Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Nghiên cứu khả năng tính toán chỉ tiêu GDP xanh ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 99 trang )




Bộ kế hoạch và đầu t
Viện khoa học thống kê






Báo cáo tổng kết đề tài cấp cơ sở

Nghiên cứu khả năng tính toán
chỉ tiêu GDP xanh ở việt nam

Chủ nhiệm đề tài: ks . đinh thị thúy phơng















6664
20/11/2007

hà nội - 2007

mục lục



Trang
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng, đồ thị, sơ đồ
Đặt vấn đề 1
Phần 1. một số vấn đề về chỉ tiêu GDP và sự cần thiết tính
chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam

3
1. Cơ sở lý luận chỉ tiêu GDP và thực tế áp dụng chỉ tiêu GDP ở Việt Nam 3
2. Sự cần thiết tính chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam 5
Phần 2. Những vấn đề lý luận chung về phơng pháp tính
chỉ tiêu GDP xanh
9
1. Khái niệm GDP xanh 9
2. Phơng pháp tính chỉ tiêu GDP xanh
10
2.1. Phơng pháp tính GDP trong hệ thống tài khoản quốc gia 10
2.2. Phơng pháp tính GDP xanh trong SEEA 12
2.3. Một số điểm khác biệt giữa tính GDP trong SNA và trong SEEA 15
3. Phơng pháp tính GDP xanh xuất phát từ mô hình I/O mở rộng 20
4. Kinh nghiệm của Nhật Bản và Trung Quốc tính toán chỉ tiêu GDP xanh 25

4.1. Tính chỉ tiêu GDP xanh của Nhật Bản 26
4.2. Tính chỉ tiêu GDP xanh của Trung Quốc 32
Phần 3. đề xuất khả năng tính chỉ tiêu GDP xanh ở việt nam.
40
1. Thực trạng số liệu thống kê phục vụ tính chỉ tiêu GDP xanh 40
2. Những yêu cầu đặt ra đối với tính chỉ tiêu GDP xanh 41
3. Điều kiện và khả năng đảm bảo tính khả thi để tính chỉ tiêu GDP xanh 42
3.1. Phơng pháp luận tính chỉ tiêu GDP xanh 42
3.2. Đòi hỏi khách quan tính chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam trong tơng lai 42
3.3. Điều kiện và khả năng tính chi phí chi tiêu dùng tài nguyên và mất mát về môi
trờng do các hoạt động kinh tê gây ra.
43
3.4. Nâng cao năng lực trình độ cán bộ thực hiện tính GDP xanh 46
3.5. Đầu t tài chính và thời gian để tiến hành tính chỉ tiêu GDP xanh 46
4. Khả năng tính chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam 46
4.1. Xác định nguồn thông tin và tổ chức thu thập thông tin chủ yếu phục vụ tính chi
phí chi tiêu dùng tài nguyên
48
4.2. Xác định nguồn thông tin và tổ chức thu thập thông tin chủ yếu phục vụ tính mất
mát, thiệt hại về môi trờng do các hoạt động kinh tế gây ra.
49
5. Thử nghiệm xác định các nguồn thông tin để tính chi phí khắc phục hậu quả
môi trờng xấu đi do sản xuất Công nghiệp gây ra.
51
5.1. Các nguồn thông tin để tính VA ban đầu theo phơng pháp sản xuất. 51
5.2. Tính thử nghiệm giá trị tăng thêm xanh của ngành công nghiệp: 56
Kết luận và kiến nghị 59
Danh mục chuyên đề 61
Danh mục tài liệu tham khảo 62
Phụ lục



1
Đặt vấn đề.

Tăng trởng kinh tế bền vững là sự kết hợp giữa: Kinh tế, xã hội và môi trờng
và đang trở thành xu thế phổ biến ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Những nghiên
cứu gần đây đều cho thấy tăng trởng kinh tế có liên quan đến ô nhiễm môi trờng
và sử dụng tài nguyên. Yếu tố tài nguyên và môi trờng chính là một trong những
tiêu chí đánh giá chất lợng tăng trởng.
Hiện nay trớc thực trạng các quốc gia đang tìm mọi biện pháp phát triển
nhanh nền kinh tế của mình để tạo ra đời sống xã hội không ngừng nâng lên. Nhng
thực tế bên cạnh sự giầu có của mỗi quốc gia tăng lên, thì toàn cầu, trong đó có cả
các nớc giầu, các nớc đang phát triển và các nớc nghèo đều phải gánh chịu hậu
quả xấu về môi trờng thiên nhiên, sức khoẻ và bệnh tật do phát triển sản xuất bằng
mọi giá gây ra. Bởi vậy các nhà kinh tế học đã không dừng lại ở việc đánh giá tăng
trởng sản xuất bằng việc tạo ra khối lợng tổng sản phẩm trong nớc (GDP) đơn
thuần, mà cần phải đánh giá bằng chỉ tiêu chất lợng hơn đó là chỉ tiêu GDP phần
còn lại sau khi GDP đã trừ đi chi phí tiêu dùng tài nguyên và mất mát về môi trờng
do các hoạt động kinh tế gây ra, gọi đó là chỉ tiêu GDP xanh.
Trong thực tế, để tính toán đợc chỉ tiêu GDP xanh là hết sức khó khăn, mặc
dù Liên Hợp quốc đã đa ra phơng pháp tính chỉ tiêu GDP xanh và trong thực tế đã
có một số nớc bớc đầu đã có những nghiên cứu cơ bản tính toán thử nghiệm chỉ
tiêu GDP xanh nh Trun
g
Quốc, Nhật Bản và Indonexia.
ở Việt Nam có một số nhà nghiên cứu và cơ quan cũng đã quan tâm đến chỉ
tiêu GDP xanh. Tuy nhiên đứng trên giác độ thống kê, tính toán chỉ tiêu GDP xanh,
nguồn thu thập thông tin để phục vụ tính phần chi phí tiêu dùng tài nguyên và mất
mát về môi trờng do các hoạt động kinh tế gây ra nh thế nào ? thì cha đợc đề

cập đến, do vậy đây là lý do tác giả lựa chọn đề tài Nghiên cứu khả năng tính toán
chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam để nghiên cứu.

Mục đích nghiên cứu của đề tài.
Đề xuất phơng pháp tính chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam và các điều kiện để
triển khai ứng dụng trong thực tế, trên cơ sở vận dụng cách tính của Thống kê Liên
hợp Quốc và tham khảo kinh nghiệm tính chỉ tiêu GDP xanh ở một số nớc.

2
Nội dung nghiên cứu.
- Thực trạng tính chỉ tiêu GDP hiện nay ở Việt Nam;
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và phơng pháp luận tính chỉ tiêu GDP xanh;
- Nghiên cứu kinh nghiệm tính chỉ tiêu GDP xanh Nhật Bản và Trung Quốc;
- Nghiên cứu và đề xuất một số điều kiện chủ yếu phục vụ tính chỉ tiêu GDP
xanh ở Việt Nam;
- Nghiên cứu nguồn thông tin và tính thử nghiệm chỉ tiêu giá trị tăng thêm (VA)
xanh trong ngành Công nghiệp ở Việt Nam.
Sau một năm nghiên cứu với sự phối hợp và giúp đỡ của một số Anh (Chị) Vụ
Hệ thống Tài khoản Quốc gia, Vụ Thống kê Công nghiệp và xây dựng và một số cán
bộ nghiên cứu của Viện Khoa học Thống kê, đề tài đã hoàn thành năm báo cáo
chuyên đề khoa học
1
. Dựa vào kết quả nghiên cứu của các chuyên đề khoa học, Ban
chủ nhiệm đề tài đã tổng hợp và hệ thống hoá lại thành báo cáo tổng hợp và báo cáo
tóm tắt kết quả nghiên cứu. Bám sát mục tiêu và nội dung nghiên cứu đề tài đa ra,
ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục, kết cấu đề
tài gồm 3 phần:
Phần I. Thực tế áp dụng chỉ tiêu GDP và sự cần thiết tính chỉ tiêu GDP xanh ở Việt
Nam
Phần II. Những vấn đề lý luận chung về phơng pháp tính chỉ tiêu GDP xanh và kinh

nghiệm tính chỉ tiêu GDP xanh ở Nhật Bản và Trung Quốc.
Phần III. Đề xuất khả năng tính chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam.

