Tải bản đầy đủ (.docx) (66 trang)

Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh tiên mao trùng do trypanosoma evansi gây ra ở trâu, bò tại huyện đồng hỷ tỉnh thái nguyên và đề xuất biện pháp phòng, trị bệnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 66 trang )

1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Trong những năm qua, Việt Nam đã thực hiện nhiều chính sách phát
triển nông nghiệp, nông dân các địa phương hăng hái sản xuất xóa đói giảm
nghèo, làm giàu trên mảnh đất của mình. Nhờ vậy, nông nghiệp đã có nhiều
thành tựu góp phần thực hiện nhiệm vụ xây dựng đất nước. Ngành chăn nuôi
ngày càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, tổng đàn gia súc
ngày càng tăng, nhiều giống mới được nhập vào nuôi thuần hóa để cải tạo đàn
có hiệu quả. Các kết quả nghiên cứu khoa học thú y đã được gắn liền với việc
phát triển chăn nuôi trâu, bò và ngày càng được thực tế sản xuất tiếp thu, áp
dụng hoàn chỉnh hơn.
Mặt khác, Việt Nam đã là thành viên của OIE, do đó đòi hỏi về trình độ
khoa học kỹ thuật trong chẩn đoán xác định các bệnh cho vật nuôi cũng tương
đương với các nước khác. Phương pháp chẩn đoán, ngoài vấn đề có độ chính
xác cao được thế giới công nhận, còn đòi hỏi nhanh chóng về thời gian.
Tuy nhiên, cuộc đấu tranh chống lại bệnh nói chung và những bệnh do
ký sinh trùng nói riêng của con người và thế giới động vật không bao giờ là
kết thúc. Điều kiện tự nhiên và môi trường sống của con vật luôn luôn thay
đổi, nhiều khi trở nên bất lợi cho một mầm bệnh nên chúng bị mất đi. Nhưng
ngược lại cũng có thể căn nguyên gây bệnh lại thích nghi với hoàn cảnh mới
nên có những bệnh tưởng như đa được dập tắt lại bùng nổ. Do vây, bệnh dịch
trên đàn gia súc vẫn thường xuyên xảy ra, gây nhiều thiệt hại cho người chăn
nuôi. Ngoài những bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như: Tụ huyết trùng, Lở
mồm long móng, Leptospira; thì bệnh do tiên mao trùng (Tripanosoma
evansi) gây ra trên đàn trâu, bò cũng gây thiệt hại rất lớn.
Bệnh do Trypanosoma (Trypanosomiasis) là bệnh truyền lây giữa người
và gia súc do ký sinh trùng đơn bào (Protozoa) lớp trùng roi (Flagellata) gây ra.
Có nhiều loài thuộc giống Trypanosoma, như: Trypanosoma brucei, Trypanosoma
cruzi, Trypanosoma evansi, Trypanosoma congolense, Trypanosoma gambiense,


Trypanosoma vavax,…
1
1
2
Bệnh tiên mao trùng hay còn gọi là bệnh ngã nước. Trâu bò mắc bệnh ở
thể mãn tính, con vật ngày càng gầy, sức khỏe suy yếu dần, giảm khả năng
sản xuất. Nếu ở thể cấp tính, con vật đột ngột sốt cao, bụng chướng to rồi
lăn ra chết, gây tổn thất to lớn về kinh tế cho người chăn nuôi.
Theo số liệu của Phạm Sỹ Lăng (1982) [7], Phan Văn Chinh (2006) [2],
bệnh tiên mao trùng xuất hiện ở nhiều vùng trên cả nước, với tỷ lệ mắc khá
cao: trên trâu là 13 - 30%, trên bò là 7 - 14%, trong đó tỷ lệ gia súc chết/gia
súc mắc lên tới 6,3 - 20%.
Bên cạnh đó, tỷ lệ mắc Trypanosoma evansi trên gia súc ở vùng núi và
trung du cao hơn ở các vùng đồng bằng và ven biển. Trong khi đó, ở nước ta,
chăn nuôi gia súc nhai lại để cung cấp sức kéo, thịt, sữa lại tập trung chủ yếu
ở các tỉnh miền núi và trung du - là các vùng có điều kiện tự nhiên thích hợp
cho sự phát triển chăn nuôi gia súc nhai lại, nhưng cơ sở hạ tầng phục vụ công
tác chẩn đoán và điều trị tại địa phương còn yếu kém; dẫn tới hệ quả là bệnh
tiên mao trùng trở nên phổ biến hơn, nghiêm trọng hơn và gây thiệt hại lớn
hơn, ảnh hưởng lớn tới kinh tế của người nông dân.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế sản xuất, giúp người dân có biện pháp
phòng, điều trị bệnh tiên mao trùng một cách hiệu quả nhất, đồng thời
nâng cao năng suất chăn nuôi và hiệu quả kinh tế, chúng em tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh tiên mao trùng do
Trypanosoma evansi gây ra ở trâu, bò tại huyện Đồng Hỷ -
tỉnh Thái Nguyên và đề xuất biện pháp phòng, trị bệnh”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh do Trypanosoma evansi gây ra ở
đàn trâu, bò tại một số xã thuộc huyện Đồng Hỷ - tỉnh Thái Nguyên.
- Xác định đặc điểm bệnh lý, lâm sàng của bệnh tiên mao trùng trong

điều kiện chăn nuôi.
- Lựa chọn phác đồ điều trị bệnh tiên mao trùng có hiệu quả, phù hợp
với điều kiện miền núi.
2
2
3
- Xây dựng quy trình phòng, trị bệnh góp phần hạn chế những thiệt
hại do bệnh tiên mao trùng gây ra cho đàn trâu, bò thuộc huyện Đồng Hỷ -
tỉnh Thái Nguyên.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa khoa học
Kết quả của đề tài là những thông tin khoa học về đặc điểm dịch tễ của
bệnh tiên mao trùng do T. evansi gây ra và quy trình phòng chống bệnh tiên
mao trùng ở trâu, bò.
- Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học để khuyến cáo người chăn nuôi áp
dụng quy trình phòng, trị bệnh tiên mao trùng nhằm hạn chế tỷ lệ nhiễm và
thiệt hại do T. evansi gây ra; góp phần nâng cao năng suất chăn nuôi; thúc đẩy
ngành chăn nuôi trâu, bò phát triển.
3
3
4
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Bệnh tiên mao trùng được Blanchard (1888) phát hiện đầu tiên ở Việt Nam.
Sau đó, bệnh được xác định là phổ biến ở hầu hết các tỉnh thành trong cả
nước. Bệnh do loài tiên mao trùng Trypanosoma evansi gây ra. Trâu, bò, ngựa
mắc bệnh dễ chết hoặc thiếu máu, suy nhược, giảm hoặc mất khả năng sinh
sản và sức sản xuất.

2.1.1. Đặc điểm hình thái, cấu trúc và phân loại tiên mao trùng
2.1.1.1. Vị trí của tiên mao trùng Trypanosoma evansi trong hệ thống phân
loại động vật học
Theo Levine và cs (1980) (dẫn theo Lương Văn Huấn và cs, (1997)
[4]), vị trí của tiên mao trùng trong hệ thống phân loại nguyên bào (Protozoa)
như sau:
Ngành Sarcomastigophora
Phân ngành Mastigophora
Lớp Zoomastigophorasida
Bộ Kinetoplastorida
Phân bộ Trypanosomatorida
Họ Trypanosomatidae Donein, 1901
Giống Trypanosoma Gruby, 1843
Giống phụ Megatrypanum Hoare, 1964
Loài Trypanosoma (M) theileria
Giống phụ Herpetosoma Donein, 1901
Loài Trypanosoma (H) leisi
Giống phụ Schizotrypanum Chagas, 1909
Loài Trypanosoma (S) cruzi
Giống phụ Duttonella Chalmers, 1918
Loài Trypanosoma (D) vivax
Loài Trvpanosoma (D) uniform
4
4
5
Giống phụ Nalmomonas Hoare, 1964
Loài Trypanosoma (N) congolense
Loài Trypanosoma (N) siminae
Loài Trypanosoma (N) vanhogi
Giống phụ Trypanozoon Liihe, 1906

