Viện khoa học và công nghệ việt nam
Viện tài nguyên và môi trờng biển
000
Đề tài cấp nhà nớc kc-09-19
Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi
trồng thuỷ sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa,
giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra
Chủ nhiệm đề tài: TS. Chu Văn Thuộc
Báo cáo chuyên đề
Bớc đầu nghiên cứu cơ chế gây hại
của tảo độc và tảo gây hại
Ngời thực hiện:
Chu Văn Thuộc, Nguyễn Thị Minh Huyền,
Phạm Thế Th, Trần Mạnh Hà
Phòng Sinh vật phù du và Vi sinh vật Biển
Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển
Tel. (031) 565 495 Fax. (031) 761 521
e-mail:
6132-19
02/10/2006
Hải Phòng, tháng 4/2006
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra
Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng
1
Mở đầu
Nh chúng ta đã biết, tảo độc, tảo gây hại có ảnh hởng rất lớn tới sinh thái
môi trờng các hệ sinh thái thủy vực nói chung và hệ sinh thái biển nói riêng. Hơn nữa
tảo độc hại còn gây tác hại trực tiếp hoặc gián tiếp tới đời sống của các loài thủy sinh
vật, thậm chí tới sức khỏe con ngời. Các kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng, một số
loài tảo có chứa độc tố có thể gây hại ngay cả khi chúng có mật độ thấp ở trong môi
trờng nớc, chỉ dao động trong khoảng vài trăm đến dới 1000 tế bào trên lít (TB/L)
chẳng hạn nh các loài Alexandrium, Pyrodinium Trong khi đó các loài tảo gây hại
(không có khả năng sinh độc tố) chỉ gây hại cho môi trờng và sinh vật khi bùng phát
mật độ (hiện tợng nở hoa tảo). Qua đó thấy rằng, khả năng gây hại của tảo độc hại
diễn ra rất phức tạp và thay đổi tùy theo từng loài, nhóm loài nhất định, biến đổi tùy
theo thời điểm cũng nh vùng địa lý khác nhau. Ví dụ tảo Alexandrium tamarense là
loài có khả năng sản sinh độc tố gây liệt cơ (PSP) ở các vùng nớc ôn đới, tuy nhiên
các chủng tảo này phát hiện ở vùng nhiệt đới đôi khi lại không sản sinh độc tố. Tơng
tự nh vậy, khả năng sinh độc tố của một số chủng tảo chi Pseudo-nitzschia (P.
pungens) cũng thay đổi tùy theo điều kiện môi trờng. Ngoài ra, ngay cả trong cũng
một chủng tảo có chứa độc tố thì hàm lợng độc tố của chúng cũng thay đổi theo chu
kỳ vòng đời. Do đó, cơ chế sinh độc tố, cơ chế gây hại của tảo độc hại là vấn đề hết
sức phức tạp không phải một sớm một chiều có thể nhận biết đợc ngay mà đòi hỏi
phải có những nghiên cứu rất hệ thống, tốn kém thời gian và công sức thì mới có thể
hiểu đợc bản chất thực sự của chúng. Trong quá trình thực hiện đề tài, thông qua các
điều tra, khảo sát ở ngoài tự nhiên cũng nh tiến hành một số nghiên cứu trong phòng
thí nghiệm, bớc đầu chúng tôi đa ra một số nhận định có liên quan đến điều kiện
bùng phát mật độ tảo cũng nh sự hiện diện của các độc tố tảo trong môi trờng nớc,
trong một số loài tảo và các đối tợng ĐVTMHMV có giá trị kinh tế hiện đang đ
ợc
nuôi ở vùng ven biển Việt Nam.
I. Một số điều kiện bùng phát mật độ tảo độc hại
Trong môi trờng tự nhiên, sự phát triển của tảo chịu ảnh hởng đồng thời của
nhiều yếu tố khác nhau, trong đó không chỉ có các yếu tố thủy hóa nh nhiệt độ, ánh
sáng, độ mặn, muối dinh dỡng, mà còn chịu ảnh hởng của nhiều các yếu tố hữu
sinh khác nh các mối quan hệ nội tại trong quần thể, mật độ tế bào ban đầu hay tình
trạng sinh lý của tế bào Ngợc lại, mỗi loài sinh vật nói chung và tảo nói riêng lại có
sinh thái riêng, do đó mỗi một loài có một điều kiện môi trờng tối u cho sự phát
triển của chúng. Từ đó khả năng bùng phát mật độ tảo thay đổi tùy theo từng loài.
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra
Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng
2
1.1. Một số dẫn liệu nghiên cứu về điều kiện bùng phát mật độ tảo độc hại ở
ngoài tự nhiên và trong phòng thí nghiệm ở Việt Nam
Các kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, sự phát triển của các loài tảo thí nghiệm
có mối tơng quan rất chặt và tơng đối chặt với nồng độ muối dinh dỡng có trong
môi trờng, khi nồng độ muối dinh dỡng trong môi trờng cao thì quần thể có sự
phát triển nhanh hơn và kích thớc quần thể cũng đạt lớn hơn. ở ngoài tự nhiên, đây
là sự tơng tác đa thông số rất phức tạp, quan hệ của các loài tảo trong quần xã tảo là
quan hệ cạnh tranh dinh dỡng, ánh sáng, không gian , khi một loài chiếm u thế về
số lợng sẽ lấn át các loài khác.
Đối với các loài tảo độc hại thuộc tảo silic và tảo giáp: Trên cơ sở các nghiên
cứu ở ngoài thực địa cũng nh trong phòng thí nghiệm, một số thông số môi trờng
chủ yếu sau đây đợc xem là một trong những điều kiện có thể gây bùng phát mật độ
của một số loài tảo độc hại Pseudo-nitzschia, Alexandrium, Dinophysis caudata,
Prorocentrum ở vùng ven biển Việt Nam, đợc thống kê trong các bảng 1, 2, 3, 4.
Bảng 1. Khoảng thích hợp của một số yếu tố môi trờng
với sự phát triển của tảo Pseudo-nitzschia
Nhiệt độ
(
o
C)
Độ mặn
()
Muối dinh dỡng
(àg/L)
Nguồn số liệu
(vùng nghiên cứu,
tài liệu)
Thích
nghi
Tối
thích
Thích
nghi
Tối
thích
Thích
nghi
Tối
thích
Đồ Sơn - Cát Bà 15-35 >20 10-33 25-28
Tiền Hải, Thái Bình 15-34 18-20 3-34 25-28
Lăng Cô
(Thừa Thiên Huế)
23-33,18 23 27,4-32 27,4
Đầm Lăng Cô (mật độ
đạt tới 1,96.10
5
TB/L)
23 27,4 NO
3
-
: 167,5
SiO
3
-
: 1145
Nha Trang >24 30-
34,15
32-34
Larsen và cs. (2004) 20-32,5 5-35
P. pungens nuôi
trong phòng thí
nghiệm của Viện TN
& MT Biển
20-30 25-30 10-25 20-25 Nồng độ thí
nghiệm
NO
3
-
: 70-380
PO
4
3-
: 2190-4680
SiO
3
2-
:8630-
NO
3
-
: 120
(r = 0,35)
PO
4
3-
: 2190
(r= 0,98)
SiO
3
-
: 9570
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra
Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng
3
12490
(r= 0,95)
P. pungens nuôi (N.
T. M. Huyền và cs.
2002)
21-30 21
Bảng 2. Khoảng thích hợp của một số yếu tố môi trờng với sự phát triển
của nhóm tảo Alexandrium (sản sinh độc tố PSP)
Nhiệt độ (
o
C) Độ mặn () Muối dinh dỡng (àg/L) Nguồn số liệu (vùng
nghiên cứu, tài liệu)
Thích
nghi
Tối
thích
Thích
nghi
Tối
thích
Thích
nghi
Tối
thích
Đồ Sơn Cát Bà 18-31 27-30 7-33,5 15-30
mật độ 10
3
TB/L 28,25 15 NO
3
-
: 178
PO
4
3-
: 33,4
SiO
3
-
: 1032
NH
4
+
: 284,7
Tiền Hải, Thái Bình 21-30 15-18 27-30
Nguyễn Văn Nguyên
và cs. (2003)
27-30 18-30 NO
4
-
: 1-50
PO
4
3-
: 1-50
SiO
3
-
: 50-
2000
Lăng Cô (Huế): 23-33,18 15,9-32
Ao nuôi tôm đầm
Lăng Cô (có mật độ
đạt 7,2.10
3
TB/L)
28,5 15,9 NO
3
-
: 150
PO
4
3-
: 10
SiO
3
-
: 952,5
NH
4
+
: 180
Trong đầm Lăng Cô
(mật độ đạt 4,6.