Nghiên cứu khả năng tính toán chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam là một vấn đề
mới và hết sức khó khăn, mặc dù Thống kê Liên Hợp quốc đã đa ra phơng pháp
tính, nhng nhiên để vận dụng tính GDP xanh cụ thể ở từng nớc còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, do vậy trong phạm vi một đề tài khoa học cấp cơ sở và thời gian một
năm, chắc chắn kết quả nghiên cứu đề tài sẽ cha thể hoàn thiện. Ban chủ nhiệm đề
tài rất mong nhận đợc ý kiến góp ý để chúng tôi hoàn thiện kết quả đề tài hơn.



1
Danh mục các chuyên đề khoa học của đề tài trang 61.

3
Phần I. một số vấn đề về chỉ tiêu GDP và
Sự cần thiết tính chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam



1. Cơ sở lý luận chỉ tiêu GDP và thực tế áp dụng chỉ tiêu GDP ở Việt Nam
1.1. Khái niệm GDP.
GDP là một chỉ tiêu quan trọng, phản ánh kết quả sản xuất của nền kinh tế
của một nớc trong một thời kỳ nhất định trong hệ thống tài khoản quốc gia (SNA).
SNA đã hình thành về cơ bản từ năm 1953, đây là kết quả nỗ lực của các nhà kinh tế
và các nhà thống kê sau 300 năm nghiên cứu. Dới sự chủ trì của Liên Hợp quốc, hệ
thống này đã có hai lần hoàn thiện quan trọng vào năm 1968 và năm 1993 nhằm
giải quyết một số thiếu sót về mặt kỹ thuật. Ngày nay, nó vẫn là chuẩn mực thống
nhất để đánh giá trình độ phát triển kinh tế của một đất nớc.

Theo SNA, GDP là giá trị hàng hoá và dịch vụ cuối cùng đợc tạo ra của nền
kinh tế, trong một khoảng thời gian nhất định thờng là một năm. Thuật ngữ hàng
hoá cuối cùng đợc hiểu theo nghĩa rộng đó là không tính giá trị hàng hoá và dịch
vụ sử dụng ở các khâu trung gian trong quá trình sản xuất ra sản phẩm.
1.2. Phơng pháp tính chỉ tiêu GDP.
Theo SNA 1993, có 3 cách tính GDP, gồm: phơng pháp sản xuất, phơng
pháp thu nhập và phơng pháp sử dụng.
- Phơng pháp sản xuất: GDP bằng (=) tổng giá trị tăng thêm (VA) của các
ngành kinh tế cộng (+) với thuế nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ.
- Phơng pháp thu nhập: GDP bằng (=) tổng thu nhập tạo nên từ các yếu tố
tham gia vào quá trình sản xuất, gồm 4 yếu tố: Thu nhập của ngời lao động từ sản
xuất (bằng tiền và bằng hiện vật); khấu hao tài sản cố định dùng trong sản xuất; thuế
sản xuất và thặng d sản xuất.
- Phơng pháp tiêu dùng: GDP bằng (=) tổng chi tiêu dùng cuối cùng (của
Chính Phủ và của dân c); tích luỹ tài sản (cố định, lu động và quý hiếm) và chênh
lệch xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ.

4
Trong thực tế ở Việt Nam hiện nay, với 3 phơng pháp trên, tính GDP theo
phơng pháp sản xuất đợc áp dụng là chủ yếu. Các phơng pháp còn lại thờng
dùng để tham khảo, hoặc nếu có tính toán cũng chỉ mang tính chất bổ sung.
1.3. Đặc điểm và thực tế áp dụng chỉ tiêu GDP ở Việt Nam.
- Xuất phát từ phơng pháp tính chỉ tiêu GDP hiện nay ở Việt Nam là theo
phơng pháp sản xuất, ngoài phần thuế nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ, GDP sẽ
phụ thuộc vào kết quả VA trong phạm vi từng ngành kinh tế.
- Trong thực tế sự thay đổi VA của các ngành kinh tế sẽ không phụ thuộc vào
việc thay đổi tổ chức sản xuất, và thay đổi t liệu sản xuất nhng nó sẽ phụ thuộc
vào sự thay đổi chi phí trung gian. Với phơng châm khuyến khích thực hiện tiết kiệm
chi phí trung gian trong quá trình sản xuất sẽ dẫn đến tăng VA và VA sẽ phản ánh
hiệu quả hoạt động sản xuất của các ngành kinh tế.

Do có đặc điểm nêu trên, chỉ tiêu GDP của Việt Nam đã chính thức trở thành
một chỉ tiêu trọng tâm trong hệ thống các chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động sản
xuất, nh:
+ Đánh giá tốc độ tăng trởng kinh tế;
+ Đánh giá mức sống dân c (GDP bình quân đầu ngời);
+ Nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu kinh tế;
+ Tính toán nhiều chỉ tiêu kinh tế tổng hợp nh chỉ số HDI; Hệ số ICOR, TFP
và một số chỉ tiêu kinh tế tổng hợp khác.
Song, tấm huy chơng nào cũng có mặt trái của nó, việc tăng VA trong phạm
vi từng ngành kinh tế hay tăng GDP trong toàn nền kinh tế sẽ có thể mang lại một số
hiệu ứng phụ chủ yếu không mong muốn với các lợi ích - cái gọi là phí tổn, đó là:
(1). Do khuyến khích tiết kiệm chi phí trung gian trong hoạt động của các
ngành kinh tế sẽ dẫn đến việc du nhập và sử dụng những máy móc, thiết bị và công
nghệ lạc hậu phục vụ cho hoạt động sản xuất sẽ gây ô nhiễm môi trờng, đồng thời
vấn đề ô nhiềm môi trờng hiện nay cha đợc các ngành kinh tế quan tâm.

5
(2). Đóng góp trong cơ cấu GDP chiếm tỷ trọng lớn là những ngành kinh tế có
khai thác và sử dụng nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên vào quá trình sản xuất, do
vậy nếu không sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ dẫn đến nguy cơ cạn
kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên trong tơng lai.
Nh vậy, trong thực tế chỉ tiêu GDP trong toàn nền kinh tế, cha tính đến các
yếu tố môi trờng và sinh thái, không thể phác hoạ đợc bức tranh thực tế và sâu
sắc nền kinh tế của một nớc, và quan trọng hơn chỉ tiêu GDP cha chỉ ra đợc mối
liên quan giữa ô nhiễm môi trờng, suy giảm sinh thái và việc tăng GDP. Qua đó nền
kinh tế chỉ có thể nhìn thấy mức tăng trởng kinh tế ở bề nổi mà không thấy (hay
khấu trừ) đợc những thiệt hại ngầm do các hoạt động sản xuất gây ra. Nh vậy,
vừa không đánh giá đợc đúng phí tổn phải chịu trong hiện tại, vừa không thể tìm ra
những biện pháp hữu hiệu nhằm sử dụng hợp lý tài nguyên môi trờng cũng nh
không thể đánh giá mức độ ô nhiễm và quy trách nhiệm bồi hoàn thiệt hại theo

nguyên tắc Ngời gây ô nhiễm phải trả tiền. Những thiệt hại không tính đợc về tài
nguyên và môi trờng này không những gây ra những thiệt hại cho nền kinh tế hiện
tại mà gây ra gánh nặng cho những thế hệ tơng lai.
Để đánh giá sự phát triển kinh tế của đất nớc, bên cạnh chỉ tiêu GDP nên bổ
sung thêm chỉ tiêu GDP xanh, chỉ tiêu GDP xanh không những phản ánh sự phát
triển kinh tế mà còn cho biết sự phát triển kinh tế có bền vững hay không ? Đây là
vấn đề đợc nhiều nớc trên thế giới quan tâm và tính chỉ tiêu GDP xanh là cần thiết.

