Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Đề tài thực trạng bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan quản lý nhà nước hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.5 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA XÃ HỘI HỌC

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
MÔN HỌC: XÃ HỘI HỌC QUẢN LÝ
ĐỀ TÀI:
THỰC TRẠNG BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
Ở CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC HIỆN NAY
GVGD: TS. Phạm Thị Thúy
Sinh viên thực hiện: Hoàng Ngọc Phương Trang
MSSV: 195609081
Lớp: K25_01 (Nhóm 5)
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 07 tháng 01 năm 2022


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………………….1
I/ Cơ sở lý luận...........................................................................................................................................2
1.Lý thuyết……………………………………………………………………. .2
1.1 Lý thuyết vị thế - vai trò…………………………………………………. .2
1.2 Lý thuyết nữ quyền………………………………………………………. .3
2.Các khái niệm………………………………………………………………. .3
II/ Thực trạng nữ giới tham gia lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan quản lý nhà
nước hiện tại Việt Nam hiện nay
1.Những kết quả đạt được……………………………………………………...3
2. Những hạn chế………………………………………………………………..6
III/ Những rào cản đối với nữ giới khi tham gia lãnh đạo, quản lý ở các cơ
quan quản lý nhà nước
1.Định kiến giới………………………………………………………………….7
2.Gánh nặng gia đình và thiên chức làm mẹ…………………………………..8


3.Những bất cập trong thể chế, chính sách…………………………………….8
4.Bản thân người phụ nữ……………………………………………………….10
IV/ Giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý trong các cơ
quan quản lý nhà nước …………………………………………………………10
V/ KẾT LUẬN…………………………………………………………………...12


LỜI MỞ ĐẦU
Thực hiện nam nữ bình đẳng chính là tư tưởng nhất quán của Chủ tịch Hồ
Chí Minh; một mặt, thể hiện sự tôn vinh người phụ nữ và khát vọng giải phóng
phụ nữ trong tiến trình cách mạng Việt Nam; mặt khác là “kim chỉ nam” cho
thực hiện bình đẳng giới ở nước ta trong thời kỳ mới.
Hiến pháp và pháp luật của nước ta đã quy định rõ về “thực hiện nam nữ
bình quyền”. Văn kiện Đại hội lần thứ XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Thực
hiện hiệu quả các giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ”.
Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam có một bộ luật riêng - Luật Bình
đẳng Giới - Có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2007 nhằm luật hóa các quan
điểm của Đảng ta về bình đẳng giới trong thời kỳ mới.
Việc phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý là biểu hiện cao nhất, đầy đủ cho
quyền bình đẳng giới phụ nữ. Đó khơng chỉ là tiêu chí quan trọng bình đẳng
giới mà cịn là động lực thúc đẩy mức độ bình đẳng giới. Thực tế cho thấy, tỷ lệ
nữ tham gia công tác lãnh đạo, quản lý hệ thống cơ quan quản lý nhà nước ở
nước ta có chiều hướng ngày tăng.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đáng ghi nhận, bình đẳng giới trong lãnh
đạo, quản lý ở cơ quan quản lý nhà nước hiện nay gặp phải nhiều rào cản, bất cập,
ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ cán nữ tham gia hoạt động lãnh đạo, quản lý. Chính vì lý
do đó, em lựa chọn đề tài “Thực trạng bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở
cơ quan quản lý nhà nước hiện nay” để nhằm tìm hiểu thực trạng bình đẳng giới
trong quản lý ở cơ quan quản lý nhà nước hiện nay diễn ra như thế nào, có những
thành cơng và hạn chế nào, đồng thời tìm hiểu những rào cản ảnh hưởng đến phụ

nữu trong cơng tác quản lý, lãnh đạo. Từ đó đưa ra những giải pháp giúp hạn chế
những rào cản và thúc đẩy bình đẳng giới trong cơng tác lãnh đạo, quản lý các mặt
trong xã hội nói chúng và trong các cơ quan quản lý nhà nước nói riêng.

