Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh tiên mao trùng (Trypanosomiasis) ở trâu tại huyện Hàm Yên tỉnh Tuyên Quang và thử nghiệm phác đồ điều trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.25 KB, 59 trang )


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM


LÊ QUANG TRUNG


TÊN ĐỀ TÀI
:

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ BỆNH TIÊN MAO TRÙNG
(TRYPANOSOMIASIS) Ở TRÂU TẠI HUYỆN HÀM YÊN – TỈNH
TUYÊN QUANG VÀ THỬ NGHIỆM PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Thú y
Khoa : Chăn nuôi thú y
Khóa học : 2009 - 2014
Giảng viên hướng dẫn : ThS. Phạm Thị Trang




Thái Nguyên, tháng 11 năm 2013
LỜI CẢM ƠN


Qua một thời gian nỗ lực học tập và nghiên cứu, tới nay e đã hoàn
thành khóa luận tốt nghiệp với đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh
tiên mao trùng (Trypanosomiasis) ở trâu tại huyện Hàm Yên - tỉnh Tuyên
Quang và thử nghiệm phác đồ điều trị”.
Trong suốt quá trình phấn đấu, học tập và rèn luyện tại trường Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên, em đã nhận được sự dạy bảo, giúp đỡ và động viên
của các thầy, cô giáo khoa Chăn nuôi Thú y, cũng như các thầy, cô giáo trong
Nhà trường đã trang bị cho em những kiến thức cơ bản, tạo cho em có được
lòng tin vững bước trong cuộc sống và công tác sau này.
Em xin trận trọng cảm ơn Ban Giám hiệu nhà trường, Ban Chủ nhiệm
khoa và các thầy, cô giáo, cán bộ Khoa Chăn nuôi Thú y – Trường Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên đã ân cần dạy bảo em trong toàn khóa học.
Em xin chân thành cảm ơn Trạm thú y huyện Hàm Yên – tỉnh Tuyên
Quang, cùng nhân dân địa phương đã tạo điều kiện thuận lợi để em thực hiện
đề tài tốt nghiệp.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo Ts. Nguyễn Thị
Kim Lan, cô giáo Ths. Phạm Thị Trang, thầy giáo Ths. La Văn Công đã tận
tụy giúp đỡ và trực tiếp hướng dẫn em trong suốt thời gian thực tập và hoàn
thành chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Em xin được cảm ơn gia đình, bạn bè đã luôn tận tình giúp đỡ, động
viên, khích lệ em trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.

Thái Nguyên, ngày 25 tháng 11 năm 2013

Sinh viên


Lê Quang Trung

DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG KHÓA LUẬN

Trang
Bảng 4.1. Tỷ lệ nhiễm tiên mao trùng ở trâu tại một số xã thuộc huyện Hàm
Yên, tỉnh Tuyên Quang 35

Bảng 4.2. Tỷ lệ nhiễm tiên mao trùng ở trâu theo lứa tuổi 36

Bảng 4.3. Tỷ lệ nhiễm tiên mao trùng ở trâu 37

Bảng 4.4. Các loài ruồi, mòng phát hiện ở một số xã thuộc huyện Hàm Yên,
tỉnh Tuyên Quang 38

Bảng 4.5. Biến động thành phần loài ruồi, mòng ở các xã thuộc huyện Hàm
Yên, tỉnh Tuyên Quang 39

Bảng 4.6. Quy luật hoạt động theo tháng của các loài ruồi, mòng ở một số xã
thuộc huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang 40

Bảng 4.7. Quy luật hoạt động trong ngày của các loài ruồi, mòng ở một số xã
thuộc huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang 41

Bảng 4.8. Ứng dụng thuốc điều trị bệnh TMT cho trâu 42

Bảng 4.9. Ứng dụng phác đồ có hiệu quả cao trong điều trị bệnh tiên mao trùng
cho trâu ở một số xã thuộc huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang 43


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Cs : Cộng sự
TMT : Tiên mao trùng

Kg : Kilôgam
TT : Thể trọng
Nxb : Nhà xuất bản
T. evansi : Trypanosoma evansi
VGS : Vanant Glycoprotein Surface
ISG : Invanant Surface Glycoprotein
VAT : Variable Antigen Typet
LATEX : Latex Agglutination Test
IFAT : Indirect Fluorecent Antibody Test
ELISA : Enzym Linked Immunosorbent Assay
CATT : Card Agglutination Test for Trypanosomiasis









MỤC LỤC
Trang
Phần 1. MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 1
1.3. Ý nghĩa của đề tài. 2
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học 2
1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn 2
Phần 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài 3

2.1.1. Đặc điểm hình thái, cấu trúc và phân loại Trypanosoma 3
2.1.1.1. Vị trí của tiên mao trùng Trypanosoma trong hệ thống phân loại động
vật học 3
2.1.1.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo của tiên mao trùng 4
2.1.1.3. Cấu trúc kháng nguyên của tiên mao trùng Trypanosoma evansi 5
2.1.2. Dịch tễ học bệnh tiên mao trùng 7
2.1.2.1. Phân bố của bệnh 7
2.1.2.2. Vật chủ và vật môi giới truyền bệnh tiên mao trùng 8
2.1.2.3. Tuổi vật chủ, mùa mắc bệnh 11
2.1.3. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng của bệnh 12
2.1.3.1. Đặc điểm bệnh lý 12
2.1.3.2. Triệu chứng lâm sàng của bệnh tiên mao trùng ở trâu, bò, ngựa 13
2.1.3.3. Bệnh tích của bệnh tiên mao trùng 15
2.1.4. Phương pháp chẩn đoán bệnh tiên mao trùng 15
2.1.4.1. Chẩn đoán lâm sàng 15
2.1.4.2. Chẩn đoán thí nghiệm 16
2.1.5. Phòng trị bệnh tiên mao trùng cho trâu, bò, ngựa 21
2.1.5.1. Phòng bệnh 21
2.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 25
Phần 3. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 28
3.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu 28
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 28
3.1.2. Vật liệu nghiên cứu 28
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 29
3.2.1. Địa điểm nghiên cứu 29
3.2.2. Thời gian nghiên cứu 29
3.3. Nội dung nghiên cứu 29
3.3.1. Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh tiên mao trùng (Trypanosomiasis) của
trâu ở một số xã thuộc huyện Hàm Yên – Tỉnh Tuyên Quang 29