2. Sự cần thiết tính chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam.
Theo các nhà kinh tế môi trờng và nhiều tổ chức quốc tế
2
, SNA với hệ thống
các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp nh GDP, GNI; v.v và các tài khoản và các bảng cân
đối đang đợc sử dụng rộng rãi ở các nớc trên thế giới cha phản ánh đầy đủ
những chi phí xã hội của các hoạt động kinh tế. Cụ thể là SNA cha thể hiện đầy đủ
những chi phí liên quan tới bảo vệ môi trờng cũng nh cha phản ánh hết đợc sự
xuống cấp, suy thoái nguồn tài nguyên thiên nhiên do các hoạt động kinh tế, sinh

2
Ví dụ nh: Salah Serafy và Ernst Lutz, 1989; Cooray N.S, 2001; Bartelmus P. và Tongeren J., 1994; IUCN,
1989; UNEP, 2000.

6
hoạt của con ngời gây ra. Ví dụ nh các tài khoản của SNA truyền thống không thể
hiện riêng biệt các khoản chi để bảo vệ môi trờng hoặc giảm bớt sự xuống cấp của
môi trờng; môi trờng cung cấp cho con ngời nhiều loại sản phẩm, trong đó có
nhiều loại sản phẩm tuy có giá trị nhng không đợc trao đổi, mua bán trên thị
trờng nên giá trị của chúng không đợc biểu thị trong giá sản phẩm đợc đem bán
trên thị trờng
1

; môi trờng cũng cung cấp nhiều loại dịch vụ cho đời sống của con
ngời, nhng loại dịch vụ này không đợc tính vào SNA; SNA truyền thống thờng
tính phần khấu hao tài sản cố định (máy móc, thiết bị) vào tài khoản khấu hao, trong
khi đó phần dự trữ tài nguyên bị mất đi do bị khai thác và sử dụng trong quá trình sản
xuất lại đợc tính vào tài khoản thu nhập.
Do những nhợc điểm của SNA truyền thống, nhiều nớc trên thế giới đã
thống nhất quan điểm cần nghiên cứu để hoàn thiện thêm hệ thống hạch toán quốc
gia hiện hành theo hớng đa thêm tài khoản môi trờng vào SNA truyền thống.
Theo đó phơng pháp hạch toán kinh tế gắn với môi trờng đã xuất hiện, bổ sung
cho việc tính toán các chỉ tiêu kinh tế thuần tuý, đặc biệt là chỉ tiêu GDP hiện nay
đang đợc sử dụng. Do đó, chỉ tiêu GDP xanh đợc nhiều nớc trên thế giới quan
tâm.
Ngày nay các nhà kinh tế học ngày càng quan tâm tới vấn đề môi trờng và
sự phát triển, và ý tởng phát triển bền vững cuối cùng đã xuất hiện. Mục tiêu của
phát triển bền vững là đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại
đến các nhu cầu và sự phát triển của các thế hệ tơng lai. Một con đờng phát triển
đợc xem là bền vững nếu và chỉ khi toàn bộ vốn không thay đổi hay tăng qua theo
thời gian
2
. Tổng vốn của một quốc gia đợc xác định bao gồm nh sau:
- Vốn sản xuất (máy móc, đờng xá, nhà máy, v.v )
- Vốn con ngời (kiến thức, kinh nghiệm, chuyên môn, v.v )
- Vốn môi trờng (rừng, chất lợng đất trồng, chất lợng không khí, v.v ).

1
Ví dụ nh: Các cơ sở sản xuất, kinh doanh ở Việt Nam sử dụng nguồn nớc ngầm trong quá trình sản xuất
không phải trả chi phí về sử dụng nớc nh các nguồn nguyên liệu đầu vào khác, nên giá của sản phẩm không
bao gồm chi phí để sử dụng nguồn nớc ngầm hoặc nếu có thì chi phí là rất ít.

2

Bài 13: Môi trờng và phát triển; Munir Mahmud Webside kinhtehoc.com.

7
Do vậy chỉ tiêu GDP xanh đợc sử dụng nh một chỉ tiêu để đánh giá sự phát
triển bền vững, do đã tính đầy đủ các chi phí về vốn sản xuất, vốn con ngời và vốn
môi trờng.
Việt Nam đã từng bớc hội nhập với nền kinh tế thế giới, việc tham gia vào
các tổ chức trong khu vực và quốc tế thông qua ký kết các cam kết với những tổ chức
trong khu vực và quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải đẩy mạnh hơn nữa quá trình cải cách
và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội sao cho phù hợp với thông lệ và chuẩn
mực quốc tế, trong đó có các chuẩn mực về hạch toán kinh tế và hạch toán môi
trờng. Đồng thời, quá trình hội nhập cũng đòi hỏi các thông tin về môi trờng cần
đợc phát triển mạnh và đợc truyền tải hơn nữa tới mọi đối tợng có liên quan, nh
các nhà sản xuất kinh doanh, các cơ quan quản lý kinh tế, v.v Điều này cũng có
nghĩa là chi phí cho những hoạt động liên quan tới bảo vệ môi trờng sẽ ngày một
tăng lên, gây sức ép buộc cho việc phải áp dụng hạch toán môi trờng. Việt Nam đã
hình thành hệ thống SNA tơng đối phù hợp với thông lệ quốc tế, tuy nhiên hệ thống
hạch toán môi trờng vẫn cha đợc thực hiện. Đây cũng là một thách thức mà Việt
Nam phải vợt qua cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhng cũng là một cơ
hội để thúc đẩy sớm áp dụng hạch toán môi trờng và gắn kết hạch toán môi trờng
trong hệ thống tài khoản quốc gia ở Việt Nam.
Trong thời gian qua nền kinh tế Việt Nam cùng với sự tăng trởng cao và
tơng đối ổn định thì vấn đề ô nhiễm môi trờng đang đợc đặt ra nh một thách
thức lớn trong chiến lợc phát triển bền vững. Xét về cơ cấu và tốc độ tăng trởng
của một số ngành kinh tế trong những năm gần đây cho thấy, các ngành công
nghiệp gây ô nhiễm và các ngành sử dụng tài nguyên thiên nhiên luôn giữ vị trí quan
trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của cả nớc và đóng góp đáng kể vào tốc độ
tăng trởng chung của nền kinh tế
1
. Mặt khác tốc độ tăng trởng của các ngành

Công nghiệp có tiềm năng gây ô nhiễm luôn đạt ở mức cao hơn nhiều so với mức
tăng trởng trung bình của cả nớc. Đặc biệt trình độ công nghệ ở Việt Nam còn
thấp, chỉ đạt mức trung bình so với các nớc trên thế giới, đồng thời công tác quản lý
ô nhiễm môi trờng nhìn chung còn nhiều bất cập thì cơ cấu kinh tế nói trên cho thấy

1
Các ngành Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Thuỷ sản, Công nghiệp khai thác, Công nghiệp chế biến, khí
đốt, xây dựng những ngành đợc coi là sử dụng nhiều nhất nguồn tài nguyên và đóng góp chủ yếu
vào tổng lợng chất thải từ các hoạt động sản xuất.