1


I/ Cơ sở lý luận
1.
Lý thuyết
1.1 Lý thuyết vị thế - vai trò
Nhà nhân học Ralph Linton (1893 – 1953) được đánh giá là người có cơng
đầu trong việc xác định nội dung của khái niệm vị thế và vai trò. Theo Ralph
Linton vị thế được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa cụ thể, vị thế xác định vị trí của
một người trong mối quan hệ tương tác xã hội với những người khác. Theo nghĩa
tổng hợp, vị thế xác định vị trí của người đó trong mối quan hệ với tổng thể xã hội.
Vai trò là hành vi hướng vào việc đáp ứng những kỳ vọng của người khác về quyền
và trách nhiệm gắn với vị thế. Vai trò xã hội với tư cách là kiểu hành vi, luôn gắn
liền với vị thế xã hội mà người nắm giữ vị thế đó thể hiện trong các quan hệ xã hội.
Trong các mối quan hệ xã hội, con người luôn phải thực hiện các vai trò tương ứng
với vị thế đạt được. Để làm đúng vai trị của mình đảm nhiệm, mỗi cá nhân phải
tích cực hoạt động, theo đó mà học hỏi liên tục, tự điều chỉnh, tự hoàn thiện mình.
Sự học hỏi, rút kinh nghiệm từ các khn mẫu của vai trò mà ta đảm nhiệm phải là
học hỏi liên tục, học hỏi suốt đời và trung thực.

1.2 Lý thuyết nữ quyền
Lý thuyết nữ quyền tập trung phân tích sự bất bình đẳng giới. Xem vai
trị của phụ nữ trong xã hội, cả kinh nghiệm, sở thích, cơng việc và chính trị của
nữ quyền trong nhiều lĩnh vực như: nhân học, xã hội học, truyền thông, kinh tế
gia đình, văn học giáo dục và triết học…Chủ đề trong nữ quyền bao gồm phân

biệt đối xử, áp lực, chế độ phụ hệ, rập khuôn, lịch sử nghệ thuật và nghệ thuật
đương đại. Chủ nghĩa nữ giới hay chủ nghĩa nữ quyền, chủ nghĩa duy nữ là tập
hợp của các phong trào và ý thức nhằm xác định, xây dựng và bảo vệ quyền
chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội bình đẳng cho phụ nữ.
Lý thuyết nữ quyền là một nhánh chính trong xã hội học nhằm thay đổi các
giả định, lăng kính. Phân tích và trọng tâm thời sự khỏi “quan điểm, kinh
nghiệm” của nam giới sang “quan điểm, kinh nghiệm” của nữ giới.
2.

Các khái niệm

- Bình đẳng giới: Bình đẳng giới là tình trạng khơng có sự phân biệt đối xử trên
cơ sở giới tính về quyền, trách nhiệm và cơ hội. Theo khái niệm này thì nữ giới và
nam giới được:

2


+

Tơn trọng ngang nhau;

+

Có cơ hội và điều kiện như nhau;

+

Tiếp cận các nguồn lực như nhau;


+

Thụ hưởng thành quả như nhau.

- Bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý: là nam giới, nữ giới có vị trí, vai trị
ngang nhau trong công tác lãnh đạo, quản lý, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy
năng lực của mình ngang nhau và được thụ hưởng kết quả bổ nhiệm vào những vị
trí lãnh đạo, quản lý chính thức trong hệ thống chính trị ngang nhau.
- Cơ quan quản lý nhà nước: là cơ quan nhà nước hoạt động có tính chun
nghiệp, có chức năng điều hành xã hội trên cơ sở chấp hành và thi hành Hiến pháp,
luật và các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên…Cơ quan
quản lý nhà nước ở nước ta gồm: Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban
nhân dân các cấp từ cấp tỉnh đến cấp xã.
- Bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở cơ quan quản lý nhà nước: nghĩa
là nam giới, nữ giới có vị trí, vai trị ngang nhau trong cơng tác lãnh đạo, quản lý,
được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình ngang nhau và được thụ
hưởng kết quả bổ nhiệm vào những vị trí lãnh đạo, quản lý chính thức trong hệ
thống chính trị ngang nhau ở cơ quan quản lý nhà nước.
II/ Thực trạng nữ giới tham gia lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan quản lý
nhà nước hiện tại Việt Nam hiện nay 1.Những kết quả đạt được

-

Chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật Nhà nước về bình đẳng giới
trong lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan quản lý nhà nước đang dần hoàn thiện
Theo đánh giá của UNDP (2012), Việt Nam có khung pháp lý ấn tượng, với các
văn bản hướng dẫn không những không cho phép các thực tiễn phân biệt đối
xử với phụ nữ mà còn khuyến nghị các biện pháp và chỉ tiêu tăng cường đội ngũ
lãnh đạo nữ. Chỉ riêng trong lĩnh vực trao quyền cho phụ nữ, các văn bản chỉ
đạo của Trung ương và các cấp ủy địa phương, ngành đưa ra quy định về tỷ lệ