3.3.1.1. Nghiên cứu tình hình nhiễm tiên mao trùng của trâu ở một số xã thuộc
huyện Hàm Yên – tỉnh Tuyên Quang 29
3.3.1.2. Nghiên cứu về côn trùng môi giới truyền bệnh tiên mao trùng 29
3.3.2. Nghiên cứu phác đồ điều trị bệnh T. evansi cho trâu và đề xuất biện pháp
phòng chống 29
3.3.2.1. Xây dựng phác đồ điều trị bệnh tiên mao trùng 29
3.3.2.2. Đề xuất biện pháp phòng chống bệnh T. evansi cho trâu ở huyện Hàm
Yên – tỉnh Tuyên Quang. 30
3.4. Phương pháp nghiên cứu 30
3.4.1. Phương pháp thu thập mẫu 30
3.4.1.1. Phương pháp lấy mẫu máu trâu 30
3.4.1.2. Phương pháp lấy mẫu máu 30
3.4.2. Phương pháp phát hiện tiên mao trùng trong mẫu 30
3.4.2.1. Phương pháp xem tươi (Direct smear) 30
3.4.2.2. Phương pháp nhuộm Giemsa tiêu bản máu khô (Romanovsky) 31
3.4.2.3. Phương pháp tiêm truyền động vật thí nghiệm 31
3.4.3. Phương pháp thu thập định loại côn trùng môi giới truyền bệnh tiên mao
trùng 31
3.4.4. Một số quy định trong nghiên cứu đặc điểm dịch tễ 32
3.4.5. Xây dựng phác đồ điều trị bệnh tiên mao trùng 32
3.5. Phương pháp xử lý số liệu 33
Phần 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 35
4.1. Xác định một số đặc điểm dịch tễ bệnh tiên mao trùng ở trâu tại huyện
Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang 35
4.1.1. Tỷ lệ nhiễm tiên mao trùng của trâu ở một số xã thuộc huyện Hàm Yên,
tỉnh Tuyên Quang 35
4.1.2. Tỷ lệ nhiễm tiên mao trùng ở trâu theo lứa tuổi 36
4.1.3. Tỷ lệ nhiễm tiên mao trùng ở trâu theo các tháng trong năm 37
4.2. Nghiên cứu về côn trùng môi giới truyền bệnh tiên mao trùng 38
4.2.1. Thành phần loài ruồi, mòng ở huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang 38

4.2.2. Quy luật hoạt động của các loài ruồi, mòng ở các xã thuộc huyện Hàm
Yên, tỉnh Tuyên Quang. 40
4.3. Nghiên cứu phác đồ điều trị bệnh T. evansi cho trâu một số xã tại huyện
Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang 42
4.3.1. Xây dựng phác đồ điều trị bệnh TMT 42
4.3.2. Ứng dụng phác đồ có hiệu quả cao trong điều trị bệnh tiên mao trùng ở
huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang 43
4.3.3. Đề xuất một số biện pháp phòng chống bệnh T. evansi cho trâu ở các địa
phương thuộc huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang 44
Phần 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 46
5.1. Kết luận 46
5.2. Đề nghị 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO 48


1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Hiện nay, trong ngành chăn nuôi, chăn nuôi trâu vẫn giữ một vai trò
quan trọng vì đó là một nguồn cung cấp phân bón, sức kéo cho ngành trồng
trọt và là nguồn cung cấp thực phẩm có chất lượng cao cho con người.
Đối với nước ta nói chung và tỉnh Tuyên Quang nói riêng, chăn nuôi
trâu không những góp phần xóa đói giảm nghèo cho người dân mà đã có
nhiều hộ gia đình vươn lên làm giàu nhờ vào chăn nuôi trâu. Chăn nuôi trâu
chủ yếu là tận dụng các phế phẩm của nông nghiệp như rơm, rạ, cỏ,… Đến
nay cùng với sự phát triển của kinh tế, sự đòi hỏi của người tiêu dùng về chất
lượng thực phẩm ngày càng cao, chăn nuôi trâu đã có sự đầu tư hợp lý để tăng
năng suất, chất lượng thực phẩm.
Tuy nhiên, nhiều năm qua dịch bệnh vẫn thường xuyên xảy ra và gây

nhiều thiệt hại lớn cho việc chăn nuôi trâu như: bệnh Lở mồm long móng,
bệnh Tụ huyết trùng, bệnh Tiên mao trùng,… Trong số các bệnh thì bệnh
Tiên mao trùng không gây chết ngay nhưng làm cho trâu còi cọc, chậm lớn,
gầy mòn… ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng sản phẩm. Do đó việc
nghiên cứu về đặc điểm dịch tễ của bệnh Tiên mao trùng trên đàn trâu tại một
số xã trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang cần được quan tâm và đầu tư hơn nữa.
Xuất phát từ thực tế trên, được sự hướng dẫn của Th.s. La Văn Công, sự phân
công của khoa Chăn nuôi - Thú y, trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên,
chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh tiên mao
trùng (Trypamosomiasis) ở trâu tại huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang và
thử nghiệm phác đồ điều trị”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định được các loài Trypanosoma gây bệnh và các đặc điểm dịch tễ do
Trypanosoma evansi gây ra ở đàn trâu tại huyện Hàm Yên – tỉnh Tuyên Quang.
- Lựa chọn phác đồ điều trị bệnh tiên mao trùng có hiệu quả, phù hợp
với điều kiện chăn nuôi miền núi.
- Xây dựng biện pháp phòng, trị bệnh góp phần hạn chế những thiệt hại
do bệnh tiên mao trùng cho đàn trâu ở huyện Hàm Yên – tỉnh Tuyên Quang.

2
1.3. Ý nghĩa của đề tài.
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
Kết quả của đề tài là những thông tin khoa học bổ sung và hoàn thiện
thêm về đặc điểm dịch tễ và biện pháp phòng chống bệnh tiên mao trùng ở
trâu.
1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn
Kết quả của đề tài là cơ sở khoa học để khuyến cáo người chăn nuôi áp
dụng các biện pháp phòng, trị bệnh tiên mao trùng, nhằm hạn chế tỷ lệ nhiễm
và thiệt hại do Trypanosoma evansi gây ra, góp phần nâng cao năng suất chăn
nuôi, thúc đẩy ngành chăn nuôi trâu phát triển.


3
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Năm 1888, Blanchard đã phát hiện bệnh tiên mao trùng lần đầu tiên ở
Việt Nam. Sau đó, bệnh được xác định là phổ biến ở hầu hết các tỉnh thành
trong cả nước. Bệnh do loài tiên mao trùng Trypanosoma evansi gây ra. Trâu,
bò, ngựa mắc bệnh dễ chết hoặc thiếu máu, suy nhược, giảm hoặc mất khả
năng sinh sản và sức sản xuất.
2.1.1. Đặc điểm hình thái, cấu trúc và phân loại Trypanosoma
2.1.1.1. Vị trí của tiên mao trùng Trypanosoma trong hệ thống phân loại động
vật học
Theo Lương Văn Huấn và cs, 1997) [9], vị trí của tiên mao trùng
trong hệ thống phân loại nguyên bào (Protozoa) như sau:
Ngành Sarcomastigophora
Phân ngành Mastigophora
Lớp Zoomastigophorasida
Bộ Kinetoplastorida
Phân bộ Trypanosomatorida
Họ Trypanosomatidae Donein, 1901
Giống Trypanosoma Gruby, 1843
Giống phụ Megatrypanum Hoare, 1964
Loài Trypanosoma (M) theileria
Giống phụ Herpetosoma Donein, 1901
Loài Trypanosoma (H) leisi
Giống phụ Schizotrypanum Chagas, 1909
Loài Trypanosoma (S) cruzi
Giống phụ Duttonella Chalmers, 1918