10
3
TB/L)
30,93 30,08 NO
3
-
: 80
PO
4
3-
: 15
SiO
3
-
: 952,5
NH
4
+
: 70
Nha Trang: 24-30 30-32
Trong ao nuôi tôm
(mật độ A. pseudo-
gonyaulax nở hoa
32,3 29,7 NO
3
-
: 272
PO
4
3-
: 128
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra
Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng
4
(đạt 2,36.10
5
TB/L)
SiO
3
-
: 80
NH
4
+
: 134
Larsen và cs. (2004) 20-30 30 4-34
+ A. affine nuôi
trong phòng thí
nghiệm Viện TN &
MT Biển
20-30 25 20-30 25
+ A. minutum nuôi
trong phòng thí
nghiệm Viện TN &
MT Biển
20-30 20 10-25 25
Nồng độTN:
NO
3
-
: 50-
1250
PO
4
3-
: 1270-
5220
NO
3
-
: 1250
(r= 0,96)
PO
4
3-
: 5220
(r= 0,94)
A. affine (Nguyễn
Ngọc Lâm, 2004)
24-27 20-35 30-35
A. tamarense nuôi
trong phòng TN
Viện CNMT
8-25 11-22
Bảng 3. Khoảng thích hợp của một số yếu tố môi trờng với sự phát triển của tảo
Dinophysis caudata (sản sinh độc tố DSP)
Nhiệt độ
(
o
C)
Độ mặn
()
Muối dinh dỡng
(àg/L)
Nguồn số liệu
Thích
nghi
Tối
thích
Thích
nghi
Tối
thích
Thích
nghi
Tối
thích
Đồ Sơn Cát Bà 16-31 20-30 24-33,5 26-30
Thái Bình 18-28 >20 19-28 23-24
Đầm Lăng Cô:
+ Trong ao nuôi tôm
(mật độ đạt 4500 TB/L)
28,5 15,9 NO
3
-
: 150
PO
4
3-
: 10
NH
4
-
: 180
SiO
3
-
: 760
+ Trong đầm Lăng Cô 23-
31,4
31,4
(948 TB)
22,15-32 32
Nha Trang: >26 32-34
Chu Văn Thuộc (2002) >21 30
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra
Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng
5
Nguyễn Ngọc Lâm
(2002)
>20 15-30
Larsen và cs. (2004) >20 5-35 15-20 và
25-35
Nguyễn Văn Nguyên
và cs. (2003)
22-33 >9
Santhanam và
Srinivasan (1996)
28-30,5
Bảng 4. Khoảng thích hợp của một số yếu tố môi trờng với sự phát triển
của tảo Prorocentrum spp
Nhiệt độ (
o
C) Độ mặn () Muối dinh dỡng (àg/L)
Nguồn số liệu
Thích
nghi
Tối
thích
Thích
nghi
Tối
thích
Thích
nghi
Tối
thích
Đồ Sơn - Cát Bà:
(P. minimum trong
ao nuôi tôm 4,5.10
3
TB/L)
34,85 16,5 NO
3
-
: 157,2
PO
4
3-
: 17,95
NH
4
-
: 357,5
SiO
3
-
: 448
Prorocentrum spp. 18-31 25-34
Tiền Hải, Thái Bình:
(Prorocentrum spp
ngoài biển, mật độ
4,3.10
3
TB/L)
26 25 NO
3
-
: 20
PO
4
3-
: 40
SiO
3
-
: 1497
Đầm Lăng Cô:
+ Trong ao nuôi tôm
(P.minimum mđộ đạt
tới 5,85.10
4
TB/L)
28,5 15,9 NO
3
-
: 150
PO
4
3-
: 10
NH
4
-
: 180
SiO
3
-
: 760
+ Trong ao nuôi tôm
(Prorocentrum spp
mật độ đạt 4,74.10
4
TB/L)
34 23,4 NO
3
-
: 230
PO
4
3-
: 20
NH
4
-
: 120
SiO
3
-
: 360
+ Trong đầm Lăng 23 27,4 NO
3
-
: 167,5
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra
Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng
6
Cô (P. minimum mật
độ đạt tới 7.10
4
TB/L)
PO
4
3-
: 10
NH
4
-
: 70
SiO
3
-
: 1145
Nha Trang >24 32-34
Chu Văn Thuộc và
cs., 2000 ( P. cf.
mexicanum nuôi
trong phòng TN)
27 20-30 21
P. cf. mexicanum
nuôi trong phòng TN
Viện TN & MT Biển
25 25 NO
3
-
: 40-1000
PO
4
3-
: 22-2390
NO
3
-
: 1000,
(r=0,76)
PO
4
3-
: 2390,
(r=0,96)
Các kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, có sự sai khác khá rõ ràng về phạm vi
phân bố cũng nh khả năng bùng phát tại các loại thủy vực nhất định của các nhóm
loài tảo nói trên. Các loài tảo Alexandrium, Prorocentrum minium có thể bùng phát số
lợng trong các thủy vực nớc tĩnh lẫn vùng ven biển, trong khi đó loài tảo giáp có
khả năng sống dị dỡng Dinophysis caudata và tảo Silic chi Pseudo-nitzschia lại
thờng phân bố và đạt mật độ cao tại các thủy vực cửa sông ven biển nơi nớc đợc
trao đổi thờng xuyên. Nhiệt độ, độ mặn và cờng độ ánh sáng có ảnh hởng rất lớn
đến sự phát triển của các loài tảo giáp và tảo silic.
Đối với các muối dinh dỡng, kết quả thí nghiệm cho thấy hầu hết các loài tảo
đều có tơng quan tuyến tính rất chặt với nồng độ các muối dinh dỡng PO
4
3-
, SiO
3
-2
(0,9 < r < 1) trừ NO
3
-
, đặc biệt muối Phốtphat có tơng quan tuyến tính chặt chẽ nhất,
hệ số tơng quan r đạt tới 0,98 trong điều kiện phòng thí nghiệm. Tuy nhiên, các
nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cũng cho thấy các loài tảo có nhu cầu dinh dỡng
khác nhau với từng muối cụ thể và các yếu tố môi trờng khác nhau, trong đó muối
silicat có ảnh hởng khá rõ ràng tới sự phát triển và bùng phát mật độ của các loài tảo
silic. Riêng các loài tảo giáp thì các muối nitrat và phốt phát lại có ảnh hởng đáng kể
tới sự phát triển quần thể của chúng. Hầu hết sự phát triển mật độ của các loài tảo thí
nghiệm đều có tơng quan tuyến tính rất chặt với nồng độ các muối dinh dỡng PO
4
-3
và NO
3
-
(0,9 < r < 1). Khi nồng độ muối dinh dỡng trong môi trờng cao thì quần thể
có sự phát triển nhanh hơn và kích thớc quần thể cũng đạt lớn hơn.
Đối với các nhóm tảo Lam: hai loài Oscillatoria lemmermannii, Trichodes-
mium erythraeum có khả năng sản sinh độc tố luôn chiếm u thế ở vùng ven biển Cần
Giờ, Bình Đại thuộc các tảo lam có biên độ nhiệt độ và độ mặn rộng nhng vẫn có
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra
Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng
7
những khoảng tối thích về độ mặn và nhiệt độ khác nhau, cụ thể nh O. lemmermannii
có xu hớng phát triển tốt trong điều kiện nhiệt độ cao, độ mặn trung bình (lợ mặn),
trong khi đó tảo T. erythraeum lại có xu thế thích nghi với nhiệt độ thấp hơn, nhng
đòi hỏi môi trờng có độ mặn cao hơn. Chính vì vậy loài T. erythraeum chỉ xuất hiện
vào tháng 2, tháng 4 ở các điểm ngoài bãi nghêu.
Các nghiên cứu còn cho thấy, mật độ của các nhóm tảo này quan hệ chặt chẽ
với muối nitrat, ammonia và phốtphat. Hàm lợng các muối này thờng cao vào cuối
mùa khô đầu mùa ma, thuận lợi cho sự phát triển mật độ của loài T. erythraeum. Còn
loài O. lemmermannii thờng đạt mật độ cao vào các tháng 7, 8, 9. Đặc biệt các loài
này thờng có mật độ cao trong các ao nuôi tôm do mức độ phú dỡng của các ao
nuôi từ nguồn thức ăn cho tôm d thừa, gặp nhiệt độ và độ mặn thích hợp sẽ gây nở
hoa.
Đối với loài tảo gây hại Skeletonema costatum: Các kết quả nghiên cứu tại
một số vùng nuôi trồng hải sản tập trung ven biển Việt Nam đã cho thấy, loài này
thờng có phổ thích nghi với nhiệt độ và độ mặn rất rộng từ 15-34
0
C và 3-33, nhng
phát triển tốt trong khoảng nhiệt độ 20-30
0
C và độ mặn dao động 25-28. Sự phát
triển của chúng có mối liên quan chặt chẽ với các muối dinh dỡng ammonia, nitrat
và silicat. Dễ bùng phát mật độ khi gặp các điều kiện tối thích trên.
Tóm lại
: Sự nở hoa của các loài vi tảo trong các thuỷ vực chịu ảnh hởng mạnh
mẽ của những điều kiện ngoại cảnh nh tính chất thuỷ lý-thuỷ hoá, các yếu tố dinh
dỡng, cũng nh cấu trúc vật lý của cột nớc, những điều kiện thời tiết nh nhiệt độ,
ánh sáng, thời gian chiếu sáng, sức gió, ma Những cơ chế bên trong tế bào của các
loài gây nở hoa đảm bảo cho khả năng phát triển chiếm u thế trong những điều kiện
stress trong môi trờng nh khả năng cố định nitơ, tích luỹ dinh dỡng nội bào (P;N)
v.v. Do đó, những hệ thống giám sát nhằm ngăn cản sự nở hoa của tảo và bảo vệ
nguồn lợi thuỷ hải sản cần phải xem xét và vận dụng các mối liên quan về tổng thể
của các yếu tố sinh học, vật lý và hoá học có lợi cho sự phát triển của những loài tảo
độc hại nhằm ngăn chặn các cơ chế này.
