Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

tổng quan về tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về các biện pháp phòng trừ tổng hợp cây trinh nữ thân gỗ.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.07 KB, 26 trang )




Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn
Viện khoa học nông nghiệp việt nam




Báo cáo tổng kết chuyên đề

Báo cáo tổng quan về tình hình nghiên cứu
trong và ngoài nớc về các biện pháp
phòng trừ tổng hợp cây trinh nữ thân gỗ

Thuộc đề tài độc lập cấp nhà nớc
Nghiên cứu các biện pháp tổng hợp phòng trừ cây
trinh nữ thân gỗ (mimosa pigra l.) ở việt nam


Mã số: ĐTĐL 2005/02

Chủ nhiệm đề tài: TS . nguyễn hồng sơn












6463-1
15/8/2007

hà nội- 2007

Báo cáo
Tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nớc
về các biện pháp phòng trừ tổng hợp cây Trinh nữ
thân gỗ (Mimosa pigra L.)

I. Đặt vấn đề

Trong khuôn khổ thực hiện đề tài độc lập cấp nhà nớc Nghiên cứu các
biện pháp tổng hợp phòng trừ cây TNTG (Mimosa pigra L.) ở Việt Nam, nhóm
đề tài đã tiến hành tham khảo các nguồn tài liệu hiện có trong nớc và quốc tế
cũng nh tiến hành thăm quan và trao đổi kinh nghiệm tại
ú
c để có những thông
tin mới nhất về hiện trạng xâm lấn, tác hại và các kinh nghiệm phòng trừ cây
TNTG trên thế giới cũng nh trong nớc để xác định các hoạt động nghiên cứu bổ
sung và hoàn thiện quy trình phòng trừ tổng hợp cây TNTG ở Việt Nam.
II. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nớc
III.1. Tình hình nghiên cứu ở nớc ngoài
Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về sinh học, sinh thái
và biện pháp phòng trừ cây trinh nữ thân gỗ (TNTG), các kết quả nổi bật nhất
có thể tóm tắt nh sau:


(1). Về đặc điểm sinh học: Cây trinh nữ thân gỗ (Mimosa pigra L.)
thuộc họ Mimosaceae, lần đầu tiên đợc Linnaeus phân loại và mô tả vào năm
1759 nh là một loài cây thân gỗ lâu năm, cao tới 5-6 m, có nhiều gai, nhiều
cành, rễ ăn sâu trong đất, rộng và xa tới 3,5 m tính từ gốc (Robert, 1982). Thân:
có màu xanh ở gốc nhng khi già thì hoá gỗ, ban đầu có lớp lông mịn bao phủ
làm cho thân cây ráp, sau đó mọc nhiều gai con dài 5-10 cm. Lá: Có hai lần lá
kép lông chim, khi chạm vào thì lá khép lại. Lá dài 20-25 cm, màu xanh sáng,
mỗi đốt lá có 10-15 cặp lá kép mọc đối xứng dài 5 cm. Sống lá chét dài 3-12 cm,
có gai thẳng đứng, mảnh, ở giữa gốc của các cặp lá chét đôi khi có gai mọc lệch
hoặc mọc chính giữa hai cặp lá. Mỗi lá kép có rất nhiều cặp lá chét con, thuôn,
dài 3-8 mm, rộng 0,5-1,25 mm, mép lá có lông tơ. Hoa: màu hồng, nhỏ, mọc

2
đều, nhiều hoa đơn hợp thành hoa đầu tự đờng kính 1-2 cm. Mỗi nách lá
thờng có 2 hoa. Đài nhỏ, xẻ không đều. Quả: dài 3-8 cm có nhiều lông, chia
thành 10-20 khoang, mỗi khoang chứa một hạt, khi chín có màu nâu hay xanh
ôliu, thuôn dài 4-6 mm, rộng 2,2-2,6 mm. Khi chín, các khoang tự tách ra khỏi
quả và bay đi. Một cây có thể sản sinh 9.000-220.000 hạt (Lonsdate, 1992),
trung bình là 8.000 hạt/ tháng (Wanichanantakul & Chinawang, 1979). Quả khi
chín thờng không tách hạt ngay mà rụng thành từng đốt nằm trong vỏ quả. Vỏ
quả có nhiều lông nên nổi và trôi theo dòng nớc đi rất xa. Khi gặp điều kiện
thuận lợi về nhiệt và ẩm độ, hạt tách ra khỏi vỏ quả và nảy mầm. Hạt rất cứng,
một số có thể nảy mầm ngay khi rụng, một số khác có thể nảy mầm sau 1-2
năm. Nếu hạt bị nằm sâu trong đất có thể rơi vào tình trạng ngủ nghỉ tới hơn 20
năm. Từ khi ra hoa đến khi quả chín khoảng 5 tuần.
Cây TNTG có thể sinh sản bằng hạt nhng cũng có thể mọc tái sinh từ các
gốc sau khi bị chặt. Trong điều kiện nhiệt độ ổn định, hạt trinh nữ có thể nảy mầm 2-
3% ngay trong nớc hay trên các vùng đất ẩm. Nhờ có lớp vỏ cứng không thấm nớc
mà quá trình ngủ nghỉ của hạt có thể kéo rất dài và hạt cũng có khả năng tồn tại rất
lâu trong đất. Phần lớn hạt nảy mầm trong điều kiện ẩm ớt, nhng đôi khi chúng

cũng có thể nảy mầm trong nớc. Tuy nhiên, việc duy trì ngập nớc lâu dài sẽ làm
giảm sức sống của hạt và làm cho chúng bị phân huỷ dần và mất khả năng nảy mầm.
Sau khi mọc, cây sinh trởng rất nhanh, mọc nhiều nhánh và có thể ra hoa sau 4-12
tháng. Sau 1 năm, đờng kính thân có thể đạt tới 2,5 cm và sau hai năm đạt 7 cm.
Khả năng tái sinh của cây TNTG cũng rất cao, một cây mọc từ hạt có thể cao 2,51m
và tán lá đạt 6,3 m
2
sau 12 tháng nhng cây tái sinh từ gốc sau chặt có thể cao 2,6 m
và diện tích tán lá đạt 8 m
2
(Parson và Cuthbertson, 1992)
(2). Đặc điểm sinh thái, phân bố, lây lan và tác hại
: Cây TNTG có nguồn gốc
ở Trung và Nam Mỹ (Lewis & Elias, 1981), tại đó chúng phát triển thành vành đai kéo
dài từ Mehico qua Trung Mỹ, Antilles, Columbia, Peru và Brazil tới phía bắc của
Achentina (Lewis & Elias, 1981). Cây trinh nữ lần đầu tiên đợc du nhập vào các khu
vực khác nh một dạng cây cảnh hay cây che phủ đất, dần dần chúng đã phát tán theo
dòng nớc, xâm nhập vào hều hết các nớc trên thế giới và trở thành đối tợng cỏ dại
nguy hiểm ở các nớc nhiệt đới Châu Phi,

n Độ, Châu
ú
c và khu vực Đông Nam
á


3
nh miền Bắc Thái Lan, Philippine, Malaysia, Indonesia và Việt Nam. Hiện nay, nó
đợc coi là loại cỏ dại nguy hiểm vào hàng thứ ba trên toàn thế giới. Phần lớn cây này
thờng xâm lấn các vùng đất thấp, ngập nớc theo mùa, quanh lòng hồ chứa nớc, khu

vực đất ẩm, đất hoang hoá, đất ven sông, các luồng nớc chảy, các dòng sông bị khô
cạn, các thung lũng ở khu rừng nhiệt đới hay các khu rừng Quốc gia.
ở phía Bắc Châu úc tại vùng đất ngập nớc thuộc lu vực sông Adelaide,
cây TNTG chỉ mọc vài bụi vào năm 1956. Vào khoảng năm 1965, sau nhiều đợt
ma lớn và ngập lụt kéo dài cộng với ảnh hởng to lớn của những đợt lũ tràn từ
các nớc châu
á
đặc biệt là Indonesia, cây TNTG bắt đầu phát tán và lan tràn trên
một diện tích khá lớn tại vùng hạ nguồn sông Adelai. Ban đầu cây mọc thành dải,
chủ yếu dọc theo các lạch nớc, ven các dòng chảy hay ven bờ sông lớn. Sau khi
có nguồn hạt tích luỹ đủ lớn, cây bắt đầu mọc lan rộng dần. Sau đó, cây phát tán
và xâm nhiễm rất nặng ở vùng ngập nớc thuộc lu vực sông Mary và sông
Alligator, tràn qua phía đông của sông Adelai. Cùng với sự giao thoa trong hệ
thống sông chằng chịt thuộc vùng thấp của bang Northern Territory, cây TNTG
cũng bắt đầu phát tán và xâm nhiếm nặng ở các vùng đất bán ngập dọc theo sông
Finniess và sông Daly, sau đó tràn qua phía tây nam của sông Adelai.
Có thể nói trong thập kỷ 70 và 80, sự gia tăng về diện tích xâm nhiễm của
cây TNTG xảy ra rất mặnh mẽ. Có những vùng đất thuộc hạ lu sông Adelai, trong
năm 1978 chỉ lác đác có vài khóm TNTG mọc, nhng chỉ ba năm sau (1981), cây đã
che phủ kín cả một vùng rộng lớn (xem ảnh minh hoạ phần phụ lục).
Vào năm 1989, mặc dù đã đợc áp dụng các biện pháp phòng trừ nhng
cây TNTG đã xâm lấn trên diện tích là 80.000ha (tính theo diện tích đã bị che phủ
hoàn toàn). Trên thực tế, diện tích các vùng đất có mặt của cây TN có thể lên tới
hàng trăm nghìn km
2
(xem bản đồ phân bố của cây TNTG ở bang Northern
Territory phần phụ lục). Vào năm 1990, theo ảnh chụp từ trên không thì cây
TNTG đã bao trùm trên diện tích 700km
2
tính từ phía đông nam của Arnhemland