8
ở Việt Nam phải đối mặt với những thách thức to lớn về tình trạng cạn kiệt nguồn tài
nguyên, gia tăng ô nhiễm và xuống cấp môi trờng cùng với quá trình phát triển kinh
tế trong thời gian qua và trong tơng lai.
Vì vậy sự cần thiết phải lợng hoá đợc những tác động của các hoạt động
kinh tế - xã hội đến môi trờng thiên nhiên đã đợc đặt ra nh một nhiệm vụ cần
đợc u tiên trong thời gian tới. Nhận thức đợc điều này, Đảng và Nhà nớc đã đề
ra Chiến lợc phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 nhằm duy trì lâu dài một tốc độ
tăng trởng kinh tế nhanh, ổn định và bền vững.
Không nằm ngoài xu hớng chung của thế giới, tình hình suy giảm tài nguyên
và ô nhiễm môi trờng của Việt Nam đang ngày càng nghiêm trọng. Việt Nam là một
trong những nớc nghèo, đang phát triển, xuất khẩu chủ yếu là của các ngành khai
thác nguyên liệu thô nên nguồn tài nguyên của Việt Nam ngày càng bị cạn kiệt.
Trong những năm gần đây nền kinh tế nớc ta tăng trởng khá nhanh, kèm theo đó
là nguồn tài nguyên bị suy giảm nhanh chóng và môi trờng bị ô nhiễm nghiêm
trọng. Tuy công nghiệp nớc ta cha thực sự phát triển, nên lợng khí thải công
nghiệp thấp hơn so với các nớc trong khu vực và trên thế giới, nhng môi trờng
nớc ta lại bị ô nhiễm ngày càng nghiêm trầm trọng vì cha có điều kiện xử lý chất
thải và cải tạo tốt môi trờng. Điều này có thể thấy rất rõ ở một số tỉnh, thành phố
đông dân c, đặc biệt là các thành phố lớn, các trung tâm kinh tế của cả nớc nh

thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh .v.v
Trớc thực trạng này, các chuyên gia kinh tế và môi trờng ở Việt Nam đã lên
tiếng và cho rằng cần phải tính toán các chi phí phục hồi môi tr
ờng vào GDP thì mới
phản ánh đúng đợc thực trạng phát triển của nền kinh tế. Nói cách khác, phát triển
kinh tế phải tính đến bảo vệ môi trờng mới là phát triển bền vững.









9
Phần II. Những vấn đề lý luận chung về
phơng pháp tính chỉ tiêu GDP xanh


1. Khái niệm GDP xanh.
GDP xanh là phần còn lại của GDP thuần sau khi đã khấu trừ chi phí về tiêu
dùng tài nguyên và mất mát về môi trờng do các hoạt động kinh tế. Cụ thể là:
GDP xanh = GDP
thuần
-
Chi phí tiêu dùng tài nguyên và
mất mát về môi trờng do các
hoạt động kinh tế


Chỉ tiêu GDP xanh ra đời với mục đích chính để đánh giá chi phí của thiệt hại
môi trờng với tiêu thụ và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên đến GDP thuần.
Nh vậy chỉ tiêu GDP xanh sẽ phản ánh đợc thực chất phát triển kinh tế của một
đất nớc trên cả ba mặt: kinh tế, xã hội và môi trờng. Chỉ tiêu này không những
phản ánh tăng trởng về số lợng mà còn phản ánh cả chất lợng tăng trởng, đây
là điều quan tâm của mọi quốc gia trên thế giới.
Việc xác định chỉ tiêu GDP xanh hiểu theo nghĩa rộng chính là hạch toán chi
phí môi trờng hay còn gọi là hạch toán xanh. Cho dù đợc gọi theo thuật ngữ nào
thì về thực chất đây là việc tính đúng, tính đủ các chi phí liên quan tới hoạt động bảo
vệ môi trờng vào giá thành sản phẩm ở cấp độ doanh nghiệp hay đó là việc thay
đổi cách thể hiện trong tài khoản quốc gia, theo đó ngời ta bổ sung thêm vai trò của
môi trờng vào kết quả hoạt động nói chung của nền kinh tế. Nói cách khác, trớc
kia trong hàm sản xuất Cob Douglas truyền thống thờng bao gồm các yếu tố vốn,
lao động, công nghệ, thì hiện nay cần bổ sung thêm cả yếu tố môi trờng nh một
yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất.
Việc đa ra chỉ tiêu GDP xanh đồng nghĩa với việc cần đa ra kèm theo nó
một hệ thống lý thuyết và khung nội dung cơ bản để đánh giá mối quan hệ nói chung
giữa kinh tế và môi trờng. Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng và cấp bách cho sự
phát triển bền vững, cho việc đánh giá chất lợng tăng trởng, thông qua hiệu quả sử

10
dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, hoàn thiện chỉ tiêu GDP truyền thống, giúp
phản ánh đợc một cách toàn diện mối quan hệ giữa tăng trởng kinh tế và bảo vệ
môi trờng và bảo vệ đời sống của con ngời.
Chỉ tiêu GDP xanh chính thức đợc giới thiệu vào năm 1993 trong Dự thảo
hớng dẫn nhan đề Gắn kết hạch toán môi trờng và hạch toán kinh tế do Liên
Hợp Quốc xây dựng nhằm đa ra một hệ thống gắn kết môi trờng và kinh tế, gọi tắt
là SEEA
1
. Kể từ khi đợc hình thành đến nay, phơng pháp luận để xây dựng SEEA

đã đợc điều chỉnh và hoàn thiện dần
2
. Trên thực tế, hệ thống này đã đề xuất những
phơng pháp có thể áp dụng để gắn kết môi trờng với kinh tế trong một khuôn khổ
thống kê thống nhất, nhng còn đang trong thời kỳ đợc các nớc áp dụng với mục
tiêu thử nghiệm. Lý do dẫn đến thực trạng này là tuy các nhà kinh tế và môi trờng
đều đã đi đến thống nhất về quan điểm cũng nh về cách tiếp cận đối với nội dung
của SEEA, song vẫn còn những điểm cha thống nhất về phơng pháp tính toán các
chỉ tiêu và các tài khoản tính toán liên quan đến môi trờng vì còn nhiều khó khăn
trong việc thu thập số liệu và áp dụng tính toán.

2. Phơng pháp tính chỉ tiêu GDP xanh.
Việc tính toán chỉ tiêu GDP xanh hay nói cụ thể hơn là hạch toán môi trờng
trong tài khoản quốc gia, đây chính là bớc hoàn thiện tài khoản quốc gia của Liên
Hợp Quốc, do vậy phơng pháp tính chỉ tiêu GDP xanh đợc xem xét trên cơ sở của
phơng pháp tính chỉ tiêu GDP trong hệ thống tài khoản quốc gia. Theo thống kê
Liên hợp quốc, tính chỉ tiêu GDP xanh có thể xuất phát từ bảng I/O hoặc theo cách
hạch toán môi trờng (trong bảng SEEA).
2.1. Phơng pháp tính GDP trong Hệ thống Tài khoản Quốc gia.
Hệ thống tài khoản quốc gia đợc trình bày dới dạng những bảng cân đối
hoặc những tài khoản nhằm phản ánh điều kiện sản xuất, kết quả sản xuất tổng hợp,
quá trình sử dụng kết quả sản xuất đó cho các nhu cầu nh tiêu dùng cho sản xuất,

1
Tên đầy đủ tiếng Anh: System of integrated Enviromental and Economic Accounting
2
Cuốn sách hớng dẫn Gắn kết hạch toán môi trờng và hạch toán kinh tế do Liên Hợp Quốc xuất
bản năm 1993 đã đợc chỉnh sửa và hoàn thiện vào năm 1994; 1998; 2000 và 2003.