Các bảng trên đã thống kê các khoảng nhiệt độ, độ mặn thích nghi và tối thích
cho sự phát triển mật độ của một số loài tảo độc hại, cũng nh hàm lợng của một số
muối dinh dỡng cùng các điều kiện môi trờng thích hợp gây nên sự nở hoa tảo trong
các vùng nghiên cứu ven biển của Việt Nam bớc đầu đã ghi nhận đợc và một số
điều kiện tối thích cho sự phát triển của một số loài tảo độc hại trong điều kiện phòng
thí nghiệm.
Khi quan trắc các thông số môi trờng có các yếu tố trên cùng lúc rơi vào
khoảng tối thích cho sự phát triển của các nhóm loài này, cần tăng cờng giám sát mật
độ thờng xuyên để có thể kiểm soát và phát hiện kịp thời sự bùng phát mật độ của
chúng nhằm ngăn chặn nguy cơ bùng phát mật độ của các nhóm tảo độc hại cũng nh
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra
Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng
8
ngăn chặn các hiện tợng ngộ độc các độc tố tảo cho ngời sử dụng hải sản làm thực
phẩm.
1.2. Một số dẫn liệu nghiên cứu về cơ chế bùng phát tảo độc hại trên thế giới
1.2.1. Bùng phát chi tảo Pseudo-nitzschia
Theo một số kết quả nghiên cứu đã có, chu trình sống của các loài Pseudo-
nitzschia có liên quan đến cơ chế bùng phát mật độ không những cha đợc hiểu biết
mà còn cả những địa điểm nơi tiềm ẩn bùng phát (trầm tích, cột nớc) và các bào tử
nghỉ. Sự nở hoa của loài P. multiseries thờng xuất hiện trong mùa lạnh hơn (mùa thu
và mùa xuân), trong khi đó sự nở hoa của loài P. pungens, P. pseudodelicatissima và
P. australis thờng gặp trong suốt mùa ấm hơn. Không có hiện tợng lý sinh bất
thờng nào xảy ra hoặc yếu tố nhiệt độ đợc tìm thấy để thống kê sự hiện diện của
chúng tại các thời điểm đó trong năm. Vì vậy để có thể tìm hiểu đợc cơ chế cụ thể
gây bùng phát mật độ của chi tảo còn là một câu hỏi cho các vùng nớc.
1.2.2. Cơ chế bùng phát tảo Alexandrium
Theo các nghiên cứu của Andersen (1996), kết quả nuôi trong phòng thí
nghiệm cho thấy tốc độ phân chia của tảo Alexandrium điển hình khoảng từ 0,5 đến
0,7/ngày. Với sự phát triển mật độ này không phản ánh (không gây) sự bùng phát đơn
loài ngay cả mức độ sinh khối vừa phải và xảy ra cùng với các loài khác. Sự bùng phát
không xảy ra trớc đó nói riêng, mà dờng nh nó có liên hệ chặt chẽ với thời gian
bằng sự chuyển tiếp vòng đời. Giai đoạn bào tử đóng vai trò rất quan trọng trong động
lực gây bùng phát mật độ Alexandrium, cả hai khía cạnh khởi đầu và kết thúc của quá
trình bùng phát.
Các kết quả nghiên cứu cho thấy, số lợng tế bào tảo Alexandrium và bào xác
nghỉ (cyst) trong môi trờng ít,
khoảng 10 đến vài trăm tế bào/lít, mà sự nở hoa phải
có mật độ cao. Tốc độ phân chia tế bào phụ thuộc nhiều vào các điều kiện môi trờng
ảnh hởng lên sự vận động của các tế bào. Tuy nhiên, số lợng cyst đợc giải phóng
trong môi trờng khi gặp điều kiện thuận lợi lại diễn ra rất nhanh, có thể tạo nên sự
bùng phát mạnh các tế bào Alexandrium và gây nở hoa. Ví dụ, một số hiện tợng nở
hoa trong phạm vi nhỏ diễn ra ở một số vịnh và nở hoa xảy ra ở các vùng ven biển, sự
tơng tác giữa các yếu tố vật lý và sinh học là một trong những nguyên nhân giới hạn
số lợng (kích thớc), phát triển và phát tán của quẩn thể tảo. Ngoài ra, sự di chuyển
theo cột nớc thẳng đứng là những đặc điểm quan trọng đợc đề cập đến khi tảo xuất
hiện với mật độ cao. Kết thúc của sự nở hoa là các chuyển đổi chu kỳ sống, mặc dù
điều quan trọng liên quan đến quá trình tạo cyst là các yếu tố dinh dỡng và thay đổi
các yếu tố khác, nhng cha đợc nghiên cứu kỹ. Hơn thế nữa, cyst của các loài
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra
Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng
9
Alexandrium đã đợc nghiên cứu kỹ và đã chứng minh sự phục hồi rất rõ ràng cũng
nh khả năng tạo thành nhóm, phân bố trong các nơi sống khác nhau và các chế độ
thuỷ văn. Sẽ không có sự ngạc nhiên khi các vấn đề sinh địa đã đợc xem xét đáng kể
trong thời gian gần đây [Anderson và cs., 1994] và sự bùng phát PSP còn là một vấn
đề mang tính toàn cầu.
2. khả năng sản sinh, tích lũy độc tố tảo trong thực vật phù
du biển tự nhiên, trong tảo độc và trong động vật thân
mềm hai mảnh vỏ ở vùng nghiên cứu
2.1. Các độc tố tảo tích lũy trong thực vật phù du tại ven biển Đồ Sơn, Cát Bà
Trên cơ sở phân tích hàm lợng các độc tố tảo ASP, PSP các mẫu thực vật phù
du đợc thu thập một tháng/2 lần từ môi trờng tự nhiên tại khu vực Đồ Sơn và Cát Bà
trong các năm 2004, 2005 chúng tôi rút ra một số nhận xét nh sau:
Về độc tố ASP, có thể khẳng định trong mẫu tảo biển tự nhiên ở khu vực Đồ
Sơn và Cát Bà gồm các loài Pseudo-nitzschia có khả năng sản sinh độc tố ASP, tuy
nhiên hàm lợng độc tố này rất khác nhau phụ thuộc vào loài có mặt và điều kiện môi
trờng sống của chúng.
Biến động hàm lợng độc tố theo thời gian quan trắc giữa hai vùng khác nhau,
trong đó đỉnh hàm lợng độc tố ASP tại Đồ Sơn đợc hình thành vào đợt I tháng
10/2004, còn tại Cát Bà lại hình thành đỉnh cao sớm hơn, xuất hiện vào đợt II của
tháng 8/2004, sau đó giảm dần và kéo dài đến hết tháng 9/2004. Hàm lợng độc tố
ASP cao nhất tại từng khu vực cũng biến động khác nhau, cụ thể tại Đồ Sơn là 12,37
ng/mL mẫu, cao xấp xỉ gấp 3 lần so với Cát Bà (chỉ đạt 4,28 ng/mL mẫu), các tháng
còn lại hàm lợng độc tố rất thấp.
Tuy hàm lợng độc tố ASP trong tảo tự nhiên rất thấp, nhng đây là những
bằng chứng đầu tiên xác nhận nguyên nhân tích luỹ độc tố trong ĐVTMHMV là từ
tảo silic Pseudo-nitzschia thông qua chuỗi thức ăn. Cho dù kết quả nghiên cứu hàm
lợng độc tố ASP trong mẫu tảo tự nhiên tại vùng nghiên cứu lại không cho thấy mối
tơng quan thuận và chặt chẽ với đỉnh mật độ của các tảo thuộc chi này.
Về độc tố PSP, nhìn chung hàm lợng độc tố này trong tảo tự nhiên tại 2 khu
vực Đồ Sơn và Cát Bà rất thấp. ở cả hai khu vực biến động hàm lợng độc tố diễn ra
không mạnh trong suốt thời gian khảo sát, dao động vài chục pg/mL mẫu, trừ một vài
đỉnh độc tố đợc hình thành nhng cũng rất thấp. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy
rằng, hàm lợng độc tố PSP trong tảo tự nhiên khu vực Đồ Sơn thấp và ổn định hơn
khu vực Cát Bà. Đỉnh hàm lợng độc tố cao nhất (184,92 pg/mL mẫu) xuất hiện trong
đợt I tháng 9/2004 tại Cát Bà.
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra
Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng
10
Kết quả nghiên cứu ở cả hai khu vực trên còn cho thấy mối tơng quan không
rõ ràng giữa hàm lợng độc tố PSP và mật độ tảo Alexandrium, những loài có khả
năng sản sinh ra độc tố này. Tần xuất bắt gặp các loài Alexandrium tại Cát Bà cao hơn
Đồ Sơn nhng mật độ các loài này tại Đồ Sơn lại cao hơn nhng không đáng kể.