đến sông Phelp và chỉ còn cách vùng giáp gianh với bang Quensland chừng 100km.
Vào năm 1947, Thái Lan đã nhập nội cây TNTG làm phân xanh và
chống xói mòn đất nhng nay đã trở thành cỏ dại nghiêm trọng ở Chiềng Mai,

4
Pattaya, Hatyai Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp Thái Lan thì 23 trong số
74 tỉnh của Thái Lan đã bị nhiễm cây TNTG.


Malaysia, cây TNTG bắt đầu xuất hiện ở bờ biển phía Đông của
Kelantan vào năm 1982, chỉ trong vòng 1 năm sau nó đã lan sang các bang
Penang, Johore và Selangor. Hiện nay, cây TNTG đã xâm lấn vờn cọ dầu, các
vùng đất nông nghiệp, đất trồng lúa ở Perlis và Kedah với diện tích khoảng
360.000 ha (Sivapragasam và CTV).

Indonesia, tối thiểu có 3.000 ha bị nhiễm cây TNTG. Nó là mối đe doạ
cho vùng phía Nam và phía Tây vùng hồ Rawa Pening Weedwatcher,1988 ).
Theo các nhà nghiên cứu, cây TNTG có nhiều đặc điểm thích nghi và có
lợi giúp chúng có thể nhanh chóng sinh trởng, phát triển, lây lan và xâm nhiễm
trên một vùng rộng lớn:
- Thứ nhất là: chúng có thể chịu đựng đợc môi trờng yếm khí nh
những vùng đất thờng xuyên ngập nớc bằng cách mọc thêm rễ phụ ở phần sát
với mặt nớc (Miller et al, 1981).
- Thứ hai là: sau khi bị chặt, cây có thể nhanh chóng mọc tái sinh từ
phần gốc sát mặt đất (Wani channatakul và Chinawong, 1979). Khi bị đốt, toàn
bộ lá có thể bị chết hay rụng nhng có tới 90% số cây và 50% số hạt có thể tiếp
tục mọc trở lại.

- Cây con nhanh chóng đạt tới thời kỳ sinh trởng sinh thực và có thể
kết hạt ngay năm đầu tiên (Lonsdale et al, 1985). Mặt khác, trên vỏ quả có lớp

lông dày đặc có thể giúp chúng bám vào cơ thể động vật, quần áo, hay trôi dạt
theo dòng nớc để phát tán đi xa.

- Cây trinh nữ có thể ra nhiều hạt. Mỗi cây có thể cho trung bình khoảng
220.000 hạt/ năm. Thời gian tồn tại của hạt trong đất phụ thuộc vào độ sâu tầng
đất và thành phần cơ giới đất nhng nhìn chung trong đất cát pha chúng có thể tồn
tại đợc tới 23 năm (Pickering, 1992).

- Trong điều kiện thuận lợi, cây TNTG có thể sinh trởng rất nhanh (1
cm/ ngày) và tốc độ xâm nhiễm có thể gấp đôi diện tích sau mỗi năm. Cây
cũng có thể chịu đợc điều kiện khô hạn.

5
- Nhu cầu dinh dỡng của cây TNTG rất thấp, nó có thể mọc ở mọi
vùng đất do đó có độ dẻo sinh thái cao (Miller et al, 1983).
S
ự giống nhau về khí hậu và thổ nhỡng ở xứ bản địa với các nớc nhập
nội là yếu tố cơ bản giúp cho quá trình phát tán, lây lan và xâm nhiễm của cây
TNTG ở nhiều nớc trên thế giới (Ramakrisnan). Tại những vùng bị xâm lấn, loài
thực vật ngoại lai này không chỉ gây tác hại nghiêm trọng đến kinh tế, xã hội mà
còn gây nên tác động rất lớn về mặt sinh thái và môi trờng.
Trớc hết, cây TNTG đã biến nhiều vùng đất canh tác thành đất hoang
hoá, gây thiệt hại rất lớn đến đời sống kinh tế và xã hội của ngời dân địa
phơng. ở úc, sự xâm lấn của cây TNTG đã cản trở ngời thổ dân gặp rất
nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với các vùng đất trống và nguồn nớc; làm
giảm các nguồn thực phẩm truyền thống sẵn có của ngời thổ dân nh cá, rùa,
chim trời. Bên cạnh đó, cây TNTG cũng gây ra hàng loạt ảnh hởng bất lợi
cho ngời dân địa phơng nh ngăn cản quá trình giao thông và hoạt động canh
tác, gây nhiễm độc nguồn nớc sinh hoạt, ảnh hởng đến dòng chảy nên ảnh
hởng đến các công trình thuỷ điện, giảm nguồn lợi từ các động vật thuỷ sinh

nh cá, tôm, cua (Mitchell & Gopal).
Thứ hai, chi phí cho công tác nghiên cứu và phòng trừ cây TNTG
thờng rất tốn kém. Chỉ riêng ở phía Bắc của nớc úc, chi phí cho nghiên cứu
và kiểm soát chúng trong năm 1996-1997 là 11,4 triệu đô la và năm 1997-1998
là 16,6 triệu đô la (Walden et al, 2000).
Thứ ba, tại những vùng bị xâm lấn, cây TNTG hầu nh lấn át hoàn toàn
hay làm giảm nghiêm trọng các quần xã thực vật bản địa, làm suy giảm quần
xã động vật do thay đổi thảm thức ăn hay sự tấn công của bộ gai trên thân cây
TNTG, từ đó đã làm thay đổi cơ bản hệ sinh thái bản địa, làm giảm đa dạng
sinh học. Cây TNTG cũng làm xáo trộn hệ sinh thái, tạo điều kiện cho nhiều
loài thực vật ngoại lai khác xâm lấn, làm thay đổi chu trình sinh hoá, cấu trúc
vật lý hay thành phần hoá học của đất. ở bang Northern Territory úc có ít
nhất 80.000ha diện tích đồng cỏ tự nhiên của vùng đất ngập nớc bị lấn át hoàn
toàn bởi cây TNTG. Đồng thời, sự xâm lấn của cây TNTG cũng phá vỡ sự bền

6
vững về phạm vi và địa bàn c trú của các loài vịt trời, ngỗng trời và nhiều loài
chim nớc khác; đa dạng sinh học của các vùng đất ngập nớc ở
ú
c cũng nh
các quốc gia lân cận đang bị đe doạ nghiêm trọng; các loài thực vật quý hiếm
và các loài dễ bị tổn thơng nh cọ Ptychosperma bleeseri, rau mác
Mononchoria hastata và một số loài hoa súng địa phơng đang bị đe doạ và có
nguy cơ tiêu biến
Bên cạnh những ảnh hởng tiêu cực, nếu đợc sử dụng một cách hợp lý thì
cây TNTG cũng có những tác dụng nhất định nh làm cây cảnh, cây phân xanh,
cây phủ đất chống xói mòn, làm củi, làm thức ăn cho gia súc (trâu, dê v.v ), làm
thuốc v.v. . Tuy nhiên, cho đến nay các nghiên cứu và kết quả ứng dụng cây
TNTG vào mục đích kinh tế còn rất hạn chế (Miller, 2002).
(