Loài Trypanosoma (T) brucei
Loài Trypanosoma (T) gambience
Loài Trypanosoma (T) rhodesiense
Loài Trypanosoma (T) equiperdum
Giống phụ Pycnomonas Hoare, 1964
Loài Trypanosoma (P) suis
Giống phụ Trypanosoma Gruby, 1843
Loài Trypanosoma evansi (Steel, 1885)
Trong các loài tiên mao trùng trên, có 7 loài được tổ chức dịch tễ
quốc tế (OIE) thông báo là có khả năng gây bệnh cho người và động vật
có vú, đó là: T. brucei, T. congolense, T. cruzi, T. evansi, T. gambiense,
T. siminae, T. vivax.
2.1.1.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo của T. evansi
Tiên mao trùng T. evansi được xếp vào loại đơn hình thái, cơ thể chỉ là
một tế bào, có kích thước nhỏ, chiều dài 18 - 34 μm (trung bình là 25 μm),
chiều rộng 1,5 - 2μm. Cơ thể có hình suốt chỉ mảnh hoặc hình thoi, cuối thân
nhọn. Nhìn chung, cấu trúc cơ bản của T. evansi cũng giống như cấu trúc của
các loài tiên mao trùng khác thuộc họ Trypanosomatidae. Cấu trúc từ ngoài
vào trong được chia thành 3 phần chính:
- Vỏ: Ngoài cùng là lớp vỏ dày 10 - 15 nm, vỏ được chia làm 3 lớp (lớp
ngoài và lớp trong cùng tiếp giáp với nguyên sinh chất dầy hơn lớp giữa). Lớp
vỏ ngoài cùng được cấu tạo từ các phân tử glycoprotein luôn biến đổi (VGS).
Tiếp giáp với lớp trong cùng là 9 cặp vi ống xếp song song dọc theo chiều dài
thân tiên mao trùng. Chính nhờ sự sắp xếp của các cặp vi ống nên tiên mao
trùng có dạng hình suốt chỉ mảnh (Hoare, 1972 [30]; Phạm Sỹ Lăng, 1982 [7];
Nguyễn Quốc Doanh, 1999 [3]).
5
5
6
- Nguyên sinh chất: Gồm lớp trong và lớp ngoài. Trong nguyên sinh

chất có chứa các nội quan: ribosome có màu thẫm xen kẽ vùng không bào
màu sáng, kinetoplast (thể cơ động), mitochrondno, reticulum (lưới nội bào)
và mạng lưới golgi.
- Nhân: Nhân tiên mao trùng có chứa ADN, hình bầu dục hoặc hình
trứng. Nhân thường nằm ở vị trí trung tâm hoặc gần vị trí trung tâm cơ thể.
Ngoài nhân, về phía cuối thân còn có thể kinetoplast chứa AND (KADN). Từ
kinetoplast có một roi chạy vòng quanh thân lên đầu và ra phía ngoài cơ thể
thành một roi tự do.
- Roi của tiên mao trùng có lớp vỏ ngoài cùng giống lớp vỏ của thân.
Trong roi có 9 cặp vi ống ở xung quanh và một cặp ở trung tâm, xếp song
song dọc chiều dài roi (Hoare, 1972 [30]; Nguyễn Quốc Doanh, 1999 [3]).
2.1.1.3. Cấu trúc kháng nguyên của T. evansi
Kháng nguyên của T. evansi gồm hai loại: kháng nguyên ổn định
(kháng nguyên không biến đổi) và kháng nguyên biến đổi
* Kháng nguyên ổn định (kháng nguyên không biến đổi)
Phần lớn các thành phần kháng nguyên tiên mao trùng không biến đổi
trong quá trình sống ký sinh. Bằng phương pháp điện di miễn dịch huyết
thanh thỏ tối miễn dịch với T. evansi, Kageruka (1982) đã phát hiện tới 30
thành phần kháng nguyên khác nhau. Có ba loại kháng nguyên không biến
đổi ở màng nguyên sinh chất tế bào (ISG): ISG 65, ISG 75 và ISG 100. Do
cấu trúc không gian ba chiều và đặc tính ưa nước, các loại này không kết hợp
với kháng thể của vật chủ.
* Kháng nguyên biến đổi
Cần đề cập đến sự biến đổi lớp vỏ bề mặt VSG, những quan điểm mới
về sự xuất hiện kháng nguyên biến đổi của tiên mao trùng và cơ chế di truyền
của kháng nguyên biến đổi.
Nhờ kháng thể đặc hiệu được đánh dấu mà Vickerman và Luckins
(1969) [46] đã phát hiện ra sự biến đổi của lớp kháng nguyên bề mặt. Nhiều
tác giả nghiên cứu về miễn dịch học cho rằng, tiên mao trùng biến đổi kháng
6

6
7
nguyên bề mặt để né tránh miễn dịch đặc hiệu của vật chủ. Tuy nhiên, Van
Meirvenne (1975) [45] cho rằng sự biến đổi kháng nguyên bề mặt của ký sinh
trùng đã có ngay ở pha đầu tiên của quá trình nhiễm (trước khi xuất hiện đáp
ứng miễn dịch của cơ thể vật chủ). Nhưng cho đến nay, quan điểm về sự biến
đổi kháng nguyên lớp vỏ của tiên mao trùng vẫn chưa được làm sáng tỏ.
* Cơ chế di truyền của kháng nguyên biến đổi
Khi kháng thể đặc hiệu kết hợp với phân tử của kháng nguyên bề mặt
(VSG), làm tiêu tan tiên mao trùng thì đó cũng là nguyên nhân chính thúc đẩy
sự hoạt hoá của gen. Kết quả là các phân tử kháng nguyên VSG được thay đổi
hoàn toàn bằng các phân tử VSG mới. Lúc này, kháng thể đặc hiệu lúc trước
đã không còn tác dụng đối với kháng nguyên mới này.
Theo Barry và Tumer (1991) [27], Vanhamme và cs (1995) [44], các
VSG được mã hoá nhờ các gen chuyên biệt từ kho chứa hàng nghìn các gen
khác nhau, một gen VSG được hoạt hoá một cách chọn lọc, dẫn đến tổng hợp
ra một loại kháng nguyên VSG. Mỗi bên VSG mới tạo ra một loại kháng
nguyên VSG mới. Trong bộ gen của tiên mao trùng tồn tại một số lớn gen
VSG, các gen này sử dụng nhiều cơ chế sắp xếp khác nhau, do vậy tiên mao
trùng đã tạo ra nhiều VSG khác nhau ở gia súc bị bệnh mãn tính. Cơ chế biến
đổi kháng nguyên theo 2 cách: cách thứ nhất là, sử dụng lần lượt các điểm biểu
hiện khác nhau, không có sự sắp xếp của ADN. Các điểm biểu hiện khác nhau
sẽ mang các gen VSG khác nhau, sự luân phiên này dẫn đến sự thay đổi type
kháng nguyên. Cơ chế này quan sát được chủ yếu ở giai đoạn đầu của quá trình
cảm nhiễm. Có lẽ ở giai đoạn đầu này chưa có đáp ứng miễn dịch của vật chủ
đối với VSG, chính điều này không gây ra một cản trở hoạt hoá tự nhiên của
các điểm biểu hiện gen này. Cách thứ hai là, tập hợp lại các đoạn ADN khác
nhau để tái tổ hợp gen, mà việc tái tổ hợp này cho phép thay thế hoàn toàn hoặc
từng phần gen; hoặc việc thay thế diễn ra dựa vào sự chuyển đổi gen chứ
không phải dựa vào tái tổ hợp gen. Trường hợp này được diễn giải như sau:

Một gen hoạt hoá được thay thế bằng bản sao chép của một gen khác. Do có sự
thay thế một phần của gen nên đã tạo ra loại gen phức hợp và đặc trưng.
7
7
8
2.1.2. Dịch tễ học bệnh Trypanosoma evansi
2.1.2.1. Phân bố bệnh Trypanosoma evansi
Bệnh tiên mao trùng phân bố rất rộng, từ phía Tây sang phía Đông bán
cầu. Phía Tây bán cầu thuộc châu Mỹ, phía Đông bán cầu trải dài từ châu Phi
cho đến Philippine.
Ở châu Phi, bệnh trải dài từ Tây sang Đông, phía Bắc qua vùng sa mạc
Sahara, dọc theo bờ biển Atlantique Địa trung hải.
Bệnh tiên mao trùng xảy ra với tên gọi "bệnh Surra” ở Ả rập Saudi,
Yêmen, Sultanate, Ả Rập thống nhất, Thổ Nhĩ Kỳ, Israel, Syrie, Afganistan,
Pakistan.
Ở châu Á, bệnh xuất hiện ở Trung Á (thuộc Liên Xô cũ), Ấn Độ,
Malaysia, bán đảo Đông Dương, Trung Quốc, Indonexia, Philippine.
Ở châu Âu, bệnh xuất hiện ở Bungaria (nay đã được thanh toán), hiện
chỉ còn ở vùng Volga và Nam Capcase (Liên Xô cũ).
Ở châu Mỹ, bệnh xuất hiện ở Trung Mỹ, Nam Mỹ, đặc biệt phổ biến ở
Brazil, Mexico, Venezuela, Colombia.
Châu Úc cũng đã được xác định là có bệnh tiên mao trùng (Reid, 2002
[36]; Losos, 1972 [31]) cho rằng, bệnh tiên mao trùng phổ biến nhất ở
châu Á và châu Phi, từ Ấn Độ đến Srilanca, Trung Quốc, Indonexia, Thái
Lan, Lào, Camphuchia, Iran, Philippine.
Ở Việt Nam, bệnh tiên mao trùng thấy ở hầu hết các vùng sinh thái
khác nhau: miền núi, trung du, đồng bằng, ven biển. Theo Phạm Sỹ Lăng
(1982) [7], bệnh tiên mao trùng có ở tất cả các tỉnh miền Bắc (Bắc Kạn, Lạng
Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Ninh Bình, Hà Tây). Trâu, bò nhiễm bệnh
với tỷ lệ cao và thay đổi giữa các vùng khác nhau (trâu, bò ở đồng bằng