Kết quả nghiên cứu trong các năm từ 2002 đến 2004 cũng đã chỉ ra rằng,
không có mối tơng quan chặt chẽ giữa hàm lợng độc tố PSP và mật độ tảo Alexan-
drium. Hàm lợng độc tố PSP đạt giá trị cao vào giữa tháng 8 và cuối tháng 11/2002
tại vùng biển Cát Bà, thời điểm này cũng gần trùng với thời điểm hình thành đỉnh cao
độc tố vào đầu tháng 9 (tại Cát Bà) và đầu tháng 12 (tại Đồ Sơn) trong các năm 2004-
2005.
Tuy vậy, sự hiện diện thờng xuyên của các loài tảo tảo Alexandrium tại vùng
nghiên cứu đợc xem nh là những tác nhân chính sản sinh độc tố PSP trong nớc
biển và tích luỹ trong ĐVTMHMV. Tuy nhiên, cần có những nghiên cứu tiếp theo để
khẳng định nguyên nhân sản sinh độc tố của tảo Alexandrium và gây tích luỹ độc tố
trong các động vật này.
2.2. Khả năng sản sinh độc tố của một số loài tảo độc hại ở vùng nghiên cứu
Từ những kết quả phân tích, thử nghiệm độc tố trong các loài tảo phân lập đợc
ở vùng nghiên cứu, có thể rút ra một số nhận xét nh sau:
Cha phát hiện đợc độc tính trong tế bào của các loài Pseudo-nitzschia đã
phân lập và nuôi cấy trong năm 2004-2005. Loài P. punges có cả chủng độc và không
độc phân bố ở khu vực phía Bắc Việt Nam, nhng hàm lợng của độc này rất thấp dao
động từ 0,38 đến 0,53pg/tế bào.
Tảo Alexandrium minutum phân bố trong đầm nuôi tôm khu vực Đồ Sơn (Hải
Phòng) có khả năng sản sinh độc tố, với hàm lợng độc tố biến đổi từ 3,0 đến 13,8
fmol PST/tế bào. Thành phần độc tố bao gồm các loại: GTX4, GTX1, neoSTX,
dcSTX, GTX3,2 và STX. Trong đó đã phát hiện một loại độc tố mới (PST-paralytic
shellfish toxin) thuộc nhóm độc tố gonyautoxin trong chủng tảo A. minutum của Việt
Nam, đ
ợc tách nằm giữa GTX4 và GTX1. Độc tố này đợc phân tích sâu hơn trên
quang phổ khối LC/MS.
Cha phát hiện đợc độc tố trong loài A. tamarense phân lập từ vùng ven biển
Cát Bà.
Loài A. affine theo nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Lâm (2004) là loài có khả
năng sản sinh độc tố, nhng hàm lợng thấp (đạt 2,28 fmol/tbào), cha đợc kiểm tra
lại trong các nghiên cứu này.
Tuy nhiên, trên đây mới chỉ những nhận định bớc đầu, để có những kết luận
xác đáng cần thiết phải có các thí nghiệm kiểm chứng, lặp lại nhiều lần nhất là đối với
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra
Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng
11
tảo Pseudo-nitzschia khi mà khả năng sinh độc tố của chúng phụ thuộc vào các yếu tố
môi trờng cũng nh giai đoạn phát triển quần thể.
2.3. Khả năng tích lũy các độc tố tảo trong ĐVTMHMV tại một số vùng nuôi hải
sản tập trung ven biển Việt Nam
2.3.1. Độc tố ASP
Hàm lợng độc tố ASP tích luỹ trong các mô nội tạng của các đối tợng
ĐVTMHMV nuôi tại 7 vùng nghiên cứu thờng dao động không mạnh theo thời gian,
ngoại trừ khu vực Cát Bà có hàm lợng độc tố ASP cao nhất (đạt 78,38ng/g xuất hiện
vào đợt II tháng 8/2004). Hàm lợng trung bình tháng của độc tố ASP cao nhất gặo ở
loài Vẹm Perna viridis tại đầm Nha Phu (Nha Trang), tiếp đến là Cần Giờ và Bến Tre.
Hàm lợng độc tố thấp nhất gặp trong ngao tại Đồ Sơn (Hải Phòng) chỉ dao động từ
0,005 đến xấp xỉ 2 ng/g.
Có mối tơng quan giữa hàm lợng độc tố ASP và mật độ tảo Pseudo-nitzschia
tại các vùng nghiên cứu, tuy nhiên mối tơng quan này biểu hiện khác nhau ở từng
khu vực nghiên cứu. Sự tích luỹ độc tố phụ thuộc vào khả năng tích luỹ độc tố và sự tự
đào thải khác nhau của các đối tợng ĐVTMHMV, vào mật độ tảo Pseudo-nitzschia
có mặt trong các khoảng thời gian trớc và thời điểm nghiên cứu cũng nh khả năng
sản sinh độc tố của loài tảo có mặt trong từng thời điểm nhất định. Ngoài ra, sự tích
luỹ độc tố trong sinh vật còn phụ thuộc vào các yếu tố môi trờng của từng khu vực.
Đây là vấn đề rất phức tạp do vậy không thể nội suy từ đối tợng này sang đối tợng
khác hoặc từ vùng này sang vùng khác.
Kết quả so sánh về khả năng tích luỹ độc tố ASP trong các loài ngao (nghêu)
và vẹm cho thấy, hàm lợng độc tố trong mô của vẹm thờng cao hơn ngao (nghêu).
Tuy nhiên đây mới chỉ là nhận xét ban đầu, cần phải có các nghiên cứu tiếp theo để
khẳng định vấn đề này.
Hàm lợng độc tố ASP đã phát hiện đợc trong mô của ngao (nghêu) và vẹm
nuôi tại 7 vùng nghiên cứu còn thấp hơn giới hạn cho phép nhiều lần và vẫn nằm trong
giới hạn an toàn cho ngời sử dụng.
2.3.2. Độc tố PSP
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu về hàm l
ợng độc tố PSP trong ĐVTMHMV
tại 7 vùng nuôi trồng hải sản tập trung ven biển thấy rằng, hàm lợng độc tố tại 3 vùng
nuôi thuộc Nam Trung Bộ và Nam Bộ (trung bình từ 159,47 đến 180,43 ng/g) cao hơn
nhiều lần hàm lợng độc tố ở khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ (trung bình từ 0,86
đến 8,2 ng/g) .
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra
Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng
12
Các kết quả nghiên cứu cho thấy, có mối tơng quan giữa hàm lợng độc tố
PSP tích luỹ trong ĐVTMHMV và sự có mặt của các loài tảo Alexandrium. Tuy
nhiên, mối tơng quan này không rõ ràng, nguyên nhân có thể là do mật độ của tảo
này thờng rất thấp, tần xuất bắt gặp ít, do đó không phản ánh mối tơng quan này.
Mặc dù vậy, các kết quả nghiên cứu khảo sát hàng tháng, liên tục trong vòng một năm
trải dọc ven biển bớc đầu đã giúp ta có đợc hiểu biết khái quát về vấn đề này.
Nhìn chung, các loài ngao và vẹm xanh nuôi tại 7 vùng nuôi tập trung ven biển
Việt Nam đều có tích luỹ độc tố PSP nhng mới ở hàm lợng rất thấp (dao động từ vài
ng/g đến vài trăm ng/g), mức hàm lợng này nằm dới mức an toàn cho phép rất nhiều
lần. Tuy nhiên hàm lợng độc tố này sẽ biến đổi và phụ thuộc vào sự có mặt của các
loài tảo và các sinh vật có khả năng sinh độc tố PSP, vào các yếu tố môi trờng tại
từng thời điểm và từng vùng nghiên cứu cũng nh các đối tợng ĐVTMHMV khác
nhau.
2.3.3. Độc tố DSP
Các kết quả nghiên cứu về hàm lợng độc tố DSP trong ĐVTMHMV tại 7
vùng nuôi trồng hải sản tập trung ven biển Việt Nam cho thấy, hàm lợng độc tố DSP
các vùng nuôi thuộc khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ dao động trung bình từ 0,004
đến 0,09 MU/g, 3 vùng còn lại thuộc Nam Trung Bộ và Nam Bộ có hàm lợng độc tố
DSP rất thấp.
So với mức an toàn cho phép sử dụng hải sản làm thực phẩm đối với độc tố
DSP thì hầu hết các đối tợng ĐVTMHMV nuôi tại các vùng nghiên cứu đều có hàm
lợng độc tố thấp hơn mức giới hạn cho phép nhiều lần, trừ vẹm xanh ở Cát Bà vào
các thời điểm cuối tháng 1 và đầu tháng 2/2005 đã phát hiện thấy có hàm lợng độc tố
này vợt quá mức cho phép sử dụng 2 lần. Tuy nhiên, cha có ghi nhận nào về trờng
hợp ngộ độc xảy ra ở Cát Bà vào thời điểm trên.
