Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

điều tra, nghiên cứu tảo độc gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra - hàm lượng độc tố gây liệt cơ (psp) trong động vật thân mềm ha

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.99 KB, 99 trang )

Viện khoa học và công nghệ việt nam
Viện tài nguyên và môi trờng biển
=========000=========


Đề tài cấp nhà nớc kc-09-19
Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng
nuôi trồng thuỷ sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp
phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra

Chủ nhiệm đề tài: TS. Chu Văn Thuộc



Báo cáo chuyên đề
Hàm lợng độc tố gây liệt cơ (PSP)
trong động vật thân mềm hai mảnh vỏ
ở một số vùng nuôi thủy sản tập trung
miền Bắc và bắc trung bộ



Ngời thực hiện:
ThS. Nguyễn Thị Minh Huyền, CN. Phạm Thế Th,
ThS. Nguyễn Thị Thu, CN. Trần Mạnh Hà
Phòng Sinh vật phù du và Vi sinh vật Biển,
Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển
Tel. (031) 565 495 Fax. (031) 761 521
e-mail:



6132-14
02/10/2006

Hải Phòng, tháng 2/2006
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra


Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng

1
I. đặt vấn đề

Một trong các trờng hợp nhiễm độc đầu tiên của con ngời sau khi ăn phải độc
tố tảo giáp đợc tích luỹ trong thân mềm hai vỏ từ năm 1793, khi thuyền trởng George
Vancouver và đội thuỷ thủ của ông lên đất liền ở British Columbia, ngày nay đợc biết
là Poison Cove. Ông đã ghi lại các bộ lạc ở vùng ấn độ nghiêm cấm ăn nhuyễn thể hai
vỏ khi nớc biển phát quang do sự nở hoa của tảo roi [Dale và Yentsch, 1978]. Nguyên
nhân gây lên bởi các độc tố nhóm kiềm, bây giờ đợc gọi là nhóm độc tố gây liệt cơ
(PSP), độc tố này sẽ gây ảnh hởng đến ngời và các sinh vật khác khi tích luỹ một
lợng nhất định (khoảng 500àg) trong 100g thịt động vật thân mềm hai mảnh vỏ
(ĐVTMHMV). Trên phạm vi toàn cầu, đã thống kê đợc khoảng 2000 trờng hợp ngời
bị nhiễm độc (15% tử vong) thông qua ăn phải cá và thân mềm hai vỏ đợc báo cáo
hàng năm và nếu không đợc kiểm soát, các tổn thất kinh tế sẽ xảy qua việc giảm tiêu
thụ địa phơng và giảm xuất khẩu các sản phẩm thuỷ sản. Cá voi và cá heo cũng có thể
trở thành các nạn nhân khi chúng nhận độc tố thông qua chuỗi thức ăn đợc tích luỹ
trong động vật nổi và cá [Geraci và cộng sự, 1989].
Hiện tợng ngộ độc PSP xảy ra trên thế giới ở các vùng nớc lạnh và nớc ấm.
Các trờng hợp ngộ độc PSP ở ngời đã đợc đề cập từ những năm của thập kỷ 1700 ở
Bắc Mỹ, nhng nguyên nhân gây ra vẫn cha đợc biết đến cho đến tận cuối thập niên

1920 và 1930, khi các nhà nghiên cứu của California tìm thấy mối quan hệ họ hàng của
độc tố trong động vật thân mềm hai vỏ bị nhiễm độc với các loài tảo Giáp ở khu vực đó
thuộc chi Alexandrium. Sommer và các cộng sự của ông thậm chí còn cho các loài thân
mềm ăn các loài tảo giáp có độc để kiểm tra lại nguyên nhân và đờng đi của độc tính,
và sau đó ông cho thân mềm ăn tảo giáp không độc để cho phép thân mềm lọc sạch độc
tính. Ngày nay, 12 loài tảo Giáp thuộc chi Alexandrium, Pyrodinium, Gonyaulax

Gymnodinium sản sinh độc tố PSP. Thêm vào đó, một số loài vi khuẩn, tảo xanh lục và
tảo đỏ có khả năng sản sinh cùng loại độc tố có liên quan với neurotoxin, saxitoxin và
các dẫn xuất của nó. Các sinh vật trên sản sinh trên 18 loại độc tố đã biết, các độc tố bị
biến đổi qua lại và sửa chữa cấu trúc [Oshima và cộng sự, 1984, 1990]. Từng loài tảo
Gíap riêng biệt không chứa tất cả các độc tố, chúng chỉ chứa các độc tố phù hợp và sự
kết hợp giữa các loại độc tố tạo nên khả năng gây độc tính khác nhau. Độc tính mạnh
yếu có thể khác nhau, phụ thuộc vào vị trí địa lý nơi thu mẫu phân lập và điều kiện môi
trờng nơi các loài tảo này sinh sống [Anderson 1990].
Theo lịch sử, các hiện tợng PSP trong nớc biển chủ yếu đã đợc xác định bởi
các loài Alaxandrium (= Protogonyaulax); tuy nhiên, trong vòng 10 năm trở lại đây, sự
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra


Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng

2
bùng nổ PSP do Pyridinium bahmense var. compressum và Gymnodinium catenatum đã
đợc xem xét là nguyên nhân gây tử vong cho con ngời và các vấn đề có liên quan đến
sức khoẻ. Không có các loài mới đợc quan sát, nhng chúng là các loài gốc đã đợc
mô tả, không có các dấu hiệu chứng tỏ chúng là các sinh vật nở hoa độc. Ngày nay phần
lớn các hiện tợng tử vong của con ngời từ sự bùng nổ PSP, hoặc các sự kiện độc tố
thân mềm khác có độc đợc tích luỹ từ tảo Giáp, thờng xuất hiện ở những nơi không

có các chơng trình quan trắc quốc gia. Các chơng trình quan trắc thông thờng sẽ
bảo vệ những ngời sử dụng thân mềm làm thực phẩm bằng các quy định trong các bãi
khai thác động vật thân mềm hai mảnh vỏ (ĐVTMHMV) khi các loài tảo Giáp độc có
mặt hoặc khi độc tính trong thịt ĐVTMHMV vợt quá mức quy định đã đợc cho phép
trong sử dụng đảm bảo an toàn thực phẩm. Các nớc không có các chơng trình quan
trắc bị rơi vào sự bất ngờ khi các sự kiện tảo giáp độc là nguyên nhân làm ĐVTMHMV
trở lên độc và khi các hiện tợng này xảy ra, các cơ quan chức năng không kịp chuẩn bị
thu mẫu, kiểm tra và thông báo các kết quả đã kiểm tra một cách kịp thời cho ngời tiêu
dùng. Tỷ lệ tử vong của ngời bị nhiễm độc tố ở các nớc này đã đợc thống kê khoảng
20%.
Độc tố PSP không chỉ tìm thấy trong bọn hai vỏ ăn lọc, chúng còn đợc đề cập
đến trong các cơ thể sống khác, thực phẩm hải sản trong vùng nuôi, nh cua, ốc, cá
thu Và khi ăn cá nuôi ở một số các vùng nuôi, ngời ăn có thể bị ốm hoặc chết, phụ
thuộc vào độc tính và hiệu lực của các thành phần chứa trong ruột và sống trong cá.
Sự tiêu thụ các hải sản đã bị nhiễm độc tố tảo có thể gây ra hàng loạt các triệu
chứng bệnh lý về hệ thần kinh ở ngời. Các bệnh lý và các triệu chứng lâm sàng quan
trọng đợc tóm tắt trong các bảng dới. Hiện nay, không có thuốc giải đặc hiệu cho các
hiện t
ợng ngộ độc từ độc tố tảo, nhng việc cung cấp các thiết bị hô hấp nhân tạo có
thể cứu sống nhiều nạn nhân trong trờng hợp ngộ độc PSP [Hallegraeff và cộng sự,
2004].
Dới đây là một số triệu chứng khi ngời tiêu dùng ăn phải thực phẩm hải sản có
hàm lợng độc tố PSP cao.






Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ

sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra


Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng

3
Bảng 1. Một số triệu chứng khi ngộ độc tố PSP

Các triệu chứng Hiệu ứng sinh học
Thời gian ủ bệnh từ 5 - 90 phút
Triệu chứng trờng
hợp nhẹ
Cảm giác ngứa hoặc tê rần quanh
miệng, dần dần lan toả khắp mặt và
cổ.
- Cảm giác đau nh kim chích ở đầu
ngón tay, ngón chân.
- Nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn,
nôn và tiêu chảy
Triệu chứng trờng
hợp nặng
- Liệt cơ
- Phát âm và hô hấp khó khăn
- Cảm giác bị kích động
- Tử vong do liệt cơ hô hấp có thể
xảy ra trong vòng 2-24 giờ sau khi
ăn.
Tỷ lệ tử vong 1-14% (có thể lên tới 20%)
Độc tố thần kinh làm
tắt nghẽn các ion Na

của các tế bào cơ và
thần kinh ngăn cản sự
khử cực và dẫn truyền
khả năng hoạt động

Các loài ĐVTMHMV và cá sống rạn là đối tợng chủ yếu tích luỹ độc tố tảo, tuy
nhiên một số sinh vật biển khác nh cua, rùa biển cũng có thể tích luỹ các độc tố này
[Shumway 1990, Landsberg 2002]. Điều quan trọng là các độc tố tảo không hề gây ra
bất cứ mùi vị khác lạ nào cho thực phẩm biển, do đó ng dân hoặc ngời tiêu thụ không
thể nào phát hiện ngay lập tức sự có mặt của chúng mà chỉ có thể phát hiện bằng các
phơng pháp thử nghiệm sinh học hoặc phân tích hoá học. Một vấn đề quan trọng nữa là
các độc tố tảo không bị phá huỷ trong quá trình đun nấu và chính vì vậy chúng có thể
tồn tại ở cả các sản phẩm hải sản đóng hộp, cấp đông hoặc các sản phẩm chế biến khác.
Các nghiên cứu trớc đây [Falconer I.R., 1993] về khả năng tích luỹ của Điệp
(Scallop) đối với độc tố của các loài Alexandrium đã cho thấy mức độ tích luỹ cao và
khả năng phân huỷ (tự giải độc) rất tốt nhng khác nhau đối với chuỗi độc tố trong từng
bộ phận khác nhau. Chúng đợc chỉ ra dờng nh tăng độc tính trong cơ quan sinh dục
trong suốt quá trình giải độc vì sự chuyển gonyautoxin thành saxitoxin. Một vấn đề nói
riêng về sự tích luỹ độc tố trong điệp (scallop) đối với độc tố tảo là nhìn chung chỉ có
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra


Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng

4
những con trởng thành và cơ quan sinh dục (trứng) là đợc ngời tiêu thụ. Các kết quả
nghiên cứu trong mạng lới quan trắc quốc gia của Pháp đã cho thấy đối với độc tố tảo
dựa trên cơ sở xác định độc tính trong nội tạng và không xác định trong toàn bộ phần
thịt hoặc trong các mô phân chia khác. Giới hạn an toàn cho phép của Quốc tế sử dụng

cho toàn bộ phần thịt thân mềm hai vỏ là 80 gSTXeq/100g mô. Một số các nghiên cứu
khác cũng khẳng định một điều các độc tố PSP đợc tích luỹ trong điệp (scallop) và
chúng đợc đào thải rất chậm [Shumway và cs. 1992]. Đây chính là các nguyên nhân
làm tăng sự không an toàn đối với ngời tiêu thụ thực phẩm hải sản.
Sự tích luỹ của thân mềm hai vỏ đối với một số loại độc tố nh độc tố ảnh hởng
thần kinh gây mất trí nhớ (ASP), độc tố gây tê liệt cơ (PSP) và độc tố gây tiêu chảy
(DSP) là nguyên nhân gây tổn hại nghiêm trọng cho sức khoẻ cộng đồng cũng nh
ngành thuỷ sản. Điều này đã trở thành một vấn đề đối với toàn cầu về sự gia tăng các
trờng hợp ngộ độc và tần xuất, cờng độ lan rộng theo phân bố địa lý của các loài vi
tảo có chứa độc tố và các vấn đề này cũng đang xảy ra tại các nớc Đông nam á. ở Việt
Nam, ngời bị ngộ độc do ăn phải thân mềm hai vỏ có độc tố cha đợc thống kê và báo
cáo. Tuy nhiên sự xuất hiện của các loài tảo tiềm tàng độc hại ở vùng biển Việt Nam đã
đợc thống kê và báo cáo [Larsen J. và cs. 2004].
Các nghiên cứu từ trớc đến nay ở Việt Nam về lĩnh vực tảo độc đã cho thấy sự
phân bố của các loài vi tảo tiềm tàng độc hại khá phong phú dọc theo các vùng ven biển,
trong đó có một số loài bắt gặp với tần xuất xuất hiện nhiều và mật độ cao tại các vùng
nuôi trồng thuỷ sản tập trung và một số đầm nuôi tôm, thành phần loài của chi
Alexandrium ở vùng biển phía Bắc khá phong phú, theo các nghiên cứu của tác giả Chu
Văn Thuộc đã phát hiện đợc hơn 10 loài có mặt [Chu Văn Thuộc, 2002). Nghiên cứu
của Yoshida và cs. (2000) lần đầu tiên tìm thấy độc tố trong loài Alexandrium minutum
phân lập từ đầm nuôi tôm ở Quảng Ninh, Nguyễn Ngọc Lâm (2004) cũng đã công bố về
khả năng sản sinh độc tố của loài Alexandrium affine phân lập từ Vịnh Hạ Long. Nghiên
cứu về khả năng tích luỹ độc tố trong một số đối tợng thân mềm hai vỏ cũng đã đợc
phòng thí nghiệm Sinh vật phù du của Viện Tài nguyên và Môi trờng biển Hải Phòng
bắt đầu thực hiện từ năm 2002 trong khuôn khổ hợp tác với Đại học Kitasato của Nhật
Bản. Bên cạnh đó, một số đề tài nhỏ nghiên cứu về độc tố trong thân mềm hai vỏ đã
đợc phòng thí nghiệm Sinh hoá Viện Hải dơng học Nha Trang thực hiện dới sự tài
trợ của dự án ASEAN-CANADA (năm 1999) v.v Những nghiên cứu này đã phát hiện
sự tồn tại của độc tố vi tảo trong đối tợng hai mảnh vỏ, nhng hàm lợng thấp tại vùng
biển ven bờ phía bắc nh Hải Phòng, Thái Bình và phía nam nh Nha trang, Phan Thiết

mẫu chủ yếu đợc phân tích bằng phơng pháp thử chuột của Yasumoto (1981). Hiện
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra


Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng

5
nay, NAFIQUAVED đã tổ chức tại các chi nhánh lớn của một số thành phố các phòng
chịu trách nhiệm thực hiện các phân tích độc tố trong thân mềm hai mảnh vỏ trong lĩnh
vực kiểm soát an toàn và xuất khẩu thuỷ sản. Trong đó, chỉ có Ngao (Meretrix
meretrix), Nghêu (Meretrix lyrata) là đối tợng đợc phân tích độc tố tảo một cách
thờng xuyên theo quy định. Độc tố dạng DSP đợc phân tích bằng phơng pháp thử
chuột của Yasumoto (1981), độc tố PSP cũng đợc phân tích theo phơng pháp của
AOAC (AOAC, 1995) trên chuột và độc tố dạng ASP (domoic acid) đợc phân tích
bằng máy sắc ký khí lỏng cao áp HPLC [Lawerence và cs. 1989].
Từ các kết quả nghiên cứu thu đợc ở trên đã gợi ý khả năng tích luỹ độc tố của
các sinh vật biển và khả năng bùng phát các hiện tợng ngộ độc ở ngời trong các khu
vực đó. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa việc xuất hiện các loài tảo độc và việc tích luỹ độc
tố trong thân mềm hai vỏ vẫn cha đợc hiểu biết rõ ràng do thiếu hệ thống quan trắc có
tính hệ thống trong các vùng này.
Hiện tại các nớc phát triển, hàng năm phải chi phí một lợng kinh phí rất lớn
cho nguồn kiểm soát thực phẩm từ bờ biển. Phần lớn các nớc kết hợp việc quan trắc
giám sát mật độ tảo với tiến hành phân tích, kiểm định độc tố ASP, PSP và DSP trong
nhuyễn thể bằng sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC).
Trong khuôn khổ của đề tài Nhà nớc với mã số KC-09-19, nội dung nghiên cứu
về biến động hàm lợng độc tố vi tảo PSP đợc tích luỹ trong thân mềm hai vỏ tại một
số vùng nuôi trồng thuỷ sản trọng điểm đã đợc tiến hành nghiên cứu nhằm tìm hiểu
biến động, hàm lợng và mối quan hệ giữa các loài tảo độc và khả năng tích luỹ độc tố
của thân mềm hai vỏ nhằm đa ra đợc những cảnh báo về nguy cơ xảy ra các hiện

tợng ngộ độc ở ngời tiêu dùng khi sử dụng hải sản làm thực phẩm.