nhiễm tiên mao trùng cao hơn vùng trung du và miền núi, đặc biệt ở trâu, bò
có nguồn gốc từ miền núi chuyển xuống vùng đồng bằng).
2.1.2.2. Vật chủ và vật môi giới truyền T. evansi
Trong tự nhiên, tiên mao trùng ký sinh ở hầu hết các loài thú nuôi và
thú hoang, thấy nhiều hơn ở trâu, bò, ngựa, trâu bò rừng, hươu, nai, hổ, báo,
sư tử, chó, mèo, lạc đà, voi thỏ, chuột cống, chuột lang, chuột bạch, nhưng
không ký sinh ở người.
8
8
9
Sự lây truyền tiên mao trùng từ trâu, bò ốm sang trâu, bò khoẻ là nhờ
các loài ruồi hút máu (thuộc họ phụ Stomoxydinae) và các loài mòng hút máu
(thuộc họ Tabanidae). Ruồi và mòng hút máu của gia súc bị bệnh, hút luôn cả
tiên mao trùng vào vòi hút, sau đó lại hút máu gia súc khoẻ, trong khi hút máu
sẽ truyền tiên mao trùng từ vòi hút vào máu con vật khoẻ. Sự lây truyền này
mang tính chất cơ học. Như vậy, ruồi và mòng hút máu là những vật môi giới
truyền bệnh tiên mao trùng quan trọng.
Theo Phan Địch Lân (1974) [9], Phan Địch Lân (1994 - 2004) [10],
phần lớn các loài mòng tập trung ở khu vực miền núi và trung du. Trong 53
loài mòng thì có tới 44 loài phân bố ở vùng rừng núi có độ cao dưới 1.000m
so với mặt nước biển, càng lên cao số loài càng ít dần (độ cao trên 1.000m chỉ
có 26 loài). Ở vùng trung du (rừng thưa, độ cao không quá 500m so với mặt
nước biển có 27 loài; vùng đồi trọc chỉ có 9 - 11 loài; vùng rừng núi ven biển
phát hiện chỉ có 8 loài. Những loài mòng phổ biến ở tất cả các vùng là:
Tabanus rubidus, Tabanus striatus, Chrysops dispar, Chrysozoma assamensis.
Những loài mòng chỉ gặp ở vùng núi là: Tabanus flavistriatus,
Tabanus fumifer, Chrysops vander. Miền Bắc nước ta có 4 loài ruồi hút máu,
hai loài phổ biến ở tất cả các vùng là Stomoxys calcitrans và Liperosis
exigua; hai loài chỉ thấy ở những vùng sinh cảnh đặc biệt: loài Bdellolarynx
sanguinolentus (chỉ xuất hiện ở vùng có độ cao dưới 1.000m), loài Stomoxys indica

(chỉ thấy ở vùng núi Cẩm Thuỷ - Thanh Hoá).
Tác giả Phan Địch Lân (1994 - 2004) [10] kiểm tra ở nhiều địa điểm
thấy hai loài mòng Tabanus rubidus và Tabanus striatus mang tiên mao trùng
với tỷ lệ 15,2% và 14,0%; ruồi hút máu Stomoxys calcitrans mang tiên mao
trùng với tỷ lệ 12,5%. Ở những vùng đang có bệnh tiên mao trùng, kiểm tra
ruồi và mòng hút máu dễ dàng tìm thấy tiên mao trùng. Sau khi theo máu vào
vòi hút ruồi và mòng, tiên mao trùng vẫn sống đến giờ thứ 53, thời gian hoạt
động mạnh nhất là từ giờ thứ nhất đến giờ thứ 34, trung bình là 24 giờ. Sự hoạt
động của tiên mao trùng yếu dần từ giờ thứ 35 đến 42. Từ 46 - 53 giờ thì tiên
mao trùng ngừng hoạt động.
Hình thái tiên mao trùng khi ở trong vòi ruồi, mòng biến đổi theo thời
gian: Từ 1 - 34 giờ có hình thái, kích thước bình thường; từ 35 - 45 giờ: Tiên
9
9
10
mao trùng có hình dạng thay đổi, tăng kích thước chiều rộng và thô dần; từ 46 -
53 giờ: Tiên mao trùng trương to, duỗi thẳng, mất khả năng di động và ngừng
hẳn hoạt động.
Thực nghiệm đã chứng minh khả năng gây bệnh của tiên mao trùng sau
khi xâm nhập vào mòng Tabanus rubidus như sau: Thời gian từ giờ thứ 1 đến
thứ 5, tiên mao trùng có khả năng gây bệnh và làm chết chuột bạch tương tự
như khi truyền thẳng máu có tiên mao trùng cho chuột; từ giờ thứ 6 đến thứ 7
chỉ còn 30% số chuột thí nghiệm phát bệnh, thời gian gây bệnh kéo dài và
thời gian chết của chuột cũng dài. Điều này có thể giải thích là do độc lực của
tiên mao trùng giảm dần và số lượng tiên mao trùng còn hoạt lực gây bệnh
cũng giảm dần sau khi chúng xâm nhập vào mòng Tabanus rubidus. Kết quả
này cũng phù hợp với nghiên cứu của Phạm Sỹ Lăng (1982) [7] cho rằng, thời
gian xâm nhập của tiên mao trùng càng lâu thì tỷ lệ gây bệnh càng giảm, điều
này có thể do giảm số lượng và độc tính của Trypanosoma evansi trong máu
của ruồi, mòng.

2.1.2.3. Tuổi vật chủ, mùa mắc T. evansi
Trâu, bò và các loài gia súc khác ở mọi lứa tuổi đều nhiễm tiên mao
trùng và đều phát bệnh, có thể dẫn đến tử vong hoặc suy nhược, thiếu máu,
giảm sức đề kháng, giảm khả năng sinh đẻ và sức sản xuất.
Phan Địch Lân (1994 - 2004) [10] đã tổng hợp kết quả điều tra 3.172
trâu ở các tỉnh đồng bằng: Trâu dưới 3 năm tuổi nhiễm thấp nhất (3,2 - 6,l%),
trâu 3 - 5 tuổi nhiễm cao hơn (6 - 12,7%), trâu 6 - 8 tuổi nhiễm cao nhất (12,9
- 14,8%), trâu trên 9 năm tuổi tỷ lệ nhiễm giảm thấp hơn trâu 3 - 8 năm tuổi.
Phan Văn Chinh (2006) [2] cho biết, tỷ lệ nhiễm tiên mao trùng cao
nhất ở 4 - 8 năm tuổi (trâu: 12,71%; bò: 5,77%), thấp nhất là trâu, bò dưới 3
năm tuổi (6,92% và 2,31%). Mùa lây lan bệnh thường xảy ra trong các tháng
nóng ẩm, mưa nhiều (từ tháng 4 đến tháng 9). Thời gian này điều kiện sinh
thái thuận lợi cho các loài ruồi, mòng phát triển, hoạt động mạnh, chúng hút
máu súc vật và truyền tiên mao trùng.
Theo Luckins (1988) [32], sự xuất hiện lượng lớn ruồi, mòng trong
mùa mưa nóng ẩm luôn có liên quan đến tình hình dịch tễ bệnh tiên mao trùng
ở trâu, bò, dê, lạc đà. Từ cuối mùa thu, mùa đông và đầu mùa xuân, trâu bò
10
10
11
nhiễm tiên mao trùng phải sống trong điều kiện thời tiết lạnh, thiếu thức ăn
nên sức đề kháng giảm, bệnh thường phát ra vào thời gian này và trâu bò bị
đổ ngã hàng loạt. Tiên mao trùng có sức đề kháng yếu, dễ chết khi tiếp xúc
với nước cất, cồn và thuốc sát trùng.
2.1.3. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng của T. evansi
2.1.3.1. Đặc điểm bệnh lý
Khi ruồi trâu, mòng đốt, hút máu và truyền tiên mao trùng vào trâu, bò,
ngựa, tiên mao trùng xâm nhập vào da, gây ra vết viêm trên mặt da. Theo đó,
có thể quan sát được phản ứng viêm ở da của thỏ, cừu, dê và bò gây nhiễm
thực nghiệm tiên mao trùng, kích thước chỗ viêm phụ thuộc vào số lượng tiên