Các kết quả nghiên cứu thu đợc phần nào đã phản ánh sự hiện diện thờng
xuyên và có mật độ khá cao của tảo Dinophysis caudata có thể là tác nhân gây tích
lũy độc tố DSP trong ĐVTMHMV ở các vùng nghiên cứu.
2.4. Khả năng tự đào thải các độc tố tảo trong ĐVTMHMV và ảnh h
ởng của
một số phơng pháp xử lý tới hàm lợng độc tố
2.4.1. Đối với độc tố PSP
Vẹm và điệp là các loài có thể có độc tính cao, độc tố có thể đợc tích luỹ trong
cơ thể chúng vài tháng và có thể lâu hơn. Trong suốt quá trình tự đào thải của trai và
điệp, ngời ta đã quan sát thấy có 2 giai đoạn xảy ra, đó là giai đoạn giảm nhanh độc
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra
Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng
13
tính, tiếp theo là giai đoạn giảm từ từ duy trì độc tố trên mức cho phép là 80àg/100g
thịt. Các độc tố GTX-3 và GTX-8/epi GTX-8 là các độc tố u thế trong giai đoạn đầu
của quá trình đào thải, và GTX-2 là độc tố chiếm u thế trong suốt pha tự đào thải
chậm. Tại các mức thấp của độc tính, vẹm và hầu có thể tự đào thải trong vòng hai
tuần, trong đó độc tính có thể giảm 60% trong vòng 24 giờ [Andersen, 1996].
Quá trình đun nóng vẹm và sò ở nhiệt độ cao trên 100
o
C làm giảm độc tính,
nếu sản phẩm không có tính chất axit. Trong quy trình đóng hộp, hấp nhiệt độ cao
trong điều kiện kiềm, tiếp theo điều kiện axit trong hộp có thể làm giảm độc tính 80-
90%. Một trong những lý do giảm độc tính là ở chỗ vẹm thờng sản sinh khối lợng
lớn dịch ép độc tính cao trong suốt quá trình hấp chín, chỉ một phần dịch chiết này
đợc làm đầy trong hộp. Vẹm đợc hấp nóng trong vòng 10 phút có thể làm giảm
thành phần độc tính tới 90% [Andersen, 1996].
Quá trình hấp, luộc hoặc rán ngay có thể làm giảm độc tính khoảng 30%. Nếu
dịch chiết thải hồi (không lấy), độc tính có thể làm giảm nhiều hơn. Quá trình rán
dờng nh có hiệu quả hơn trong việc phân huỷ các độc tố thậm chí cả khi dịch chiết
không bị bỏ, bởi vì nhiệt độ trong quá trình rán thờng cao hơn hấp và luộc.
2.4.2. Đối với độc tố DSP
Sự tự đào thải của vẹm với mức độ vừa phải đối với độc tính cao, trong lúc
không có mặt của chi Dinophysis xuất hiện trong vòng 14 ngày tại nhiệt độ nớc 13-
14
o
C và trong vòng một tháng tại nhiệt độ nớc dới 9
o
C. Sự tăng nhiệt độ nớc, cũng
nh vẹm để đói trong các thí nghiệm ở vùng biển tây Thụy Điển cho thấy ở điều kiện
này không đủ để loại trừ độc tính trong vòng vài tháng [Andersen, 1996].
Vẹm đợc đun sôi trong 163 phút sẽ làm giảm nồng độ okadaic acid khoảng
50%.
2.4.3. Đối với độc tố ASP
ĐVTMHMV có độc có thể tự đào thải nếu ngâm nó vào nớc sạch vài ngày.
Các cách luộc hoặc hấp, thậm chí trong thời gian dài không thể loại bỏ độc tính này
trong vẹm.
III. Tác hại của tảo độc hại tới môi trờng và các loài thủy
sinh vật
3.1. Tác hại tới các loài cá sống trong thuỷ vực
Khi một loài tảo độc hại bùng phát mật độ gây tác động đến quần xã sinh sinh
vật phù du do chúng chiếm u thế về mật độ cao, làm giảm hàm lợng chất dinh
dỡng trong môi trờng nớc, dẫn đến hạn chế sự phát triển của các loài sinh vật phù
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra
Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng
14
du khác và từ đó làm mất cân bằng của quần xã thực vật phù du. Sự tăng cao về mật
độ tảo sẽ làm giảm hàm lợng ôxy hoà tan trong thuỷ vực vào ban đêm do quá trình
hô hấp của tảo. Mặt khác, tảo phát triển ở mật độ cao sau khi chết đi, bị thối rữa, phân
hủy cũng tiêu hao đáng kể một lợng ôxy trong môi trờng nớc. Đó là những nguyên
nhân chính làm cho thủy vực bị ngạt do thiếu ôxy. Đặc biệt sự bùng phát của các loài
tảo dạng chuỗi có thể làm tắc nghẽn mang cá làm cho cá không thể hô hấp và dẫn đến
cá chết. Hiệu ứng này làm thiệt hại nặng nề cho ngành nuôi trồng thuỷ sản nói riêng
và ảnh hởng tới môi trờng nói chung. Ví dụ, vào những năm 1970 tại vùng biển
Seto Inland có khoảng 370000 cá bơn vàng nuôi trồng và 57000 tôm bị chết với thiệt
hại tới 620 triệu yên. Hai năm sau thì sự nở hoa của tảo bao phủ cả vùng Harimanada
tại Nhật Bản gây thiệt hại tới 7,1 tỷ yên. Sau đó một số lần liên tiếp xảy ra tại vùng
biển này và tổng số thiệt hại lên tới 20 tỉ yên trong vòng 15 năm (từ 1977 đến 1987)
[Okaichi, 2003].
Ngời ta cho rằng, nguyên nhân làm cho cá nuôi chết hàng loạt là do các loài
tảo Chattonella antiqua và Gymnodinium mikimotoi. ở vùng biển Seto Inland, động
vật hai mảnh vỏ chết hàng loạt do loài tảo Heterocapsa circularisquama. Sau đó một
nghiên cứu về hoá học đã đa ra nguyên nhân về sự chết cá và động vật hai mảnh vỏ
hàng loạt trên đây.
Bảng 5. Các ảnh hởng làm chết cá của các axit heptadeca tetraenoic
và octadeca tetraenoic [Okaichi, 2003]
Số lợng
cá chết
Loại
axit
Liều lợng
(ppm)
Chết Sống sót
Tỷ lệ chết
Thời gian chết
trung bình (h)
C
16:4
6.3 3 2 0,6 1,2
3.2 2 3 0,4 1,5
1.3 2 3 0,4 2,6
0.6 4 1 0,8 1,9
C
18:4
6.3 5 0 1,0 0,5
3.2 3 2 0,6 1,1
1.3 2 3 0,4 1,0
0.6 2 3 0,4 1,8
Okaichi và cs. (1989) cho rằng, cá chết hàng loạt là do tảo Chattonella antiqua.
Mật độ tế bào gây chết nhỏ nhất của Chattonella antiqua đến loài cá bơn vàng đợc
thu từ thuỷ triều đỏ vào mùa hè năm 1978 là 110 tb/ml tại nhiệt độ là 29
0
C. Mật độ tế
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra
Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng
15
bào tăng lên khi nhiệt độ nớc giảm xuống (khoảng 25
0
C) là 500 TB/ml. Mật độ tế
bào tảo có thể cao hơn trong các mảng váng mầu nâu, có khoảng 1000 TB/ml.
Các cơ chất đầu tiên gây chết cá đã đợc phát hiện nh các loại axit béo không
no cao. Thành phần các loại axit đã đợc biết là chứa các chất heptadeca-w-3,6,9,12
tetraenoic axit (8,6% tổng số axit béo tự do) và octadeca-w-3.6.9.12 tetranoic axit.
Độc tính của các loại axit tetraenoic đã phân lập từ mẫu nuôi C. antiqua đợc trình
bày trong bảng 5.
Hoạt tính của các loại axit béo không no là cao hơn các loại axit béo khác, nó
có cùng số lợng nguyên tử cacbon với các liên kết đôi.
Chết do DO không bão hoà chết
Yếu quanh giá trị DO bão hoà
Sống sót khi DO rất bão hoà phục hồi
Hình 1. Cơ chế gây chết cá hàng loạt do tảo Chattonella antiqua
Các loại axit béo không no sẽ phá huỷ các tấm mang gốc của cá bơn vàng và
lợc của bào ng. Sự hấp thụ ôxy qua mang và lợc của bào ng giảm, sau đó cá và
bào ng chết do ngẹt thở. Các mang cá bị phá huỷ bởi thuỷ triều đỏ C. antiqua với
mầu biến thành xanh toluidine. Thậm chí các mang cá bị thơng đáng kể, nhng đôi
khi cá vẫn sống sót đợc trong môi trờng nớc thuỷ triều đỏ với ôxy hoà tan rất bão
Tảo Chattonella
antiqua
110 tb/ml (29
0
C)
500 tb/ml (25
0
C)
man
g
cá
Sự
p
há hu
ỷ
các
tế bào man
g
cá
Axit béo tự do
Lợn
g
axit lactic
Giảm sự sử
dụng ôxy
Bài tiết các chất nhầ
y
khôn
g
bình thờn
g
Mất sự ảnh
hởn
g
(p
H 6,7
)
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra
Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng
16
hoà. Ngời ta đã chỉ ra rằng hoạt động của tấm mang thứ hai của cá bơn vàng hoàn
toàn bị biến mất do tiếp xúc với tảo C. marina và chú ý rằng nguyên nhân này là do
ảnh hởng tới lý sinh. Hemoglobin của cá bơn vàng có ảnh hởng lớn trong khoảng
pH từ 6,7 đến 7,4 nhng phần lớn thiếu sự tơng quan dới pH 6,7. Lợng axit lactic
trong máu của cá bơn vàng giống với loài tảo gây thuỷ triều đỏ Chatanella marina
[Okaichi, 2003]. Dựa trên các kết quả đó thì cơ chế gây chết cá bởi tảo Chatonella spp
đợc thể hiện trên hình 1.