“không dưới” và tinh thần “nhất thiết có” thành phần phụ nữ trong mỗi tổ chức
thuộc hệ thống chính trị nói chung, cơ quan quản lý nhà nước nói riêng.
Minh chứng rõ nét là Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị đã cụ thể những
mục tiêu cho bình đẳng giới trong lãnh đạo quản lý như: Phấn đấu đến năm 2020,
3


các cơ quan đơn vị có tỷ lệ nữ 30% trở lên nhất thiết phải có lãnh đạo chủ chốt
là nữ. Cơ quan lãnh đạo cấp cao của Nhà nước, Chính phủ có tỷ lệ nữ phù hợp
với mục tiêu bình đẳng giới. Cần bảo đảm tỷ lệ nữ tham gia các khóa đào tạo lý
luận chính trị, quản lý hành chính nhà nước đạt 30% trở lên.
Hay lấy ví dụ về Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII) đã xác định
rõ mục tiêu đến năm 2030: “Phải có cán bộ nữ trong cơ cấu ban thường vụ cấp
ủy và tổ chức đảng các cấp. Tỷ lệ nữ cấp ủy viên các cấp đạt từ 20-25%.
Gần đây nhất, chương trình “Tăng cường sự tham gia bình đẳng của phụ nữ
trong các vị trí lãnh đạo và quản lý ở các cấp hoạch định chính sách giai đoạn
2021-2030” đề ra mục tiêu “Đến năm 2025 đạt 60% và đến năm 2030 phấn đấu
đạt 75%, các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương các cấp có lãnh
đạo chủ chốt là nữ”.
Từ những minh chứng trên có thể thấy những chủ trương, chính sách của
nhà nước ta đã và đang rất xem trọng vai trò và sự cần thiết khi có sự tham gia
của nữ giới trong cơng tác lãnh đạo, quản lý nhà nước. Việc từng bước bổ sung,
hồn thiện các khung pháp lý, chính sách là cơ sở quan trọng, góp phần thúc đẩy
bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý nhà nước.
- Phụ nữ Việt Nam đã và đang tham gia công tác lãnh đạo, quản lý trong hầu
hết các cơ quan quản lý nhà nước ở các mặt của đời sống xã hội.
Hiện nay, trên tất cả các lĩnh vực đều có sự cống hiến của nữ giới. Mặc dù
đại bộ phận các cơ quan lãnh đạo, quản lý của Nhà nước ở các cấp đều có tỷ lệ
nam giới cao hơn, song chất lượng, hiệu quả, uy tín của cán bộ nữ đã ngày càng
chứng tỏ nỗ lực cá nhân phụ nữ cũng như vai trị của các cấp, các ngành trong

q trình thực hiện bình đẳng giới.
Trong lĩnh vực chính trị, phụ nữ Việt đã đảm nhiệm nhiều vị trí lãnh đạo
chủ chốt của đất nước như: Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ
tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch nước, Bộ trưởng, Thứ trưởng. Ở địa phương, nhiều
phụ nữ giữ vai trò chủ chốt ở các cấp, các ngành, góp phần giải quyết các vấn đề
quan trọng. Số lượng nữ doanh nhân là người dân tộc thiểu số tăng, đặc biệt
trong lĩnh vực giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Vai trị của phụ nữ
dân tộc thiểu số ngày càng được phát huy.
Dưới đây là chân dung những nữ lãnh đạo cấp cao, nắm giữ những vị trí
quan trọng về các lĩnh vực trong hệ thống chính trị và các cơ quan quản lý của
nhà nước Việt Nam:

4


Bà Nguyễn Thị Kim Ngân - nguyên Chủ tịch
Quốc hội của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam và là nữ chính khách đầu tiên trong
lịch sử Việt Nam giữ các chức vụ này.

Bà Võ Thị Ánh Xuân - Phó Chủ
tịch nước Cộng hồ xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đương nhiệm

Bà Nguyễn Thị Hồng - Thống đốc Ngân hàng
nhà nước Việt Nam, là nữ Thống đốc đầu tiên
từ ngày thành lập Ngân hàng Nhà nước.

Bà Nguyễn Thị Thanh Trà – nữ Bộ
trưởng Nội vụ đầu tiên trong 75 năm kể từ

ngày thành lập ngành Nội vụ.