Loài Trypanosoma (D) vivax
Loài Trvpanosoma (D) uniform
Giống phụ Nalmomonas Hoare, 1964

4
Loài Trypanosoma (N) congolense
Loài Trypanosoma (N) siminae
Loài Trypanosoma (N) vanhogi
Giống phụ Trypanozoon Liihe, 1906
Loài Trypanosoma (T) brucei
Loài Trypanosoma (T) gambience
Loài Trypanosoma (T) rhodesiense
Loài Trypanosoma (T) equiperdum
Giống phụ Pycnomonas Hoare, 1964
Loài Trypanosoma (P) suis
Giống phụ Trypanosoma Gruby, 1843
Loài Trypanosoma evansi Steel, 1885
Trong các loài tiên mao trùng trên, có 7 loài được tổ chức dịch tễ quốc
tế (OIE) thông báo là có khả năng gây bệnh cho người và động vật có vú,
đó là: T. brucei, T. congolense, T. cruzi, T. evansi, T. gambiense, T.
siminae, T. vivax.
2.1.1.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo của tiên mao trùng
Tiên mao trùng T. evansi được xếp vào loại đơn hình thái, cơ thể chỉ là
một tế bào, có kích thước nhỏ, chiều dài 18 - 34 µm (trung bình là 25 µm),
chiều rộng 1,5 – 2 µm. Cơ thể có hình suốt chỉ mảnh hoặc hình thoi, cuối thân
nhọn. Nhìn chung, cấu trúc cơ bản của T. evansi cũng giống như cấu trúc của
các loài tiên mao trùng khác thuộc họ Trypanosomatidae. Cấu trúc từ ngoài
vào trong được chia thành 3 phần chính:
- Vỏ: vỏ được chia làm 3 lớp (lớp ngoài, lớp trong cùng, lớp giữa).
Lớp vỏ ngoài cùng dày 10 – 15 nm, được cấu tạo từ các phân tử

glycoprotein luôn biến đổi (Vanant Glycoprotein Surface -VGS). Lớp
ngoài và lớp trong cùng tiếp giáp với nguyên sin chất dày hơn lớp giữa.
Tiếp giáp với lớp trong cùng là 9 cặp vi ống xếp song song dọc theo chiều
dài thân tiên mao trùng. Chính nhờ sự sắp xếp của các cặp vi ống nên tiên
mao trùng có dạng hình suốt chỉ mảnh (Hoare, 1972 [40]; Phạm Sỹ Lăng,
1982 [14]; Nguyễn Quốc Doanh, 1999 [7]).

5
- Nguyên sinh chất: gồm lớp trong và lớp ngoài. Trong nguyên sinh chất có
chứa các nội quan: ribosome có màu thẫm xen kẽ vùng không bào màu
sáng, kinetoplast (thể cơ động), mitochrondno, reticulum (lưới nội bào)
và mạng lưới golgi.
- Nhân: nhân tiên mao trùng có chứa ADN, hình bầu dục hoặc hình
trứng. Nhân thường nằm ở vị trí trung tâm hoặc gần vị trí trung tâm cơ
thể. Ngoài nhân, về phía cuối thân còn có thể kinetoplast chứa AND
(KADN). Từ kinetoplast có một roi chạy vòng quanh thân lên đầu và ra
phía ngoài cơ thể thành một roi tự do. Roi của tiên mao trùng có lớp vỏ
ngoài cùng giống lớp vỏ của thân. Trong roi có 9 cặp vi ống ở xung quanh
và một cặp ở trung tâm, xếp song song dọc chiều dài roi (Hoare, 1972
[40]; Nguyễn Quốc Doanh, 1999 [7]).
2.1.1.3. Cấu trúc kháng nguyên của tiên mao trùng Trypanosoma evansi
Kháng nguyên của T. evansi gồm hai loại: kháng nguyên ổn định
(kháng nguyên không biến đổi) và kháng nguyên biến đổi
* Kháng nguyên ổn định (kháng nguyên không biến đổi)
Phần lớn các thành phần kháng nguyên tiên mao trùng không biến đổi
trong quá trình sống ký sinh. Bằng phương pháp điện di miễn dịch huyết
thanh thỏ tối miễn dịch với T. evansi, Kageruka (1982) đã phát hiện tới 30
thành phần kháng nguyên khác nhau. Có ba loại kháng nguyên không biến đổi
ở màng nguyên sinh chất tế bào (ISG: Invanant Surface Glycoprotein): ISG
65, ISG 75 và ISG 100. Do cấu trúc không gian ba chiều và đặc tính ưa nước,

các loại này không kết hợp với kháng thể của vật chủ (Nolan, 1997).
* Kháng nguyên biến đổi
Về kháng nguyên biến đổi, cần đề cập đến sự biến đổi lớp vỏ bề mặt VSG
(Variant Surface Glycoprotein), những quan điểm mới về sự xuất hiện
kháng nguyên biến đổi của tiên mao trùng và cơ chế di truyền của kháng
nguyên biến đổi.
Nhờ kháng thể đặc hiệu được đánh dấu mà Vickerman và Luckins
(1969) đã phát hiện ra sự biến đổi của lớp kháng nguyên bề mặt. Cross (1975)
đã mô tả lớp áo bề mặt của tiên mao trùng có thành phần là glycoprotein bao

6
phủ toàn bộ bề mặt tế bào bằng một lớp phân tử giống nhau (mỗi tiên mao
trùng có 107 phân tử). Lớp áo bề mặt này kích thích cơ thể vật chủ tạo ra
kháng thể đặc hiệu với từng type kháng nguyên biến đổi VAT (Variable
Antigen Type). Chỉ có kháng nguyên biến đổi mới có khả năng kích thích vật
chủ tạo miền dịch chủ động. Người ta ước lượng rằng, một con tiên mao trùng
có ít nhất vài trăm hoặc vài nghìn VSG, nghĩa là 5 - 10% số gen của tiên mao
trùng cung cấp cho kháng nguyên bề mặt này.
Nhiều tác giả nghiên cứu về miễn dịch học cho rằng, tiên mao trùng
biến đổi kháng nguyên bề mặt để né tránh miễn dịch đặc hiệu của vật chủ.
Tuy nhiên, Van Meirvenne (1975) cho biết, sự biến đổi kháng nguyên bề mặt
của ký sinh trùng đã có ngay ở pha đầu tiên của quá trình nhiễm (trước khi
xuất hiện đáp ứng miễn dịch của cơ thể vật chủ). Theo Hajduc và Vickernlan
(1981), hiện tượng biến đổi kháng nguyên bề mặt của tiên mao trùng còn thấy
ở gia súc đã bị tiêm thuốc làm suy giảm miễn dịch. Những quan điểm này là
hoàn toàn mới để lý luận về sự xuất hiện kháng nguyên biến đổi của tiên mao
trùng. Như vậy, quan điểm về sự biến đổi kháng nguyên lớp vỏ của tiên mao
trùng cho đến nay vẫn chưa thống nhất.
* Cơ chế di truyền của kháng nguyên biến đổi
Khi kháng thể đặc hiệu kết hợp với phân tử của kháng nguyên bề mặt