11
tiêu dùng cuối cùng cho đời sống sinh hoạt dân c và xã hội trong một khoảng thời
gian (thờng là một năm). Một trong những chỉ tiêu kinh tế vĩ mô thông dụng trong hệ
thống tài khoản quốc gia đợc dùng trong so sánh quốc tế hiện nay là chỉ tiêu GDP.
Trong Hệ thống tài khoản quốc gia, các tài khoản chủ yếu đợc tính/hạch toán
dựa theo đẳng thức sau
1
:
* Đẳng thức về nguồn - sử dụng, đợc thể hiện nh sau:
O + M = IC + C + CF + X
Trong đó: O : Giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ sản xuất ra;
M : Nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ;
IC : Tiêu dùng trung gian;
C : Tiêu dùng cuối cùng;
CF : Tổng tích luỹ tài sản;
X : Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ.
* Đẳng thức về gia tăng đối với một ngành kinh tế, đợc thể hiện nh sau:
NVA
i
= O
i
- II
i
- CC
i

Trong đó: NVA
i
: Giá trị gia tăng thuần ngành i;
O

i
: Giá trị sản phẩm vật chất, dịch vụ ngành i sản xuất ra;
II
i
: Chi phí trung gian của ngành i;
CC
i
: Tiêu dùng tài sản cố định của ngành i;
* Đẳng thức về sản phẩm trong nớc, đợc thể hiện nh sau:
GDP = C + CF + (X - M)
Trong đó: GDP : Tổng sản phẩm trong nớc;
C : Tiêu dùng cuối cùng;


1
Nguồn: Bartelmus P. and Tongeren J., Enviromental Accounting: An Operational Perspective,
1994, trang.4

12
CF : Tổng tích luỹ tài sản;
M : Nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ;
X : Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ.
2.2. Phơng pháp tính GDP xanh trong SEEA
1
.
Mô hình SEEA mở rộng và bổ sung các tài khoản nguồn lực tự nhiên theo
luồng và khối với đơn vị tính là giá trị và các tài khoản sản xuất và tài sản. Bằng việc
tính các chi phí do suy giảm (cả về mặt trữ lợng và giá trị) các nguồn tự nhiên không
sản xuất đợc do các hoạt động kinh tế gây ra, SEEA cho phép tính đợc tổng sản
phẩm quốc nội thuần (GNP) đợc điều chỉnh có yếu tố môi trờng (Enviromental

adjusted net Domestic Products EDP), hay nói cách khác chính là GDP xanh
(Green GDP),
Trong SEEA, các đẳng thức nói trên đợc điều chỉnh tơng ứng, gắn với chi
phí do những tổn thất và do sự xuống cấp môi trờng mà các hoạt động kinh tế - xã
hội gây ra. Theo đó, đẳng thức nguồn và sử dụng đợc điều chỉnh bằng việc dựa vào
đó đại lợng IC - vừa là chi phí môi trờng, nhng đồng thời cũng chính là sự tổn thất
và sự xuống cấp môi trờng do hoạt động kinh tế gây ra. Còn hai chỉ tiêu: VA và
GDP sẽ đợc điều chỉnh tơng ứng thành các chỉ tiêu VA có tính tới môi trờng
(EVA) và GDP có tính tới môi trờng (EDP) hoặc GDP xanh
ứng với ba đẳng thức trên, tính toán/hạch toán gộp môi trờng vào các tài
khoản kinh tế tơng ứng với hệ thống SEEA đợc biểu thị nh sau:
* Đẳng thức về nguồn - sử dụng, đợc thể hiện nh sau:
O + M = (IC + EC
c
) + C + (CF - EC
t
) + X
Trong đó: O : Giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ sản xuất ra;
M : Nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ;
IC : Tiêu dùng trung gian; EC
c
: Chi phí môi trờng;

1
Nguồn: UNEP, Integrated Environmental and Economic Accounting: An Operation Manual,
Handbook for National Accounting, United Nations, 2000, tr. 39.


13
C : Tiêu dùng cuối cùng;

CF: Tổng tích luỹ tài sản; EC
t
: Giá trị tổn thất và xuống cấp tài nguyên
môi trờng
X : Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ.
* Đẳng thức về giá trị gia tăng (có tính đến yếu tố môi trờng) đối với một
ngành kinh tế, đợc thể hiện nh sau:
EVA
i
= O
i
- II
i
- CC
i
- EC
i
= NVA
i
- EC
i

Trong đó: EVA
i
: Giá trị gia tăng thuần có yếu tố môi trờng của ngành i;
O
i
: Giá trị sản phẩm vật chất, dịch vụ ngành i sản xuất ra;
II
i

: Chi phí trung gian của ngành i;
CC
i
: Tiêu dùng tài sản cố định của ngành i;
EC
i
: Chi phí do tổn thất và xuống cấp môi trờng của ngành i gây ra
NVA
i
Giá trị gia tăng thuần của ngành i
* Đẳng thức về sản phẩm trong nớc có tính đến yếu tố môi trờng, đợc thể
hiện nh sau:
MXECCCCFCECNDPECEVAEDP
hi
++===


Trong đó:
EDP : Tổng sản phẩm trong nớc thuần có yếu tố môi trờng hay GDP xanh;


i
EVA
: Tổng VA thuần có yếu tố môi trờng.
EC
h
: Chi phí xử lý ô nhiễm môi trờng do tiêu dùng cuối cùng của hộ gia
đình gây ra;
NDP : Tổng sản phẩm trong nớc thuần;
EC : Chi phí bảo vệ môi trờng và giá trị tổn thất, xuống cấp tài nguyên môi

trờng;
CF : Tích luỹ tài sản;

14
CC : Tiêu dùng tài sản (Khấu hao tài sản).
Trong SEEA, các tài khoản liên quan tới môi trờng đợc gắn kết với tài khoản
kinh tế nh trình bày trong 3 đẳng thức trên. Theo đó đã có hai khoản đợc bổ sung
vào SNA truyền thống dới dạng hiện vật và giá trị, đó là:
Thứ nhất, đó là sự tiêu hao tài sản môi trờng do hoạt động kinh tế gây ra, thể
hiện ở tiêu dùng vốn tài nguyên thiên nhiên, bao gồm các loại tài nguyên nh nớc,
đất, rừng, v.v Đây là những loại tài sản thờng không đợc thể hiện trong tài sản
kinh tế của SNA;
Thứ hai, đó là những chi phí môi trờng mà các ngành kinh tế và hộ gia đình
đã chi trả cho việc sử dụng các tài sản môi trờng trong quá trình sản xuất, làm cho
các tài sản đó cạn kiệt, xuống cấp. Những khoản chi phí này thể hiện ở chi phí môi
trờng của ngành kinh tế (EC
i
) và chi phí môi trờng của hộ gia đình (EC
h
). Trên
cơ sở hai khoản mục đó, một số chỉ tiêu kinh tế đợc điều chỉnh lại nh: tổng tích luỹ
tài sản (CF) đợc chuyển thành Tổng tích luỹ tài sản có gắn với môi trờng (ECF);
Giá trị gia tăng thuần (NVA) đợc chuyển thành Giá trị gia tăng thuần có tính tới
môi trờng (EVA); và Tổng sản phẩm trong nớc thuần (GDP) chuyển thành Tổng
sản phẩm trong nớc thuần có tính tới môi trờng (GDP xanh).
Xuất phát từ phơng pháp hạch toán GDP xanh trong SEEA, phơng pháp
tính chỉ tiêu GDP xanh đợc thực hiện theo ba phơng pháp:
Phơng pháp sản xuất: GDP xanh bằng (=) Tổng giá trị gia tăng thuần có tính
đến yếu tố môi trờng của các ngành kinh tế trừ (-) chi phí xử lý ô nhiễm môi trờng
do tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình gây ra.

Phơng pháp thu nhập: GDP xanh bằng (=) Tổng sản phẩm trong nớc thuần
(NDP) trừ (-) chi phí bảo vệ môi trờng và giá trị tổn thất, xuống cấp tài nguyên môi
trờng. NDP tính đợc bằng GDP trừ (-) khấu hao tài sản.
Phơng pháp tiêu dùng: GDP xanh bằng (=) Tiêu dùng cuối cùng cộng (+)
tích luỹ tài sản, trừ (-) khấu hao tài sản, trừ (-) chi phí bảo vệ môi trờng và giá trị tổn
thất, xuống cấp tài nguyên môi trờng, cộng (+) chênh lệch xuất khẩu và nhập khẩu
hàng hoá, dịch vụ.