3). Các nghiên cứu về phòng trừ cây TNTG: cho đến nay, trên thế giới
đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về các biện pháp phòng trừ cây TNTG.
Chỉ trong vòng từ năm 1992 trở lại đây đã có 3 cuộc hội thảo Quốc tế chuyên
bàn về vấn đề cây TNTG và các biện pháp phòng trừ chúng, song có thể khẳng
định rằng, không một biện pháp đơn lẻ nào có thể mang lại hiệu quả cao và
triệt để trong việc phòng trừ cây TNTG. Từ đó, nhiều biện pháp khác nhau đã
đợc khuyến cáo ứng dụng nh biện pháp thủ công cơ giới nh nhổ, chặt biện
pháp đốt hay sử dụng thuốc trừ cỏ và biện pháp sinh học.
* Biện pháp thủ công nh cắt, nhổ thủ công bằng máy hay bằng tay
đợc áp dụng rất có hiệu quả. Tuy nhiên, biện pháp nhổ bỏ chỉ có thể áp
dụng đợc khi cây còn bé, mật độ cha cao. Ví dụ ở vờn Quốc gia Rakadu
- Thái Lan ngời ta đã áp dụng thành công biện pháp này để ngăn chặn sự
xâm lấn của cây trinh nữ khi chúng còn mọc rải rác (Siriworakul &
Schultz,1992). Biện pháp chặt đốn tuy có hiệu quả cao nhng không triệt
để vì cây có thể mọc tái sinh sau một thời gian ngắn. Thậm chí, sau khi
chặt, khả năng sinh trởng và phát triển của cây còn tốt hơn cả khi mọc từ
hạt. Mặt khác, cả hai biện pháp này đều rất tốn kém vì cần nhiều nhân công
lao động, do đó tính khả thi của 2 biện pháp này là rất thấp. Khi cây trinh
nữ lan tràn trên một diện tích rộng lớn.

7
* Biện pháp đốt: thờng chỉ cho hiệu quả cao với các cây còn nhỏ. Đối với
cây trởng thành, biện pháp này chỉ có tác dụng làm rụng bộ lá hay làm chết từng
phần cành non, do vậy chúng thờng chỉ đợc áp dụng sau khi cắt hay đã sử dụng
thuốc trừ cỏ để làm tăng tỷ lệ chết của cây trinh nữ (Miller, 1990). Tuy nhiên, khi áp
dụng biện pháp này thờng làm cho đặc tính ngủ nghỉ của hạt bị phá vỡ do đó kích
thích cho hạt nảy mầm nhiều hơn và khả năng xâm nhiễm cũng trở nên cao hơn. Bên
cạnh đó cũng có thể xảy ra rủi ro cháy rừng khi triển khai trên diện rộng.
* Biện pháp hoá học: đã đợc sử dụng trừ trinh nữ thân gỗ ở Mexico,
Costa-Rica, Australia và Thái Lan vào những năm 70 - 80 của thế kỷ 20. Cho

đến nay, nó đợc coi là biện pháp có hiệu quả phòng trừ cao, triệt để và kinh tế
nhất, do đó nó đợc ứng dụng rộng rãi ở nhiều nớc trên thế giới để phòng trừ
cây TNTG. Cùng với sự phát triển của nền công nghiệp hoá chất, ngời ta đã
tìm ra nhiều loại thuốc ít độc, có hiệu quả cao và có thể ứng dụng bằng nhiều
hình thức khác nhau.
- Biện pháp đa thuốc vào đất: Biện pháp này có thể đợc tiến hành
thông qua việc đa thuốc trực tiếp vào đất hay phun lên bề mặt tuỳ thuộc
vào diện tích cần xử lý, tuổi cây hay khu vực bị xâm nhiễm. Ngời ta đã
tạo sẵn các dạng thuốc phù hợp cho việc áp dụng trong đất, tuy nhiên hiệu
quả của nó phụ thuộc rất nhiều vào độ ẩm đất và lợng ma để thuốc có thể
xâm nhập đợc vào kết cấu của đất.

u điểm của biện pháp này là có thể
cho hiệu quả cao vì thuốc đợc hấp thụ qua rễ, sau đó lu dẫn vào thân nên
có thể diệt đợc toàn cây. Mặt khác, các thuốc này cũng có thể kéo dài thời
gian phát huy hiệu lực nên có thể diệt đợc các chồi tái sinh hay mầm non
mọc tiếp tục từ hạt. Các loại thuốc đợc sử dụng phổ biến để phun vào đất
bao gồm: Ethidincucron, Hexazinone và Tebuthiuron. Bên cạnh đó, ngời
ta cũng có thể sử dụng một số thuốc để t
ới vào gốc cắt tơi nh Dicamba,
Glyphosate hay Imazapyr.

- Biện pháp phun thuốc lên lá hay tiêm trực tiếp vào cây: Biện pháp này đợc sử
dụng rộng rãi với nhiều loại thuốc tiếp xúc hay lu dẫn nh Dicamba, Fluroxypyr,
Glyphosate, Pycloram+2,4D hay Hexazinone. Đây là biện pháp có hiệu quả cao, dễ ứng

8
dụng hiện đang đợc ứng dụng rộng rãi ở nhiều nớc trên thế giới. Tuy nhiên, ngời ta
cũng thấy việc sử dụng các loại thuốc này có nhợc điểm là nó dễ bị mất hiệu lực trong
các điều kiện bất thuận nh ma lớn, nhiệt và ẩm độ cao v.v. Khi phun vào sáng sớm,

các thuốc tiếp xúc trừ cỏ lá rộng nh Dicamba, Fluroxypyr có thể cho hiệu quả trừ cây
trinh nữ nhng sau đó cây lại mọc lên từ hạt vì các thuốc này không có tác dụng diệt hạt
cũng nh không có tác dụng kéo dài. Phun các thuốc nội hấp và lu dẫn nh Glyphosate,
Hexazione, Triclopyr + Pycloram + 2,4D hay Metsulfuron Methyl v.v với lợng cao
vào mùa khô có thể cho hiệu quả cao và triệt để hơn. Các thuốc tiếp xúc khác nh
Atrazin + 2,4D, Tebuthiuron phần lớn chỉ trừ đợc cây con. Việc xử lý thuốc vào gốc
sau khi đốn hay phun vào vỏ thân ở sát gốc là một biện pháp có hiệu quả kinh tế cao. Ví
dụ có thể sử dụng Dicamba, Glyphosate, Imazapyr để phun vào các gốc cây sau khi cắt
hay dùng Dicamba, Hexazinone để tiêm vào cây, nhng hiệu quả thờng thấp và không
triệt để (Steve Wingrave, 2002).
Nhìn chung, biện pháp phun thuốc lên lá thờng có tính khả thi
cao, song trong các trờng hợp cây trinh nữ xâm lấn dày đặc hoặc các cây
mọc cao lâu năm, ngời ta phải dùng máy bay để phun thuốc nhng cũng
chỉ có tác dụng hạn chế chồi non, hoa và quả trinh nữ để hạn chế quá trình
phát tán tiếp theo. Hiện nay, ở úc việc dùng máy bay phun thuốc trừ cây
trinh nữ trong các vờn Quốc gia và khu vực hoang hoá đã trở nên phổ
biến. Các thuốc thờng đợc sử dụng là Dicamba, Fluroxypyr,
Metsulfuron Methyl (Parson, 1992).

phía Bắc n
ớc
ú
c, việc phun thuốc trừ cây TNTG thờng đợc tiến
hành vào đầu mùa ma (tháng 11 đến tháng 12) khi cây con mới mọc hoặc các
cây trởng thành đang mọc tái sinh mạnh. Nhờ có việc sử dụng liên tục thuốc
hoá học trên diện rộng trong suốt thập kỷ 70 và 80 nên đã hạn chế đáng kể sự
gia tăng về diện tích xâm nhiễm cây TNTG.

Hiện nay có 5 loại thuốc hoá học đang đợc sử dụng để phun trừ cây TNTG
1. Starane: hoạt chất là Fluroxyper: đây là loại thuốc trừ cỏ chọn lọc, trừ đợc

cỏ lá rộng và cây thân bụi. Thuốc có độ độc thấp (nhóm IV), sử dụng với lợng 3lit/
ha có pha thêm chất giữ ẩm. Loại thuốc này hiện cha đăng ký sử dụng ở nớc ta.