(VSG), làm tiêu tan tiên mao trùng thì đó cũng là nguyên nhân chính thúc đẩy
sự hoạt hoá của gen. Kết quả là các phân tử kháng nguyên VSG được thay đổi
hoàn toàn bằng các phân tử VSG mới. Lúc này, kháng thể đặc hiệu lúc trước
đã không còn tác dụng đối với kháng nguyên mới này.
Theo Barry và Tumer (1991) [38], Vanhamme và cs (1995) [46], các
VSG được mã hoá nhờ các gen chuyên biệt. Từ kho chứa hàng nghìn đến
khác nhau, một gen VSG được hoạt hoá một cách chọn lọc, dẫn đến tổng hợp
ra một loại kháng nguyên VSG. Mỗi bên VSG mới tạo ra một loại kháng
nguyên VSG mới. Trong bộ gen của tiên mao trùng tồn tại một số lớn gen
VSG, các gen này sử dụng nhiều cơ chế sắp xếp khác nhau, do vậy tiên mao
trùng đã tạo ra nhiều VSG khác nhau ở gia súc bị bệnh mãn tính. Cơ chế biến
đổi kháng nguyên theo 2 cách:

7
- Cách thứ nhất là sử dụng lần lượt các điểm biểu hiện trên (expression
side) khác nhau, không có sự sắp xếp của ADN. Các điểm biểu hiện khác
nhau sẽ mang các gen VSG khác nhau, sự luân phiên này dẫn đến sự thay đổi
type kháng nguyên. Cơ chế này quan sát được chủ yếu ở giai đoạn đầu của
quá trình cảm nhiễm. Có lẽ ở giai đoạn đầu này chưa có đáp ứng miễn dịch
của vật chủ đối với VSG, chính điều này không gây ra một cản trở hoạt hoá tự
nhiên của các điểm biểu hiện gen này.
- Cách thứ hai là tập hợp lại các đoạn ADN khác nhau để tái tổ hợp
gen, mà việc tái tổ hợp này cho phép thay thế hoàn toàn hoặc từng phần gen;
hoặc việc thay thế diễn ra dựa vào sự chuyển đổi gen chứ không phải dựa vào
tái tổ hợp gen. Trường hợp này được diễn giải như sau: một gen hoạt hoá
được thay thế bằng bản sao chép của một gen khác. Do có sự thay thế một
phần của gen nên đã tạo ra loại gen phức hợp và đặc trưng.
2.1.2. Dịch tễ học bệnh tiên mao trùng
2.1.2.1. Phân bố của bệnh
Bệnh tiên mao trùng phân bố rất rộng, từ phía Tây sang phía Đông bán

cầu. Phía Tây bán cầu thuộc châu Mỹ, phía Đông bán cầu trải dài từ châu Phi
cho đến Philippine.
Theo Euzeby (1984), bệnh phổ biến ở trâu, bò, ngựa các nước nhiệt đới
ở châu Phi, châu Á và Nam Mỹ.
Ở châu Phi, bệnh trải dài từ Tây sang Đông, phía Bắc qua vùng sa mạc
Sahara, dọc theo bờ biển Atlantique Địa trung hải.
Bệnh tiên mao trùng xảy ra với tên gọi "bệnh Surra” ở Ả rập Saudi,
Yêmen, Sultanate, Ả Rập thống nhất, Thổ Nhĩ Kỳ, Israel, Syrie, Afganistan,
Pakistan.
Ở châu Á, bệnh xuất hiện ở Trung Á (thuộc Liên Xô cũ), Ấn Độ,
Malaysia, bán đảo Đông Dương, Trung Quốc, Indonexia, Philippine.
Ở châu Âu, bệnh xuất hiện ở Bungaria (nay đã được thanh toán), hiện
chỉ còn ở vùng Volga và Nam Capcase (Liên Xô cũ).
Ở châu Mỹ, bệnh xuất hiện ở Trung Mỹ, Nam Mỹ, đặc biệt phổ biến ở
Brazil, Mexico, Venezuela, Colombia.

8
Châu Úc cũng đã được xác định là có bệnh tiên mao trùng (Reid, 2002
[44]; Losos G. J., 1972 [41]) cho rằng, bệnh tiên mao trùng phổ biến nhất ở
châu Á và châu Phi, từ Ấn Độ đến Srilanca, Trung Quốc, Indonexia, Thái
Lan, Lào, Camphuchia, Iran, Philippine.
Ở Việt Nam, bệnh tiên mao trùng thấy ở hầu hết các vùng sinh thái
khác nhau: miền núi, trung du, đồng bằng, ven biển. Theo Phạm Sỹ Lăng
(1982) [14], bệnh tiên mao trùng có ở tất cả các tỉnh miền Bắc (Bắc Kạn,
Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Ninh Bình, Hà Tây). Trâu, bò nhiễm
bệnh với tỷ lệ cao và thay đổi giữa các vùng khác nhau (trâu, bò ở đồng bằng
nhiễm tiên mao trùng cao hơn vùng trung du và miền núi, đặc biệt ở trâu, bò
có nguồn gốc từ miền núi chuyển xuống vùng đồng bằng).
2.1.2.2. Vật chủ và vật môi giới truyền bệnh tiên mao trùng
Trong tự nhiên, tiên mao trùng ký sinh ở hầu hết các loài thú nuôi và

thú hoang, thấy nhiều hơn ở trâu, bò, ngựa, trâu bò rừng, hươu, nai, hổ, báo,
sư tử, chó, mèo, lạc đà, voi thỏ, chuột cống, chuột lang, chuột bạch , nhưng
không ký sinh ở người.
Sự lây truyền tiên mao trùng từ trâu, bò ốm sang trâu, bò khoẻ là nhờ
các loài ruồi hút máu (thuộc họ phụ Stomoxydinae) và các loài mòng hút máu
(thuộc họ Tabanidae). Ruồi và mòng hút máu của gia súc bị bệnh, hút luôn cả
tiên mao trùng vào vòi hút, sau đó lại hút máu gia súc khoẻ, trong khi hút máu
sẽ truyền tiên mao trùng từ vòi hút vào máu con vật khoẻ. Sự lây truyền này
mang tính chất cơ học. Như vậy, ruồi và mòng hút máu là những vật môi giới
truyền bệnh tiên mao trùng quan trọng.
Theo Phan Địch Lân (1974) [17], Phan Địch Lân (2004) [19], phần lớn
các loài mòng tập trung ở khu vực miền núi và trung du. Trong 53 loài mòng
thì có tới 44 loài phân bố ở vùng rừng núi có độ cao dưới 1 .000 mét so với
mặt nước biển, càng lên cao số loài càng ít dần (độ cao trên 1.000 mét chỉ có
26 loài). Ở vùng trung du (rừng thưa, độ cao không quá 500 mét so với mặt
nước biển có 27 loài; vùng đồi trọc chỉ có 9 - 11 loài; vùng rừng núi ven biển
phát hiện chỉ có 8 loài. Những loài mòng phổ biến ở tất cả các vùng là:
Tabanus rubidus, T. striatus, Chrysops dispar, Chrysozoma assamensis.