mao trùng được tiêm truyền (ước chừng khoảng 108 tiên mao trùng có thể
gây viêm da - ở vị trí tiêm truyền), một số lượng lớn tiên mao trùng phát triển
ở tại chỗ viêm này.
Vào máu, tiên mao trùng nhân lên theo cấp số nhân ở trong máu, trong
bạch huyết và ở trong các mô khác của cơ thể vật chủ theo cách phân chia
theo chiều dọc. Số lượng tiên mao trùng trong máu không phải lúc nào cũng
như nhau. Mật độ tiên mao trùng thay đổi theo ngày. Biểu đồ sóng tiên mao
trùng cho thấy, xen kẽ giữa những sóng tiên mao trùng mạnh là những đợt
sóng yếu. Mỗi đợt sóng tiên mao trùng bắt đầu bằng sự tăng số lượng tiên
mao trùng trong máu, sau đó giảm và khó phát hiện thấy tiên mao trùng. Mỗi
đợt tiên mao trùng tăng lên trong máu là biểu hiện sự xuất hiện một quần thể
tiên mao trùng có tính kháng nguyên bề mặt mới, quần thể này có thể tiếp tục
sinh sản và tồn tại một thời gian cho đến khi cơ thể xuất hiện kháng thể đặc
hiệu với chúng.
Tiên mao trùng phát triển nhanh trong máu, tiêu thụ glucose và các chất
đạm, chất béo và khoáng chất trong máu ký chủ bằng phương thức thẩm thấu
qua bề mặt cơ thể để duy trì hoạt động và sinh sản. Ở súc vật bị bệnh, trong
1ml máu có thể có 10.000 - 30.000 tiên mao trùng. Với số lượng nhiều như
vậy, tiên mao trùng chiếm đoạt dinh dưỡng nhiều, làm cho súc vật bệnh gầy
còm, thiếu máu và mất dần khả năng sản xuất sữa, thịt, mất dần khả năng sinh
sản và giảm sức đề kháng với các bệnh khác.
11
11
12
Sống trong máu vật chủ, tiên mao trùng còn tạo ra độc tố Trypanotoxin,
độc tố này gồm: Độc tố do tiên mao trùng tiết ra qua màng thân trong quá
trình sống và độc tố do xác chết của tiên mao trùng phân huỷ trong máu sau
15 - 30 ngày. Độc tố của tiên mao trùng tác động lên hệ thần kinh trung ương
làm rối loạn trung khu điều hoà thân nhiệt, gây sốt cao và gián đoạn (lúc sốt,
lúc hết sốt xen kẽ nhau). Khi sốt thường có rối loạn về thần kinh (kêu rống,

run rẩy, ngã vật xuống). Độc tố cũng phá huỷ hồng cầu, ức chế cơ quan tạo
máu làm cho vật chủ thiếu máu và suy nhược dần. Độc tố còn tác động tới bộ
máy tiêu hoá, gây rối loạn tiêu hoá, làm con vật ỉa chảy. Hội chứng tiêu chảy
thường xảy ra khi xuất hiện tiên mao trùng trong máu con vật bệnh.
Khi tăng lên với số lượng lớn trong máu, tiên mao trùng còn làm tắc
các mao mạch, làm tăng tính thấm thành mạch, dần dần tạo ra các ổ thuỷ
thũng chất keo vàng dưới da.
2.1.3.2. Triệu chứng lâm sàng của bệnh T. evansi ở trâu, bò
Trâu, bò bị bệnh thể hiện các triệu chứng lâm sàng chủ yếu như sau:
- Sốt cao và gián đoạn: Sau 14 - 30 ngày bị ruồi, mòng hút máu truyền
tiên mao trùng, trâu bò thường đột ngột lên cơn sốt (40 - 41,7
0
C) kéo dài 2 - 4
ngày rồi giảm, thời gian sau nhiệt độ lại tăng lên. Thời gian gián đoạn giữa
hai cơn sốt dài hay ngắn tuỳ theo thể trọng con vật. Khi sốt, kiểm tra máu
thường thấy tiên mao trùng.
- Hội chứng thần kinh: Ở một số trâu, bò khi lên cơn sốt còn thể hiện
hội chứng thần kinh như điên loạn, mắt đỏ ngầu, húc đầu vào tường, chạy
vòng quanh kêu rống lên. Trường hợp nhẹ thấy run rẩy từng cơn, mắt trợn
ngược rồi đổ ngã vật xuống, sùi bọt mép giống như trâu bị cảm nắng. Sau 20 -
30 phút con vật lại đứng dậy đi lại được. Những trâu bò mắc bệnh có triệu
chứng lâm sàng như trên thường là mắc bệnh ở thể cấp tính.
Trâu, bò bị bệnh mạn tính thường kéo dài, cơ thể suy yếu, liệt hai chân
sau, nằm tư thế quỳ và không đi lại được. Mặc dù nằm liệt nhưng vẫn ăn và
nhai lại cho đến khi sắp chết.
- Phù thũng dưới da: Phù thũng thường thấy ở vùng thấp của cơ thể như
ở bốn chân (từ khớp khuỷu trở xuống), phần yếm, ngực, bộ phận sinh dục.
12
12
13

- Viêm giác mạc và kết mạc mắt: Triệu chứng này thấy ở hầu hết trâu,
bò bệnh. Mắt có dử trắng hay vàng, chảy liên tục, nếu nặng thì mắt sưng đỏ
ngầu. Khi khỏi bệnh, mắt có màng trắng (cùi nhãn) keo che kín giác mạc.
- Hội chứng tiêu hoá: Một số trâu, bò bệnh bị ỉa chảy nặng, phân lỏng,
màu vàng, sau chuyển màu xám, có lẫn bọt và chất nhầy. Các đợt ỉa chảy tiếp
theo những cơn sốt cách quãng. Ỉa chảy trong bệnh tiên mao trùng thường dai
dẳng và con vật vẫn ăn được.
- Gầy yếu, suy nhược: Ở thể bệnh cấp tính trâu, bò gầy sút nhanh, chỉ
sau 7 - 14 ngày từ khi phát bệnh con vật đã gầy rộc, mắt trũng sâu. Nếu bệnh
kéo dài thì con vật gầy xơ xác, lông dựng ngược, da khô nhăn nheo, niêm mạc
mắt nhợt nhạt, lông dễ rụng, dần dần suy nhược cơ thể nặng, mất khả năng
cày kéo và sinh sản. Nếu gặp điều kiện bất lợi như thiếu ăn, trời rét thì trâu,
bò dễ chết. Trong thực tế, có khoảng 3% trâu bệnh ở thể ẩn vẫn béo khoẻ, làm
việc bình thường khi được chăm sóc, nuôi dưỡng tốt.
Tình trạng thiếu máu thể hiện rõ trong bệnh do T. evansi gây ra. Theo
Silva Rams (1995) [37], số lượng hồng cầu và hàm lượng huyết sắc tố giảm,
số lượng bạch cầu tăng, thành phần bạch cầu thay đổi: Bạch cầu lympho, bạch
cầu ái toan tăng nhưng bạch cầu trung tính giảm, protein tổng số và albumin
giảm rõ rệt.
Khi protein tổng số và albumin giảm thì các thành phần α, β và γ
globulin đều tăng, chỉ số A/G < 0,5 (Phạm Sỹ Lăng, Lê Ngọc Mỹ (1984) [8]).
2.1.3.3. Bệnh tích
Trâu, bò bị bệnh tiên mao trùng khi chết gầy xơ xác, mổ khám thấy có
những biến đổi bệnh tích đại thể rõ rệt ở hệ tuần hoàn và hô hấp: Tim nhão,
xoang bao tim tích nước vàng; phổi sung huyết và tụ máu từng đám nhỏ; gan
sưng to, nhạt màu; lách sưng, mềm nhũn và nhạt màu; hạch lâm ba sưng và có
tụ máu trong hạch; cơ nhão, màu nhợt nhạt, nhát cắt rỉ nước; xoang ngực và
xoang bụng tích dịch màu vàng nhạt; có những đám keo nhầy vàng dưới vùng
da thuỷ thũng.
13