9
2. Banvel: hoạt chất là Dicamba, đây là thuốc trừ cỏ chọn lọc, trừ cỏ lá
rộng trên nhiều loại cây trồng. Thuốc thuộc nhóm độc II, đợc phun với lợng
5-6lit/ha. Mặc dù Dicamba đợc khuyến cáo là có thể phun lên các vết cắt
ngang thân nhng hiện nay ở úc vẫn chủ yếu dùng để phun lên lá là chính.
Hoạt chất này cũng không đợc đăng ký sử dụng ở Việt Nam
3. Graslan (200g/ kg): Hoạt chất là Tebuthiuron: Là thuốc trừ cỏ chọn
lọc, trừ cỏ lá rộng trên các cây trồng họ hoà thảo nh mía, lúa mỳ v.v.Thuốc
thuộc nhóm độc II, đợc sử dụng với lợng từ 5-10 kg/ ha. ở nớc ta, hoạt chất
Tebuthiuron đợc đăng ký với tên thơng mại là Tebusan để trừ cỏ cho mía
nhng ít đợc sử dụng.
4. Brushoff: Hoạt chất là Metsulfuron Methyl: là thuốc trừ cỏ chọn lọc,
trừ nhiều loài cỏ lá rộng trên các cây trồng họ hoà thảo nh lúa, ngô v.v.Thuốc
thuộc nhóm độc IV, đợc dùng với lợng 60g/ ha. ở nớc ta, Metsulfuron
methyl đợc đăng ký sử dụng với tên thơng mại là Ally 20DF để trừ cỏ trên
lúa và một số cây trồng cạn.
5. Tordon: là hỗn hợp giữa Picloram và 2,4D: là thuốc lu dẫn mạnh, có
thể trừ các cỏ lá rộng, cây thân bụi có bộ rễ sâu. Không trừ cỏ hoà thảo. Thuốc
có độ độc cao, thuộc nhóm độc I. Cả hoạt chất Picloram và sản phẩm Tordon
không đợc đăng ký sử dụng ở Việt Nam.
Tuy có những u điểm nhất định về hiệu quả kỹ thuật và kinh tế, song
biện pháp hoá học cũng không tránh khỏi một số nhợc điểm:
- Thứ nhất là: mặc dù các thuốc trừ cỏ đợc sử dụng là những thuốc
chọn lọc cao nhng nếu sử dụng liên tục có thể làm suy giảm số loài thực vật,
do đó suy giảm đa dạng sinh học ở các khu vực bảo tồn.
- Tuy hầu hết các thuốc trừ cỏ đều rất ít độc đối với môi trờng và động
vật thuỷ sinh, song việc sử dụng rộng rãi trên diện tích lớn cũng có thể gây nên

những ảnh hởng tiêu cực tới môi trờng và sức khoẻ con ngời.

Tuy nhiên, qua kết quả triển khai phòng trừ bằng thuốc hoá học ở
ú
c
cho thấy, mặc dù việc phòng trừ cây TNTG bằng thuốc hoá học đợc tiến hành
trên một phạm vi khá lớn và tất cả khu vực phòng trừ đều nằm trong phạm vi

10
vùng ngập nớc, phần đa là vùng bảo tồn thiên nhiên hoang dã trong đó có rất
nhiều loài chim trời và cá sinh sống, cho đến nay cha có báo cáo nào về tác
động tiêu cực nghiêm trọng của thuốc hoá học đối với các loài động vật thuỷ
sinh trong các khu bảo tồn ngập nớc này kể cả những vùng đợc xử lý thuốc
bằng máy bay trực thăng trên diện tích khá rộng. Theo các nhà hoa học thì hầu
hết các thuốc trừ cỏ đều rất ít độc với các loài động vật thuỷ sinh. Trong khi đó,
diện tích che phủ bề mặt của cây TNTG rất lớn, khả năng giữ thuốc trên bề mặt
tán cây lớn nên lợng thuốc rơi xuống đất hầu nh rất ít. Mặc dù không có kết
quả phân tích về d lợng thuốc trong đất, nớc và nghiên cứu chi tiết về tác
động của thuốc đối với các loài động vật thuỷ sinh, nhng nhìn chung cho đến
nay không có trờng hợp nào ngộ độc xảy ra.
* Biện pháp sinh học: đã đợc tiến hành ở
ú
c, Thái Lan. Ngời ta đã tiến
hành điều tra nguồn ký sinh thiên địch của cây trinh nữ thân gỗ tại vùng bản xứ của
nó nh Brazil, Mexico, Venezuela, sau đó du nhập và nhân thả ở các vùng bị nhiễm
cây trinh nữ. Hiện nay ở
ú
c đã nghiên cứu và nhân thả đợc 14 tác nhân sinh học
có khả năng ứng dụng để trừ cây TNTG, nhng trong đó chỉ có 2 loài loài có khả
năng năng hạn chế tốt cây TNTG là sâu đục thân Carmenta mimosae đợc nhân thả

ở úc năm 1989, ở Thái Lan 1991; và sâu đục ngọn
Neurostrota gunniell
đợc thả ở
úc năm 1989 (Julien, 1992; Forno, 1991, ). Trong đó loài sâu đục thân Carmenta
mimosae đã đợc tổ chức CSIRO hỗ trợ để nhân thả ở Việt Nam từ 1995-1997. Hai
loài mọt đục hạt trinh nữ là Acanthoscelides puniceus và A. quadridentatus cũng
đã đ
ợc nhân thả thành công ở
ú
c và Thái Lan.
Bên cạnh các loài côn trùng, hớng nghiên cứu sử dụng các loài nấm
gây hại cho trinh nữ dới dạng phòng trừ cổ điển và thuốc trừ cỏ sinh học cũng
đang đợc quan tâm nghiên cứu và ứng dụng ở nhiều nớc đặc biệt là úc và
Thái Lan. Cho đến nay, loài nấm có triển vọng nhất đã đợc xác định và ứng
dụng thành công để phòng trừ cây TNTG là Phloeospora mimosae pigrae. Loài
nấm này có thể phát triển nhanh và hạn chế đợc khả năng phát triển của cây.
Tuy nhiên, nó chỉ có khả năng hạn chế phát triển của các cây non cao dới 80
cm và không có khả năng diệt triệt để.

11
Biện pháp phòng trừ sinh học đợc coi là một hớng đi quan trọng vì nó
khắc phục đợc nhợc điểm của các biện pháp thủ công và hoá học, đảm bảo
đợc tính bền vững và cân bằng sinh thái cao, vì vậy nó đợc coi là chiến lợc
quan trọng trong thế kỷ 21.


ú
c sau nhiều năm thả liên tục, các tác nhân sinh
học đã có thể làm giảm tới 90% lợng hạt trong đất tại vùng ứng dụng. Tại
những vùng có mật độ cây bị sâu đục cao, khả năng cạnh tranh của cây TNTG

với hệ thực vật tại vùng bị xâm lấn bị giảm đáng kể. Đồng thời, các tác nhân
sinh học cũng làm suy giảm khả năng phát triển của cây con.
Tuy nhiên, việc ứng dụng biện pháp này cũng còn nhiều hạn chế:
- Phần đa các tác nhân sinh học thờng có hiệu quả không cao và chỉ có
tác dụng hạn chế phần non của cây và các cây con, không có khả năng tiêu diệt
triệt để. Đối với các loài sâu đục ngọn đôi khi còn kích thích cho cây mọc nhánh
mới và phát triển mạnh hơn. Phạm vi phát tán của các tác nhân cũng không rộng,
trong khi đó các vùng lận cận thờng xuyên có nguồn hạt từ các vùng ngập nớc
khác trôi dạt đến, do đó diện tích lây lan tuy có chậm hơn nhng vẫn mở rộng.
- Các tác nhân sinh học có thể bị tiêu diệt hoặc suy giảm quần thể trong
những điều kiện bất thuận nh lũ lụt, vì vậy việc bảo vệ và nhân quần thể của
chúng cũng gặp khó khăn.
- Chi phí cho biện pháp sinh học rất cao, do vậy khó triển khai trên diện
rộng. Để hình thành và duy trì đợc khu vực phòng trừ với diện tích trên 100ha, ở
ú
c đã phải có một phòng thí nghiệm duy trì các hoạt động thờng xuyên để kiểm
tra, nhân nuôi bổ sung kể từ năm 1984.