9
Những loài mòng chỉ gặp ở vùng núi là: Tabanus flavistriatus, T.
fumifer, Chrysops vander. Miền Bắc nước ta có 4 loài ruồi hút máu, 2 loài phổ
biến ở tất cả các vùng là Stomoxys calcitrans và Liperosis exigua; 2 loài chỉ
thấy ở những vùng sinh cảnh đặc biệt: loài Bdellolarynx sanguinolentus (chỉ
xuất hiện ở vùng có độ cao dưới 1.000mét), loài Stomoxys indica (chỉ thấy ở
vùng núi Cẩm Thuỷ - Thanh Hoá).
Loài ruồi Stomoxys calcitran là loài ruồi có kích thước trung bình 5 đến
8mm. Đầu có mắt kép màu nâu óng ánh, trán rất rộng, chiều rộng trán bằng ¼
chiều rộng của đầu, chiều rộng của trán giữa gấp 3 lần của trán cạnh. Con cái
chính giữa trán có một dải màu nhạt. Lông trán cạnh có hai hàng trở lên. Ruồi

có một vòi hút dài, cứng để châm hút. Khi đậu nghỉ thì vòi chĩa về phía trước,
khi đốt thì vòi chĩa xuống dưới làm thành góc thẳng với đầu. Cánh có hàng
lông mọc ở gần gốc, phía dưới gân không vượt quá gân ngang. Bụng: mặt
lưng vàng xám, có hai đốm nâu đen hoặc xanh đen ở hai bên đốt thứ hai, thứ
ba. Mặt dưới bụng vàng hơi nâu. Hai khiên lưng của đốt bụng thứ ba, thứ tư
có một vết ngang rõ rệt. Chân có đốt ống vàng hoặc vàng nâu (Phan Văn
Chinh, 2006) [4].
Theo Phan Địch Lân (1983) [18] thì loài mòng Tabanus rubidus có các
đặc điểm sau:
Con cái có màu xám, xám hơi xanh hoặc trắng nhạt. Kích thước lớn,
thân dài 14 đến 24mm. Mắt kép màu xám xanh hơi nâu có lấp lánh phản chiếu
ánh sáng hoặc màu xanh đen hơi vàng có ánh biếc. Trán màu nâu đỏ, lông
vàng và lông đen. Chai trán gốc hình đầu đạn, không tiếp xúc với mắt kép
màu đen bóng, có màu cà phê nâu, bóng. Chai trán giữa kéo dài từ chai trán
gốc tới 1/2 hoặc 2/3 trán màu đen, xung quanh chai trán giữa về phía đỉnh có
lông đen. Chai trán phụ màu trắng vàng hơi đỏ. Má màu trắng xám phơn phớt
đỏ ở má trên, lông trắng xám. Mặt màu trắng xám, lông trắng xám.
Râu hàm dưới, màu trắng vàng, lông trắng vàng có xen 1 ít lông đen.
Anten đốt thứ nhất và đốt thứ hai nâu đỏ mận, đốt thứ ba nâu đen. Ngực xám,
xám xanh hoặc phơn phớt hồng có ba sọc dọc không rõ, màu xám trắng.

10
Màng cánh trong suốt, gân cánh nâu đen không có nhánh phụ. Mặt lưng
của bụng có ba sọc dọc, sọc giữa chạy từ đốt thứ nhất tới đốt thứ sáu không
thẳng cạnh mà thành hình răng cưa màu trắng xám do các tam giác nối tiếp tạo
thành. Sọc bên cạnh không nối nhau mà do các đốm bên cạnh sắp xếp hơi chếch
với sọc giữa cùng màu với sọc giữa. Mặt bụng của bụng màu xám tro bếp.
Con đực nhỏ hơn con cái, đầu rất to, hai mắt kép xít chặt nhau chỉ để lại
một vạch ranh giới và một khoảng tam giác đỉnh trán cùng chai trán phụ màu
vàng hơi nâu. Má, mặt màu trắng vàng hoặc nâu hơi đỏ, lông trắng bạc hoặc

hung hung đỏ. Râu miệng hung hung đỏ. Râu hàm dưới màu vàng hơi đỏ, lông
vàng nâu. Anten màu đỏ nâu hoặc nâu đen, đầu cuối đậm màu hơn. Ngực, mặt
lưng màu trắng xám hơi vàng có lông vàng và lông đen. Bụng giống con cái, nhỏ
thon đầu cuối nhọn màu vàng nâu đậm, lông vàng và lông đen.
Loài mòng Tabanus kiangsuesis là loài mòng to trung bình, màu nâu
vàng xám hoặc nâu vàng. Trán màu nâu ánh kim, chai trán gốc nối liền với
chai trán giữa hình thành gậy màu nâu đỏ, bóng. Chai trán phụ, má, mặt màu
vàng xám. Râu miệng màu trắng vàng. Râu hàm dưới màu trắng vàng, lông
đen xen lẫn lông trắng. Anten màu nâu đỏ đầu cuối hơi sẫm. Mặt lưng của
ngực màu nâu đỏ sẫm, lông đen xen lẫn lông vàng, có ba sọc dọc màu nâu
xám nhạt. Màng cánh nâu nhạt, không có nhánh phụ. Chân màu đỏ nhạt. Mặt
lưng của bụng màu nâu đỏ xám. Từ đốt thứ nhất tới đốt thứ năm có một đai
dọc, giữa màu nâu vàng không rõ rệt lắm. Cạnh đai dọc giữa từ đốt thứ nhất
đến đốt thứ năm có đốm bên hình chữ nhật nằm chếch với đai giữa cùng màu
(Phan Địch Lân, 1983) [18] ; (Phan Văn Chinh, 2006) [4].
Phan Địch Lân (2004) [19] cho biết, kiểm tra ở nhiều địa điểm thấy hai
loài mòng T. rubidus và T. striatus mang tiên mao trùng với tỷ lệ 15,2% và
14,0%; ruồi hút máu Stomoxys calcitrans mang tiên mao trùng với tỷ lệ 12,5%.
Ở những vùng đang có bệnh tiên mao trùng, kiểm tra ruồi và mòng hút máu dễ
dàng tìm thấy tiên mao trùng. Sau khi theo máu vào vòi hút ruồi và mòng, tiên
mao trùng vẫn sống đến giờ thứ 53, thời gian hoạt động mạnh nhất là từ giờ thứ
nhất đến giờ thứ 34 trung bình là 24giờ. Sự hoạt động của tiên mao trùng yếu
dần từ giờ thứ 35 đến 42. Từ 46 - 53 giờ thì tiên mao trùng ngừng hoạt động.

11
Hình thái tiên mao trùng khi ở trong vòi ruồi, mòng biến đổi theo thời
gian: từ 1 -34 giờ có hình thái, kích thước bình thường; 35 - 45 giờ: tiên mao
trùng có hình dạng thay đổi, tăng kích thước chiều rộng và thô dần; 46 - 53
giờ: tiên mao trùng trương to, duỗi thẳng, mất khả năng di động và ngừng
hẳn hoạt động.