Ngoài ra loài tảo Gymnodinium mikimotoi cũng làm chết cá bơn vàng và các
loại động vật đáy khác ở các nồng độ ôxy thấp. Cá chết hàng loạt bởi G. mikimotoi
dờng nh cũng tơng tự nh cơ chế của tảo Chattonella spp.
Sự sản sinh các anion peoxit bởi tảo Chattonella antique đã đợc ghi nhận và
cho rằng có liên quan mật thiết đến sự phá huỷ lớp màng nhầy của cá và tấn công bởi
thuỷ triều đỏ. Ngoài ra, sự sản sinh triệt để ôxy đã đợc xem là một nguyên nhân cơ
bản gây bệnh trong độc tính của tảo gây thuỷ triều đỏ Chattonella marina. Điều này
có thể là sự xuất hiện hoạt động triệt để của ôxy từ các loại axit béo không no cao
trong các loài tảo Chattonella spp.
3.2. Tác hại tới các loài động vật thuỷ sinh
Tảo độc hại không chỉ tác động tới các loài cá mà nó còn ảnh hởng tới rất
nhiều động vật khác sống trong thuỷ vực nh ĐVTMHMV, thú biển, chim biển
thông qua sự tác động trực tiếp hay gián tiếp. Dới đây là một số ví dụ.
Tác hại đến ĐVTMHMV trong ngành nuôi trồng thuỷ sản: Cho đến năm 2000
đã có 47 trờng hợp tảo Heterocapsa circularisquama nở hoa (>10
5
TB/L) đợc ghi
nhận tại 29 khu vực khác nhau ở phía tây Nhật Bản, gây thiệt hại nặng nề về kinh tế
do làm chết hàng loạt ĐVTMHMV có giá trị kinh tế cao nh: trai ngọc Rutitapes
philippinarum, hầu Crassostrea gigas, vẹm xanh Mytilus edulis nhng không có
trờng hợp nào làm chết cá và ảnh hởng tới sức khoẻ cộng đồng do sử dụng
ĐVTMHMV hay do tiêu thụ hải sản khác mà có liên quan tới sự nở hoa của loài tảo
Heterocapsa circularisquama [Okaichi, 2003].
Phần lớn các loài hầu bị chết sau một vài ngày sống trong mật độ tế bào cao 5-
10.10
6
TB/L mặc dù hàm lợng ôxy hoà tan trong nớc không thấp hơn mức tới hạn.
Cụ thể các loài hầu chết là do hiện tợng co vỏ, mất các sợi glycogen trắng nên bị tấn
công vào vỏ, và sự mất mầu của ruột. Đấy là các triệu trứng của sự ảnh hởng độc của
loài tảo Heterocapsa circularisquama lên lý sinh của trai, hầu.
ảnh hởng của loài Heterocapsa circularisquama tới các loài động vật khác
nh động vật hai mảnh vỏ, gastropoda, sứa đã đã đợc ghi nhận nhng không ảnh
hởng tới động vật có xơng sống, động vật giáp xác, và nhím biển.
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra
Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng
17
Cơ sở độc tính của loài Heterocapsa circularisquama lên động vật hai mảnh vỏ
là gián tiếp thông qua một chất mầu hoá học. Các đầu của các phức hợp protein nằm
trên bề mặt của tế bào tảo Heterocapsa circularisquama có thể tạo ra một ảnh hởng
có hại lên ĐVTMHMV.
Các loài chim biển thờng kiếm ăn ở các vùng cửa sông và các vùng biển cũng
bị ảnh hởng mạnh bởi hiện tợng thuỷ triều đỏ. Ví dụ nh năm 1991 có hơn 100 con
bồ nông và chim cốc đã bị chết và bị bệnh thần kinh tại vịnh Monterey, California
(Hoa Kỳ). Nguyên nhân do sự nở hoa của tảo silic Pseudo-nitzschia australis, và loài
tảo này sinh ra độc tố axit domoic và độc tố đợc tích tụ trong cơ thể loài cá Trồng,
khi chim biển, thú biển ăn các loài cá này sẽ bị tác động
Các kết quả nuôi thử nghiệm sò với tảo Alexandrium cf. tamarense trong phòng
thí nghiệm cho thấy, trong môi trờng nuôi có tảo hàm lợng ôxy hòa tan bị suy giảm
mạnh. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho sò nuôi trong môi trờng nuôi
này bị chết nhanh hơn trong môi trờng nuôi không tảo [Chu Văn Thuộc, 2002].
Trong các năm 2004 2005, đề tài đã tiến hành thử nghiệm tảo Prorocentrum
cf. rhathymum với Artemia cho thấy, Artemia có ăn tảo, thậm chí ăn rất nhiều, nhìn
thấy trong ruột của Artemia chứa đầy tế bào tảo hầu nh còn nguyên vẹn và không
thấy Artemia bị ngộ độc. Với kết quả này cha thể đánh giá đợc rằng tảo không chứa
độc tố, cần có những thí nghiệm khác để chứng minh.
Kết quả thí nghiệm ở cả dịch chiết với axit axetic và metanol trên loài tảo
Prorocentrum sp và Pseudo-nitzschia sp đều không thấy tỉ lệ chết của Artemia tăng
theo tỉ lệ của dịch chiết tảo. Nhìn chung chỉ dới 20% số cá thể bị chết. Theo dõi ở
các thời điểm khác nhau, tỉ lệ này cũng không khác nhau bao nhiêu. Do vậy không thể
lập đợc đờng hồi qui đủ tin cậy cho phép xác định giá trị LD-50.
Nh vậy có thể thấy rằng các mẫu tảo trong thí nghiệm này đều cha thể hiện
độc tính với Artemia salina.
Hơn nữa, khi phân tích dịch chiết của hai loài tảo trên bằng HPLC và ELISA
thì kết quả thu đợc cho thấy, cả hai loài tảo trên đều không chứa độc tố, do đó thí
nghiệm với Artemia âm tính đã đợc làm sáng tỏ. Để tiếp tục nghiên cứu vấn đề này
thì chúng ta cần phải tiến hành thí nghiệm trên một số loài tảo khác.
Đồng thời đề tài cũng đã tiến hành thí nghiệm ảnh hởng của tảo độc
Alexandrium minutum tới cá rô phi tại 4 mật độ tảo (10
4
, 10
5
, 10
6
và 10
7
TB/L) và một
lô đối chứng không có tảo. Sau 25 giờ thí nghiệm với 6 lần đo các thông số môi
trờng và đếm số lợng cá chết kết quả cho thấy rằng:
- Thông số pH trong các lô thí nghiệm gần nh không có sự thay đổi đáng kể.
Có thể do thời gian thí nghiệm ngắn nên pH môi trờng cha bị ảnh hởng.
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra
Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng
18
- Hàm lợng DO giảm rất nhanh trong lô đối chứng và các lô có mật độ tảo là
10
4
; 10
5
; 10
6
sau 1 giờ thí nghiệm đã đạt đến giá trị bằng 0, riêng lô có mật độ tảo là
10
7
thì sau 1 giờ DO từ 6,4 giảm xuống còn 3,1 và sau 5 giờ giá trị DO bằng 0. Điều
này có thể do mật độ cá thí nghiệm quá cao trong một thể tích môi trờng nhỏ nên
không thấy rõ sự biến động của giá trị DO tại các mật độ tảo khác nhau và cũng nh
trong điều kiện chiếu sáng và không chiếu sáng.
- Lợng cá chết và thời gian chết tỉ lệ thuận với mật độ tảo có trong môi
trờng. Điều này gợi ý rằng có thể mật độ tảo cao đã làm nghẽn mang khi cá hô hấp
và dẫn đến số cá chết nhiều hơn hoặc cũng có thể cá ở môi trờng có mật độ tảo độc
cao sẽ chịu độc tính cao hơn.
Nhận xét: do điều kiện thực hiện đề tài và thời kỳ phát triển của đối tợng thí
nghiệm không thuận lợi nên đây chỉ là thí nghiệm bớc đầu về hiệu ứng tác hại của
tảo độc khi phát triển mật độ cao lên sinh vật khác sống trong cùng thuỷ vực. Riêng về
và các cơ chế gây hại vẫn cha đợc xem xét kỹ, cần phải có các nghiên cứu tiếp theo
trong thời gian tới.