Nh vậy, các kết quả nghiên cứu ở nớc ngoài đều cho thấy không
một biện pháp nào có thể mang lại hiệu quả cao và triệt để đối với cây
TNTG khi đã xâm nhiễm ở mức độ cao. Vì vậy, hớng nghiên cứu và ứng
dụng các biện pháp ngăn chặn sự xâm nhiễm ban đầu và phòng trừ sớm
cây TNTG đang đợc quốc gia đặc biệt quan tâm và coi đây là một biện
pháp rẻ tiền và hiệu quả nhất. Các biện pháp đợc áp dụng để ngăn chặn
sự lây lan của cây TNTG bao gồm:

12

Để có thể can thiệp sớm cần tiến hành các hoạt động chủ yếu sau
:


(1). Làm tốt công tác kiểm dịch nội địa và quốc tế : Kiểm dịch thực vật
đợc coi là một trong những biện pháp quan trọng để ngăn chặn và kiểm soát
sự lây lan của cây trinh nữ thân gỗ. Việc tiến hành biện pháp kiểm dịch có thể
áp dụng đối với các quốc gia khác nhau nhng cũng có thể áp dụng để ngăn
chặn sự lây lan từ vùng dịch tới các vùng cha bị cây trinh nữ xâm nhiễm. Đặc
biệt cần kiểm soát chặt chẽ sự giao lu của con ngời tại vùng bị nhiễm cây
trinh nữ ở các vờn Quốc gia để có biện pháp ngăn chặn kịp thời khi chúng có
nguy cơ bùng phát số lợng (Schultz, 2002).
(2). Dự báo sớm sự phát tán và lây lan của cây TNTG: trên cơ sở duy trì
hoạt động điều tra thờng xuyên cũng nh có đợc hiểu biết đầy đủ về điều kiện,
quy luật phát tán, lây lan của cây TN. Việc dự báo sớm không chỉ dựa vào điều tra,
phát hiện thờng xuyên mà còn phải xác định và phân tích đợc diễn biến và mức
độ phát sinh trong mối liên quan giữa cây TN với các yếu tố sinh thái nh: nhiệt độ,
ẩm độ, mực nớc, hệ thực vật và các sinh vật có liên quan. Trên cơ sở đó, phải đa
đợc dữ liệu vào máy tính để phân tích mối tơng quan, từ đó cảnh báo đợc các
vùng có nguy cơ xâm nhiễm cao để có kế hoạch giám sát kịp thời.
(3). Tăng cờng giáo dục và nâng cao nhận thức cho ngời dân: Đây là nội
dung quan trọng giúp cho việc ngăn chặn sớm sự lây lan ở cấp Quốc gia vì hiệu quả
ngăn ngừa cây TN phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức và sự tham gia chủ động của
công chúng. Mỗi ngời dân và cộng đồng cần đợc hiểu biết đầy đủ về tác hại và
khả năng lây lan của cây TNTG cũng nh các biện pháp phòng trừ sớm khi chúng
đang còn mọc rải rác (Miller, 2002). Cần tăng cờng tuyên truyền, nâng cao nhận
thức của ngời dân về khả năng phát tán, các con đ
ờng lây lan, tác động của cây
TN đến đời sống, kinh tế, xã hội và môi trờng và những việc ngời dân có thể làm
hoặc tham gia đợc vào chiến lợc ngăn chặn sự lây lan của cây TN.
(4). Quản lý các vùng mẫn cảm: Một số vùng sinh thái phù hợp nhất
nh vùng trũng, thảm thực vật che phủ tha thờng dễ mẫn cảm hơn với cây
TNTG, vì vậy chúng cần đợc quản lý tốt bằng cách điều khiển thảm thực vật


13
để đảm bảo khả năng cạnh tranh với cây TNTG cũng nh phòng trừ sớm khi
chúng còn cha kịp xâm nhiễm ở mức cao.
(5). Hạn chế sự di chuyển của nguồn hạt từ những vùng đã bị xâm
nhiễm nặng ra bên ngoài
: chủ động phòng trừ từ thợng nguồn các con sông
lớn ở các vùng đã bị nhiễm. Kiểm soát chặt chẽ và chủ động ngăn chặn các con
đờng lây lan và phát tán của cây TN thông qua những hoạt động của con
ngời nh phát tán nguồn hạt qua các phơng tiện giao thông, phân gia súc v.v.
từ vùng bị nhiễm sang vùng không bị nhiễm.
(6). Tận dụng mọi khả năng có thể để phủ kín mặt đất bằng các loài thực
vật thích hợp đặc biệt là các loài có khả năng che phủ mặt đất nhanh, cạnh tranh
tốt với hạt cỏ trong thời kỳ nảy mầm và cây con nh cỏ hoà thảo v.v.
(7). Tăng cờng huấn luyện cho các nhà quản lý, chuyên môn, khuyến nông
và nông dân về sinh học sinh thái; phơng pháp điều tra xác định nguồn, khả năng
lây lan và các vùng mẫn cảm; biện pháp phòng trừ và chiến lợc giám sát lâu dài.
(8). Can thiệp sớm bằng các biện pháp phù hợp nh đào rễ và chôn lấp;
thu dọn và đốt quả, hạt; sử dụng hoá chất phun lên lá, gốc và phun lên đoạn
thân sau chặt; nhân thả các tác nhân sinh học v.v.
Việc tiến hành các biện pháp phù hợp để can thiệp sớm cây TNTG luôn
mang lại hiệu quả cao và triệt để nhất. Hầu hết các biện pháp phòng trừ đều có thể
đợc ứng dụng để ngăn chặn sự lan tràn của cây TNTG, song việc lựa chọn biện
pháp và qui mô ứng dụng phụ thuộc vào tình trạng xâm lấn, đặc thù của vùng bị
xâm lấn cũng nh hiệu quả của biện pháp. Các biện pháp thủ công, cơ giới, sinh
học, sinh thái nh thay đổi điều kiện sống có lợi cho cây sinh trởng và phát tán
hay trồng cây che phủ (Lonsdale et al, 1989, 1993) thờng đợc u tiên áp dụng
trớc khi mật độ thấp và cây còn bé. Khi đã có nguy cơ phát tán rộng lớn và gia
tăng mật độ, cần can thiệp sớm bằng việc sử dụng các thuốc hoá học có tính chọn
lọc cao và ở lợng thấp (Miller et al, 1992).




Tóm lại:
Do có khả năng sinh trởng và thích nghi cao, cây TNTG
đang đợc coi là một đối tợng cỏ dại nguy hiểm của nhiều Quốc gia đặc biệt
là các vùng nhiệt đới, vì vậy trên thế giới đã có những công trình nghiên cứu

14
khá toàn diện về tác hại, sinh học, vật hậu v.v. để tìm ra những biện pháp phòng
trừ chúng một cách có hiệu quả. Vấn đề đặt ra là cho đến nay vẫn không có
một biện pháp đơn lẻ nào mang lại hiệu quả triệt để về mặt kỹ thuật, kinh tế và
môi trờng. Các biện pháp phòng trừ thủ công, cơ giới hay sinh học đều rất tốn
kém và hiệu quả phòng trừ không cao. Biện pháp hoá học có thể mang lại hiệu
quả cao, chi phí thấp do đó đã đợc nhiều nớc trên thế giới ứng dụng. Tuy
nhiên, nếu không có sự quan tâm đầy đủ về giai đoạn sinh trởng, nồng độ, liều
lợng, hình thức và công cụ phun rải đối với từng vùng sinh thái cụ thể thì
không những không mang lại hiệu quả cao mà còn gây ra những tác động tiêu
cực đối với môi trờng và sức khoẻ con ngời. Vì vậy, việc nghiên cứu biện
pháp phòng trừ tổng hợp chúng đang đợc các các nớc quan tâm và ứng dụng
cho phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể của chính họ.
III.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nớc

nớc ta, cây TNTG còn đợc gọi là cây TNTG nhọn, cây mắt mèo, cây
xấu hổ, cây mai dơng. Tuy không có tài liệu nào công bố chính xác nhng theo
các nhà khoa học thì cây TNTG bắt đầu xâm nhập vào Việt Nam vào khoảng thập
kỷ 60. Do mức độ xâm nhiễm và gây hại đối với sản xuất nông, lâm nghiệp cha
lớn nên cho đến trớc năm 2000, các công trình nghiên cứu về cây TNTG ở Việt
Nam còn rất ít. Hầu nh cha có công trình nào quan tâm nghiên cứu sinh học,
sinh thái cũng nh đánh giá tầm quan trọng kinh tế và biện pháp phòng trừ cây

TNTG ở Việt Nam.
Trong các năm 1995-1997, với sự tài trợ của Trung Tâm nghiên cứu Nông nghiệp
quốc tế
ú
c (ACIAR), Viện Bảo vệ thực vật đã hợp tác với tổ chức nghiên cứu khoa học
công nghệ úc (CSIRO) tiến hành một số điều tra và nghiên cứu về cây TNTG.
Theo kết quả nghiên cứu của Viện Bảo vệ thực vật cho thấy cây TNTG có
mặt ở hầu hết các tỉnh từ miền Núi đến Đồng Bằng.

miền Bắc, mức độ phổ biến
ít và phân tán ở các tỉnh Hà Nội, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Yên Bái, Hoà Bình, Hà
Tây, Hải Dơng, Quảng Ninh, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Giang. ở miền Trung,
cây cũng phân bố rải rác. Riêng 8 tỉnh Nam Trung Bộ có khoảng 680 ha bị nhiễm
cây TNTG.