Phan Văn Chinh (2006) [4] cho biết khả năng gây bệnh của tiên mao
trùng sau khi xâm nhập vào mòng Tabanus rubidus như sau: Thời gian từ giờ
thứ 1 đến thứ 5, tiên mao trùng có khả năng gây bệnh và làm chết chuột bạch
tương tự như khi truyền thẳng máu có tiên mao trùng cho chuột; từ giờ thứ 6
đến thứ 7 chỉ còn 30% số chuột thí nghiệm phát bệnh, thời gian gây bệnh kéo
dài và thời gian chết của chuột cũng dài. Điều này có thể giải thích là do độc
lực của tiên mao trùng giảm dần và số lượng tiên mao trùng còn hoạt lực gây
bệnh cũng giảm dần sau khi chúng xâm nhập vào mòng Tabanus rubidus.
2.1.2.3. Tuổi vật chủ, mùa mắc bệnh
Trâu, bò và các loài gia súc khác ở mọi lứa tuổi đều nhiễm tiên mao
trùng và đều phát bệnh, có thể dẫn đến tử vong hoặc suy nhược, thiếu máu,
giảm sức đề kháng, giảm khả năng sinh đẻ và sức sản xuất.
Phan Địch Lân (2004) [19] đã tổng hợp kết quả điều tra 3.172 trâu ở các
tỉnh đồng bằng: trâu dưới 3 năm tuổi nhiễm thấp nhất (3,2 - 6,l%), trâu 3 - 5 tuổi
nhiễm cao hơn (l0,6 - 12,7%), trâu 6 - 8 tuổi nhiễm cao nhất (12,9 - 14,8%), trâu
trên 9 năm tuổi tỷ lệ nhiễm giảm thấp hơn trâu 3 - 8 năm tuổi.
Phan Văn Chinh (2006) [4] cho biết tỷ lệ nhiễm tiên mao trùng cao
nhất ở 4 - 8 năm tuổi (trâu: 12,71%; bò: 5,77%), thấp nhất là trâu, bò dưới 3
năm tuổi (6,92% và2,31%). Mùa lây lan bệnh thường xảy ra trong các tháng
nóng ẩm, mưa nhiều (từ tháng 4 đến tháng 9). Thời gian này điều kiện sinh
thái thuận lợi cho các loài ruồi, mòng phát triển, hoạt động mạnh. Hút máu
súc vật và truyền tiên mao trùng.
Theo Luckins (1988) [42], sự xuất hiện lượng lớn ruồi, mòng trong
mùa mưa nóng ẩm luôn có liên quan đến tình hình dịch tễ bệnh tiên mao trùng
ở trâu, bò, dê, lạc đà. Từ cuối mùa thu, mùa đông và đầu mùa xuân, trâu bò
nhiễm tiên mao trùng phải sống trong điều kiện thời tiết lạnh, thiếu thức ăn

12
nên sức đề kháng giảm, bệnh thường phát ra vào thời gian này và trâu bò bị
đổ ngã hàng loạt. Tiên mao trùng có sức đề kháng yếu, dễ chết khi tiếp xúc

với nước cất, cồn và thuốc sát trùng.
2.1.3. Đặc điểm bệnh lý và lâm sàng của bệnh
2.1.3.1. Đặc điểm bệnh lý
Khi ruồi trâu, mòng đốt, hút máu và truyền tiên mao trùng vào trâu, bò,
ngựa, tiên mao trùng xâm nhập vào da, gây ra vết viêm trên mặt da. Theo dõi
có thể quan sát được phản ứng viêm ở da của thỏ, cừu, dê và bò gây nhiễm
thực nghiệm tiên mao trùng, kích thước chỗ viêm phụ thuộc vào số lượng tiên
mao trùng được tiêm truyền (ước chừng khoảng 108 tiên mao trùng có thể
gây viêm da - ở vị trí tiêm truyền), một số lượng lớn tiên mao trùng phát triển
ở tại chỗ viêm này.
Vào máu, tiên mao trùng nhân lên theo cấp số nhân ở trong máu, trong
bạch huyết và ở trong các mô khác của cơ thể vật chủ theo cách phân chia
theo chiều dọc. Số lượng tiên mao trùng trong máu không phải lúc nào cũng
như nhau. Mật độ tiên mao trùng thay đổi theo ngày. Biểu đồ sóng tiên mao
trùng cho thấy, xen kẽ giữa những sóng tiên mao trùng mạnh là những đợt
sóng yếu. Mỗi đợt sóng tiên mao trùng bắt đầu bằng sự tăng số lượng tiên
mao trùng trong máu, sau đó giảm và khó phát hiện thấy tiên mao trùng. Mỗi
đợt tiên mao trùng tăng lên trong máu là biểu hiện sự xuất hiện một quần thể
tiên mao trùng có tính kháng nguyên bề mặt mới, quần thể này có thể tiếp tục
sinh sản và tồn tại một thời gian cho đến khi cơ thể xuất hiện kháng thể đặc
hiệu với chúng.
Phạm Sỹ Lăng, Tô Long Thành (2006) [16] cho biết tiên mao trùng
phát triển nhanh trong máu, tiêu thụ Glucose và các chất đạm, chất béo và
khoáng chất trong máu ký chủ bằng phương thức thẩm thấu qua bề mặt cơ thể
để duy trì hoạt động và sinh sản. Ở súc vật bị bệnh, trong 1 ml máu có thể có
10.000 - 30.000 tiên mao trùng. Với số lượng nhiều như vậy, tiên mao trùng
chiếm đoạt dinh dưỡng nhiều, làm cho súc vật bệnh gây còm, thiếu máu và
mất dần khả năng sản xuất sữa, thịt, mất dần khả năng sinh sản và giảm sức
đề kháng với các bệnh khác.


13
Sống trong máu vật chủ, tiên mao trùng còn tạo ra độc tố Trypanotoxin,
độc tố này gồm: độc tố do tiên mao trùng tiết ra qua màng thân trong quá
trình sống và độc tố do xác chết của tiên mao trùng phân huỷ trong máu sau
15 - 30 ngày. Độc tố của tiên mao trùng tác động lên hệ thần kinh trung ương
làm rối loạn trung khu điều hoà thân nhiệt, gây sốt cao và gián đoạn (lúc sốt,
lúc hết sốt xen kẽ nhau). Khi sốt thường có rối loạn về thần kinh (kêu rống,
run rẩy, ngã vật xuống). Độc tố cũng phá huỷ hồng cầu, ức chế cơ quan tạo
máu làm cho vật chủ thiếu máu và suy nhược dần. Độc tố còn tác động tới bộ
máy tiêu hoá, gây rối loạn tiêu hoá, làm con vật ỉa chảy. Hội chứng tiêu chảy
thường xảy ra khi xuất hiện tiên mao trùng trong máu con vật bệnh.
Khi tăng lên với số lượng lớn trong máu, tiên mao trùng còn làm tắc
các mao mạch, làm tăng tính thấm thành mạch, dần dần tạo ra các ổ thuỷ
thũng chất keo vàng dưới da.
2.1.3.2. Triệu chứng lâm sàng của bệnh tiên mao trùng ở trâu, bò, ngựa
* Ở trâu, bò:
Trâu, bò bị bệnh thể hiện các triệu chứng lâm sàng chủ yếu như sau:
- Sốt cao và gián đoạn: sau 14 - 30 ngày bị ruồi, mòng hút máu truyền
tiên mao trùng, trâu bò thường đột ngột lên cơn sốt (40 - 41,7
0
C) kéo dài 2 - 4
ngày rồi giảm, thời gian sau nhiệt độ lại tăng lên. Thời gian gián đoạn giữa
hai cơn sốt dài hay ngắn tuỳ theo thể trọng con vật. Khi sốt, kiểm tra máu
thường thấy tiên mao trùng.
- Hội chứng thần kinh: ở một số trâu, bò khi lên cơn sốt còn thể hiện
hội chứng thần kinh như điên loạn, mắt đỏ ngầu, húc đầu vào tường, chạy
vòng quanh kêu rống lên. Trường hợp nhẹ thấy run rẩy từng cơn, mắt trợn
ngược rồi đổ ngã vật xuống, sùi bọt mép giống như trâu bị cảm nắng. Sau 20 -
30 phút con vật lại đứng dậy đi lại được. Những trâu bò mắc bệnh có triệu
chứng lâm sàng như trên thường là mắc bệnh ở thể cấp tính.