15
2.3. Một số điểm khác biệt giữa tính GDP trong SNA và SEEA.
Thông qua phơng pháp tính toán/hạch toán GDP trong SNA và tính
toán/hạch toán GDP trong SEEA, đề tài thấy có một số vấn đề khác biệt nh sau:
- Tính toán/hạch toán GDP trong SNA cha thể hiện đầy đủ những chi phí liên
quan tới bảo vệ môi trờng cũng nh cha phản ánh hết sự xuống cấp, suy thoái
nguồn tài nguyên thiên nhiên do các hoạt động kinh tế - đời sống của con ngời gây
ra (theo Salah Serafy và Ernst Lutz, 1989. tr 24). Một trong những nhợc điểm của
hạch toán GDP trong SNA truyền thống đó là: Cha thể hiện đầy đủ các khoản chi
phí có liên quan tới bảo vệ môi trờng và suy thoái tài nguyên, cụ thể nh sau:
Thứ nhất, trong các tài khoản của SNA truyền thống không thể hiện riêng biệt
các khoản chi để bảo vệ môi trờng hoặc để giảm bớt sự xuống cấp của môi trờng.
Ví dụ: Những chi phí mà nhà máy phải bỏ ra để mua thiết bị kiểm soát hoặc xử lý ô
nhiễm; chi phí mà ngời sử dụng phải bỏ ra để mua thiết bị lọc khí thải lắp vào xe ô
tô; chi phí phải bỏ ra để phục hồi lại những tài sản đã mất đi do lũ lụt gây ra
1
, cho
đến nay đều đợc hạch toán gộp chung lại với những khoản chi khác trong hệ thống
kế toán doanh nghiệp hoặc đợc hạch toán vào tài khoản thu nhập của quốc gia
2
.
Song vấn đề ở chỗ những chi phí này không đợc hạch toán riêng biệt để từ đó,

những chủ thể đã gây ra tác động tới môi trờng có thể thấy đợc mức độ chi phí mà
họ phải bỏ ra để bù đắp tổn hại cho môi trờng nh thế nào ? Chính vì vậy, các chi
phí này dờng nh không tác động tới hành vi thân thiện với môi trờng của các nhà
sản xuất cũng nh của những nhà hoạch định chính sách (vì đã bị ẩn lẫn với các
khoản mục chi khác).
Thứ hai, môi trờng cung cấp cho con ngời nhiều loại sản phẩm, trong đó có
nhiều loại sản phẩm tuy có giá trị, nhng lại không đợc trao đổi mua bán trên thị
trờng hoặc chỉ đợc mua với giá thấp (ví dụ nh nguồn tài nguyên nớc, v.v ), do
vậy nhiều trờng hợp, giá trị của những loại sản phẩm đó không đợc biểu thị trong
giá sản phầm (do bị bỏ qua) hoặc không thể tách riêng biệt từ giá của sản phẩm
đợc đem bán trên thị trờng.


1
Nguyên nhân sâu xa là do tài nguyên rừng bị con ngời tàn phá.

2
Vấn đề hạch toán môi trờng trong tài khoản quốc gia, Tr 30.

16
Thứ ba, trong thực tế môi trờng cung cấp nhiều loại dịch vụ cho đời sống con
ngời (nh rừng có tác dụng bảo vệ lu vực sông, điều hoà khí hậu; hệ sinh thái có
tác dụng lọc chất ô nhiễm trong nớc và không khí, v.v ). Tuy nhiên những loại dịch
vụ này không đợc tính trong SNA, mà cụ thể là giá trị sản phẩm dịch vụ phục vụ
cho tiêu dùng cuối cùng của dân c. Một trong những lý do của sự bỏ qua này là
trong nhiều trờng hợp, ngời ta không thể định giá các sản phẩm và dịch vụ của
môi trờng bằng giá thị trờng.
Thứ t, GDP trong SNA tính cả phần khấu hao tài sản cố định (máy móc, thiết
bị) vào tài khoản khấu hao. Trong khi đó, phần trữ lợng tài nguyên bị mất đi do bị
khai thác và do đợc sử dụng trong quá trình sản xuất lại đợc tính vào tài khoản thu

nhập. Theo các nhà môi trờng, nguồn tài nguyên cũng phải đợc coi là một loại tài
sản. Do đó, sự suy giảm trữ lợng nguồn tài nguyên trong quá trình sản xuất cũng
phải đợc tính vào tài khoản khấu hao giống nh các tài sản cố định khác.
- Tính toán/Hạch toán GDP trong SEEA (hay GDP xanh) về cơ bản dựa trên
sự hạch toán GDP trong SNA, tuy nhiên hạch toán GDP trong SEEA đã trừ phần
khấu hao tài sản cố định đồng thời có sự bổ sung thêm những thông tin về tài sản
môi trờng dới dạng hiện vật và giá trị, về quá trình sử dụng tài sản đó vào sản
xuất, tiêu dùng của hộ dân c và xã hội, hay nói một cách khác hạch toán GDP trong
SEEA (hay GDP xanh) đã thể hiện khá đầy đủ những chi phí liên quan tới bảo vệ môi
trờng cũng nh phản ánh sự xuống cấp, suy thoái nguồn tài nguyên thiên nhiên do
các hoạt động kinh tế - đời sống của con ngời gây ra
Tuy nhiên để tính toán đầy đủ bằng giá trị các tài khoản môi trờng và việc
ớc tính chỉ tiêu GDP xanh không chỉ phụ thuộc vào giá trị các tài sản đợc sản xuất
ra mà còn phụ thuộc vào giá trị của các tài sản tự nhiên không do sản xuất tạo ra.
Liên hợp quốc đã giới thiệu ba phơng pháp định giá môi trờng trong hệ thống
SEEA
1
đó là: Định giá nguồn tài nguyên theo giá thị trờng; Định giá việc bảo vệ,
phục hồi tài sản môi trờng; Định giá dịch vụ môi trờng theo phơng pháp ngẫu
nhiên.
Một số phơng pháp định giá tài sản môi trờng.

1
Handbook on Intergrated Environmental and Economic Accounting - An Operational Manual, 2000.


17
2.3.1. Định giá nguồn tài nguyên thiên nhiên theo giá thị trờng.
Phơng pháp định giá nguồn tài nguyên theo giá thị trờng đợc sử dụng để
tính mức khấu hao tài nguyên. Qua đó có thể tính đợc những thay đổi về giá trị của

nguồn tài nguyên đã đợc ghi trong mục sự thay đổi về lợng khác trong tài khoản
tài sản của SNA. Sự thay đổi này bao gồm: khấu hao tài nguyên; sự cạn kiệt nguồn
tài nguyên do khai thác và sự xuống cấp chất lợng tài nguyên do ô nhiễm môi
trờng gây ra (đợc tính bằng giá thị trờng của trữ lợng tài nguyên đó). Trong
SEEA, giá thị trờng của khấu hao tài nguyên, sự cạn kiệt và sự xuống cấp chất
lợng tài nguyên đợc chuyển từ tài khoản mục sự thay đổi về lợng khác trong tài
khoản Tài sản sang tài khoản Sản xuất.
Trên thực tế, có thể sử dụng giá thị trờng để xác định giá trị của nguồn tài
nguyên. Trong trờng hợp nh vậy, có thể áp dụng một số phơng pháp tính sau:
Tính giá trị hiện tại thuần (net present value - NPV) của trữ lợng tài nguyên:
Bằng cách lấy giá thị trờng của hàng hoá, dịch vụ (dự kiến) mà nguồn tài nguyên có
thể cung cấp, trừ (-) chi phí (dự kiến) phải bỏ ra để khai thác nguồn tài nguyên đó sẽ
đợc phần thu hồi tịnh, rồi từ đó chuyển thành giá hiện tại bằng cách sử dụng tỷ lệ
chiết khấu.
Tuy nhiên khó khăn của việc áp dụng phơng pháp này là khó có thể tính giá
hiện tại của trữ lợng tài nguyên nào đó, nếu nh tài nguyên này do nhiều ngành
kinh tế khác nhau đồng thời cùng khai thác sử dụng. Trong trờng hợp nh vậy đòi
hỏi phải có thông tin về chi phí và khai thác tài nguyên của mỗi ngành kinh tế. Để có
đợc thông tin chi tiết nh vậy là rất phức tạp. Hơn nữa việc áp dụng tỷ lệ chiết khấu
là bao nhiêu để tính NPV của trữ lợng nguồn tài nguyên cũng là một vấn đề đang
còn tranh cãi. Nếu áp dụng các tỷ lệ chiết khấu khác nhau thì sẽ cho kết quả giá trị
hiện hành của các tài nguyên khác nhau.
- Tính giá tịnh (net price) của tài nguyên: Phơng pháp này bỏ qua sự giảm
sút giá trị của tài nguyên do bị xuống cấp theo thời gian. Đơn giá tịnh của một đơn vị
tài nguyên đợc tính bằng giá thị trờng thực tế của nó trừ (-) chi phí khai thác một
đơn vị tài nguyên. Giá trị của nguồn tài nguyên sau đó đợc tính bằng khối lợng của
nguồn tài nguyên nhân (x) với đơn giá một đơn vị tài nguyên.