miền Nam, diện tích trinh nữ bị nhiễm nặng tập trung ở vùng lòng

15
hồ Trị An (khoảng 7.000 ha), lu vực sông La Ngà (hàng trăm ha) và các tỉnh
Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang. Hàng năm, vào mùa lũ hạt trinh nữ
trôi từ Campuchia, Lào sang vùng đồng bằng sông Cửu Long, khi nớc rút, hạt
nảy mầm và mọc khắp nơi.
Cũng trong khuôn khổ của dự án này, Viện Bảo vệ thực vật đã tiến hành
nghiên cứu biện pháp sinh học trừ cây TNTG. Đã nhập nội 4 tác nhân sinh học
gồm một loài đục thân (Carmenta mimosae), hai loài mọt đục hạt
(Acanthoscelides quadridentatus, A. puniceus) và một loài nấm gây đốm lá
(Phlocospora mimosae-pigrae). Đã tiến hành nhân nuôi cách ly trong phòng kín
và đánh giá tính chuyên hoá ký chủ của tác nhân sinh học nội nhập. Kết quả cho
thấy, các tác nhân sinh học nhập nội đều có tính chuyên hoá ký chủ cao. Đợc
phép của các cơ quan chức năng, loài đục thân trinh nữ (Carmenta mimosae) đã

đợc thả thử tại nhiều điểm có trinh nữ thân gỗ nh Sóc Sơn (Hà Nội), Đồng Mô
(Hà Tây), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Quế Võ (Bắc Ninh), La Ngà (Đồng Nai). ở một
số nơi thả đã thấy hình thành quần thể sâu đục thân trinh nữ, có nơi tỷ lệ đục thân
tới 50-80%. (Nguyen Van Cam, Pham Van Lam et al, 1997).
Trong những năm gần đây, cây trinh nữ phát triển khá nhanh ở vùng đồng
bằng sông Cửu Long. Chúng mọc dày tạo thành những vành đai rộng lớn và trở
thành đối tợng cỏ dại nguy hiểm khó phòng trừ, gây ảnh hởng lớn cho sản xuất
nông nghiệp, ảnh hởng tới cảnh quan và môi trờng.
Theo báo cáo của Chi cục BVTV Đồng Tháp thì trớc 1980, cây TNTG chỉ
xuất hiện ở hai huyện Tân Hồng và Hồng Ngự. Từ 1981 1985, cây xuất hiện rải rác
ở Tam Nông và Thanh Bình nhng mới từ 1991 đến nay, cây mọc nhiều và xâm lấn
nhiều vùng đất trống thuộc huyện Tam Nông.
Tại vờn Quốc gia Tràm Chim (Đồng Tháp), là rừng tràm ngập nớc,
cây trinh nữ thân gỗ đã xâm nhiễm ở mức độ nghiêm trọng, tốc độ lây lan rất
nhanh. Trong năm 1999 chỉ có khoảng 150 ha bị nhiễm, đến tháng 5/ 2000 đã
lên tới 490 ha, cuối 2001 tới gần 1.000 ha.

Trớc nguy cơ gia tăng mức độ xâm lấn và gây hại của cây TNTG, trong
năm 2000, Trờng Đại học Khoa Học Tự Nhiên TP. Hồ Chí Minh và Trờng Đại

16
học Cần Thơ đã phối hợp với vờn Quốc gia Tràm Chim bắt đầu điều tra mức độ
phát sinh, gây hại và đề xuất một số biện pháp phòng trừ cây TNTG. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, cây TNTG phân bố rải rác ở hầu hết cả 5 khu A1, A2, A3, A4
và A5 của vờn Tràm Chim. Trong vờn Tràm Chim, khu A2, A4 và A5 bị xâm lấn
khá nặng, đặc biệt ở khu A5, cây TNTG mọc tập trung thành bãi, xen lẫn giữa các
cây to cao (2-3 năm tuổi) với các cây mới mọc. Diện tích bị xâm nhiễm lớn hơn
diện tích các dải đất trống. Độ che phủ khoảng hơn 60%. Các cây mới phát tán
thờng mọc ở những nơi nớc cạn hơn, không bị che bóng, mọc ở các vùng đất
trống, vì vậy diện tích bị xâm lấn tăng rất nhanh.

Về tác hại của cây TNTG ở Tràm Chim: Phần lớn vờn Quốc gia Tràm
Chim là diện tích tràm ngập nớc, diện tích khoảng trống còn lại là nơi sinh sống của
nhiều loài cỏ dại có khả năng tồn tại trong điều kiện ngập nớc thuộc các họ hoà thảo
(Poaceae) và cói lác (Cyperaceae) nh sậy, cỏ lông, cỏ lác Cyperus sp. cũng nh
một số cỏ lá rộng nh bèo cái, bèo tây, dừa nớc v.v Đồng cỏ năng là bãi ăn nghỉ
của nhiều loài sinh vật quý hiếm trong đó có loài sếu đầu đỏ Grus antigone sharpii là
loài chim quý của Việt Nam và thế giới. Từ khi có sự xâm lấn của cây TNTG, thảm
thực vật bản địa có sự thay đổi, đặc biệt là cỏ họ Cyperaceae. Những nơi bị cây
TNTG xâm lấn hoàn toàn (100% diện tích che phủ) thì không có loài thực vật nào
khác mọc đợc dới gốc của nó ngoại trừ hai loài cây dây leo là cây hắc sửu
(
Merreemia hederacea
) và rau kìm
(Aniseia martinicensis)
. Do thảm thực vật bị thay
đổi, số lợng chim quây tụ ở đây giảm hẳn (Nguyễn Văn Đúng và CTV, 2001). Kết
quả thử nghiệm bớc đầu về một số biện pháp cơ giới phòng trừ cây TNTG cũng cho
thấy: các biện pháp nh chặt, đốt, chặt kết hợp với đốt đều cho hiệu quả nh nhau và
chỉ làm giảm mật độ, sinh khối và diện tích che phủ ngay sau mỗi lần xử lý, không
có tác dụng diệt triệt để, sau đó cây lại mọc tái sinh mạnh hơn. Nếu sau khi chặt có
điều kiện ngâm ngập lũ thì hiệu quả có thể kéo dài hơn, sau 4-5 tháng cây mới mọc
tái sinh trở lại (nghĩa là sau 1 mùa nớc ngập). Tuy các biện pháp không cần những
công cụ hiện đại cũng nh không đòi hỏi kỹ năng cao nhng đều rất tốn kém do phải
chi một lợng công lao động khá lớn. Chi phí cho biện pháp chặt là thấp nhất, sau đó
đến biện pháp đốt và cao nhất là biện pháp chặt kết hợp với đốt.

17
Trớc thực trạng lây lan và xâm lấn mạnh mẽ của cây TNTG, trong 2
năm 2001-2002, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã giao cho Viện Bảo vệ thực vật
thực hiện đề tài nghiên cứu: Điều tra, đánh giá mức độ tác hại của cây TNTG

(Mimosa pigra) tại các vờn Quốc gia Tràm chim và Nam cát tiên và đề xuất
các giải pháp nghiên cứu phòng trừ
.

Mục tiêu chủ yếu của đề tài là xác định đợc tình hình xâm nhiễm, khả
năng gây hại, một số đặc điểm sinh học sinh thái chủ yếu của cây TNTG ở điều
kiện Việt Nam và thăm dò khả năng phòng trừ chúng bằng các biện pháp khác
nhau. Trên cơ sở đó đề xuất chiến lợc nghiên cứu phòng trừ cây TNTG có tính
khả thi cao trong điều kiện của các vờn Quốc gia.
Các nội dung nghiên cứu cơ bản bao gồm:
+

Điều tra tình hình phân bố, hiện trạng xâm lấn và mức độ gây hại
của cây TNTG tại vờn quốc gia Tràm Chim và Nam Cát Tiên.
+ Tìm hiểu một số đặc điểm sinh vật học và sinh thái học cơ bản của
cây TNTG ở điều kiện Việt Nam.
+ Bớc đầu tìm hiểu khả năng phòng trừ cây TNTG bằng các biện pháp thủ
công, cơ giới, hoá học và sinh học phù hợp với điều kiện của các vờn Quốc Gia.
Các kết quả nghiên cứu đã khẳng định

- Nguy cơ xâm lấn của cây TNTG đang ngày càng gia tăng ở vờn Quốc
gia Tràm Chim và Nam Cát Tiên, vùng lòng Hồ Trị An, lu vực sông La Ngà và
nhiều nơi khác ở đồng bằng sông Cửu Long. Riêng ở Tràm Chim, diện tích bị
nhiễm cây TNTG cho đến nay đã xấp xỉ gần 2000 ha. Tại những vùng bị nhiễm
cao, mật độ có thể lên tới 7- 8 cây/ m
2
và diện tích che phủ lên tới 100%.
Tại vờn Quốc gia Nam Cát tiên, cây TNTG đã lây lan nhanh và hiện
nay đã xâm lấn toàn bộ khoảng 50 ha diện tích mặt nớc của Bầu chim là nơi
sinh sống của các loài thực vật họ cói lác Cyperaceae và hoà thảo Poaeae.