Trâu, bò bị bệnh mạn tính thường kéo dài, cơ thể suy yếu, liệt hai chân
sau, nằm tư thế quỳ và không đi lại được. Mặc dù nằm liệt nhưng vẫn ăn và
nhai lại cho đến khi sắp chết.
- Phù thũng dưới da: phù thũng thường thấy ở vùng thấp của cơ thể như
ở bốn chân (từ khớp khuỷu trở xuống), phần yếm, ngực, bộ phận sinh dục.

14
- Viêm giác mạc và kết mạc mắt: triệu chứng này thấy ở hầu hết trâu,
bò bệnh. Mắt có dử trắng hay vàng, chảy liên tục, nếu nặng thì mắt sưng đỏ
ngầu. Khi khỏi bệnh, mắt có màng trắng (củi nhãn) kéo che kín giác mạc.
- Hội chứng tiêu hoá: một số trâu, bò bệnh bị ỉa chảy nặng, phân lỏng,
màu vàng, sau chuyển màu xám, có lẫn bọt và chất nhầy. Các đợt ỉa chảy tiếp
theo những cơn sốt cách quãng. Ỉa chảy trong bệnh tiên mao trùng thường dai
dẳng và con vật vẫn ăn được.
- Gầy yếu, suy nhược: ở thể bệnh cấp tính trâu, bò gầy sút nhanh, chỉ
sau 7 – 14 ngày từ khi phát bệnh con vật đã gầy rộc, mắt trũng sâu. Nếu bệnh
kéo dài thì con vật gầy xơ xác, lông dựng ngược, da khô nhăn nheo, niêm mạc
mắt nhợt nhạt, lông dễ rụng, dần dần suy nhược cơ thể nặng, mất khả năng
cày kéo và sinh sản. Nếu gặp điều kiện bất lợi như thiếu ăn, rét mướt thì trâu,
bò dễ chết. Trong thực tế, có khoảng 3% trâu bệnh ở thể ẩn vẫn béo khoẻ, làm
việc bình thường khi được chăm sóc nuôi dưỡng tốt.
Tình trạng thiếu máu thể hiện rõ trong bệnh do T. evansi gây ra. Theo
Hoare C. A. (1972) [40], số lượng hồng cầu và hàm lượng huyết sắc tố giảm,
số lượng bạch cầu tăng, thành phần bạch cầu thay đổi: bạch cầu lymphô, bạch
cầu ái toan tăng nhưng bạch cầu trung tính giảm, protein tổng số và Albumin
giảm rõ rệt.
Phạm Sỹ Lăng (1986) [15] cho biết, khi protein tổng số và Albumin giảm
thì các thành phần α, β và γglobulin đều tăng, chỉ số A/G < 0,5.
Theo nhiều tác giả trong và ngoài nước, triệu chứng tương đối điển hình
của bệnh đó là hiện tượng sảy thai ở những gia súc có nhiều T. evansi. Ở Việt

Nam, tác giả Bùi Quốc Huy (1998) [10] xác nhận một ổ dịch trâu Murrah (Cúc
Phương – Ninh Bình) sảy thai có tiên mao trùng trong máu. Theo Nguyễn
Đăng Khải (1995) [11] lần đầu tiên những ca sảy thai do tiên mao trùng đã
được chẩn đoán và ghi nhận trên đàn trâu Murrah nuôi tại trung tâm Phùng
Thượng. Tổng số có 28 con bị sảy thai chiếm 46,6% số trâu chưa đẻ. Qua xét
nghiệm, toàn đàn 34/78 trâu dương tính với T.evansi sau khi đã loại trừ
Brucella và Leptospira. Tác giả còn cho biết, tháng 1/1991 tại huyện Mường
Khương bệnh tiên mao trùng đã làm chết 26 con trâu và sảy thai 60 con trâu.

15
* Ở ngựa
Thường khoảng 1 – 2 tuần sau khi ruồi, mòng hút máu và truyền
T.evansi, ngựa có biểu hiện phát bệnh. Triệu chứng rõ nhất là ngựa sốt 40 -
41
0
C, sốt gián đoạn, khi sốt có tiên mao trùng ở máu ngoại vi. Khi bị bệnh
nặng, ngựa thường sốt cao đột ngột, các triệu chứng khác chưa kịp thể hiện thì
con vật đã lăn lộn điên cuồng rồi chết. Thể bệnh cấp tính diễn ra khoảng 1 - 3
tuần, thể mãn tính kéo dài 2 - 4 tháng (tuy nhiên, thể mãn tính thường ít gặp).
Sau 1 - 2 tuần kể từ khi phát bệnh, con vật có hiện tượng thuỷ thũng ở
vùng thấp của cơ thể như ngực, bụng, âm hộ, vú. Ngựa đi đứng xiêu vẹo, gầy
sút rất nhanh, ăn kém, da khô, lông dựng, bốn chân run rẩy, hay nằm, dần dần
liệt chân, nằm một chỗ rồi chết.
2.1.3.3. Bệnh tích của bệnh tiên mao trùng
Trâu, bò bị bệnh tiên mao trùng khi chết gầy xơ xác, mổ khám thấy có
những biến đổi bệnh tích đại thể rõ rệt ở hệ tuần hoàn và hô hấp: tim nhão,
xoang bao tim tích nước vàng; phổi xung huyết và tụ máu từng đám nhỏ; gan
sưng to, nhạt màu; lách sưng, mềm nhũn và nhạt màu; hạch lâm ba sưng và có
tụ máu trong hạch; cơ nhão, màu nhợt nhạt, nhát cắt rỉ nước; xoang ngực và
xoang bụng tích dịch màu vàng nhạt; có những đám keo nhầy vàng dưới vùng

da thuỷ thũng.
2.1.4. Phương pháp chẩn đoán bệnh tiên mao trùng
2.1.4.1. Chẩn đoán lâm sàng
Các biểu hiện lâm sàng đặc trưng của bệnh tiên mao trùng ở trâu, bò,
ngựa không phải lúc nào cũng phát hiện được. Rất nhiều gia súc mang bệnh
nhưng khó phát hiện các triệu chứng đặc trưng, nhất là đối với những gia súc
mắc bệnh tiên mao trùng mãn tính. Đối với gia súc mắc bệnh ở thể cấp tính,
các biểu hiện bệnh đặc trưng là sốt cao, bỏ ăn, có triệu chứng thần kinh (điên
loạn) và chết nhanh. Trâu bị bệnh mãn tính có thể thấy triệu chứng: sốt gián
đoạn, gầy còm, thiếu máu kéo dài, viêm giác mạc, phù thũng ở bụng và chân
sau, chết do kiệt sức (Phạm Sỹ Lăng, 1982) [14]. Triệu chứng sảy thai có thể
thấy ở trâu, bò bị bệnh tiên mao trùng (Nguyễn Đăng Khải, 1995) [11].