II. Phơng pháp nghiên cứu

Độc tố gây liệt cơ (PSP) đợc gây nên bởi một nhóm khoảng 24 độc tố thần kinh
mạnh (hình ). Các độc tố này đặc biệt đợc gắn vào các vị trí kích thích trên dây thần
kinh và các tế bào cơ, kết quả cuối cùng là làm tê liệt cơ và suy kiệt sức khoẻ dẫn đến tử
vong khi tiêu thụ thân mềm hai vỏ có tích luỹ độc tố. Bởi vậy, sự phát triển của các
phơng pháp phân tích đối với việc định lợng và định tính các loại độc tố đợc xác
định cùng PSP là nhiệm vụ rất quan trọng. Nhìn chung việc kiểm soát chất lợng độc tố
tích luỹ trong thực phẩm luôn đòi hỏi chính xác việc định lợng của các độc tố PSP
cùng với sự quan tâm đến các quy định quốc tế đối với việc bảo vệ sức khoẻ cộng đồng
và giao dịch thơng mại quốc tế. Phạm vi độc tính rộng của các độc tố PSP khác nhau
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra


Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng

6
[Oshima, 1995], thêm vào là sự đa dạng các nhóm độc tố PSP của tảo Giáp, những loài
có khả năng sản sinh độc tố PSP và khả năng vận chuyển sinh học của các độc tố này
trong phạm vi sinh học biển [Shumway, 1990], vì thế có sự thay đổi trong phân tích hoá
học để phát triển các phơng pháp phân tích chính xác và đáng tin cậy. Phơng pháp
nghiên cứu hàm lợng độc tố PSP bằng phơng pháp ELISA hiện đang đợc một số
nớc có kỹ thuật tiên tiến thực hiện nh Nhật Bản. Phơng pháp này có u điểm là có
thể phát hiện nhanh và rất nhạy đối với độc tố PSP ở hàm lợng rất thấp, thao tác đơn
giản, dễ thực hiện, không đòi hỏi các trang thiết bị đắt tiền nh các phòng hoá sinh tiêu
chuẩn, trừ một số độc tố chuẩn và các kháng thể phải đợc chuẩn bị ở các phòng thí
nghiệm lớn. Nhng lại có nhợc điểm là dựa trên kháng thể với độc tố STX nên sẽ cho

sai số nhỏ nếu độc tố PSP có thành phần chính là saxitoxin và các dẫn xuất của nó, sai
số sẽ lớn khi thành phần chính của nhóm độc tố không phải là saxitoxin và phơng pháp
này chỉ xác định đợc hàm lợng tổng số, không cho thấy đợc tỷ lệ giữa các nhóm độc
tố và vai trò cũng nh độc tính của chúng khi tích luỹ trong sinh vật.
Phân tích hàm lợng độc tố PSP đợc phân tích bằng phơng pháp ELISA còn
gọi là phơng pháp miễn dịch học liên kết enzym (Enzyme Linked Immunosorbant
Assay). Nguyên tắc của phơng pháp này là dựa vào các chất kháng thể (đợc chiết xuất
từ huyết thanh thỏ) để nhận biết độc tố tảo. Các kháng thể này đợc đánh dấu bằng các
chất phóng xạ hoặc huỳnh quang. Hoà dịch chiết thịt nhuyễn thể hai vỏ với các kháng
thể đã đợc đánh dấu, tiếp theo dùng máy so màu chuyên dụng để phát hiện tổng lợng
phóng xạ hoặc huỳnh quang của hợp chất huyết thanh miễn dịch + chất kháng thể, từ đó
tính ra hàm lợng độc tố tảo có trong mẫu theo phơng pháp của Branaa và cộng sự
(1999) và Kodama (2003). Các bớc phân tích cụ thể đối với độc tố đợc mô tả ở phần
sau.

2.1. Vật liệu nghiên cứu
- Đối tợng nghiên cứu:
+ Vùng biển Hải Phòng: Vẹm xanh (Mytilus sp.) và Ngao (Meretrix meretrix) là
những đối tợng thân mềm hai vỏ có giá trị kinh tế đợc nuôi chủ yếu tại hai vùng biển
Cát Bà và Đồ Sơn (Hải Phòng) vừa phục vụ xuất khẩu thuỷ sản, vừa phục vụ chế biến đồ
ăn hải sản cho khách du lịch tại chỗ.
+ Vùng biển Thái Bình: Ngao (Meretrix sp.) là đối tợng đợc nuôi chủ yếu tại
các vùng ven biển Thái Bình và cũng là đối tợng đợc nghiên cứu hàm lợng các độc
tố vi tảo trong khuôn khổ của đề tài KC-09-19.
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra


Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng


7
+ Vùng biển Lăng Cô (TT Huế): Vẹm xanh (Mytilus sp.) là đối tợng thân mềm
hai vỏ đợc nuôi vừa cung cấp thực phẩm cho dân địa phơng vừa là đồ hải sản đợc
khách du lịch a chuộng trong các bữa ăn nên đã đợc chọn làm đối tợng nghiên cứu
của đề tài.
- Tần xuất thu mẫu:
+ Vẹm xanh và Ngao nuôi tại vùng biển Hải Phòng, đợc thu một tháng 2 lần và
thu liên tục trong một năm từ tháng 5/2004 đến hết tháng 4 năm 2005. Tổng số mẫu
đợc tiến hành phân tích tại mỗi một điểm nghiên cứu là : Cát Bà 24 mẫu, Đồ Sơn: 24
mẫu.
+ Ngao nuôi tại Thái Bình và Vẹm xanh nuôi tại vùng biển Lăng Cô (Huế) đợc
thu mỗi tháng 1 lần cùng với các mẫu tảo và mẫu hoá nớc tại vùng nghiên cứu.
- Ngoài ra còn sử dụng các số liệu đã đợc quan trắc liên tục trong 2 năm 2002-
2004 của dự án JSPS trong khuôn khổ hợp tác song phơng giữa Viện tài nguyên và Môi
trờng Biển (thuộc VAST) của Việt Nam và trờng Đại học Kitasato của Nhật Bản.
Tham khảo một số kết quả nghiên cứu về độc tố PSP trong Ngao tại vùng biển
Thái Bình, Nam Định và Thanh Hoá của nhóm tác giả Nguyễn Văn Nguyên (2004)

2.2. Phơng pháp thu mẫu và xử lý mẫu
- Đồ Sơn: Ngao đợc đặt ngời cào hàng tháng trên bãi tự nhiên vào các thời
điểm có con nớc trong tháng (tháng thu 2 lần), lựa những con có kích cỡ ổn định, đều
nhau hàng tháng.
- Cát Bà: Vẹm xanh đợc đặt mua cả chùm to, đặt nuôi cố định trong một lồng
nuôi, hàng tháng đến ngày tỉa thu mẫu theo một kích cỡ ổn định.
- Thái Bình: Ngao cũng đợc thu trực tiếp ngay trên các vây nuôi hàng tháng
theo một kích cỡ ổn định.
- Huế: Vẹm xanh đợc thu trực tiếp ngay trong các lồng nuôi theo một kích cỡ
ổn định.
- Mẫu thân mềm hai vỏ sống sau khi thu, đợc chuyển ngay về phòng thí nghiệm
với khoảng thời gian trong ngày và đợc mổ tách lấy nội quan theo quy trình sau:

+ 2 kg Ngao (hoặc Vẹm) đợc rửa sạch bằng nớc ngọt để loại bùn cát trên vỏ,
để ráo nớc.
+ Mổ, tách thịt và vỏ.
+ Rửa thịt mẫu dới vòi nớc thật nhẹ nhàng để loại muối.
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra


Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng

8
+ Sau khi để ráo nớc (trong 5 phút), mổ tách nội quan (phần có mầu nâu hoặc
mầu sẫm hơn), cho vào lọ sạch.
+ Nghiền nội quan bằng máy xay sinh tố hoặc cắt nhỏ rồi đem nghiền bằng cối
sứ (loại cối sứ sử dụng trong phòng thí nghiệm).
+ Sau khi mẫu đợc nghiền đồng nhất

+ Cân 10g mẫu

10g mẫu + 10mL HCl 0,1N
Đun cách thuỷ 5
Để nguội bằng nhiệt độ phòng
+ 10mL HCl 0,1N

Ly tâm (hoặc lọc qua giấy lọc)
Bỏ bã
Thu phần dịch chiết
Bảo quản trong tủ đá (-18
o
C là tốt nhất)

Phân tích ASP và PSP khi có thể (1ml mẫu = 0,5g mô nội tạng)

+ Phần còn lại, đựng mẫu trong lọ sạch, nút kín và bảo quản trong tủ đá nhiệt độ
càng thấp càng tốt (-18
o
C là tốt nhất).
- Riêng đối với mẫu Vẹm xanh thu ở Lăng Cô (Huế) do Đại học Huế thực hiện,
sau khi mổ theo quy trình trên sẽ thu nội tạng bảo quản trong tủ đá và gửi mẫu cho
phòng thí nghiệm của Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển để tiến hành xử lý tiếp theo
quy trình xử lý mẫu ở trên và phân tích độc tố.
2.3. Phơng pháp phân tích độc tố PSP
Độc tố PSP đợc tiến hành phân tích theo phơng pháp của Branaa (1999) và
Kodama (2003).
Lu ý: quá trình phân tích PSP phụ thuộc vào yếu tố pH, Do thờng bền trong
môi trờng có pH=5-7, saxitoxin cùng các dẫn xuất đợc giữ tốt nhất trong pH này dới
điều kiện có Argon hoặc nitrogen và để tối. Nếu bảo quản trong một năm có thể để ở
4
o
C, còn nếu lâu hơn cần bảo quản ở 80
o
C.
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra


Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng

9
2.4. Phơng pháp xử lý, tính toán hàm lợng độc tố trong ĐVTMHMV
2.4.1. Tính trung bình các chỉ số OD đo đợc trên máy (mẫu lặp 3 lần)

2.4.2. Phác thảo đồ thị tính toán: Bằng tay, hoặc sử dụng MS-Excel hoặc các phần mềm
tính toán khác
Phơng trình và đồ thị đờng chuẩn cho tính toán hàm lợng độc tố ASP trong các mẫu
thân mềm hai vỏ đã đợc xây dựng dựa trên các nồng độ chất chuẩn của STX
y = 28.014e
-1.4092x
1
10
0.71.7

y = 35.917e
-1.4937x
1
10
0.81.8


y = 20.056e
-
2.2377x
1
10
0.31.3

Hình 2.1. Đồ thị đờng chuẩn cho tính toán hàm lợng độc tố PSP trong Ngao và Vẹm
xanh nuôi tại 4 vùng nuôi trên dựa trên hàm lợng các chất STX chuẩn

2.4.3, Đánh giá hàm lợng độc tố trong mỗi mẫu thử bằng việc sử dụng bớc 2 =
A(nM) = A nmol/L : 1000 = B nmol/mL
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ

sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra


Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng

10
2.4.4. Tính tổng hàm lợng độc tố PSP trong 1mL mẫu thân mềm đã xử lý cho phân tích
độc tố theo các bớc trên bằng cách:
= B (nmol/mL) x MW (trọng lợng phân tử của độc tố) = C(ng/mL)

2.4.5. Tính hàm lợng độc tố trong 1g mẫu mô nội tạng của thân mềm hai vỏ
= C (ng/mL) : 0,5 (1mL dịch chiết chứa 0,5 g mô nội tạng) = D (ng/g mô nội
tạng)

III. Kết quả và thảo luận

PSP là độc tố gây tê liệt thần kinh, ngời ngộ độc là do ăn phải các sinh vật có vỏ
đã nhiễm độc tố do các loài tảo Giáp sản sinh (ví dụ nh Alexandrium, Pyrodinium và
Gymnodinium) [Hashimoto và Noguchi 1989]. Độc tố PSP bao gồm saxitoxin (STX) và
hơn 20 dẫn xuất của nó. Các hợp chất này tan tốt trong nớc và hầu hết đều bền nhiệt,
chúng có tác động đến cả hệ thần kinh và các hoạt động của hệ thống cơ của con ngời.
3.1. Biến động hàm lợng độc tố PSP trong Ngao (Meretrix meretrix) nuôi
tại Đồ Sơn Hải Phòng
Cũng nh độc tố ASP, độc tố PSP đợc quan trắc với tần xuất 2 lần/tháng trong
Ngao nuôi tại Đồ Sơn. Kết quả phân tích các mẫu thu đợc cho thấy Ngao nuôi Đồ Sơn
có tích luỹ loại độc tố này nhng hàm lợng rất thấp (hình 3.1)
Hình 3.1. cho thấy hàm lợng độc tố PSP biến động không mạnh theo các đợt
quan trắc trong năm, dao động từ vài phần trăm ng/g đến 2 ng/g mô nội tạng của Ngao
nuôi. Tháng 4 năm 2005 là tháng quan trắc có hàm lợng độc tố PSP thấp nhất (0,03-
0,18 ng/g), hàm lợng độc tố PSP quan trắc trong cả năm đạt cao nhất 1,97 ng/g trong

đợt quan trắc II của tháng 11 năm 2004 và tiếp đến là đợt quan trắc I của tháng 2 năm
2005 (đạt 1,74 ng/g).
So sánh với kết quả quan trắc năm 2003-2004 trong khuôn khổ của dự án JSPS,
nhận thấy, hàm lợng độc tố PSP (thành phần chính là độc tố saxitoxin STX) trong năm
quan trắc này biến động mạnh hơn dao động từ 0 đến 3,56 ng(STXeq)/g mô nội tạng và
có 2 đỉnh độc tố cao nhất trong năm quan trắc là đợt quan trắc II tháng 9 (hàm lợng
đạt 3,45ng/g) và tiếp đến là đợt quan trắc II tháng 10 (hàm lợng độc tố đạt 2,35 ng/g).
Các tháng 3, tháng 4 và tháng 12 thờng có hàm lợng độc tố PSP thấp hơn.
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra


Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng

11
0
0.5
1
1.5
2
2.5
1
0
/5
/04
8
/6
/04
8
/7

/04
4/8/
0
4
14/9
/0
4
11/10
/0
4
7
/1
1
/04
4
/1
2
/04
1
1
/1
/05
6/2/
0
5
9/3/
0
5
5/4/
0

5
Thời gian
thu mẫu
ng (STXeq)/g mô nội tạng

Hình 3.1. Biến động hàm lợng độc tố PSP trong nội tạng Ngao nuôi tại Đồ Sơn (số liệu
quan trắc tháng 5/ 2004- tháng 4/2005)

0
0.5
1
1.5
2
2.5
3
3.5
4
I
-
T
4
I
-
T
5
I
-
T
6
I-T

7
I-T
8
I-T
9
I-
T1
0
I
-T11
I
-T12
I
-
T
1
I-T
2
I-T
3
I-T
4
Tháng
thu mẫu
ng (STXeq)/g nội tạng
Quan trắc năm 2004-2005 Quan trắc 2003-2004

Hình 3.2. So sánh hàm lợng độc tố PSP tích luỹ trong Ngao nuôi ĐS trong các năm
quan trắc 2002-2003 (số liệu dự án JSPS) và 2004-2005.
Hình 3.2. còn cho thấy hàm lợng độc tố PSP trong Ngao nuôi ĐS quan trắc

trong năm 2004-2005 tại các tháng thờng cao hơn năm quan trắc 2003-2004, tuy nhiên
không nhiều nhng đỉnh độc tố của năm 2003 lại cao hơn đỉnh độc tố quan trắc trong
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra


Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng

12
năm 2004. Điều này có thể phụ thuộc vào sự có mặt và mật độ của các loài tảo có khả
năng sản sinh độc PSP nh chi Alexandrium.
Kết hợp với các kết quả nghiên cứu định lợng về các loài tảo Giáp thuộc chi
Alexandrium phân bố trong vùng nghiên cứu, nhận thấy có mối tơng quan giữa hàm
lợng độc tố PSP đợc tích luỹ trong Ngao và mật độ tb/L của chi này. Tuy nhiên mối
tơng quan này không chặt chẽ vì chi Alexandrium thờng có mật độ rất thấp, tần xuất
bắt gặp trong mẫu nhỏ nên số liệu khó xử lý, chỉ mang tính xu thế.