18
- Xác định tơng đối giá trị xuống cấp, cạn kiệt nguồn tài nguyên, đợc

tính đơn giản bằng hiệu giá trị của trữ lợng tài nguyên (theo cách tính trình bày ở
trên) vào đầu kỳ trừ (-) giá trị trữ lợng tài nguyên vào cuối kỳ xem xét. Ngoài ra, có
thể thay thế cách tính này qua cách tính tổng thu nhập nhận đợc từ việc khai thác
nguồn tài nguyên trong thời kỳ xem xét.
2.3.2. Định giá việc bảo vệ, phục hồi tài sản môi trờng.
Phơng pháp tính giá trị tài nguyên môi trờng bằng giá trị thị trờng nêu trên
chỉ đợc áp dụng đối với những loại tài nguyên có thể tính đợc giá trị kinh tế của nó.
Nói cách khác, nó chỉ đợc áp dụng đối với những loại tài nguyên có thể giao dịch
đợc trên thị trờng (nh các loại khoáng sản, một số loại đất đai, v.v ) trong khi đó
đối với một số loại tài nguyên khác (chẳng hạn nh nớc, không khí, đất hoang, đa
dạng sinh học, v.v ) thì không thể áp dụng cách tính trực tiếp giá trị của chúng theo
giá thị trờng vì những tài nguyên này ít đợc đem ra thị trờng mua bán. Để tính
đợc sự thay đổi về giá trị của những loại tài nguyên môi trờng này, ngời ta có thể
sử dụng cách tính chi phí để duy trì, bảo toàn nguồn tài nguyên thay thế cho cách
tính dựa vào giá thị trờng nói trên.
Chi phí để bảo vệ, phục hồi tài nguyên môi trờng là chi phí lẽ ra phải bỏ ra
trong một thời kỳ nhất định để tránh sự xuống cấp hay tránh những tác động tiêu cực
có thể xảy ra cho môi trờng do hoạt động kinh tế gây ra. Giá trị tổn thất về môi
trờng do các hoạt động kinh tế gây ra, nó không chỉ xảy ra trong hiện tại (trong thời
kỳ xem xét) mà nó còn có khả năng ảnh hởng đến tơng lai. Nói cách khác, đây là
tổng thể của những tổn thất về khả năng cung ứng của môi trờng do các hoạt động
kinh tế hiện tại có thể gây ra (vào thời điểm hiện tại hay trong tơng lai). Với cách
tiếp cận nh vậy thì giá trị kinh tế của những tổn thất môi trờng đã xảy ra trong giai
đoạn hiện tại mới chỉ phản ánh một phần các tác động của môi trờng đến đời sống
kinh tế - xã hội trong hiện tại mà cha phản ánh khả năng ảnh hởng đến tơng lai.
Trong trờng hợp các hoạt động kinh tế không gây tác động xấu tới chất lợng
môi trờng thì chi phí duy tu, bảo toàn chất lợng môi trờng đợc coi nh bằng 0. Ví
dụ nh: Tốc độ khai thác rừng và nguồn hải sản bằng hoặc nhỏ hơn tốc độ tái tạo tự
nhiên của các loại tài nguyên đó; hay nguồn nớc tự nhiên đủ thoả mãn nhu cầu của


19
hoạt động kinh tế, sinh hoạt mà không làm xấu đi chất lợng nớc; hay môi trờng tự
nhiên có đủ khả năng hấp thụ lợng chất ô nhiễm thải ra từ hoạt động kinh tế, sinh
hoạt, v.v
Chi phí bảo vệ, phục hồi chất lợng môi trờng cũng đã phần nào đợc tính và
đa vào tổng tích luỹ tài sản (CF) là một bộ phận hợp thành GDP theo phơng
pháp sử dụng cuối cùng trong SNA truyền thống. Tuy nhiên, trong hệ thống SEEA
đã khuyến nghị nên loại ra từ GDP hay tổng VA những chi phí mà các khu vực kinh
tế phải bỏ ra để duy trì và bảo đảm chất lợng môi trờng theo tiêu chuẩn quy định.
2.3.3. Định giá dịch vụ môi trờng theo phơng pháp ngẫu nhiên.
Định giá dịch vụ môi trờng theo phơng pháp ngẫu nhiên liên quan tới việc
đa ra các tình huống giả định để hỏi một nhóm đối tợng có liên quan xem họ sẵn
sàng chi trả bao nhiêu tiền để đợc hởng thụ một loại dịch vụ môi trờng nào đó.
Trong một số trờng hợp khác, các đối tợng có liên quan đợc hỏi xem họ sẵn sàng
chi trả bao nhiêu tiền bồi thờng để chấp nhận không hởng thụ dịch vụ môi trờng.
Phơng pháp này đợc thực hiện dới dạng các cuộc phỏng vấn trực tiếp các đối
tợng có liên quan hay trả lời của họ qua các phiếu hỏi.
Trong SEEA, định giá theo phơng pháp ngẫu nhiên thờng đợc áp dụng khi
phải xác định giá trị của các dịch vụ môi trờng hay mức độ thiệt hại, tổn thất đối với
môi trờng. Chẳng hạn, để tính mức độ tổn hại của sự cố môi trờng nào đó, ngời ta
sử dụng ph
ơng pháp ngẫu nhiên để xác định không chỉ những tổn thất về kinh tế
mà cả những tổn thất về sức khoẻ của những ngời đợc hỏi. Trong trờng hợp này
câu hỏi sẽ đặt ra là Bạn chấp nhận bao nhiêu tiền để bù đắp những tổn hại về vật
chất và sức khoẻ do sự cố môi trờng gây ra?, tiếp đó sẽ đa ra một số mức kinh
phí và hình thức thanh toán đợc đa ra để ngời đợc hỏi lựa chọn sao cho phù hợp
với sự đánh giá của cá nhân đợc phỏng vấn.
Nhìn chung phơng pháp ngẫu nhiên rất khó đo đợc một cách chính xác giá
trị thực của dịch vụ môi trờng cũng nh về mức độ tổn hại (theo giá trị) đối với môi
trờng. Đặc biệt, rất khó có thể đảm bảo độ chính xác của phơng pháp khi đợc sử

dụng để xác định giá trị của các tổn hại môi trờng có thể xảy ra trong tơng lai.

