền
nhận tiền vào một thời điểm trong tương lai ở một giá thỏa thuận trước; bên mua
có nghĩa vụ thanh toán tiền theo như thỏa thuận trong hợp đồng và có quyền nhận
hàng cũng vào một thơi điểm trong tương lai. Trong hợp đồng quyền chọn, bên
mua quyền được mua hoặc quyền được bán hàng hóa có nghĩa vụ trả một khoản

tiền nhất định và có quyền chọn mu hoặc chọn bán hàng hóa tại thời điểm trong
tương lai theo thỏa thuận; bên bán quyền có quyền nhận tiền và phải thực hiện
nghĩa vụ mà mình cam kết với nhau. Như vậy, rõ ràng hai bên trong hoạt động đều
bị ràng buộc bởi các quyền và nghĩa vụ nhất định, quyền của bên này là nghĩa vụ
tương ứng của bên kia và ngược lại, nghĩa vụ của bên này cũng chính là quyền của
bên kia. Xét ví dụ trên, ta thấy rằng, hợp đồng mua café là hợp đồng song vụ, anh
Ba có nghĩa vụ bán cho công ty A 20 tấn café, vào đúng thời gian là sau 6 tháng kể
từ khi giao kết hợp đồng, đúng chất lượng, số lượng café, đồng thời anh Ba có
quyền nhận số tiền 50 triệu đồng từ việc bán café. Còn công ty A có quyền nhận số
café đó và có trách nhiệm trao tiền cho anh Ba…
- Thứ hai, đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng
hóa là hàng hóa tương lai, tức là hàng hóa chưa có tại thời điểm các bên tiến hành
giao kết hợp đồng mua bán. Đối với các loại hàng hoá này, thông thường là những
hàng hóa có lượng cung cầu lớn và thường xuyên biến động. Ví dụ, A và B kí hợp
đồng mua gạo vào tháng 6/2010 nhưng mãi đến tháng 9/2010 anh B mới gặt lúa và
bán gạo cho anh A. Như vậy, tại vào thời điểm mua bán gạo thì số gạo chưa có,
mãi đến tháng 9/2010 là mùa gặt thì số gạo đó mới hiện hữu.
- Thứ ba, Hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa được giao
kết và thực hiện thông qua Sở giao dịch hàng hóa. Sở giao dịch hàng hóa là chủ thể
của trung tâm mua bán hàng hóa tương lai, là chủ thể tổ chức và điều hành hoạt
đọng mua bán hàng hóa. Hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch được thực
hiện một cách chuyên nghiệp với những đòi hỏi cao về trình độ chuyên môn
nghiệp vụ. Việc tiêu chuẩn hóa các điuề khoản chủ yếu trong hợp đồng mua bán
qua sở giao dịch giúp cho việc giao kết hợp đồng được thuận lợi và đảm bảo an
toàn về mặt pháp lí, hạn chế rủi roc ho các chủ thể tham gia mua bán hàng hóa qua
sở giao dịch. Việc mua bán qua Sở giao dịch hàng hóa giúp các nhà đầu tư có điều
kiện dễ dàng và thuận lợi để lựa chọn đối tác của mình. Cơ chế giám sát trong sở
giao dịch hàng hóa là điều kiện quan trọng để đảm bảo hợp đồng được thực hiện có
hiệu quả. Trong Sở giao dịch còn có thể xuất hiện nhiều chủ thể làm trung gian cho
việc giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tương lai, như phòng thanh

toán bù trừ, người môi giới của các bên mua bán hàng hóa… Trong trường hợp nhà
đầu tư thực hiện giao dịch thanh toán bù trừ thì phòng thanh toán bù trừ sẽ cân đối,
bù trừ vào tài khoản của các nhà đầu tư;còn trong trường hợp các bên thi hành giao
kết hợp đồng thì phòng thanh toán sẽ là cầu nối, yêu cầu bên bán và bên mua giao
nhận hàng tại kho hoặc nơi do sở giao dịch quy định.
Trên đây là khái niệm và một số đặc điểm của hoạt động mua bán hàng hóa
qua sở giao dịch hàng hóa.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì hoạt động
mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa ngày được quan tâm và đóng vai trò
quan trọng. Chính vì vây các quy định của pháp luật cần được ban hành phù hợp để
tạo một hành lang pháp lí cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động mua bán
hàng hóa này.
DANH MUC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật hà Nội, Giáo trình Luật thương mại (tập 2), Nxb.
CAND, Hà Nội, 2009.
2. Nguyễn Thị Dung (chủ biên), pháp luật về hợp động trong thương mại và
đàu tư – Những vãn đề pháp lí cơ bản, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2008.
3. Nguyễn Thị Dung (chủ biên), Đoàn Trung Kiên, Vũ Phương Đông, Trần
Quỳnh Anh, Nguyễn Như Chính, Hỏi và đáp luật thương mại, Nxb. Chính
trị - hành chính, 2011.
4. Luật thương mại năm 2005

×