0
50
100
150
200
250
300
350
400
450
1
0/5/0
4

25/5/04
8
/
6
/
0
4
20/6/04
8/7/04
2
1/7/0
4
4/8/04
1
8/8/0
4
1
4/9/0
4
26/9/04
1
1/10
/04
20/10/04
7/11/04
2
1/11
/04
4/12/04
1

8/12
/04
1
1/1/0
5
24/1/05
6
/
2
/
0
5
23/2/05
9/3/05
2
0/3/0
5
5/4/05
2
9/4/0
5
Thời gian
thu mẫu
Mật độ tb/L
0
0.5
1
1.5
2
2.5

ng (STXeq)/g mô nội tạng
Mật độ Alexandrium spp Hàm lợng độc tố ng/g (STX)


Hình 3.3. So sánh mối tơng quan giữa hàm lợng độc tố PSP đợc tích luỹ trong Ngao
Đồ Sơn với mật độ tảo chi Alexandrium (quan trắc năm 2004-2005)

Kết quả nghiên cứu định tính cũng cho thấy chi Alexandrium tuy có mật độ thấp
nhng có mặt quanh năm trong vùng biển Đồ Sơn , đỉnh mật độ cao nhất của chi này đạt
trong tháng 5/2004, nhng các đỉnh độc tố PSP lại không trùng với khoảng thời gian
này. Điều này gợi ý có thể loài Alexandrium đóng góp cho mật độ này lại không có khả
năng sản sinh độc tố hoặc có nhng rất thấp. Hình 3.3 còn cho thấy, các đỉnh độc tố
luôn không trùng với đỉnh mật độ nhng thờng xuất hiện sau đỉnh mật độ, điều này rất
trùng với các kết quả đã đợc nghiên cứu trớc đó của các tác giả Premazzi và Voltera
(1993).
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra


Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng

13
Các nghiên cứu trớc của phòng thí nghiệm sinh vật phù du trong khuôn khổ dự
án JSPS và của tác giả Nguyễn Văn Nguyên (2004) cũng cho thấy không có mối tơng
quan chặt chẽ giữa mật độ của các loài tảo thuộc chi Alexandrium và hàm lợng độc tố
PSP đợc tích luỹ trong Ngao.

3.2. Biến động hàm lợng độc tố PSP trong Vẹm xanh (Mytilus sp.) nuôi
tại Cát Bà Hải Phòng
Hàm lợng độc tố PSP trong Vẹm xanh nuôi ở Cát Bà cũng đợc quan trắc với

tần xuất 2 lần/tháng. Kết quả phân tích cho thấy Vẹm xanh nuôi ở Cát Bà có tích luỹ
loại độc tố PSP, nhng hàm lợng thấp dao động từ 0,36 đến 7,43 ng (STXeq)/g mô nội
tạng. Biến động giữa các đợt quan trắc trong năm không mạnh, tháng 5 năm 2004 và
tháng 2, tháng 4 năm 2005 là những tháng quan trắc cho hàm lợng độc tố PSP thấp.
Đợt quan trắc I của tháng 11 năm 2004 cho thấy hàm lợng độc tố PSP đạt cao nhất
trong năm quan trắc (7.43 ng STXeq/g mô nội tạng). Dao động giữa các đỉnh hàm lợng
độc tố không nhiều.

0
1
2
3
4
5
6
7
8
1
1/
5/2004
9/6/
04
9/
7/
04
5/
8/
04
17
/9

/
04
13/
1
0/
04
9/
11
/
04
5/
12
/
04
1
2/
1/2005
5/2/
05
10
/
3/05
5/
4/
05
Thời gian thu mẫu
ng (STXeq)/g mô nội tạng

Hình 3.4. Biến động hàm lợng độc tố PSP trong nội tạng Vẹm xanh nuôi tại Cát Bà (số
liệu quan trắc tháng 5/ 2004- tháng 4/2005)

So sánh với các kết quả quan trắc về hàm lợng độc tố PSP trong Vẹm xanh nuôi
tại Cát Bà năm 2003-2004, nhận thấy năm 2003-2004 có biến động hàm lợng độc tố
PSP mạnh giữa các đợt quan trắc, dao động từ 0 đến 24,52 ng(STXeq)/g mô nội tạng.
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra


Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng

14
Các đỉnh độc tố xuất hiện trong đợt quan trắc I của tháng 7 (đạt 25,4 ng/g) và II của
tháng 9 (đạt 23,73 ng/g). Hai năm quan trắc đều thấy các tháng 1, 2 và 3 có hàm lợng
độc tố giảm dần và đạt thấp nhất trong năm. để tìm hiểu nguyên nhân tích luỹ độc tố
cao hay thấp trong Vẹm xanh cần tìm hiểu mối quan hệ giữa mật độ các loài tảo
Alexandrium (chi chủ yếu số loài có khả năng sản sinh độc tố PSP) và hàm lợng độc tố
PSP tích luỹ trong nội quan của Vẹm xanh.

0
5
10
15
20
25
30
I-T
4
I-T
5
I-T
6

I-
T
7
I-
T
8
I-
T
9
I-T10
I-
T11
I-
T12
I-T1
I-
T
2
I
-T
3
I
-T
4
Tháng
thu mẫu
ng(STXeq)/g nội tạng
Quan trắc năm 2004-2005 Quan trắc 2003-2004

Hình 3.5. So sánh hàm lợng độc tố PSP tích luỹ trong vẹm xanh nuôi Cát Bà trong các

năm quan trắc 2002-2003 (số liệu dự án JSPS) và 2004-2005.

Hình 3.6. cho thấy mối tơng quan không chặt chẽ giữa hàm lợng độc tố đợc
tích luỹ trong Vẹm xanh và mật độ tảo thuộc chi Alexandrium. Mặt khác cũng nhận
thấy mật độ của các loài tảo thuộc chi này rất thấp dao động từ 0 đến gần 100 tb/L tại
vùng nghiên cứu. Mẫu định tính cũng cho thấy chi Alexandrium phân bố quanh năm,
điều này giải thích vì sao hàm lợng độc tố PSP đợc tích luỹ quanh năm trong Vẹm
xanh nhng với hàm lợng rất thấp.

Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra


Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng

15
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
11
/
5/

2004
26/5/
04
9/6/
04
21/6/
04
9/
7/04
20/
7/04
5/
8/04
17/
8/04
17
/
9/04
30/9/04
13
/
10/04
21
/
10/04
9/11/
04
23
/
11/

04
5/12/
04
20
/
12/
04
12
/
1/
2005
25/1/
05
5/2/
05
24/2/
05
10/3/
05
18/3/
05
5/
4/05
28/
4/05
Thời gian
thu mẫu
Mật độ tb/L
0
1

2
3
4
5
6
7
8
ng (STXeq)/g mô nội
tạngh
Mật độ Alexandrium spp Hàm lợng độc tố ng/g (STX)

Hình 3.6. So sánh mối tơng quan giữa hàm lợng độc tố PSP đợc tích luỹ trong
Vẹm xanh Cát Bà với mật độ tảo chi Alexandrium (quan trắc năm 2004-2005)

3.3. Biến động hàm lợng độc tố PSP trong Ngao (Meretrix sp.) nuôi tại
Tiền Hải Thái Bình
Khác với đối tợng Ngao và Vẹm xanh nuôi ở vùng biển Hải Phòng đợc quan
trắc với tần xuất 2 lần/tháng, Ngao nuôi ở Thái Bình đợc quan trắc 1 lần/tháng. Kết quả
quan trắc đợc cho thấy Ngao nuôi Thái Bình có tích luỹ độc tố PSP trong mô nội tạng,
biến động hàm lợng độc tố giữa các tháng không lớn trừ đợt quan trắc của tháng 12
năm 2004 và tháng 2 năm 2005.
0
1
2
3
4
5
6
7
5/04 6/04 7/04 8/04 9/04 10/04 11/04 12/04 1/05 2/05 3/05 4/05