5


- Tỷ lệ nữ giới tham gia công tác lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị
nhà nước ngày càng tăng.
Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới, Việt Nam đã có bước tiến về
tăng tỷ lệ phụ nữ tham chính; đứng thứ ba trong khu vực ASEAN và thứ 47
trong 187 quốc gia trên thế giới tham gia xếp hạng về bình đẳng giới trong tham
chính. Có thể dựa vào những số liệu cụ thể sau:
Trong các cấp ủy đảng: Kết quả đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020-2025
vừa qua cho thấy, ở cấp cơ sở, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy đạt 20,8% (tăng 1,62%)
so với nhiệm kỳ trước. Đối với cấp trên cơ sở đạt 17,4% tăng 2,41%. Đối với
các đảng bộ trực thuộc Trung ương, tỷ lệ nữ đạt 15,73% và tăng 2,72% so với
nhiệm kỳ trước.
Trong các cơ quan dân cử: Kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp
nhiệm kỳ 2021-2026 vừa qua đạt được những dấu hiệu tích cực, cụ thể: tỷ lệ nữ
đại biểu Quốc hội khóa XV là 30,26%, cao nhất từ trước đến nay. Tỷ lệ nữ đại
biểu HĐND cấp tỉnh nhiệm kỳ 2021-2026 là 29%; cấp huyện là 29,8%; cấp xã
là 28,98%.
Trong bộ máy hành chính nhà nước cấp Trung ương và địa phương: Tính đến
hết tháng 7-2020, tỷ lệ các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có
lãnh đạo nữ đạt 36,6% (11/30), trong đó có 11/16 nữ thứ trưởng các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ. Đến cuối nhiệm kỳ 2011-2015, tỷ lệ UBND
các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ ở cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã lần lượt là:
32,14%; 32,64%; 21,95%.
Đặc biệt, trong những năm gần đây, được sự quan tâm của cấp ủy các cấp ở
các địa phương vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, công tác bình đẳng giới
vùng dân tộc thiểu số có nhiều chuyển biến tích cực. Tỷ lệ cán bộ, cơng chức, viên

chức nữ là người dân tộc thiểu số ở cấp tỉnh, cấp huyện ngày càng tăng, cụ thể như:
Ở tỉnh Điện Biên, tỷ lệ cán bộ, công chức nữ trong khu vực cơng chiếm 36%, trong
đó cán bộ, cơng chức nữ dân tộc thiểu số chiếm 18,7%; tương ứng, ở tỉnh Lào Cai,
tỷ lệ là 62,2% và 15%; ở tỉnh Kon Tum, tỷ lệ này là 56,84% và 12,5%.
2.Những hạn chế
Tỷ lệ nữ tham gia công tác lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị
nhà nước chưa đạt được theo kỳ vọng và chưa đạt được mục tiêu đề ra.
Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 – 2020 đặt chỉ tiêu ít
nhất 35% đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân là nữ trong cuộc bầu cử năm
2016. Tuy nhiên, nữ chỉ chiếm 24% tổng số đại biểu Quốc hội trong nhiệm kỳ
2011 – 2016. Ngay ở các cấp thấp hơn, tỷ lệ nữ tham gia cũng cách chỉ tiêu
6


khá xa. Cụ thể là, tỷ lệ nữ trong số những người được bầu cử tại cấp tỉnh và
huyện là 25%, và tỷ lệ này ở cấp xã là 21%.
Ngay tại Tuyên Quang, một trong những tỉnh có tỷ lệ nữ tham chính cao
nhất so với tồn quốc, nữ lãnh đạo ở các cơ quan hành chính cấp tỉnh cũng chỉ
chiếm 18,31% và đến cấp xã chỉ còn 10,15%. Tương tự ở Cà Mau, tuy tỷ lệ cán
bộ công chức nữ chiếm 26,1% nhưng số lượng nữ nắm giữ vai trò lãnh đạo chỉ
chiếm 11,6%.
Như vậy, so với tiềm năng và nguồn lực cán bộ nữ trong hệ thống chính trị
thì tỷ lệ cán bộ quản lý, lãnh đạo nữ hiện nay vẫn cịn khá khiêm tốn. Dù Việt
Nam ln đứng thứ hạng cao trên thế giới trong việc bảo đảm quyền của người
phụ nữ khi tham gia vào các quan hệ xã hội, đặc biệt là tham gia vào bộ máy
quản lý đất nước, nhưng so với tương quan nam giới vẫn còn sự chênh lệch, đặc
biệt những mục tiêu cụ thể trong lĩnh vực chính trị của Chiến lược quốc gia về
bình đẳng giới.
- Tỷ lệ phụ nữ tham gia hệ thống chính trị và lãnh đạo, quản lý hiện đang
theo hình kim tự tháp và chủ yếu ở vị trí cấp phó