3.3. Tác hại của tảo độc hại tới con ngời
Hiện nay, tại nhiều quốc gia trên thế giới tảo độc hại đã gây ảnh hởng tới
ngành nuôi trồng thuỷ sản, ngành du lịch, làm ô nhiễm ở các thuỷ vực và từ đó gây
thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế. Hơn nữa sự nở hoa của tảo độc hại còn ảnh hởng
tới sức khoẻ thậm trí gây nguy hiểm đến tính mạng con ngời do bị ngộ độc khi ăn
phải thức ăn đã bị nhiễm độc tố tảo.
Con ngời là sinh vật tiêu thụ ở mắt xích cao nhất của lới thức ăn, việc tiêu
thụ các loại động vật hai mảnh vỏ, một số loài cá rạn san hô là con đờng chính để
độc tố tảo có thể đạt tới bậc thang cao nhất của chuỗi thức ăn và gây ảnh hởng tới
con ngời nh các bệnh mất trí nhớ, gây liệt cơ hay gây tiêu chảy Theo thống kê thì
hàng năm có khoảng 2000 trờng hợp bị ngộ độc do ăn phải thức ăn đã bị nhiễm độc
tố tảo và trong đó có khoảng 15% số trờng hợp bị chết [Hallegraeff và cs., 2004].
Ngoài ra con ngời có thể bị ảnh hởng sức khỏe khi tiếp xúc trực tiếp với một
số loài tảo độc hại.
3.3.1. Hiệu ứng sinh học của các độc tố tảo
Việc sử dụng các hải sản đã bị nhiễm độc tố tảo có thể gây ra hàng loạt các
triệu chứng bệnh lý về hệ thần kinh ở ngời. Các bệnh lý và các triệu chứng lâm sàng
quan trọng đ
ợc tóm tắt trong các bảng 6, 7. Hiện nay, không có thuốc giải đặc hiệu
cho các hiện tợng ngộ độc từ độc tố tảo, nhng việc cung cấp các thiết bị hô hấp
nhân tạo có thể cứu sống nhiều nạn nhân trong trờng hợp ngộ độc PSP hay việc dùng
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra
Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng
19
mannitol cũng làm giảm nhẹ các triệu chứng trong trờng hợp ngộ độc CFP
[Hallegraeff và cs., 2004]. Hiệu ứng chủ yếu của các độc tố tảo nh sau:
Độc tố PSP gây tắc nghẽn kênh Na
+
của tế bào thần kinh và cơ, do đó chúng
cản trở sự truyền điện thế tác động cần thiết cho quá trình dẫn xung thần kinh và sự co
cơ, đặc biệt ảnh hởng đến hệ thần kinh ngoại biên.
Độc tố ASP là chất cạnh tranh mạnh của kainite, chúng bịt kín các điểm tiếp
nhận glutamate của não bộ. Sự hoạt hoá trực tiếp của các điểm tiếp nhận kainate
glutamate gây ra sự tăng nồng độ Na
+
trong tế bào, hiện tợng này có thể làm phá vỡ
tế bào. Đặc biệt ở vùng dới đồi của não bộ - vùng điều khiển chức năng hiểu biết và
trí nhớ là nơi chịu ảnh hởng chủ yếu của axít domoic.
Độc tố DSP ức chế enzym protein phosphatase - là enzym đóng vai trò điều hoà
các quá trình trao đổi chất quan trọng của tế bào. Hiện tợng tiêu chảy gây ra bởi độc
tố DSP là do quá trình hydrate hoá các protein trong biểu mô thành ruột, làm rối loạn
cân bằng nớc, ngoài ra còn có rất nhiều bằng chứng cho rằng axít okadaic là tác nhân
kích thích sự phát triển của các khối u bớu. Các độc tố pectenotoxin (PTXs) và
yessotoxins (YTXs) thờng đợc xếp cùng nhóm với độc tố DSP vì chúng thờng
cùng xuất hiện và cùng đợc tách chiết từ các ĐVTMHMV. Cơ sở phân tử của các
hoạt tính hầu nh cha đợc biết, nhng tất cả chúng đều không gây tiêu chảy. PTXs
là chất cực độc đối với gan, trong khi đó hiệu ứng quan trọng nhất của YTXs dờng
nh chỉ đối với dạ dày [Andersen, 1996].
Bảng 6. Một số triệu chứng khi bị ngộ độc các độc tố tảo
[theo Andersen, 1996; Larsen và cs. 2004]
Các triệu chứng ngộ độc
các độc tố tảo
ASP PSP DSP
Thời
gian ủ
bệnh
từ 3-5 giờ từ 5 - 90 phút 30 phút đến nhiều giờ
(hiếm khi sau 12 giờ)
Triệu
chứng -
trờng
hợp nhẹ
Buồn nôn, nôn mửa,
đau co thắt vùng
bụng
- Cảm giác ngứa hoặc tê rần
quanh miệng, dần dần lan
toả khắp mặt và cổ.
- Cảm giác đau nh kim
chích ở đầu ngón tay, ngón
chân.
- Nhức đầu, chóng mặt,
buồn nôn, nôn và tiêu chảy
Tiêu chảy, buồn nôn,
nôn và đau co thắt
vùng bụng
Triệu Giảm phản ứng đối - Liệt cơ Quá trình nhiễm độc
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra
Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng
20
chứng
trờng
hợp
nặng
với các đau sâu.
Choáng váng, ảo
giác lẫn lộn. Mất trí
nhớ tạm thời. Lên
cơn co
- Phát âm và hô hấp khó
khăn
- Cảm giác bị kích động
- Tử vong do liệt cơ hô
hấp có thể xảy ra trong vòng
2-24 giờ sau khi ăn.
kéo dài có thể là
nguyên nhân kích thích
sự hình thành các khối
u bớu trong hệ tiêu
hoá
Tỷ lệ tử
vong
3% 1-14% (có thể lên tới 20%) 0%
Giới hạn
an toàn
20àg/100 mô 80àg/100 mô 20àg/100 mô
Biện
pháp
chữa trị
Hỗ trợ Hỗ trợ Tự phục hồi sau 3 ngày
Bản chất hoá học và hiệu ứng sinh học của một số loại độc tố do các tảo độc
hại sống trong môi trờng biển sản sinh ra đợc tóm tắt trong bảng
Bảng 7. Tóm tắt một số độc tố tảo quan trọng và hiệu ứng sinh học của chúng
[Andersen, 1996]
STT Độc tố và tác động
của chúng đối với
môi trờng
Bản chất
hoá học
Loài vi tảo Hiệu ứng
sinh học
Tài liệu
dẫn
1 Domoic a xít (DA),
có khoảng 10 chất
tơng tự gây ra hội
chứng ASP
Axit
amin
Pseudonitzschia
spp, Nitzschia
navis-varingica,
Amphora
coffeaeformis
ảnh hởng đến
cả hệ thần kinh
và hệ tiêu hoá, là
chất đối kháng
mạnh của
Glutamate
Bates(1998),
Skov và cs.
(1999), Van
Dolah(2000),
Quilliam
(2002a)
2 Saxitoxins và các
dẫn xuất đã đợc
tìm thấy trong tự
nhiên, gây ra hội
chứng PSP (khoảng
20 hợp chất)
Alkaloids Alexandrium spp,
Gymnodinium
catenatum,
Pyrodinium
bahamense var.
compressum
Độc tố thần kinh
làm tắc nghẽn
các ion Na
+
của
các tế bào cơ và
thần kinh ngăn
cản sự khử cực
và dẫn truyền
khả năng hoạt
động
Shimizu
(2000)
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra
Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng
21
3 Okadaic acid (OA),
dynophisis toxins
(DTX-1 và DTX-2)
ít nhất có 8 hợp
chất tơng tự gây
ra hội chứng DSP
Dinophysis spp,
Prorocentrum spp
Là chất kìm hãm
hệ enzym
protein
phosphatase,
acid okaidaic có
thể là nhân tố
kích thích các
khối u bớu
Rossini
(2000), Van
Dolah (2000)
3.3.2. Tác động trực tiếp của tảo độc hại tới sức khỏe con ngời
Bên cạnh sự tác động gián tiếp tới con ngời qua chuỗi thức ăn (do tiêu thụ các
loài hải sản đã bị nhiễm độc tố tảo), tảo độc hại còn có thể gây ảnh hởng trực tiếp tới
sức khỏe con ngời. Ví dụ, khi đi trên vùng biển có tảo độc nở hoa ngời ta có thể bị
ngộ độc brevetoxin (do tảo Gymnodinium breve sản sinh ra) do hít phải những bọt
nớc có chứa các tế bào tảo hoặc độc tố brevetoxin do tảo độc bị phân hủy giải phóng
độc tố vào trong nớc gây các triệu chứng bỏng rát, sau đó ho và hắt hơi liên tục, và
cảm giác ngứa ran ở môi. Một số loài tảo lam độc hại có thể tác động tới con ngời
khi tiếp xúc trực tiếp với chúng chẳng hạn nh bơi, lặn Triệu chứng thờng gặp là bị
ngứa, bỏng rát trong vòng vài phút tới vài giờ sau khi bơi trong nớc biển có các sợi
tảo lam đang trôi nổi. Vùng da tiếp xúc sẽ bị tấy đỏ và viêm da sau khoảng 3-8 giờ,
tiếp đó gây phổng rộp và loét sâu những vùng da này [Anderson và cs., 2001].