Thời gian thu mẫu
ng (STXeq)/g mô nội tạng

Hình 3.7. Biến động hàm lợng độc tố PSP trong nội tạng Ngao nuôi tại Thái Bình (số
liệu quan trắc tháng 5/ 2004- tháng 4/2005)
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra


Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng

16
Hình 3.7. cho thấy hàm lợng độc tố PSP trong Ngao nuôi Thái Bình dao động từ
0,54 (tháng 8 năm 2004) đến 6,01ng/g mô nội tạng (tháng 11 năm 2004).
Mặt khác theo tác giả Đào Việt Hà và cs. (2004), hàm lợng độc tố PSP trong
Ngao nuôi Thái Bình quan trắc trong năm 2002-2003 cho kết quả phân tích bằng HPLC
dao động từ 69,1 đến 385 ng/g thịt Ngao. Hàm lợng độc tố này cao hơn rất nhiều lần
kết quả quan trắc của năm 2004-2005 (bảng 3.1)
Bảng 3.1. So sánh hàm lợng độc tố PSP tích luỹ trong Ngao nuôi Thái Bình

STT Đợt quan trắc

Hàm lợng (ng/g)
Năm 2002-
2003 (*)
Năm 2004-
2005
1 Cao nhất 385 6,01
2 Trung bình 245,66 1,62
3 Thấp nhất 69,1 0,54

Ghi chú: (*) nguồn số liệu Nguyễn Văn Nguyên và cộng sự (2003)
Sự khác nhau về hàm lợng độc tố theo thời gian và không gian nghiên cứu vì
chúng sẽ phụ thuộc vào sự có mặt và mật độ của các loài tảo thuộc chi Alexandrium.
Nghiên cứu của Nguyễn Văn Nguyên (2004) cho thấy sự dao động khác nhau về hàm
lợng độc tố PSP tích luỹ trong Ngao 3 vùng Thái Bình, Nam định và Thanh Hoá trùng
với sự dao động khác nhau về mật độ chi Alexandrium. ở Thanh Hoá mật độ
Alexandrium đạt trên 1000 tb/L đã làm độc tố PSP đợc tích luỹ cao nhất (77,28àg/100
g thịt Ngao) số liệu quan trắc năm 2002-2003.
Số liệu quan trắc về mật độ chi Alexandrium năm 2004-2005 tại Thái Bình cũng
cho thấy chi này thờng có mặt ở vùng nớc xa bờ, mật độ dao động trong năm quan
trắc thấp, biến động từ 0 đến 450 tb/L và bắt gặp trong các tháng 8 năm 2004 và tháng
2, 3 năm 2005. So sánh giữa mật độ Alexandrium và hàm lợng độc tố PSP trong Ngao
không có mối tơng quan chặt chẽ, có thể do mật độ và hàm lợng độc tố trong môi
trờng cũng nh tích luỹ trong Ngao thấp nên mối tơng quan không thể hiện rõ ràng.



Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra


Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng

17
3.4. Biến động hàm lợng độc tố PSP trong Vẹm xanh (Mytilus sp.) nuôi
tại Lăng Cô (Huế)
Vẹm xanh (Mytilus sp.) là đối tợng thân mềm hai vỏ đợc nghiên cứu về khả
năng tích luỹ độc tố PSP và đợc quan trắc với tần xuất 1lần/tháng. Kết quả phân tích
độc tố PSP cho thấy, Vẹm xanh có khả năng tích luỹ độc tố PSP, nhng hàm lợng độc
tố tích luỹ thấp, nằm trong giới hạn an toàn cho phép sử dụng làm thực phẩm. Biến động

theo thời gian quan trắc, dao động từ 0,63 (tháng 7 năm 2004) đến 21,27 ng(STXeq)/g
mô nội tạng (tháng 10 năm 2004).

0
5
10
15
20
25
5/04 6/04 7/04 8/04 9/04 10/04 11/04 12/04 1/05 2/05 3/05
Thời gian thu mẫu
ng (STXeq)/g mô nội tạng

Hình 3.8. Biến động hàm lợng độc tố PSP trong nội tạng Vẹm xanh nuôi tại Lăng Cô -
Huế (số liệu quan trắc tháng 5/ 2004- tháng 4/2005)

Các số liệu khảo sát về mật độ của chi Alexandrium do đại học Huế thực hiện
trong năm 2004-2005 cho thấy tảo thuộc chi Alexandrium xuất hiện trong phần lớn các
đợt khảo sát nhng mật độ thấp, dao động từ 30 đến 1.667 tb/L. Riêng tại trạm HCL4,
chi Alexandrium trung bình dới 1000tb/L và vào đợt quan trắc tháng 12 năm 2004, mật
độ chi Alexandrium cao nhất đạt 7.200tb/L. So sánh với hàm lợng độc tố đợc tích luỹ
trong Vẹm xanh, nhận thấy đỉnh độc tố xuất hiện (tháng 10 năm 2004) không trùng với
đỉnh mật độ chi Alexandrium, chiếm u thế đạt 355tb/L (tháng 4 năm 2005). Có thể do
mật độ của chi này quá thấp và hàm lợng độc tố tích luỹ cũng rất thấp nên không thể
hiện mối tơng quan ró ràng .

Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra



Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng

18
3.5. So sánh khả năng tích luỹ độc tố PSP trong nội quan (gan, tuỵ) của
Ngao và Vẹm xanh nuôi tại các vùng thuỷ sản trọng điểm miền Bắc và
miền Trung
Trong năm 2002-2003, tác giả Đào Việt Hà và cs. trong khuôn khổ của đề tài cấp
Bộ thuỷ sản đã tiến hành nghiên cứu hàm lợng độc tố PSP trong Ngao nuôi tại 3 tỉnh
Thái Bình, Nam Định và Thanh Hoá, trong nghiên cứu này tác giả đã sử dụng phơng
pháp HPLC (sắc ký lỏng cao áp). Kết quả nghiên cứu đợc cho thấy hàm lợng độc tố
tích luỹ trong Ngao nuôi tại 3 tỉnh trong năm 2002-2003 cao hơn nhiều lần kết quả phân
tích đợc trong năm 2004-2005.
So sánh với các kết quả quan trắc đợc về hàm lợng độc PSP trong Ngao và
Vẹm xanh nuôi tại Hải Phòng, Thái Bình và Lăng Cô (Huế) trong năm 2004-2005, ta
đợc kết quả trong bảng 3.2.

Bảng 3.2. So sánh hàm lợng độc tố PSP đợc tích luỹ trong Ngao và Vẹm xanh nuôi tại
các vùng biển Đồ Sơn, Cát Bà, Thái Bình và Lăng Cô (Huế)

Số liệu quan trắc 2004-2005 Hàm lợng
(ng/g)
Đồ Sơn Cát Bà Thái Bình Huế
Cao nhất 1,97 7,43 6,01 21,27
Trung bình 0,86 2,81 1,62 8,2
Thấp nhất 0,03 0,36 0,54 0,63

Bảng 3.2. cho thấy Vẹm xanh đợc nuôi ở Lăng Cô (Huế) tích luỹ độc tố PSP
cao nhất (đạt 21,27 ng/g mô nội tạng), Ngao nuôi Đồ Sơn có hàm lợng độc tố tích luỹ
ít nhất (cao nhất chỉ đạt 1,97 ng/g mô nội tạng). So sánh mật độ của chi Alexandrium tại
4 vùng biển nghiên cứu nhận thấy chi này luôn có mật độ thấp tại cả 4 vùng, nhng

vùng Lăng Cô (Huế) có mật độ dao động mạnh nhất từ 30 đến 1.667 tb/L. Riêng tại
trạm HCL4, chi Alexandrium trung bình dới 1000tb/L và vào đợt quan trắc tháng 12
năm 2004, mật độ chi Alexandrium cao nhất đạt 7.200tb/L. Tuy đỉnh mật độ này không
trùng với đỉnh độc tố nhng nó gợi ý Alexandrium cao là nguyên nhân gây tích luỹ độc
tố PSP trong Vẹm xanh nên Vẹm xanh nuôi tại Lăng Cô (Huế) có tích luỹ độc tố PSP
cao nhất.
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra


Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng

19
0
1
2
3
4
5
6
7
8
11/5/2
0
04
2
6/5
/0
4
9

/6/0
4
2
1/6
/0
4
9
/7/0
4
2
0/7
/0
4
5
/8/0
4
1
7/8
/0
4
1
7/9
/0
4
3
0/9
/0
4
13/10
/0

4
21/10
/0
4
9
/1
1/04
23
/1
1/0
4
5
/1
2/04
20
/1
2/0
4
12
/1
/20
0
5
2
5
/1/05
5
/2
/05
2

4
/2/05
1
0
/3/05
1
8
/3/05
5
/4
/05
2
8
/4/05
Thời gian
thu mẫu
ng (STXeq)/g mô nội tạng
Ngao Đồ Sơn Vẹm Cát Bà

Hình 3.9. So sánh khả năng tích luỹ hàm lợng độc tố trong Ngao nuôi ở Đồ Sơn và
Vẹm xanh nuôi ở Cát Bà (Hải Phòng) quan trắc năm 2004 - 2005

Các vùng nghiên cứu còn lại, mật độ chi Alexandrium luôn thấp tại các tháng dao
động từ vài chục đến vài trăm tb/L nên hàm lợng độc tố đợc tích luỹ trong thân mềm
hai vỏ thấp hơn.

0
5
10
15

20
25
5/04 6/04 7/04 8/04 9/04 10/04 11/04 12/04 1/05 2/05 3/05 4/05
Thời gian
thu mẫu
ng (STXeq)/g mô nội tạng
Ngao TháI Bình Vẹm Huế

Hình 3.10. So sánh khả năng tích luỹ hàm lợng độc tố trong Ngao nuôi ở Thái Bình và
Vẹm xanh nuôi đầm Lăng Cô (TT Huế)
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra


Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng

20
Bảng 3.2. và hình 3.9, 3.10 cho thấy hàm lợng độc tố PSP đợc tích luỹ trong
Vẹm xanh thờng cao hơn trong Ngao nhiều lần. điều này đã đợc Shumway và cộng sự
(1995) nghiên cứu cho thấy khả năng tích luỹ độc tố rất khác biệt theo từng loài sinh
vật, tốc độ tích luỹ độc tố của các sinh vật ăn lọc có liên quan chặt chẽ đến số lợng tế
bào vi tảo thích hợp với chúng. Nhng sự đào thải của các độc tố đã tích luỹ lại phụ
thuộc vào vị trí hay bộ phận mà chúng tập trung tích luỹ trong cơ thể sinh vật. Ví dụ độc
tố tập trung trong hệ tiêu hoá của Vẹm xanh sẽ bị đào thải nhanh hơn là độc tố tích luỹ
trong cơ, còn đối với các giống Saxidomus, Placopecten và Spisula thì ngợc lại. Do vậy
Vẹm Mytilus đợc coi là loài có khả năng tích luỹ độc tố nhanh nhất và đào thải độc tố
trong thời gian ngắn nhất. Ngợc lại sò và điệp có thể lu giữ độc tố trong khoảng thời
gian khá dài (2 năm) [Shumway và Cembella 1990].
Mặt khác sự tích luỹ độc tố trong các đối tợng nuôi khác nhau còn phụ thuộc rất
nhiều vào sự có mặt và mật độ của các loài tảo sản sinh ra các độc tố này. So sánh giữa

Ngao Đồ Sơn và Vẹm Cát Bà cho thấy, hàm lợng độc tố dao động khác nhau nhng
đỉnh hàm lợng độc tố xuất hiện trong các thời điểm gần nhau (đợt quan trắc II của
tháng 10 đến tháng 12năm 2004. Đây cũng là những thời điểm có mặt các loài tảo
Alexandrium tại 2 vùng biển này và mật độ quan trắc đợc của các chi này khá cao so
với các đợt quan trắc khác (theo kết quả phân tích định tính và định lợng của vi tảo gây
hại tại vùng biển này hình 3.11).

0
50
100
150
200
250
300
350
400
450
10/5/04
2
5/5/
04
8/6
/
04
20/6/04
8
/7
/
0
4

21/7/04
4/8
/
04
18
/
8/04
14/9/04
2
6/9/
0
4
11/10/04
20/10
/
04
7/11/04
2
1/
1
1/
0
4
4/
1
2/04
18/12/04
11/1/05
2
4/1/

0
5
6
/
2/05
2
3/
2/05
9/3/05
2
0/3/
0
5
5/4
/
05
29/4/05
Thời gian
thu mẫu
tb/L
0
1
2
3
4
5
6
7
8
STX (ng/g)

Alexandrium Đồ Sơn Alexandrium Cát Bà
Độc tố PSP Đồ Sơn Độc tố PSP Cát Bà

Hình 3.11. So sánh mối tơng quan giữa Mật độ chi Alexandrium và hàm lợng độc tố
PSP tích luỹ trong Ngao nuôi Đồ Sơn và Vẹm canh nuôi Cát Bà 2004-2005
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra


Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng

21
Ngao nuôi ở Thái Bình và Vẹm xanh nuôi ở Huế cũng cho bức tranh tơng tự,
độc tố PSP tích luỹ trong Vẹm cao hơn Ngao và kết quả nghiên cứu về thành phần loài,
phân bố và mật độ chi Alexandrium cũng cho thấy tại các trạm khảo sát của Huế luôn
bắt gặp chi này và có tháng bắt gặp với mật độ rất cao (thảo luận ở trên).

3.6. So sánh hàm lợng độc tố và độ an toàn thực phẩm trong thân mềm
hai vỏ thuộc 3 vùng nuôi trên
Độc tố PSP có thể gây nguy hiểm tới tính mạng của ngời khi ăn phải thức ăn có
độc tố này, trong trờng hợp nghiêm trọng tử vong có thể xảy ra do liệt cơ hô hấp trong
vòng 2-24 giờ sau khi ăn, các dấu hiệu ngộ độc cụ thể đã đợc trình bày trong bảng 1 ở
phần trên.
Chính vì độc tố PSP có mức độ nguy hiểm nh vậy đối với sức khoẻ ngời tiêu
dùng nên nó đợc quan trắc ở phần lớn các quốc gia (chiếm 81% các nớc có biển)
bằng phơng pháp thử nghiệm trên chuột theo phơng pháp chuẩn của AOAC (1995),
trừ một số nớc sử dụng hệ thống phân tích HPLC nh Nethrlands, DanMạch, Nhật
Bản, UK-Scoland [Design and Implementation]
Tiêu chuẩn về giới hạn an toàn đối với hàm lợng độc tố PSP cũng rất khác nhau
tại các nớc. Đối với các nớc EU, giới hạn hàm lợng độc tố PSP trong mô các nhuyễn

thể cho phép sử dụng là dới 80àg STXeq/100g thịt thân mềm hai vỏ tơng ứng với
400MU/100g thịt. Giới hạn tiêu chuẩn này đợc áp dụng cho 89% các nớc và vùng có
quan trắc độc tố PSP. Tiêu chuẩn cho phép đối với độc tố này đợc áp dụng ở Philippine
và Norway thấp hơn, chỉ áp dụng mức 40 àg/100g thịt (200 MU/100g thịt). Còn đối với
Canada, các sản phẩm có hàm lợng độc tố PSP đạt đến 160àg/100g mô sẽ bị huỷ bỏ.
Dới đây là một số tiêu chuẩn cụ thể đợc áp dụng tại một số nớc có sản phẩm thuỷ
sản chiếm u thế và phơng pháp phân tích loại độc tố này.