Ngoài ra cây còn mọc rải rác khắp vùng đệm thuộc huyện Cát Lộc với diện tích
hàng nghìn ha và vùng lòng hồ trị an khoảng gần 10.000ha. Tại những vùng bị cây
TNTG xâm lấn, hệ động thực vật bản địa bị suy giảm nghiêm trọng, ảnh hởng tới
đa dạng sinh học của các vờn Quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên. Sự gia tăng

18
mật độ của cây TNTG cũng đang biến nhiều vùng đất canh tác thành đất hoang
hoá (Phạm Văn Lầm, Nguyễn Hồng Sơn và CTV, 2002).
- Các biện pháp phòng trừ đơn lẻ đều không mang lại hiệu quả cao. Các biện
pháp thủ công nh chặt, đốt, chặt kết hợp với đốt đều không cho hiệu quả triệt để.
Sau khi chặt hay chặt rồi đốt từ 2 tuần đến 1 tháng, các gốc cây đều có chồi mọc lại,
cây mọc nhiều chồi, chồi to và phát triển mạnh hơn. Sau khi mọc 1 tháng có chồi đã
cao tới 1m. Do đó mật độ cây mọc lại đạt xấp xỉ 50% mật độ cây trớc xử lý. Kết quả
cũng cho thấy, biện pháp đốt mà không chặt cho hiệu quả thấp nhất. Đặc biệt quá
trình đốt không chỉ không có khả năng hạn chế tái sinh và sinh trởng của mầm mà
còn kích thích cho hạt nảy mầm mạnh hơn, cha kể đến nguy cơ gây cháy rừng.

Về chi phí
: c
hi phí về công lao động cho biện pháp chặt + đốt là cao nhất
(130 công/ ha). Biện pháp đốt tuy không phải mất công chặt nhng phải chi phí
công dọn đờng băng và canh phòng chống lửa lan khi đốt nên chi phí cũng khá
cao (95 công/ ha). Biện pháp chặt tốn ít công nhất (60 công/ ha). Với giá trị công
lao động là 30.000đ/ công, chi phí cho biện pháp chặt là 2.020.000 đ, biện pháp
đốt là 5.020.000 đ và biện pháp chặt kết hợp với đốt là 6.100.000đ, cha tính công
cụ và bảo hộ lao động (Phạm Văn Lầm, Nguyễn Hồng Sơn và CTV).
Qua quá trình thực hiện đề tài, các tác giả cũng đã xác định đợc hai hoạt chất
trừ cỏ có hiệu lực cao đối với cây TNTG là
Glyphosate


Metsulfuron Methyl.
Trong
đó Glyphosate là thuốc huỷ diệt, khi sử dụng ở lợng tơng đơng với lợng dùng
trong sản xuất nông nghiệp thuốc có thể diệt triệt để trên 90% cây 1 năm tuổi, còn với
cây 2 và 3 năm, phải tăng lợng dùng lên gấp 1,5 lần. Sau khi dùng thuốc 18 tháng vẫn
không có cây con mọc trở lên. Tuy nhiên đây là loại thuốc huỷ diệt toàn bộ nên đã tiêu
huỷ toàn bộ thảm thực vật, sau 6 -10 tháng mới khôi phục trở lại. Viện cũng đã chọn
đợc 1 loại thuốc chọn lọc chỉ trừ các loài cỏ lá rộng, không trừ cỏ hoà thảo và cói lác
đó là Ally 20DF có khả năng trừ cây trinh nữ. Khi phun vào giai đoạn cây đã già hiệu
lực của thuốc rất thấp, nhng khi phun ở nồng độ từ 0,022 đến 0,03% vào 20 ngày sau
chặt cho hiệu quả rất cao đối với các mầm mới mọc tái sinh.
Nh vậy có thể sử dụng thuốc này kết hợp với biện pháp thủ công để
tăng hiệu quả phòng trừ hay sử dụng để trừ cây con khi mới mọc
. Chi phí cho
việc dùng thuốc hoá học giảm rõ rệt so với khi áp dụng các biện pháp thủ công.

19
Nh vậy sau ba năm thực hiện, đề tài đã bớc đầu xác định đợc:
+ Nguy cơ lan rộng và mức độ xâm lấn của cây TNTG tại vờn
quốc gia Tràm Chim và Cát Tiên
+ Một số đặc điểm sinh học, sinh thái cơ bản của cây TNTG
+ Xác định đợc hiệu quả của một số biện pháp phòng trừ nh thủ
công, cơ giới, sinh học và hoá học.
Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian và kinh phí, các kết quả nghiên
cứu phòng trừ đều mới chỉ dừng lại ở quy mô ô nhỏ, cha có đủ quá trình
lặp lại về không gian và thời gian do đó cha thể đánh giá đợc đầy đủ tác
động tiêu cực và tính khả thi của từng biện pháp đặc biệt là biện pháp sử
dụng thuốc trừ cỏ khi triển khai trên diện rộng. Vì vậy cần tiến hành các thí
nghiệm bổ sung, các trình diễn trên diện rộng để đánh giá đầy đủ về hiệu
quả kỹ thuật, kinh tế, xã hội và sinh thái của từng biện pháp khi triển khai

trên diện rộng. Mặt khác, cũng cần xác định khả năng ứng dụng kết hợp
giữa các biện pháp với nhau để vừa đạt mục tiêu hạn chế sự gia tăng quần
thể vừa ngăn chặn sự xâm nhiễm và lây lan tiếp tục của cây TNTG ở các
vờn Quốc gia, các khu bảo tồn bị xâm nhiễm nặng.
III. Kết luận:
Cây TNTG là một loài thực vật ngoại lai nguy hiểm ở nhiều vùng
đất bán ngập thuộc các vùng nhiệt đới trên thế giới. ở nớc ta, mặc dù cây mới
phát tán rộng trong mời năm gần đây song mức độ gia tăng quần thể, xâm lấn
và gây hại của cây TNTG ở nớc ta là không nhỏ. Theo kinh nghiệm của các
nớc trên thế giới, nếu không đợc ngăn chặn kịp thời, mức độ xâm lấn sẽ trở
nên trầm trọng hơn và khi đó khó tìm ra giải pháp phòng trừ hiệu quả. Trong
khi đó, các công trình nghiên cứu về cây TNTG ở nớc ta còn quá khiêm tốn so
với các nớc trên thế giới. Một số đề tài nghiên cứu do Bộ Nông nghiệp và
PTNT thực hiện tuy bớc đầu đã đạt đợc những kết quả khả quan, tạo tiền đề
quan trọng cho việc định hớng các nghiên cứu và ứng dụng tiếp theo để ngăn
chặn sự xâm lấn của cây TNTG ở n
ớc ta. Tuy nhiên, để có thể ứng dụng thành
công các kết quả đó khi triển khai trên diện rộng cần có những nghiên cứu bổ
sung để đánh giá toàn diện về hiệu quả kỹ thuật, kinh tế, xã hội cũng nh

20
những tác động về mặt môi trờng có liên quan, đặc biệt là đánh giá tác động
của thuốc trừ cỏ đến nguồn nớc, đất đai, hệ vi sinh vật đất và các sinh vật có
ích trong hệ sinh thái. Bên cạnh đó cũng cần đề ra biện pháp phòng trừ tổng
hợp để ngăn chặn một cách có hiệu quả và quản lý bền vững cây TNTG đối với
từng vùng sinh thái cụ thể ở nớc ta.