13
14
2.1.4. Chẩn đoán bệnh tiên mao trùng
2.1.4.1. Chẩn đoán lâm sàng
Các biểu hiện lâm sàng đặc trưng của bệnh tiên mao trùng ở trâu, bò,
không phải lúc nào cũng phát hiện được. Rất nhiều gia súc mang bệnh nhưng
khó phát hiện các triệu chứng đặc trưng, nhất là đối với những gia súc mắc
bệnh tiên mao trùng mãn tính. Đối với gia súc mắc bệnh ở thể cấp tính, các
biểu hiện bệnh đặc trưng là sốt cao, bỏ ăn, có triệu chứng thần kinh (điên
loạn) và chết nhanh. Trâu bị bệnh mãn tính có thể thấy triệu chứng: Sốt gián
đoạn, gầy còm, thiếu máu kéo dài, viêm giác mạc, phù thũng ở bụng và chân
sau, chết do kiệt sức (Phạm Sỹ Lăng, 1982 [7]). Triệu chứng sẩy thai có thể
thấy ở trâu, bò bị bệnh tiên mao trùng (Nguyễn Đăng Khải, 1995 [5]).
2.1.4.2. Chẩn đoán thí nghiệm
Có nhiều phương pháp chẩn đoán tiên mao trùng trong phòng thí
nghiệm, mục đích là phát hiện tiên mao trùng trong máu gia súc. Tùy từng
trường hợp bệnh, tuỳ điều kiện mà có thể làm cùng lúc một số phương pháp
hoặc lựa chọn một phương pháp phù hợp và có độ chính xác cao.
* Phương pháp phát hiện tiên mao trùng trực tiếp:
Muốn phát hiện tiên mao trùng trực tiếp, có thể áp dụng những phương
pháp sau:
- Phương pháp xem tươi (Direct smear)
Khi bệnh súc sốt, T. evansi thường xuất hiện trong mao quản ngoại vi.
Vì vậy, nên lấy máu vùng ngoại vi để xem tươi.
Cách làm: Cho 1 giọt máu nhỏ lên phiến kính đã có sẵn 1 giọt chất
chống đông. Đậy la men lên để máu dàn theo la men thành một lớp mỏng. Soi
dưới kính hiển vi (độ phóng đại 10 x 10 và 10 x 20) để phát hiện tiên mao
trùng sống.
- Phương pháp nhuộm Giemsa tiêu bản máu khô (Romanovsky)
+ Phương pháp giọt dầy: Đặt 1 giọt máu to vào giữa phiến kính, dùng

một góc của đầu một phiến kính khác ria tròn giọt máu với đường kính
khoảng 1 - 1,25 cm. Để khô tự nhiên trong khoảng 1 giờ, rồi cố định bằng cồn
Methanol, nhuộm Giemsa [1 giọt Giemsa + 1ml dung dịch PBS (Phosphat
Buffered Saline) pH = 7,2] trong 25 phút. Rửa tiêu bản dưới vòi nước chảy
mạnh, để khô rồi soi dưới kính hiển vi (độ phóng đại 10 x 100 hoặc 10 x 90).
14
14
15
Phương pháp này có nhược điểm là dễ làm tổn thương tiên mao trùng.
Do đó, khó phân biệt được các loài khác nhau trong trường hợp nhiễm nhiều
loài tiên mao trùng cùng một lúc.
+ Phương pháp giọt mỏng: Đặt 1 giọt máu cách một đầu phiến kính
2cm, dùng la men ria máu thành một lớp mỏng. Để khô, cố định bằng cồn
Methanol trong 2 phút. Nhuộm Giemsa trong 25 phút (l giọt Giemsa + 1ml
dung dịch PBS pH = 7,2). Rửa tiêu bản dưới vòi nước chảy mạnh, để khô, soi
dưới kính hiển vi (độ phóng đại 10 x 100 hoặc 10 x 90).
Ưu điểm của phương pháp giọt mỏng là có thể phân biệt được hình thái
các loài tiên mao trùng khác nhau.
+ Phương pháp làm tan hồng cầu: Dung dịch SDS (Sodium Dodecyl
Sulfat) là chất làm tan hồng cầu. Nhờ dung dịch SDS, tiên mao trùng dễ dàng
được phát hiện trong máu. Dung dịch SDS rất độc nên tránh tiếp xúc với da
và tránh hút bằng pipet. Dung dịch SDS dễ bảo quản ở nhiệt độ thường trong
nhiều tháng (Van Meirvenne, 1989 [44]).
* Phương pháp tập trung tiên mao trùng:
Người ta đã sử dụng phương pháp ly tâm tập trung tiên mao trùng bằng
ống Haematocrit hoặc tách tiên mao trùng bằng gen DEAE - cellulose.
- Phương pháp ly tâm tập trung bằng ống Haematocrit (Woo, 1971
[45]): Cho máu động vật nghi mắc bệnh vào ống Haematocrit, một đầu ống
được bịt kín bằng chất dẻo matit, một đầu ống để hở. Ly âm với tốc độ 14.000
vòng/phút trong 5 phút. Sau đó kiểm tra sự tập trung của tiên mao trùng tại vị

trí tiếp giáp giữa huyết tương và hồng cầu (độ phóng đại 10 x 10).
Phương pháp này đơn giản, phát hiện tiên mao trùng tốt hơn phương
pháp xem tươi và nhuộm Giemsa. Song, tỷ lệ phát hiện chưa cao.
Với ống Haematocrit trên, có thể thực hiện phương pháp Darkground:
Dùng cưa y tế cắt ống ở vị trí tiên mao trùng tập trung (ranh giới giữa huyết
tương và hồng cầu), nhỏ 1 giọt huyết tương lên phiến kính, đậy la men và
kiểm tra dưới kính hiển vi (độ phóng đại 10 x 40).
* Phương pháp tiêm truyền động vật thí nghiệm:
Đây là phương pháp phổ biến, hiệu quả, chính xác và thường được ứng
dụng nhiều để chẩn đoán bệnh tiên mao trùng ở Việt Nam. Phương pháp này
15
15
16
có ưu điểm là chính xác, do trực tiếp phát hiện thấy tiên mao trùng sau khi
nhân chúng lên trong động vật thí nghiệm mẫn cảm. Song, nhược điểm của
phương pháp tiêm truyền động vật thí nghiệm là khi cần chẩn đoán nhanh, với
số lượng nhiều và thời gian ngắn thì phương pháp này không thể đáp ứng
được (Lê Ngọc Mỹ và cs, 1994 [13]; Đoàn Văn Phúc và cs, 1994 [24]).
* Phương pháp chẩn đoán huyết thanh học:
Bằng phương pháp huyết thanh học, có thể phát hiện kháng thể hoặc
kháng nguyên tiên mao trùng. Đây là các phương pháp huyết thanh học
đặc hiệu.
- Các phương pháp phát hiện kháng thể kháng tiên mao trùng
Khi tiên mao trùng ký sinh, cơ thể vật chủ sinh ra kháng thể đặc hiệu
chống lại tiên mao trùng. Những phương pháp sau cho phép phát hiện kháng
thể kháng tiên mao trùng trong máu vật chủ:
+ Phương pháp ngưng kết trên phiến kính (SAT: Slice Agglutination Test)
Theo Đoàn Văn Phúc và cs (1989) [22]; Lê Ngọc Vinh (1992) [26],
phương pháp được tiến hành như sau: Hoà tan 1 giọt huyết thanh trâu, bò nghi
mắc bệnh vào 1 giọt nước muối sinh lý trên phiến kính, sau đó cho 1 giọt máu

chuột bạch có nhiều tiên mao trùng vào, trộn đều, đậy la men và soi dưới kính
hiển vi (độ phóng đại 200 - 400 lần). Nếu thấy ngưng kết hình hoa cúc là
dương tính và ngược lại là âm tính. Phương pháp này đơn giản, dễ làm và có
thể áp dụng trên diện rộng.
+ Phương pháp LATEX (Latex Agglutination Test)
LATEX là phương pháp được dùng để phát hiện kháng thể lưu động có
trong máu của gia súc mắc bệnh tiên mao trùng.
Nguyên lý của phương pháp LATEX: Khi kháng nguyên bề mặt T. evansi
gắn lên các hạt latex kết hợp với kháng thể đặc hiệu kháng tiên mao trùng ở
trên bản nhựa, sẽ xảy ra phản ứng ngưng kết giữa kháng nguyên với kháng
thể. Hiện tượng ngưng kết có thể quan sát được bằng mắt thường, và được
giải thích là do kháng nguyên bề mặt tiên mao trùng được gắn lên các hạt
latex là loại kháng nguyên hữu hình, có nhiều điểm quyết định tính kháng
nguyên bề mặt (epitop surface). Còn kháng thể đặc hiệu kháng tiên mao trùng
lại có nhiều điểm thụ thể (receptor) tương ứng đặc hiệu với các điểm quyết
16
16
17
định của kháng nguyên. Do đó, khi kháng nguyên tiên mao trùng gặp kháng
thể đặc hiệu kháng tiên mao trùng, sẽ có hiện tượng một phân tử kháng thể
đặc hiệu liên kết với nhiều phân tử kháng nguyên và ngược lại. Kết quả là các
hạt latex cùng với kháng nguyên chụm lại, tạo thành đám ngưng kết có thể
quan sát bằng mắt thường. Kháng nguyên dùng cho phản ứng là kháng
nguyên bề mặt được tinh chế từ chủng T. evansi không nhuộm màu.
Phương pháp này có thể ứng dụng trong kiểm tra dịch tễ và có thể ứng
dụng ở cơ sở. Tuy nhiên, tỷ lệ phát hiện bệnh không cao do phương pháp này
cho kết quả dương tính cả khi con vật khỏi bệnh nhưng vẫn còn kháng thể tồn
tại trong huyết thanh. Mặt khác, đối với những súc vật mới nhiễm bệnh tiên
mao trùng, trong huyết thanh chưa có kháng thể nên khi kiểm tra bằng
phương pháp LATEX sẽ cho kết quả âm tính.