Thực tế hiện nay cho thấy, càng lên cao trong hệ thống chính trị, tỷ lệ phụ
nữ tham gia càng nhỏ và tỷ lệ phụ nữ là lãnh đạo cịn thấp hơn nữa. Các vị trí
quan trọng, chủ chốt trong chính phủ hầu hết là nam giới. Tính tất cả các khối
cơ quan, trong số 62 bộ trưởng và tương đương, phụ nữ chỉ chiếm 8,1% ở vị trí
bộ trưởng hoặc tương đương và trong số 119 vị trí thứ trưởng, có 10 thứ trưởng
hoặc tương đương do nữ giới đảm nhiệm với tỷ lệ 8,4%. Như vậy, phụ nữ ở
cương vị lãnh đạo cao nhất cấp Bộ là rất hiếm, chỉ 12 trong số 30 bộ, cơ quan
lãnh đạo, tỷ lệ này là 40%.
Minh chứng cụ thể thu thập từ một nghiên cứu ở Cà Mau cho biết, trong
tổng số 1.059 công chức giữ vị trí lãnh đạo từ cấp phó, trưởng phịng đến cấp sở
trong khối cơ quan nhà nước cấp tỉnh ở Cà Mau thì tỷ lệ nam giới cao gấp 7 lần
so với nữ giới (88,4% so với 11,6%).
Báo cáo của UNDP (2012), trong lĩnh vực hành chính của chính phủ, phần
trăm nữ cán bộ, công chức, tỷ lệ phụ nữ nắm giữ các vị trí ra quyết sách khơng
cao. Khi so sánh với quốc tế, Việt Nam xếp thứ 83 trên 129 quốc gia về số
lượng nhà lập pháp, quan chức và quản lý cao cấp.
- Vị trí và vai trị ra quyết định, chỉ đạo thực hiện của phụ nữ ở các cơ quan
quản lý nhà nước các cấp còn hạn chế
Mặc dù chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 cũng đề
ra chỉ tiêu: “Phấn đấu đến năm 2020 đạt 95% bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ”. Tuy
7


nhiên, thực tế do thấy một số vị trí lãnh đạo có nữ tham gia, song chủ yếu ở
cấp phó, cấp được đánh giá có thực quyền ít hơn và khả năng ra quyết định.
Đối với các cấp địa phương, ở cấp tỉnh, nhiệm kỳ 2011 - 2016, chỉ có 1/63 tỉnh,
thành có nữ Chủ tịch Ủy ban nhân dân (chiếm 1,58%), 31/36 tỉnh/thành có nữ Phó
Chủ tịch (riêng Thành phố Hồ Chí Minh có 2 nữ Phó Chủ tịch). Lãnh đạo nữ
trưởng ngành cấp tỉnh cũng chỉ đạt 10,5%. Ở cấp huyện, nữ Chủ tịch Ủy ban nhân

dân là 3,02% (giảm so với nhiệm kỳ trước) Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân là
14,48% (tăng 6,05% So với nhiệm kỳ trước); lãnh đạo nữ trưởng ngành đạt 139%.
Ở cấp xã, tỷ lệ nữ Chủ tịch Ủy ban nhân dân là 3,42%, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân
dân là 8,84%.
Với tỷ lệ phụ nữ tham gia các cơ quan quản lý nhà nước như trên, có thể
thấy, vai trị ra quyết định và chỉ đạo thực hiện của phụ nữ ở các cơ quan quản lý
nhà nước các cấp còn hạn chế và chưa tương xứng với khả năng của họ. Đây
cũng là một trong những hạn chế cần phải được xem xét một cách khách quan
và có phương hướng điều chỉnh phù hợp trong thời gian tới.
III/ Những rào cản đối với nữ giới khi tham gia lãnh đạo, quản lý ở các cơ
quan quản lý nhà nước
1.Định kiến giới
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, giữa phụ nữ và nam giới khơng có sự khác biệt
về mặt xã hội, mà chỉ có sự khác biệt về mặt sinh học. Tuy nhiên, trong thực tế,
cho đến bây giờ các định kiến giới vẫn cịn tồn tại và có thể gặp ở nhiều nhóm xã
hội: cả phụ nữ và nam giới, cả trong cán bộ lãnh đạo - những người có vai trị
quyết định đối với việc hoạch định và thực hiện chính sách.
Định kiến giới là một tập hợp các đặc điểm mà một nhóm người, một cộng
đồng cụ thể nào đó gán cho là thuộc tính của nam giới hay phụ nữ. Các quan
niệm này thường sai lệch và hạn chế những điều mà một cá nhân có thể làm. Ví
dụ: một số định kiến coi phụ nữ là phụ thuộc, yếu đuối, thụ động; một số định
kiến coi nam giới là độc lập, mạnh mẽ, có năng lực, quan trọng hơn và là người
ra quyết định tốt hơn. Hay những quan niệm cho rằng: phụ nữ không đủ mạnh
mẽ để làm lãnh đạo, phụ nữ chỉ nên đảm nhận nhiệm vụ sinh con đẻ cái, chăm
sóc gia đình cịn cơng việc chức cao vọng trọng là của đàn ơng,…Chính những
định kiến đó đã hạn chế phụ nữ tham gia vào những công việc quản lý, lãnh
đạo.
Quan niệm “nam trưởng, nữ phó” vẫn cịn tồn tại trong nhiều tổ chức cũng
là rào cản đối với phụ nữ trong bồi dưỡng, quy hoạch và bổ nhiệm, đặc biệt là
trong bổ nhiệm các vị trí lãnh đạo chủ chốt, người đứng đầu