20
Trên thực tế, việc áp dụng các phơng pháp nêu trên để xác định giá trị tài
nguyên và mức độ tổn hại của môi trờng do các hoạt động kinh tế - xã hội gây ra là
không hề đơn giản, giá trị các sản phẩm và lao động có thể xác định đợc khi đa ra
thị trờng và giá trị của chúng đợc phản ánh qua giá thị trờng. Nhng còn yếu tố
môi trờng thì sẽ phản ánh nh thế nào? vì khi nó không đa vào thị trờng. Do vậy
theo một số chuyên gia kinh tế đã khuyến nghị nên thay Chi phí tiêu dùng tài nguyên
và mất mát về môi trờng do các hoạt động kinh tế bằng chi phí của những hoạt
động chống ô nhiễm. Chi phí môi trờng hay chi phí của những hoạt động chống ô
nhiễm của một dự án cụ thể là chỉ tiêu có thể ớc tính đợc theo giá thị trờng hay
chi phí thực tế một dự án đã chi ra để chống ô nhiễm môi trờng.

3. Phơng pháp tính GDP xanh xuất phát từ mô hình I/O mở rộng.
Mô hình I/O đợc mở rộng và sử dụng các công cụ để phân tích các vấn đề ô
nhiễm môi trờng. Xuất phát từ mô hình I/O rút gọn đợc thể hiện đó là quan hệ của
các số lớn phản ánh các quan hệ giữa các ngành trong nền kinh tế của quá trình sản
xuất và sử dụng sản phẩm trong nớc và sản phẩm nhập khẩu theo một hệ thống
hàm tuyến tính. Hàm này thể hiện mối quan hệ về công nghệ sản xuất và sử dụng
sản phẩm trong một thời kỳ nhất định. Mô hình I/O sẽ thể hiện một cách khái quát
cấu trúc bởi các ngành theo cột và đợc coi là các ngành sản xuất; các ngành theo
dòng đợc coi là các ngành sử dụng (theo sơ đồ số 1).
Sơ đồ số 1. Mô hình I/O
Các ngành sản xuất
Sử dụng cuối
cùng (Final
demand - FD)

Tổng sử dụng

(Gross output)
Các ngành
sản phẩm
Tiêu dùng trung gian (Intermediate
consumption - IC); Ô1
Y
Ô2
X
Giá trị tăng
thêm
VA; Ô3



Tổng đầu vào hoặc tổng chi phí
(Gross input - GI); X


21
- Ô1. Tiêu dùng trung gian: Thể hiện chi phí trung gian của các ngành, bao
gồm các ngành sản xuất ra sản phẩm vật chất và các ngành sản xuất ra sản phẩm
dịch vụ; phần tử a
ij
của ma trận A thể hiện ở Ô1 phản ánh ngành j sử dụng sản phẩm
i làm chi phí trung gian trong quá trình sản xuất ra sản phẩm j.
- Ô2. Sử dụng cuối cùng: Thể hiện những sản phẩm vật chất và sản phẩm
dịch vụ đợc sử dụng cho nhu cầu cuối cùng, bao gồm đợc sử dụng cho: tiêu dùng
cuối cùng, tích luỹ tài sản, xuất khẩu và nhập khẩu.
- Ô3. Tổng giá trị tăng thêm: Bao gồm các khoản thu nhập của ngời lao
động; thuế sản xuất; thặng d sản xuất và khấu hao tài sản cố định.

Quan hệ hàm số cơ bản của mô hình I/O có dạng:
AX + Y = X (1)
Hoặc X = (I - A)
1
Y.
Trong đó: A là hệ số chi phí trung gian trực tiếp;
X là véc tơ giá trị sản xuất;
Y là véc tơ sử dụng cuối cùng.
Tuy nhiên theo sơ đồ số 1 (Mô hình I/O) đơn giản cha thấy thể hiện rõ nét sự
thay đổi tổng sử dụng (GO) của mỗi ngành sản phẩm hay tổng chi phí của mỗi
ngành sản xuất sẽ ảnh hởng nh thế nào đến vấn đề môi trờng. Do vậy để xác
định mức độ ảnh hởng đến môi trờng do các hoạt động sản xuất gây ra bằng cách
thông qua sự mở rộng của mô hình I/O hay nói cách khác xác định tính GDP xanh
thông qua mô hình I/O mở rộng.
Trong mô hình I/O mở rộng thừa nhận có 2 loại hình hoạt động, đó là:
(1). Tất cả các hoạt động kinh tế
(2). Hoạt động chống chất thải gây ô nhiễm môi trờng (gồm chất thải đầu
vào và chất thải đầu ra) của các hoạt động kinh tế.
GDP xanh = GDP - Chi phí của những hoạt động chống ô nhiễm.

22
Mô hình I/O mở rộng dựa trên cơ sở n ngành (loại trừ các hoạt động chống lại
chất thải gây ô nhiễm môi trờng); m là số loại chất thải gây ô nhiễm môi trờng,
đợc xác định theo các véc tơ và ma trận nh sau:
A
1
: là hệ số chi phí trung gian trực tiếp ma trận cấp (n x n) của n ngành
kinh tế, các chi phí sản xuất từ các hoạt động kinh tế (đo lờng bằng đơn vị tiền tệ)
so với đơn vị giá trị sản xuất của các hoạt động kinh tế.
X

1
: là véc tơ giá trị sản xuất cấp (n x 1) của các hoạt động kinh tế, (đo
lờng bằng đơn vị tiền tệ).
Y
1
: là véc tơ sử dụng sản phẩm cuối cùng cấp (n x 1) từ các hoạt động kinh
tế, (đo lờng bằng đơn vị tiền tệ).
X
g
: là véc tơ giá trị sản xuất cấp (m x 1) của các hoạt động chống lại chất
thải gây ô nhiễm môi trờng do các ngành kinh tế tạo ra, (đo lờng bằng đơn vị vật
chất).
g
1
: là ma trận hệ số các chất thải gây ô nhiễm môi trờng trực tiếp từ các
hoạt động kinh tế, ma trận cấp (m x n), với m là số loại chất thải gây ô nhiễm môi
trờng và n là số ngành sản phẩm đợc nghiên cứu trong mô hình, phần tử của ma
trận phản ánh khối lợng chất thải (đơn vị tính là vật chất) trên 1 đơn vị sản phẩm
(đơn vị tính là tiền tệ) đợc tạo ra trong quá trình sản xuất ra sản phẩm đó;
g
2
: là ma trận hệ số các chất thải gây ô nhiễm môi trờng trực tiếp từ các
hoạt động chống lại chất thải gây ô nhiễm môi trờng, ma trận cấp (m x n), m là số
loại chất thải gây ô nhiễm môi trờng, phần tử của ma trận phản ánh khối lợng chất
thải gây ô nhiễm môi trờng (đơn vị tính vật chất) trên 1 đơn vị khối lợng chất thải
gây ô nhiễm môi trờng đợc xử lý (đơn vị tính là vật chất) đợc tạo ra trong từ các
hoạt động chống lại chất thải gây ô nhiễm;
g
3
: là ma trận hệ số các chất thải trực tiếp gây ô nhiễm môi trờng từ tiêu

dùng cuối cùng hộ gia đình, ma trận cấp (m x n), m là số loại các chất thải gây ô
nhiễm môi trờng (đơn vị tính vật chất), phần tử của ma trận phản ánh khi hộ gia
đình tiêu dùng sản phẩm j thì sẽ tạo ra chất thải loại i.
H: là ma trận hệ số chi phí trung gian trực tiếp của các hoạt động chống
lại chất thải gây ô nhiễm môi trờng, ma trận cấp (n x m), phần tử của ma trận thể
hiện hoạt động chống lại chất thải loại j thì cần phải sử dụng sản phẩm i làm chi phí
trung gian.
Y
g
: là véc tơ thể hiện các chất thải gây ô nhiễm môi trờng không đợc xử
lý, cấp của véc tơ là (1 x m).
Xác định các véc tơ của chất thải gây ô nhiễm môi trờng tạo ra trong các
hoạt động kinh tế và các véc tơ của chất thải gây ô nhiễm môi trờng từ các hoạt

×