Bảng 3.3. Giới hạn cho phép đối với độc tố PSP tại một số nớc và phơng pháp sử dụng
cho phân tích độc tố này (Shumway và cs. 1996)

STT Quốc gia Giới hạn tiêu chuẩn cho
phép (àg/100g thịt)
Phơng pháp phân tích
độc tố
1 Australia 80 Thử chuột
2 Canada (Maritime) 80 Thử chuột
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra


Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng

22
3 Đan Mạch 80 Thử chuột, HPLC
4 Pháp 80 Thử chuột
5 Đức 80
6 Mỹ 80 Thử chuột
7 Hồng Kông 30 Thử chuột
8 Nhật Bản 30 Thử chuột, HPLC

9 New Zealand 30 Thử chuột
10 Philippines 40 Thử chuột
11 Singapore 80 Thử chuột
12 Việt Nam 80 Thử chuột

Nh vậy, đối chiếu với các tiêu chuẩn cho phép về hàm lợng độc tố PSP tại một
số nớc và Việt Nam [tiêu chuẩn của Bộ Thuỷ sản, 2000], nhận thấy các đối tợng
Ngao và Vẹm xanh nuôi tại Hải Phòng, Thái Bình và Huế có tích luỹ độc tố PSP nhng
hàm lợng rất thấp (dao động trong phạm vi vài ng/g tơng đơng với vài trăm ng/100g
thịt) dới mức an toàn cho phép rất nhiều lần. Tuy nhiên hàm lợng độc tố này sẽ biến
đổi phụ thuộc vào sự có mặt và mật độ của các loài tảo có khả năng sản sinh độc tố PSP
nh các loài thuộc chi Alexandrium v.v và các yếu tố môi trờng tại từng thời điểm và
từng vùng nghiên cứu. Vì vậy để đảm bảo cho sức khoẻ cộng đồng khi sử dụng hải sản
làm thực phẩm rất cần có hệ thống quan trắc thờng xuyên để có thể kịp thời cảnh báo
khi mật độ của các loài tảo sản sinh độc tố quá cao hoặc đóng cửa các vùng khai thác
đối tợng thân mềm hai vỏ khi hàm lợng độc tố PSP/100g thịt vợt quá giới hạn cho
phép (>80àg).
Các nghiên cứu trớc của các nhóm tác giả thuộc Phân viện hải dơng học Hải
Phòng và Nha trang đều cho thấy hàm lợng độc tố PSP tích luỹ trong các đối tợng
thân mềm hai vỏ thuộc các khu vực phía Bắc và Trung nam bộ thấp, nằm trong giới hạn
an toàn cho ngời sử dụng các đối tợng này làm thực phẩm nhiều lần. Trừ trờng hợp
ngộ độc tại đảo Nhơn Châu vào tháng 5/1998 đã có một cô giáo bị chết và một số ngời
đợc cứu sống khi ăn phải cua biển trong một chuyến dã ngoại. Dới sự tài trợ của dự
án ASEAN- Canada 1998, loài cua này đã đợc thu và phân tích độc tố, kết quả phân
tích này cho thấy chúng có chứa độc tố PSP và đặc biệt loài cua Mặt quỷ Zosymus
aeneus có độc tính cao nhất (631,87 àg STXeq/100g thịt) [Nga và cs. 1998].

Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra



Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng

23
3.7. Giải pháp làm giảm tác hại của các độc tố tảo PSP đối với ngời tiêu
thụ ĐVTMHMV làm thực phẩm

Các kết quả nghiên cứu trên tuy không cho thấy rõ mối tơng quan thuận giữa
mật độ của các loài tảo thuộc chi Alexandrium có khả năng sản sinh độc tố PSP và sự
tích luỹ độc tố trong ĐVTMHMV, nhng cũng đã cho thấy rõ mật độ của chi
Alexandrium chính là nguyên nhân chính gây nên sự tích luỹ độc tố nguy hiểm này
trong ĐVTMHMV. Chính vì vậy, một số nớc trên Thế giới đã kiểm soát rất chặt chẽ
vấn đề môi trờng của các vùng nuôi trồng thuỷ sản. Để đảm bảo an toàn trong đồ ăn
hải sản cho ngời dân, chính phủ của các nớc này đã đa mật độ tế bào của một số loài
tảo có khả năng sản sinh độc tố thuộc chi Alexandrium thành một tiêu chuẩn quy định
cho việc khai thác thuỷ sản tại vùng nuôi trồng tập trung . Bảng dới đây sẽ cho thấy rõ
hơn vấn đề này.

Bảng 3.4. Giới hạn mật độ của một số loài tảo thuộc chi Alexandrium đối với việc khai
thác nhuyễn thể (theo Andersen 1996)

Tên nớc Tên loài Mật độ tb/L Hoạt động ứng xử
Australia

> 4 x 10
4


Kiểm tra hàm lợng
độc tố

Spain-Valencia
Alexandrium
catanella
2x10
7
5x10
7
Kiểm tra hàm lợng
độc tố
Canada Alexandrium
fundyense
có mặt Kiểm tra hàm lợng
độc tố
Bồ Đào Nha Alexandrium
lusitanicum
5 x 10
3
tăng cờng quan trắc,
đóng cửa khai thác
Tây Ban Nha Alexandrium
minutum
10
3

Đan Mạch 500
Bắc Ailen có mặt
Scotland
Alexandrium
ostenfeldii
có mặt

tăng cờng quan trắc,
đóng cửa khai thác
Đan Mạch Alexandrium
tamarense
500 tăng cờng quan trắc,
đóng cửa khai thác
Đan Mạch Alexandrium sp. 500 tăng cờng quan trắc,
Báo cáo chuyên đề - Đề tài KC-09-19: Điều tra, nghiên cứu tảo độc, tảo gây hại ở một số vùng nuôi trồng thuỷ
sản tập trung ven biển, đề xuất giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu những tác hại do chúng gây ra


Viện Tài nguyên và Môi trờng Biển, 246 Đà Nẵng, Hải Phòng

24
đóng cửa khai thác
Hà Lan 10
3
10
4

NaUy có mặt
Tây Ban Nha
Alexandrium spp
10
3

khai thác hạn chế >
đóng cửa

Nh vậy, đối với độc tố PSP để kiểm soát và bảo đảm an toàn cho sức khoẻ cộng

đồng, khi mật độ của các loài thuộc chi này dao động từ có mặt trong vùng nuôi trồng
đến 5x10
7
tb/L lập tức phải tăng cờng quan trắc thu mẫu hàng ngày hoặc đóng cửa khai
thác. Phần lớn các nớc còn tăng cờng quan trắc việc phân tích độc tố trong nhuyễn
thể bằng HPLC. Có sự khác nhau về giới hạn mật độ của các loài khác nhau trong cùng
một chi quy định cho các hoạt động ứng xử khác nhau. Điều này là kết quả của sự sản
sinh hàm lợng độc tố biến động khác nhau giữa các loài khác nhau.


Kết luận và kiến nghị

Kết luận
Sau một năm quan trắc hàm lợng độc tố PSP đợc tích luỹ trong mô nội tạng
của Ngao và Vẹm xanh nuôi tại một số tỉnh miền Bắc (Hải Phòng, Thái Bình) và miền
Trung (Huế) cho thấy:
- Các đối tợng thân mềm hai vỏ Ngao (Meretrix meretrix) và Vẹm xanh
(Mytilus sp.) nuôi tại các vùng biển Đồ Sơn, Cát Bà, Thái Bình và Lăng Cô (Huế) có
tích luỹ độc tố PSP trong mô nhng hàm lợng rất thấp, dới mức giới hạn cho phép
trong sử dụng các đối tợng này làm thực phẩm nhiều lần. Nhìn chung hàm lợng độc
tố dao động từ vài phần trăm đến vài chục ng/g mô nội tạng.
+ Hàm lợng độc tố PSP trong Ngao (Meretrix meretrix) nuôi Đồ Sơn dao động
từ vài phần trăm ng/g đến 2 ng (STXeq)/g mô nội tạng của Ngao nuôi. Tháng 4 năm
2005 là tháng quan trắc có hàm lợng độc tố PSP thấp nhất (0,03-0,18 ng/g), hàm lợng
độc tố PSP quan trắc trong cả năm đạt cao nhất 1,97 ng/g trong đợt quan trắc II của
tháng 11 năm 2004.
+ Hàm lợng độc tố PSP trong Vẹm xanh nuôi ở Cát Bà thấp, dao động từ 0,36
đến 7,43 ng (STXeq)/g mô nội tạng. Biến động giữa các đợt quan trắc trong năm không
mạnh, tháng 5 năm 2004 và tháng 2, tháng 4 năm 2005 là những tháng quan trắc cho

×