8


“Nếu một nam và nữ có năng lực như nhau, chắc chắn nam giới sẽ được lựa
chọn. Không chỉ là nam giới bầu cho nam giới mà phụ nữ cũng bầu cho nam
giới. Điều này có thể là mọi người, đặc biệt là nam giới, khơng thích dưới quyền
lãnh đạo của phụ nữ. Có lẽ, người ta nghĩ rằng phụ nữ có ít thời gian cho cơng
việc hơn do họ phải thực hiện các nghĩa vụ gia đình” Nguồn: trích dẫn của một
lãnh đạo Sở, IFGS và EOWP (2009)
2.Gánh nặng gia đình và thiên chức làm mẹ
Trong tình hình hiện nay, do yêu cầu công việc, nhiều phụ nữ phải đầu tư
nhiều thời gian mới nâng cao được chuyên môn, nghiệp vụ. Nếu vừa làm tốt
bổn phận trong gia đình vừa làm tốt cơng việc xã hội thì như vậy, nhiều phụ nữ
phải gánh vác gấp đôi trách nhiệm, bởi họ khơng những làm việc để kiếm thu
nhập, mà cịn là người chủ yếu đảm đương các vai trò làm mẹ, làm vợ trong gia
đình. Nếu xét tương quan thời gian lao động trong một ngày giữa phụ nữ và
nam giới cho thấy, thời gian lao động của phụ nữ nhiều hơn, bởi họ phải làm
các cơng việc gia đình nhiều hơn (thời gian làm việc trung bình của phụ nữ là
13 giờ/ngày trong khi của nam giới chỉ khoảng 9 giờ). Chính vì vậy mà nhiều
phụ nữ chấp nhận tụt hậu, hoặc phấn đấu có chừng mực, chỉ ở mức độ hồn
thành cơng việc để nhường bước cho chồng và lui về chăm sóc gia đình.
Hơn thế nữa, phụ nữ còn phải gắn liền với thiên chức làm mẹ, việc sinh nở
ít nhiều cũng sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và trí lực. Từ đó tạo nên những áp lực
về vấn đề sức khỏe, suy giảm khả năng tập trung, tinh thần,…vơ hình trung
cũng trở thành rào cản trên con đường phát triển sự nghiệp lãnh đạo, quản lý.
3.Những bất cập trong thể chế, chính sách
Việc thực thi chính sách Bình đẳng giới vẫn chưa đáp ứng yêu cầu về bình
đẳng giới, lồng ghép giới trong quản lý cán bộ, công chức. Sự thiếu vắng các
công cụ đảm bảo chính sách, pháp luật về giới trong đời sống chính trị có ảnh
hưởng rất lớn đến cơ hội tham chính của phụ nữ trong hệ thống chính trị các cấp

hiện nay. Vì vậy, để thúc đẩy phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý thì cần bổ sung
những chế tài đảm bảo quyền tham chính của phụ nữ.
Các chính sách cán bộ được áp dụng chung cho cả nam và nữ mà khơng
tính đến những khác biệt của hai giới, đặc biệt là những rào cản mà phụ nữ phải
vượt qua, chính là một hạn chế của hệ thống chính sách và thể chế. Bên cạnh đó,
việc sử dụng những cụm từ mềm như “phấn đấu” đã làm giảm tính “bắt buộc”
trong các quy định; đồng thời, khó có cơ sở để xử lý trách nhiệm. Đây cũng là
nguyên nhân làm giảm tính quyết tâm trong q trình thực thi chính sách bình
đẳng giới. Nó đã và đang tạo ra những khó khăn, áp lực cho người phụ nữ trong
cơng việc và con đường thăng tiến của họ.
9