+ Phương pháp CATT (Card Agglutination Test for Trypanosomiasis)
Đây là phương pháp ngưng kết trực tiếp giữa kháng nguyên và kháng
thể trên bản nhựa, được dùng để phát hiện kháng thể lưu động trong máu
động vật nhiễm bệnh.
Nguyên lý: Kháng nguyên tiên mao trùng đã được nhuộm màu kết hợp
với kháng thể tạo thành những đám kết tủa li ti màu xanh.
Cách tiến hành: Dùng ống hút 2,5ml dung dịch buffer cho vào lọ kháng
nguyên chuẩn đã được nhuộm màu (CATT reagent), lắc đều. Cho vào lọ
kháng nguyên đối chứng (đối chứng dương, đối chứng âm) mỗi lọ 0,5ml dung
dịch buffer, lắc đều. Dùng micropipette pha loãng huyết thanh theo tỷ lệ cần
chẩn đoán (1/8). Cho các mẫu huyết thanh cần chẩn đoán đã được pha loãng
lần lượt vào các vòng tròn của bản CATT, cho kháng nguyên đối chứng vào
hai vòng tròn khác của bản, mỗi loại 1 giọt (tương đương 45µl). Sau đó cho
vào tất cả các vòng tròn trên bản CATT 1 giọt kháng nguyên chuẩn. Dùng que
nhựa trộn đều. Cuối cùng cho lên máy lắc 5 phút (60 - 70 lần/phút) và đánh
giá kết quả.
Ứng dụng phương pháp CATT ở Việt Nam để điều tiết bệnh tiên mao
trùng, Lương Tố Thu và cs (1996) [19] đã cho biết phương pháp này dễ sử
dụng, có độ nhạy, độ đặc hiệu cao. Theo tác giả, ứng dụng IFAT chẩn đoán
các mẫu thu thập ở địa phương cho biết độ nhạy của CATT gần gấp đôi
17
17
18
phương pháp tiêm truyền chuột bạch (độ nhạy CATT 73,75%; tiêm truyền
chuột bạch 40%).
+ Phương pháp kháng thể huỳnh quang gián tiếp IFAT (Indirect
Fluorescent Antibody Test)
Phản ứng này là phản ứng huyết thanh học đặc hiệu có độ nhạy cao,
được ứng dụng rộng rãi trong phòng thí nghiệm và thực địa. Ngoài việc được
dùng làm phản ứng chuẩn để so sánh với các phương pháp huyết thanh khác,

phương pháp IFAT còn được dùng trong nghiên cứu các dòng kháng nguyên,
phát hiện kháng thể (Luckins, 1988 [32]; Davison, 1999 [29]).
Trong phương pháp IFAT, huyết thanh dương chuẩn được lấy từ trâu
bò mắc bệnh tiên mao trùng, huyết thanh âm chuẩn được lấy từ trâu bò khoẻ
mạnh, huyết thanh cần chẩn đoán là huyết thanh lấy từ gia súc nghi mắc bệnh.
Ứng dụng phương pháp này ở Việt Nam, Lương Tố Thu và cs (1994)
[20] đã chế tạo conjugate huỳnh quang trên thỏ kháng IgG của bò để chẩn
đoán bệnh tiên mao trùng. Độ pha loãng của conjugate tự chế sử dụng cho
phản ứng là 1/8 và huyết thanh chuẩn pha loãng ớ 1/40. Theo Lương Tố Thu
và Lê Ngọc Mỹ (1996) [19], độ nhạy của phương pháp IFAT là 71,25.
Để tinh chế kháng nguyên T. evansi dùng trong phản ứng miễn dịch
huỳnh quang gián tiếp để chẩn đoán bệnh tiên mao trùng ở trâu bò, Vương
Thị Lan Phương (2004) [25] đã nghiên cứu kháng nguyên bề mặt T. evansi
phân lập từ trâu, bò ở 6 tỉnh phía Bắc Việt Nam và cho biết: Đã thu được 6
mẫu tiên mao trùng từ 6 tỉnh, tiến hành phân dòng, phân VAT và thu được 26
VAT thuộc 6 kho kháng nguyên khác nhau. Bằng phản ứng dung giải miễn
dịch và phương pháp thấm miễn dịch, tác giả đã xác định được sự thay đổi
kháng nguyên bề mặt của T. evansi: Đa số các VAT của các kho kháng
nguyên khác nhau là khác nhau, chỉ có 8/26 VAT có hiệu giá kháng thể đơn
giá đặc hiệu, có phản ứng chéo với các VAT của các kho kháng nguyên khác.
Các VAT trội xuất hiện sớm trong 4 tuần lễ đầu nhiễm bệnh, có tính kháng
nguyên mạnh có thể nghiên cứu ứng dụng chế kháng nguyên chẩn đoán. Từ đó,
tác giả đã tinh chế kháng nguyên theo phương pháp tách tiên mao trùng để
dùng trong phản ứng miễn dịch huỳnh quang gián tiếp, chẩn đoán bệnh tiên
mao trùng cho độ nhạy và độ đặc hiệu cao.
18
18
19
+ Phương pháp ELISA (Enzym Linked Immunosorbent Assay)
Phương pháp ELISA là một trong những phương pháp hiện đại nhất

được ứng dụng để chẩn đoán bệnh tiên mao trùng.
Nguyên lý: Dùng kháng thể hoặc kháng thể kháng Globulin (kháng
kháng thể) có mang một enzym (phosphatase hoặc Peroxydase) được gắn trên
mảnh Fc, cho kết hợp trực tiếp hoặc gián tiếp với kháng nguyên. Sau đó, cho
cơ chất sinh màu vào, cơ chất sẽ kết hợp với enzym và bị enzym phân huỷ tạo
nên màu. So sánh với màu của quang phổ kế sẽ định lượng được mức độ của
phản ứng.
Phương pháp ELISA hiện đang được sử dụng rộng rãi ở các nước trên thế
giới. Ở Việt Nam, Lê Ngọc Mỹ và cs (1994) [13] đã bước đầu chế kháng nguyên
tiên mao trùng và ứng dụng để chẩn đoán bệnh tiên mao trùng ở nước ta.
- Các phương pháp phát hiện kháng nguyên tiên mao trùng
+ Phương pháp ELISA kháng nguyên (Ag - ELISA)
Đây là phương pháp sử dụng phản ứng ELISA kháng nguyên để phát
hiện kháng nguyên lưu động trong máu của gia súc nhiễm bệnh. Phản ứng
dựa trên kháng thể đơn dòng đặc hiệu với tiên mao trùng. Lê Ngọc Mỹ và cs
(1994) [14] đã bước đầu ứng dụng phương pháp này để chẩn đoán bệnh tiên
mao trùng ở Việt Nam. Tuy nhiên, theo cơ quan năng lượng nguyên tử thế
giới (IAEA) (1997), phương pháp ELISA kháng nguyên có độ nhậy kém hơn
so với các phương pháp phát hiện tiên mao trùng cổ điển. Vì vậy, phương
pháp này đã không được phổ biến trong thời gian hiện tại và tương lai (IAEA
đã không sản xuất đĩa Ag - ELISA cho nhiều nước trên thế giới).
+ Phản ứng Suratex:
Phản ứng Suratex là phản ứng ngưng kết giữa các hạt latex được gắn
kháng thể đơn dòng với kháng nguyên lưu động trong máu động vật nhiễm
tiên mao trùng (Nantulya, 1994 [33]). Phản ứng này hiện đang được thử
nghiệm và đánh giá ở thực địa.
2.1.5. Phòng chống T. evansi và điều trị bệnh tiên mao trùng cho trâu, bò
2.1.5.1. Phòng bệnh
Để phòng ngừa bệnh tiên mao trùng có hiệu quả cao, các nhà khoa học
đã đề nghị áp dụng 3 biện pháp sau:

19
19
20
* Diệt tiên mao trùng trên cơ thể ký chủ:
Diệt tiên mao trùng ký sinh ở vật chủ không những ngăn chặn được tác
hại gây bệnh của chúng mà còn làm cho bệnh mất khả năng lây lan. Các biện
pháp cụ thể là:
- Phát hiện gia súc nhiễm tiên mao trùng ở vùng có bệnh và những
vùng lân cận, nhốt riêng trong chuồng có lưới để ngăn côn trùng và điều trị
triệt để cho gia súc bệnh.
- Ở những vùng không có bệnh thì không nhập gia súc từ vùng có bệnh
về. Nếu thật cần thiết thì chỉ nhập những gia súc khoẻ (có kết quả kiểm tra âm
tính với tiên mao trùng), song vẫn cần nhốt riêng để theo dõi. Nếu không bị
bệnh mới cho nhập đàn. Phát hiện và diệt những loài thú hoang nghi là nguồn
tàng trữ mầm bệnh, hoặc không chăn thả gia súc trong những khu vực có
những loài đó sinh sống.
* Diệt côn trùng môi giới truyền bệnh:
Hội nghị lần thứ VI của Uỷ ban khoa học Quốc tế nghiên cứu về tiên
mao trùng đã đề ra những biện pháp tiêu diệt côn trùng như sau:
- Diệt côn trùng bằng thay đổi sinh thái:
Thay đổi sinh thái là thay đổi điều kiện sống, làm cho côn trùng không
sinh sản, không thực hiện được chu kỳ phát triển.
Phát quang cây cối ở từng khu vực, không để nước tù đọng, ủ phân để diệt
trứng và ấu trùng ruồi, mòng, làm chuồng gia súc có lưới ngăn côn trùng là các
biện pháp hữu hiệu, tạo ra những điều kiện bất lợi cho đời sống của côn trùng.
Tuy nhiên, do côn trùng có khả năng di chuyển khá mạnh nên các biện pháp
trên phải thực hiện đồng thời trên phạm vi rộng mới có hiệu quả.
Theo Challier (1974), ở Nigieria, việc phát quang cây cối xung quanh
hồ và các con sông trong một khu vực rộng 400 - 800 mét, dài 10.000 mét chỉ
hạn chế được một phần hoạt động của những côn trùng môi giới truyền bệnh

tiên mao trùng ở đó.
- Diệt côn trùng bằng hoá dược:
Có thể dùng các hoá dược tiêu diệt côn trùng môi giới của tiên mao
trùng. Các hoá dược đã được dùng là: Endosulfan, Brophos, Dieldrine,
Tetracloreinphos,…
20
20
21
- Diệt côn trùng bằng phương pháp sinh học:
Các nhà khoa học đã phát hiện được 25 loài ong và côn trùng ký sinh gây hại
cho các loài ruồi, mòng môi giới truyền bệnh tiên mao trùng.
Một số loài vi khuẩn có thể xâm nhập vào cơ thể ruồi hút máu làm chúng
mắc bệnh và chết.
Laird (1974) đã phân lập được một số loài vi khuẩn như: Bacillus
thuringiensis, B.mathisi để tiêu diệt các loài ruồi hút máu. Đây là biện pháp diệt côn
trùng có nhiều ưu điểm: không ảnh hưởng đến môi trường. Tuy nhiên, biện pháp
này mới đang ở giai đoạn thử nghiệm.
Jordan và cs (1974) đã gây đột biến ruồi hút máu bằng một số hoá chất và tia
sáng có bước sóng ngắn, bằng phương pháp di truyền quần thể, đã tạo ra những
ruồi đực vô tính rồi thả với ruồi cái trong tự nhiên. Kết quả là làm cho ruồi không
sinh sản được. Phương pháp này có nhiều khả năng thành công nhưng rất tốn kém.
Nhìn chung, các biện pháp tiêu diệt côn trùng môi giới có hiệu quả nhất định
nhưng cũng còn nhiều hạn chế.
* Phòng bệnh cho gia súc bằng hoá dược:
Hội nghị chuyên đề quốc tế về phòng bệnh tiên mao trùng (1978) đã kết
luận: Hiện nay, biện pháp sử dụng hoá dược để tiêm phòng rộng rãi cho gia súc ở
những vùng bệnh tiên mao trùng lưu hành cần phải được tiếp tục trong nhiều năm
(Touratier và cs, (1979) [43]).
Từ năm 1934, tổ chức dịch tễ gia súc đã đề nghị sử dụng Novarsenobenzol
để tiêm phòng cho toàn đàn ngựa ở những vùng có bệnh tiên mao trùng. Hiện nay,

thuốc Trypamidium, liều 0,5 mg/kg TT, được khuyên dùng để phòng bệnh tiên mao
trùng cho trâu, bò. Theo Touratier (1979) [43] dùng Trypamidium tiêm bắp, thời
gian phòng bệnh có thể tới 4 - 6 tháng; trong khi đó tiêm tĩnh mạch chỉ phòng bệnh
được 2 tháng.
2.1.5.2. Điều trị T. evansi
Một số loại hoá dược đã được dùng để điều trị bệnh tiên mao trùng cho trâu,
bò, ngựa ở nước ta từ những năm 60 đến nay gồm:
- Naganin, liều 10 mg/kgTT. Pha thuốc với dung dịch nước muối sinh lý
hoặc nước cất thành dung dịch 10%, tiêm tĩnh mạch.
21
21
22
Phan Địch Lân và cs (1962), Phạm Sỹ Lăng và cs (1965) đã thử nghiệm
Naganin và cho biết, thuốc có tác dụng tốt trong điều trị bệnh do T. evansi
trên trâu, bò ở nước ta.
- Novarsenobenzol, liều 10 mg/kgTT.
Phan Địch Lân và cs (1963), Phạm Sỹ Lăng và cs (1965) đã sử dụng
Novarsenobenzol 2 lần cách nhau 2 ngày, thấy hiệu lực thuốc đạt 80%, tỷ lệ
an toàn 80 - 82%.
- Trypamidium, liều 1 mg/kgTT, tiêm sâu vào bắp thịt thành 2 - 3 điểm.
Tác giả Đoàn Văn Phúc và cs (1981) [23] đã thử nghiệm Trypamidium
điều trị bệnh tiên mao trùng cho trâu, bò và cho biết, tỷ lệ an toàn và khỏi
bệnh đều đạt 100%.
- Berenyl, liều 3 mg/kgTT. Pha thuốc với nước cất theo tỷ lệ cứ 0,8
gam thuốc trong 5 ml nước cất. Tiêm sâu bắp thịt (không dùng quá 9 gam cho
một gia súc).
Hồ Thị Thuận (1980) đã dùng Berenyl trị bệnh tiên mao trùng cho trâu
bò, thấy kết quả điều trị tốt.
Phan Văn Chinh (2006) [2] dùng Berenyl điều trị bệnh tiên mao trùng
cho trâu, bò ở các tỉnh miền Trung và cho biết, thuốc đạt hiệu lực 100% với

những trâu, bò bị bệnh.
Nguyễn Quốc Doanh và cs (1997) đã dùng Trypamidium samorin liều
1 mg/kgTT. Tiêm sâu bắp thịt điều trị bệnh tiên mao trùng cho trâu, bò và xác
định, thuốc có hiệu lực và độ an toàn rất cao 100%.
Phan Văn Chinh (2006) [2], sử dụng thuốc Trypamidium, liều
1mg/kgTT, cho tỷ lệ diệt hết tiên mao trùng là 100%.
Điều trị bệnh tiên mao trùng cho trâu, bò bằng Trypazen với liều 3,5
mg/kgTT, Nguyễn Quốc Doanh và cs, (1997) cho rằng thuốc rất an toàn, tỷ lệ
khỏi bệnh là 100%.
2.2. Tình hình nghiên cứu về bệnh T. evansi
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam, các bệnh về ký sinh trùng đường máu ở gia súc là một
nguyên nhân gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi. Hàng năm, ở miền Bắc có
22
22
23
một số lượng lớn trâu bò chết vào các vụ đông xuân, mà nguyên nhân chính là
do tiên mao trùng; có những thời điểm chúng đã gây thành ổ dịch lớn ở các
địa phương như: ở Thanh Hóa năm 1983, ngoại thành Hà Nội năm 1985.
Ngoài gây ra bệnh ở trâu bò, chúng còn gây bệnh cho lợn, ngựa, dê,… gây
những tổn thất không nhỏ, đặc biệt với lợn nái sinh sản.
Trong những năm 1960 trở về trước, ở nước ta bệnh do T. evansi chỉ
được coi như bệnh của ngựa ở miền núi. Nhưng từ những năm sau đó, bệnh
do T. evansi đã trở thành một bệnh quan trọng gây tác hại lớn cho đàn trâu bò
cày kéo ở các vùng đồng bằng miền Bắc Việt Nam.
Phạm Sỹ Lăng (1978-1979) [6], công bố, ổ dịch do tiên mao trùng xảy
ra tại hai địa điểm là Hoàng Long và Kim Thanh gây chết trâu bò với tỷ lệ cao
dao động từ 6,3 - 16,2% tổng đàn. Tỷ lệ nhiễm theo điều tra, ở trâu là 7 -13%,
ở bò là 2 - 7%; nhiễm nặng nhất là ở trâu lứa tuổi từ 6 - 8 năm tuổi. Thường
trâu bò càng già, tỷ lệ mắc càng cao.