Hà Nội, ngày 20tháng 2 năm 2006
Ngời viết báo cáo




Nguyễn Hồng Sơn






21

Danh mục tài liệu tham khảo

Tiếng Việt
1. Chi cục Bảo vệ thực vật Đồng Tháp, Kết quả điều tra sự phân bố và mức độ
xâm nhiễm cây trinh nữ thân gỗ và bèo tây tại Đồng Tháp (Báo cáo nội bộ), 1996, 5p.
2. Nguyễn Văn Đúng và CTV, Tìm giải pháp tối u kiểm soát cây mai
dơng Mimosa pigra ở vờn Quốc Gia Tràm Chim, Báo cáo kết quả thực hiện
đề tài khoa học công nghệ năm 2001, 54p.
3. Phạm Hoàng Hộ, Cây cỏ Việt Nam, Nhà xuất bản trẻ, 1999.
4. Phạm Văn Lầm, Nguyễn Hồng Sơn, Nguyễn Văn Đúng, Phạm Hữu
Khánh và CTV, Điều tra, đánh giá mức độ tác hại của cây TNTG Mimosa pigra tại
các vờn Quốc gia Tràm Chim và Nam Cát Tiên và đề xuất các giải pháp nghiên
cứu phòng trừ, Báo cáo khoa học Viện Bảo vệ thực vật 2001- 2002, 21p.
5. Trần Văn Mùi, Hiện trạng và các biện pháp phòng trừ cây Mai dơng ở
Vờn Quốc gia Cát Tiên, Tài liệu tham luận tại hội thảo khoa học về cây Mai dơng
do Viện Bảo vệ thực vật tổ chức tại Vờn Quốc gia Tràm Chim, tháng 6/ 2003, 4p.
6. Đặng Vũ Thị Thanh, Nguyễn Văn Cảm, Lê Thị Thanh Thuỷ,
Nguyễn Thị Vân, Trịnh Xuân Hoạt và Nguyễn Hạnh Nguyên, Kết quả nghiên
cứu bớc đầu về sử dụng nấm Phloeospora mimosae pigrae để phòng trừ cây

TNTG, Baó cáo khoa học Viện Bảo vệ thực vật, 1998, 7p.
7. Vờn Quốc gia Cát Tiên, Công tác quản lí, bảo vệ và xây dựng vờn
quốc gia Cát Tiên, tháng 12 năm 2000, 13p.
Tiếng Anh
8. Anon.(1980). Spreading Weed Menaces North Thai Agriculture.
Infoletter No. 43, Oregon State University, IPPC.
9. Benyasut, P. and Pitt, J.L, Preventing the introduction and spread of Mimosa
pigra. In: A Guild to the management of Mimosa pigra, CSIRO, Canberra, 1992, p. 8-

22
10. Nguyen Van Cam, Pham Van Lam, Hoang Cong Dien, Tran Thi Huong
and Nguyen Thuc Hien. 1997. Biological control of Giant sensitive plant Mimosa pigra
in Vietnam. The review report of ACIAR - Vietnam project number PN9319. 16p.
11. Chin Samouth, Mimosa pigra infestation and Current Threat in the Wetlands
and Floodplains of Cambodia, Papers presented at 3
rd
International Symposium on the
Management of Mimosa pigra, Darwin – Australia 23-25 September 2002, p. 29 – 32/ 173.
12. Commonweath of Autralia and National Weeds Strategy Executive
Commitee, Mimosa pigra – a weed of national significance. In: Strategy plan, 2001. 23p.
13. Danien L. McIntyre, Carl H. Menges and Waqar Ahmad, Mapping
Mimosa pigra on the Mary River Floodplain using TopSAR, Landsat ETM +
and MASTER data, Papers presented at 3
rd
International Symposium on the
Management of Mimosa pigra, Darwin – Australia 23-25 September 2002. In
Research and Management of Mimosa Pigra, p. 33/ 173
14. Grant Flanagan, Mimosa Management in the 21 Century, Papers presented
at 3
rd

International Symposium on the Management of Mimosa pigra, Darwin –
Australia 23-25 September 2002. In Research and Management of Mimosa Pigra
15. Harley, K.L.S., Miller,I.L., Napompeth, B. and Thamasara, S. (1985).
An
integrated approach to the management of Mimosa pigra L. in Australia and Thailand.
Proceedings Tenth Conference of the Asian Pacific Weed Science Society1: 209-15.
16. Hichliffe P., Jef Cumming, Cassandra Chopping, Mimosa pigra
control in Queensland Peter Faust Dam, Proserpine, Papers presented at 3
rd

International Symposium on the Management of
Mimosa pigra,
Darwin –
Australia 23-25 September 2002. In Research and Management of Mimosa Pigra
17. Ian Miller, Prevention and early intervention in management of
Mimosa pigra, Papers presented at 3
rd
International Symposium on the
Management of Mimosa pigra, Darwin – Australia 23-25 September 2002. In
Research and Management of Mimosa Pigra, p. 8084/ 173.
18. Kenji Noda, Major weed in Thailand, National Weed Science
Research Institute Project, 1986, p. 84/ 142 .

23
19. Linda Ford – Rak Mak Mak Marranunggu, Impact of Mimosa on White
Eagle Country, Northern Territory, Australia, Papers presented at 3
rd
International
Symposium on the Management of
Mimosa pigra,

Darwin – Australia 23-25
September 2002. In Research and Management of Mimosa Pigra, p. 28/ 173.
20. Lonsdale, W.M., Miller.,I.L. and Forno, I.W. (1989) . The biology of
Australian weeds. 20 Momosa pigra L. Plant Protection Quarterly 4: 119-31.
21. Marambe B., Distribution, biology and management of Mimosa
pigra in Sri Lanka, Papers presented at 3
rd
International Symposium on the
Management of Mimosa pigra, Darwin – Australia 23-25 September 2002. In
Research and Management of Mimosa Pigra
22. Miller, I.L., Napompeth, B., Forno, I. W. and Siriworakul, M.,
Strategies for the integrated management of Mimosa pigra. In: A Guild to the
management of Mimosa pigra, CSIRO, Canberra, 1992, p. 110-115.
23. Miller, I.L., and Lonsdale, W.M. (1987). Early records of Mimosa
pigra in the Northern Territory. Plant Protection Quarterly 2: 140-2.
24.Miller, I.L., and Lonsdale, W.M. (1990). The use of fire to control
Mimosa pigra
. Proceedings Ninth Australian Weeds Conference. P. 144.
25. Miller, I.L., Nemestothy, L. and Picking, S.E. (1981). Mimosa pigra
in the Northern Territory. Technical Bulletin No. 51. Northern Territory
Department of Primary Production, Division of Agriculture and Stock.
26. Nguyen Hong Son, Pham Van Lam, Nguyen Van Cam, Dang Vu Thi
Thanh, Nguyen Van Dung, Le Duc Khanh, Forno, Preliminary study on control of
Giant sensitive Mimosa pigra L. in Vietnam, Papers presented at 3
rd
International
Symposium on the Management of Mimosa pigra, Darwin – Australia 23-25
September 2002. In Research and Management of Mimosa Pigra, p.110-116/ 173.
27. Nguyen Van Cam, Pham Van Lam, Hoang Cong Dien, Tran Thi Huong
and Nguyen Thuc Hien. 1997. Biological control of Giant sensitive plant Mimosa pigra

in Vietnam. The review report of ACIAR - Vietnam project number PN9319. 16p.
28. Parsons W.T and Cuthberson E. G., Noxious weeds of Australia,
Inkata Press, Melbourne, Sydney, 1992, p.443-447/ 692.

24
29. Quentin Payner & Grant J. Flanagan, Integrated Control of
Mimosa, Papers presented at 3
rd
International Symposium on the Management
of
Mimosa pigra,
Darwin – Australia 23-25 September 2002. In Research and
Management of Mimosa Pigra, p.158-163/ 173.
30. Robert, G.L. (1982). Ecolomic returns to investment in control of
Mimosa pigra in Thailand. IPPC Document No. 42-A-82. International Plant
Protection Center, Oregon State University, CorvallisSS
31. Robert, G.L. and Habeck, D.H. (1983). Mimosa pigra management.
Proceeding of an Internatinal Symposium, Chiang Mai. IPPC Document No. 48-A-83
International Plant Protection Center, Oregon State Universyity, Corvallis.
32. Steve Wingrave, Herbicides and their application for the control of
Mimosa in the Northern Territory, Australia, Papers presented at 3
rd
International
Symposium on the Management of Mimosa pigra, Darwin – Australia 23-25
September 2002. In Research and Management of Mimosa Pigra, p. 96-101/ 173.
33. Tran Triet, Le Cong Man, Nguyen Phi Nga, Impacts of Mimosa
pigra on Native Plants and Soil Insect Communities in Tram Chim National
Park, Vietnam, Papers presented 3
rd
International Symposium on the

Management of Mimosa pigra, Darwin – Australia 23-25 September 2002. In
Research and Management of Mimosa Pigra, p.22-27/ 173.
34. Tony Searle, Mimosa management a case study – Melaleuca Station,
Northern Terrilory, Australia, Papers presented at 3
rd
International Symposium on
the Management of
Mimosa pigra,
Darwin – Australia 23-25 September 2002. In
Research and Management of Mimosa Pigra, p. 154-157/ 173.
35. Wanichanantakul, P. and Chinawong, S. (1979). Some aspects of the
biology of Mimosa pigra in northen Thailand. Proceeding Seventh Conference of
the Asian Pacific Weed Science Society 1: 381-3.
36. Water House. D. F., Biological control of weed, Southeast Asian
Prospects, ACIAR, GOP. Box 1571, Canberra, Australia 2601, 1994. 302 p.

×