Tuổi hưu ở Việt Nam là 55 đối với nữ và 60 đối với nam. Sự khác biệt về
tuổi hưu này bất lợi đối với phụ nữ ở một số điểm: rút ngắn thời gian làm việc
và giai đoạn thăng tiến, ít cơ hội thăng tiến hơn, thu nhập tổng cộng ít hơn và
hạn chế khả năng đóng góp hiệu quả do họ buộc phải về hưu khi họ đang ở đỉnh
cao của sự nghiệp.
Chưa có sự đồng bộ, thống nhất về quyết tâm chính trị của cấp Đảng uỷ và
chính quyền địa phương với nhận thức của cộng đồng về tăng cường tham gia lãnh
đạo, quản lý của phụ nữ, nhất là đối với lãnh đạo cấp chiến lược. Chính vì lý do này
cũng đã dẫn đến những hiện tượng tiêu cực như: ráo riết tìm cán bộ nữ tham gia
vào quản lý lãnh đạo để đạt chỉ tiêu, tỉ lệ theo yêu cầu mà không quan tâm đến
những tiêu chí cần thiết, vị trí của cán bộ chưa cân xứng với năng lực,…
4.Bản thân người phụ nữ
Trong một bài tạp chí khoa học, với 3626 khách thể thuộc các trí thức lĩnh vực
giáo dục, khoa học cơng nghệ, y tế, văn hóa, kinh thế tại 5 tỉnh thành khi được hỏi
là: “Có nguyện vọng phấn đấu tham gia cơng tác quản lý hay lãnh đạo khơng?” thì
thu nhận được kết quả là 46,7% chọn có và 53,3% chọn khơng muốn và chưa xác
định. Dường như có sự e ngại đáng kể trong tâm lý của nữ giới khi bị hỏi, không

phải là thực sự không muốn làm mà cảm giác ngại ngùng trước đánh giá của thiên
hạ “Đàn bà mà ham hố”. Bắt nguồn từ những định kiến xã hội mà chính người phụ
nữ chịu tác động mạnh mẽ của các quan điểm thuộc về số đông, phụ nữ cũng mang
trong mình những định kiến về chính bản thân họ, có xu hướng tự ti, đánh giá thấp
năng lực của mình, cho rằng bản thân mình thua kém nam giới về mọi mặt nên
quản lý, lãnh đạo là một việc quá tầm đối với họ.
Bên cạnh đó, tâm lý “an phận thủ thường”, cả cuộc đời phải dựa vào người
đàn ông “bé nhờ cha, lớn nhờ chồng, già nhờ con” vốn là những sản phẩm được
tạo ra bởi những định kiến xã hội lạc hậu đã ăn sâu vào nếp nghĩ khiến bản thân
một số bộ phận nữ giới (đặc biệt là ở những địa phương chưa phát triển, lạc hậu)
có tư tưởng khơng muốn phấn đấu, khơng dám bước ra khỏi những rào cản để
vươn lên làm chủ cuộc sống, khẳng định giá trị và vai trò – vị thế của bản thân
trong công tác lãnh đạo, quản lý.
IV/ Giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý trong các cơ
quan quản lý nhà nước
Thứ nhất, cần hoàn thiện khung pháp lý liên quan đến việc bảo đảm quyền tham
gia quản lý của phụ nữ một cách thực chất và hiệu quả. Cụ thể:

10


+ Rà soát và điều chỉnh quy định tuổi quy hoạch, bổ nhiệm vào quản lý nhà
nước, một cách linh hoạt phù hợp với từng nhóm ngành nghề, lĩnh vực hoạt động
phù hợp với tinh thần của Công ước CEDAW.
+ Cần đưa ra chỉ tiêu cụ thể về tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý vào quá
trình hoạch định và thực thi chính sách của từng cơ quan nhà nước, coi đó là tiêu
chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền.
+ Cần bổ sung các chế tài cụ thể để xử lý nghiêm minh và kịp thời đối với các
chủ thể không thực thi hoặc thực thi việc bảo đảm quyền tham gia quản lý của phụ

nữ không hiệu quả, nhất là đối với công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng và bổ nhiệm cán bộ nữ trong hệ thống chính trị.
Thứ hai, tăng cường cam kết và phát huy trách nhiệm của các tổ chức, cơ quan,
các cấp, các ngành trong việc bảo đảm cho phụ nữ tham gia quản lý.
+ Đảng và Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cơng tác đào tạo, bồi dưỡng cho
cán bộ nữ cả về vật chất cũng như tinh thần để họ có đủ điều kiện vượt lên chính
mình, vươn đến vị trí cao trong lĩnh vực chính trị.
+ Tăng cường vai trị tham mưu, thực thi và giám sát của Hội Liên hiệp Phụ nữ
các cấp, Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ, Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng như các tổ chức xã hội khác
trong việc bảo đảm cho phụ nữ tham gia hoạt động quản lý.
Thứ ba, chú trọng cơng tác truyền thơng, đa dạng hóa các hình thức tun
truyền vận động về bình đẳng giới, hướng đến xóa bỏ định kiến giới, tập quán
xã hội lạc hậu ăn sâu trong tâm trí người Việt, gây bất lợi cho phụ nữ tham gia
hoạt động quản lý. Đồng thời, góp phần làm thay đổi tư tưởng của người nam
giới trong gia đình theo hướng tích cực cũng như phát huy vai trị của gia đình
và cộng đồng trong việc chia sẻ và hỗ trợ phụ nữ vượt qua áp lực vai trị giới
trong gia đình và tại nơi cơng sở.
Thứ tư, bản thân người phụ nữ Việt Nam cũng cần tiếp tục không ngừng nỗ
lực vươn lên, tránh tâm lý an phận, ngại phấn đấu, mặc cảm, tự ti; Phải cố gắng
vượt qua mọi thành kiến và thử thách, đóng góp tích cực vào các hoạt động xã
hội, và khẳng định vai trị của mình trong lĩnh vực quản lý.
Thứ năm, tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế (đa phương, song phương, phi
Chính phủ) để có cơ hội học tập kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, nhất
là các quốc gia có chỉ số bình đẳng giới trong tham chính cao (Thụy Điển, Na
11