Tổng hợp từ báo cáo của Chi cục Thú y các tỉnh miền Bắc, thấy số trâu,
bò bị bệnh tiên mao trùng như sau: Từ năm 1960-1965, số trâu bò bị mắc
bệnh là 1776 con, chết 520 con; từ năm 1979-1983, số gia súc ốm là 4629
con, chết 3243; từ năm 1984-1988, số gia súc ốm là 4028, chết 3710.
Lê Ngọc Mỹ và cs (1994) [13] đã điều tra tình hình nhiễm T. evansi ở
trâu bò Việt Nam. Kết quả điều tra cho thấy, trâu bò nhiễm T. evansi
với tỷ lệ cao (21,27%), trong đó trâu bò nuôi ở các tỉnh miền núi phía Bắc
nhiễm T. evansi cao hơn ở đồng bằng.
Theo Lê Đức Quyết và cs (1995) [15], Phạm Chiến và cs (1999) [1], tỷ
lệ nhiễm T. evansi trên đàn trâu ở một số tỉnh miền Nam và Tây Nguyên là
22,12%; ở bò là 6,6 - 10,3%.
Phan Lục và cs (1996) [11], cho biết: tỷ lệ nhiễm T. evansi của bò ở
một số địa phương miền Bắc là 5,9%. Khi nghiên cứu tình hình nhiễm đơn
bào của trâu bò một số tỉnh trung du và đồng bằng phía Bắc Việt Nam thấy, tỷ
lệ nhiễm T. evansi ở trâu là 28,8%; ở bò là 9,9%. Trong đó, trâu dưới 2 tuổi
nhiễm 2,8%; từ 2 - 8 tuổi nhiễm 30,7% và trên 8 tuổi nhiễm tới 40,3%; bò dưới
2 tuổi nhiễm 1,5%; từ 2 - 8 tuổi nhiễm 11,5% và bò trên 8 tuổi nhiễm 28%.
23
23
24
Nghiên cứu sự khác biệt về vùng miền, Phan Lục và cs (1996) [11], cho
biết: Vùng đồi núi, trâu nhiễm tiên mao trùng 22,0%; bò nhiễm 29%. Vùng
trung du, trâu nhiễm 33,8%; bò nhiễm 11,2%. Vùng đồng bằng, trâu nhiễm
18,3%; bò nhiễm 8,7%.
Hoàng Thạch và cs (1996) [17], nghiên cứu về tình hình nhiễm tiên
mao trùng ở trâu và bò sữa khu vực phía Nam cho biết: Với 1830 mẫu nghiên
cứu tại các tỉnh Sông Bé, Đồng Nai, Lâm Đồng, Long An và Thành phố Hồ
Chí Minh phát hiện 146 mẫu nhiễm tiên mao trùng, chiếm tỷ lệ 7,97%. Trong
đó, tỷ lệ nhiễm của trâu là 9,98% và ở bò là 12,60%.
Hồ Thị Thuận, Phan Hoàng Dũng (1996) [21] điều tra tình hình nhiễm

T. evansi ở một số đàn bò sữa các tỉnh phía Nam như: An Phước (Đồng Nai),
Đức Trong (Lâm Đồng), Tân Thắng và các hộ chăn nuôi ở thành phố Hồ Chí
Minh, huyện Đức Hòa (Long An), Bến Cát (Sông Bé) bằng phương pháp MI
và ELISA thấy tỷ lệ nhiễm trung bình là 7,97%. Trong đó: Trâu, bò ở Bến Cát
nhiễm 9,98%; ở An Phước là 12,60%; Lâm Đồng là 2,09%; còn ở các nơi
khác không có.
Lê Ngọc Mỹ và cs (1994) [14], nghiên cứu về đặc điểm dịch tễ bệnh
tiên mao trùng do T. evansi gây ra cho biết: Hiện tượng sảy thai ở trâu bò mắc
tiên mao trùng rất cao, dao động từ 19,23 - 47,82%. Các tác giả cho biết,
trong thời gian nghiên cứu, ghi nhận được số trâu bò mắc tiên mao trùng mà
không biểu hiện triệu chứng lâm sàng chiếm tỷ lệ rất cao. Với 121 mẫu kiểm
tra trâu bò khỏe mạnh, không biểu hiện triệu chứng lâm sàng, phát hiện
36,17% có tiên mao trùng trong máu.
Theo Nguyễn Đức Tân và cs (2004) [16], điều tra tình hình nhiễm ký
sinh trùng đường máu ở một số đàn bò thuộc một số tỉnh Nam Trung bộ và
Tây Nguyên cho biết: Nghiên cứu tổng số 557 mẫu phát hiện 49 mẫu có tiên
mao trùng, chiếm 8,8%. Trong đó nhiễm nặng nhất là đàn bò nuôi tại tỉnh Đắc
Lắc, nhiễm 10,3%; nhiễm thấp nhất là đàn bò nuôi tại tỉnh Phú Yên, nhiễm
6,6%; đàn bò nuôi tại Khánh Hòa nhiễm 8,5%.
Theo Hà Viết Lượng (1998) [12], tỷ lệ bò nhiễm T. evansi ở các tỉnh
miền Trung là 8,99%.
24
24
25
2.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Năm 1880, Laveran là người đầu tiên phát hiện Trypanosoma evansi
trong máu lạc đà ở bang Punjab (Ấn Độ).
Năm 1885, Steel phát hiện ký sinh trùng này trong máu la ở Miến Điện,
mô tả đặc điểm hình thái và đặt tên là Trypanosoma evansi.
Năm 1886, Blanchard cũng tìm thấy T. evansi trong máu la nhập nội

vào Bắc bộ Việt Nam và mô tả các thể bệnh ở la, ngựa, bò.
Forde (1901) phát hiện Trypanosoma gambiense và Chagas (1907) phát
hiện Trypanosoma cruizi.
Năm 1893, Smith và Kilborne đã nghiên cứu về vai trò truyền bệnh của
ve trong bệnh tiên mao trùng.
Ở Trung Quốc, T. evansi gây bệnh cho hầu hết các loài động vật như
trâu, bò, ngựa, la, chó…
Theo Sukanto (1992) [41]: Tỷ lệ lưu hành bệnh tiên mao trùng ở trâu
Indonesia cao hơn ở bò, tỷ lệ lưu hành bệnh này ở bò lại cao hơn ở ngựa.
Ở Thái Lan, trâu bò của hầu hết khắp các tỉnh trong cả nước đều
nhiễm T. evansi nhưng tỷ lệ nhiễm bệnh ở bò cao hơn ở trâu (Nishikawa,
Tuntasuvan (1990) [42]).
Simukoko và cs (2007) [38], nghiên cứu về dịch tễ bệnh tiên mao trùng
ở các vật nuôi như bò, lợn và dê ở Đông Zambia cho thấy, với 734 bò nghiên
cứu phát hiện tỷ lệ nhiễm tiên mao trùng là 13,5%; trong đó với 324 lợn
nghiên cứu, có 0,9% trong số đó bị nhiễm; không phát hiện Tiên mao trùng ở
33 dê nghiên cứu.
Goossens và cs (2006) [28], nghiên cứu về tỷ lệ nhiễm tiên mao trùng ở
bò thuộc khu vực Mafia Island (Tanzania) cho biết: trong 970 mẫu, phát hiện
0,8% có tiên mao trùng trong máu.
Sinshaw và cs (2006) [40], nghiên cứu về tỷ lệ nhiễm Trypanosoma
vivax ở 3 khu vực thuộc Ethiopia thấy: Bò nhiễm 6,1%; trong đó mùa mưa
nhiễm

9,6%; mùa khô nhiễm 3,6%. Phát hiện 1/122 mẫu cừu có tiên mao
trùng, chiếm 0,81%; có 1/676 mẫu nhiễm ở dê, chiếm tỷ lệ là 0,14%
25
25

×