ở nớc ta cũng đã bắt gặp một số trờng hợp nở hoa tảo độc gây ảnh hởng tới
môi trờng cũng nh du lịch ven biển, cụ thể là: trong tháng 7/2002, loài Phaeocystis
cf. globosa (thuộc ngành Haptophyta) phát triển mạnh, gây nên hiện tợng thuỷ triều
đỏ trải dài khoảng 30 km ở vùng biển Tuy Phong, Bình Thuận đã huỷ diệt khoảng
90% thuỷ sinh vật. Ngoài ra, tảo lam nở hoa trong khu vực đã làm 82 ngời bị nhiễm
độc tố tảo, gây ngứa, phồng dộp các vùng da nhạy cảm Nớc biển và không khí bị ô
nhiễm trầm trọng kéo dài nhiều tháng sau [Báo Tuổi trẻ chủ nhật số 31-2002/Ngày
11-8-2002].
Tiếp đó vào tháng 8/2005, ở khu vực bãi biển Đồi Dơng (TP. Phan Thiết, Bình
Thuận) đã xảy ra hiện tợng nở hoa tảo độc. Vào những ngày này tảo chết dày đặc và
trôi dạt vào bờ làm nớc biển đen nh nớc cống và không khí có mùi hôi thối đã
bế môn, bài khách. Chính vì điều đó mà nhiều chuyến du lịch đến khu vực này đã bị
huỷ bỏ. Khách du lịch dài ngày thì bỏ dở kỳ nghỉ vì không dám tắm và nghỉ ngơi tại
nơi môi trờng và không khí bị ô nhiễm. Nhiều khách du lịch ngắn ngày ở thành phố
ra khi nghe tin thuỷ triều đỏ liền bỏ, không tới du lịch nữa [Báo VietnamNet số ra
ngày 11/08/2005].
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra
Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng
22
Tóm lại: Trong các thủy vực tự nhiên, sự nở hoa tảo độc, tảo gây hại gây ảnh
hởng trực tiếp tới chất lợng môi trờng thủy vực nh làm giảm nồng độ ôxy hoà
tan, tăng hàm lợng ammoniac, cạnh tranh dinh dỡng với các loài khác trong thuỷ
vực hay làm ô nhiễm chất hữu cơ mạnh từ đó gây hại cho các thủy sinh vật. Sự tác
động của tảo độc hại tới sức khỏe con ngời cũng nh một số động vật khác nh chim,
thú chủ yếu bằng cách gián tiếp, thông qua chuỗi thức ăn tức là những động vật bậc
cao sẽ bị tác động khi tiêu thụ các sản phẩm biển (ĐVTMHMV, cá, cua ) đã bị
nhiễm độc tố tảo.
Ngoài ra, một số loài tảo độc hại có thể trực tiếp gây hại cho các loài thủy sinh
vật (cá, ĐVTMHMV ) nh làm tắc nghẽn mang hoặc khi phân hủy giải phóng độc tố
ra môi trờng hoặc con ngời sẽ bị tác động khi tiếp xúc trực tiếp với các quần thể tảo
độc nở hoa.
Cơ chế gây hại của tảo độc, tảo gây hại thay đổi tùy theo từng loài tảo độc cũng
nh đối tợng bị gây hại, các quá trình lý sinh, hóa sinh rất phức tạp. Để hiểu đợc
vấn đề này đòi hỏi có những nghiên cứu tiếp theo nhất là các nghiên cứu thực nghiệm
trong thời gian tới.
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra
Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng
23
Kết luận
Về điều kiện bùng phát mật độ tảo độc hại trong môi trờng tự nhiên và trong
phòng thí nghiệm, các kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, mỗi loài tảo có các ngỡng
thích nghi nhất định đối với điều kiện môi trờng. Khả năng bùng phát mật độ của
từng loài phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau. Trong vùng ven bờ Việt Nam nói
chung và vùng nuôi trồng hải sản tập trung ven biển nói riêng, các loài tảo độc hại
chiếm u thế và bùng phát mật độ ở từng vùng nhất định khi gặp những điều kiện môi
trờng thuận lợi. Các yếu tố nhiệt độ, độ mặn và cờng độ bức xạ có ảnh hởng tới sự
phát triển quần thể tảo độc hại. Nhu cầu dinh dỡng của các loài tảo độc hại khác
nhau, trong đó muối phốt-phát và silicat có liên quan khá chặt chẽ với sự phát triển
của tảo silic, trong khi các muối nitrat và phốt phat lại chi phối sự phát triển của các
loài tảo giáp.
Về khả năng tích lũy các độc tố tảo trong tảo phù du tự nhiên, tảo độc hại cũng
nh trong ĐVTMHMV đã đợc phát hiện ở vùng nghiên cứu mặc dù mới ở hàm lợng
thấp. Nhng đây là một trong những căn cứ cho thấy nguy cơ tiềm ẩn có hại của tảo
độc tới sức khỏe cộng đồng.
Cơ chế gây hại của tảo độc hại đối với môi trờng nói chung, các loài thủy sinh
vật nói riêng cũng nh tới sức khỏe con ngời diễn ra rất phức tạp, thay đổi tùy theo
từng nhóm loài dới các hình thức gây hại có thể là trực tiếp, hoặc gián tiếp thông qua
chuỗi thức ăn.
Những ảnh hởng có hại của tảo độc hại đối với sinh thái, môi trờng và sức
khỏe con ngời là đáng kể. Vì vậy, vấn đề bùng phát tảo độc hại trong tự nhiên cũng
nh cơ chế gây hại của chúng cần phải đợc tiếp tục nghiên cứu trong thời gian tới.
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra
Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng
24
Tài liệu tham khảo chính
Báo Tuổi trẻ chủ nhật số 31-2002/Ngày 11-8-2002.
Báo Vietnamnet 15:01 11/08/2005 (GMT+7): Biển Bình Thuận: Tảo độc tấn công
ngành du lịch.
Nguyễn Thị Minh Huyền, Chu Văn Thuộc (2001), "Một số kết quả nuôi thử nghiệm
tảo gây hại thuộc chi Pseudonitzschia trong phòng thí nghiệm", Tài nguyên và
Môi trờng biển, tập VIII, tr. 247-259, Nxb KH & KT, Hà Nội.
Nguyễn Văn Nguyên và cộng sự (2003), Báo cáo tổng kết đề tài cấp Bộ Thủy sản
Điều tra nghiên cứu tảo độc hại tại ba vùng nuôi ngao tập trung tại Thái Bình,
Nam Định và Thanh Hoá, Viện Nghiên cứu Hải sản.
Chu Văn Thuộc (2002), Nghiên cứu thành phần loài, phân bố và thăm dò khả năng
gây hại của một số tảo độc hại thuộc ngành tảo giáp (Dinophyta) ở vùng cửa sông
ven biển phía Bắc Việt Nam, Luận án Tiến sỹ sinh học, Tài liệu lu trữ tại Th
viện Quốc gia, Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển.
Chu Văn Thuộc, Nguyễn Thị Minh Huyền (2003), "Một số dẫn liệu về đặc tính sinh
thái của tảo độc hại trong điều kiện phòng thí nghiệm", Tạp chí Sinh học, 25(2),
tr.44 - 48.
Chu Văn Thuộc và cs. (2004), Báo cáo đề tài nhánh phía Bắc thuộc đề tài cấp Viện
KH&CN Việt Nam Nghiên cứu tảo độc ở những vùng nuôi nhuyễn thể hai mảnh
vỏ trọng điểm của Việt nam và đề xuất một số giải pháp phòng ngừa, Tài liệu lu
trữ tại Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển.
Trạm Quan trắc Môi trờng biển Đồ Sơn (2003 - 2004), Tập số liệu quan trắc Thực
vật phù du và Tảo độc, Tài liệu lu trữ tại Viện Tài nguyên &Môi trờng Biển.
Andersen P. (1996), Design and implementation of some harmful algal monitoring
system, IOC Technical Series No. 44, UNESCO.
Anderson D. M., Kulis D. M., Doucette G. J., Gallagher I. C. & Balech E. (1994),
Biogeography of toxic dinoflagellates in the genus Alexandrium from the
northeastern United States and Canada, Mar. Biol. 120: 467-478.
Hallegraeff G. M., A
nderson D. M., Cembella A. D. (2004), Manual on Harmful
Marine Microalgae, Monographs on oceanographic methodology 11, UNESCO.
Larsen J. and Nguyen N. L. (Eds.) (2004), Potentially toxic microalgae of
Vietnamese waters, Opera Botanica 140, Copenhagen.
Nguyen Ngoc Lam (2004), An autecological study of the potentially toxic
dinoflagellate Alexandrium affine isolated from Vietnamese waters, Harmful
Algae 3 (2004): 117-129.
Okaichi T. (2003), Red tide phenomena, In: Okaichi T. (ed.), Red tides, Terra Sci.
Publ. Company & Kluwer Academic Publishers, Tokyo, pp. 7-60.