Uy, Phần Lan,...) , từ đó có thể vận dụng sáng tạo và phù hợp vào bối cảnh kinh
tế, xã hội của Việt Nam.

VI/ Kết luận
Như đã khẳng định, Bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý là biểu hiện cao
nhất, đầy đủ cho quyền bình đẳng giới phụ nữ. Đó khơng chỉ là tiêu chí quan trọng
bình đẳng giới mà cịn là động lực thúc đẩy mức độ bình đẳng giới. Có thể thấy
rằng bình đẳng giới là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước dành sự ưu tiên đặc
biệt. Và những nỗ lực trong việc thực hiện bình đẳng về giới đã mang lại nhiều
thành tựu to lớn được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá rất cao. Tuy nhiên, bên
cạnh kết quả đạt được, không thể phủ nhận vẫn còn những tồn tại, hạn chế và các
rào cản đối với Bình đẳng giới nói chung, bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở
cơ quan quản lý nhà nước nói riêng. Nhưng cần khẳng định một lần nữa: Bình đẳng
giới trở thành mục tiêu phát triển của Việt Nam nói riêng, của cộng đồng quốc tế
nói chung; và để đạt được mục tiêu này khơng phải một sớm một chiều mà là cả
một quá trình lâu dài và cần sự vào cuộc của chính quyền, sự tham gia của tồn dân
vì sau một người phụ nữ thành cơng đó là tồn xã hội.

12


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Nguyễn Sinh Huy - Xã hội học đại cương
2.
Đặng Thị Ngọc Diễm - Những rào cản đối với sự tham gia của phụ nữ trong
lãnh đạo, quản lý tại Việt Nam.
3.
Lý thuyết nữ quyền - Xã Hội Học Việt Nam (Vietnam Sociology).
4.
Bàn về phụ nữ tham gia hoạt động quản lý ở Việt Nam dưới góc độ của lý
thuyết nữ quyền – ThS. Mai Thị Diệu Thúy.
5.

Trần Thị Xuân Lan. (2004) Tăng cường cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý trong
giai đoạn hiện nay.
6.
Hà Thị Khiết - Tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong hệ thống chính trị
các cấp ở nước ta trong thời gian tới.
7.
Phát huy vai trò phụ nữ trong khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.
8.
Phụ nữ ngày càng đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
9.
Phụ nữ nước ta trong tham gia lãnh đạo và quản lý – Lê Thị Qúy và Nguyễn
Thị Tuyết Nga
10. Những rào cản đối với sự tham gia của phụ nữ trong lãnh đạo quản lý của
Việt Nam - Đặng Thị Ngọc Diễm (GVHD TS. Phạm Thị Thúy)
11. Phụ nữ trong quản lý ở Việt Nam hiện nay - Phan Trần Minh Thư (GVHD
TS. Phạm Thị Thúy)
12. Xã hội hiện đại cần nhiều phụ nữ tham gia lãnh đạo và quản lý – Đại học
quốc gia Tp Hồ Chí Minh
13. Jean Munro (2012). Sự tham gia của phụ nữ trong vai trị lãnh đạo và quản
lý ở Việt Nam, Chương trình Lãnh đạo nữ Cambridge - Việt Nam
14. Sự tham gia lãnh đạo của phụ nữ là nhân tố không thể thiếu đối với sự phát
triển – Công tác cán bộ nữ
15. Thúc đẩy bình đẳng giới trong lãnh đạo quản lý – Nhân quyền và cuộc sống
16. Tỷ lệ nữ lãnh đạo quản lý chưa tương xứng với tiềm năng và đóng góp của
phụ nữ - Cơng tác cán bộ nữ.
17. Tham luận tọa đàm “Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị” – Trang thơng
tin điện tử Ban tổ chức tỉnh ủy Cà Mau.

13




×