16
2.1.4.2. Chẩn đoán thí nghiệm
Có nhiều phương pháp chẩn đoán tiên mao trùng trong phòng thí
nghiệm, mục đích là phát hiện tiên mao trùng trong máu gia súc. Tùy từng
trường hợp bệnh, tuỳ điều kiện mà có thể làm cùng lúc một số phương pháp
hoặc lựa chọn một phương pháp phù hợp và có độ chính xác cao.
* Phương pháp phát hiện tiên mao trùng trực tiếp:
Muốn phát hiện tiên mao trùng trực tiếp, có thể áp dụng những phương
pháp sau:
- Phương pháp xem tươi (Direct smear)
Khi bệnh súc sốt, T. evansi thường xuất hiện trong mao quản ngoại vi;
vì vậy, nên lấy máu vùng ngoại vi để xem tươi. Cho 1 giọt máu nhỏ lên phiến
kính, đậy la men lên để máu dàn theo la men thành một lớp mỏng. Soi dưới
kính hiển vi (độ phóng đại 10 x 20 và 10 x 40) để phát hiện tiên mao trùng
thông qua sự di chuyển của chúng.
- Phương pháp nhuộm Giemsa tiêu bản máu khô (Romanovsky)
+ Phương pháp giọt dầy: Đặt 1 giọt máu to vào giữa phiến kính, dùng

một góc của đầu một phiến kính khác ria tròn giọt máu với đường kính
khoảng 1 - 1,25 cm. Để khô tự nhiên trong khoảng 1 giờ, rồi cố định bằng cồn
Methanol, nhuộm Giemsa (pha Giemsa mẹ với nước cất theo tỷ lệ 1:9) trong
25 phút. Rửa tiêu bản dưới vòi nước chảy mạnh, để khô rồi soi dưới kính hiển
vi (độ phóng đại 10 x 100).
Phương pháp này có nhược điểm là dễ làm tổn thương tiên mao trùng,
do đó khó phân biệt được các loài khác nhau trong trường hợp nhiễm nhiều
loài tiên mao trùng cùng một lúc.
+ Phương pháp giọt mỏng: Đặt 1 giọt máu cách 1 đầu phiến kính 2 cm,
đặt cạnh của 1 lamen lên giọt máu, nghiêng 45
0
với phiến kính. Khi máu đã
lan hết cạnh lamen, đẩy nhẹ lamen lên phiến kính để dàn máu thành một lớp
mỏng. Để khô, cố định bằng cồn Methanol trong 2 phút. Nhuộm Giemsa
trong 25 phút (pha Giemsa mẹ với nước cất theo tỉ lệ 1:9). Rửa tiêu bản dưới
vòi nước chảy mạnh, để khô và soi dưới kính hiển vi (độ phóng đại 10 x 100).
Ưu điểm của phương pháp giọt mỏng là có thể phân biệt được hình thái
các loài tiên mao trùng khác nhau.

17
* Phương pháp tiêm truyền động vật thí nghiệm:
Lấy 0,2 - 0,3 ml máu trâu, bò nghi mắc bệnh tiên mao trùng, tiêm xoang
phúc mạc chuột bạch. Theo dõi biểu hiện của chuột thí nghiệm sau tiêm truyền.
Hàng ngày kiểm tra máu chuột thí nghiệm để phát hiện tiên mao trùng.
Đây là phương pháp phổ biến, hiệu quả, chính xác và thường được ứng
dụng nhiều để chẩn đoán bệnh tiên mao trùng ở Việt Nam.
Phương pháp này có ưu điểm là chính xác, do trực tiếp phát hiện thấy
tiên mao trùng sau khi nhân chúng lên trong động vật thí nghiệm mẫn cảm.
Nhược điểm của phương pháp tiêm truyền động vật thí nghiệm là khi
cần chẩn đoán nhanh, với số lượng nhiều và thời gian ngắn thì phương pháp

này không thể đáp ứng được (Lê Ngọc Mỹ và cs, 1994 [22]; Đoàn Văn Phúc
và cs, 1994 [26]).

* Phương pháp chẩn đoán huyết thanh học:
Bằng phương pháp huyết thanh học, có thể phát hiện kháng thể
hoặc kháng nguyên tiên mao trùng. Đây là các phương pháp huyết thanh
học đặc hiệu.
* Các phương pháp phát hiện kháng thể kháng tiên mao trùng
Khi tiên mao trùng ký sinh, cơ thể vật chủ sinh ra kháng thể đặc hiệu
chống lại tiên mao trùng. Những phương pháp sau cho phép phát hiện kháng
thể kháng tiên mao trùng trong máu vật chủ:
+ Phương pháp ngưng kết trên phiến kính (SAT: Slice Agglutination
Test): hoà tan 1 giọt huyết thanh gia súc nghi mắc bệnh vào 1 giọt nước muối
sinh lý trên phiến kính, sau đó cho 1 giọt máu chuột bạch có nhiều tiên mao
trùng vào, trộn đều, đậy la men và soi dưới kính hiển vi (độ phóng đại 10 x 20
hoặc 10 x 40). Nếu thấy ngưng kết hình hoa cúc là (+) và ngược lại là (-).
Phương pháp này đơn giản, dễ làm và có thể áp dụng trên diện rộng.
+ Phương pháp LATEX (Latex Agglutination Test)
LATEX là phương pháp được dùng để phát hiện kháng thể lưu động có
trong máu của gia súc mắc bệnh tiên mao trùng.
Nguyên lý của phương pháp LATEX: khi kháng nguyên bề mặt T.
evansi gắn lên các hạt latex kết hợp với kháng thể đặc hiệu kháng tiên mao

18
trùng ở trên bản nhựa, thì sẽ xảy ra phản ứng ngưng kết giữa kháng nguyên
với kháng thể. Hiện tượng ngưng kết có thể quan sát được bằng mắt thường,
và được giải thích là do kháng nguyên bề mặt tiên mao trùng được gắn lên các
hạt latex là loại kháng nguyên hữu hình, có nhiều điểm quyết định tính kháng
nguyên bề mặt (epitop surface). Còn kháng thể đặc hiệu kháng tiên mao trùng
lại có nhiều điểm thụ thể (receptor) tương ứng, đặc hiệu với các điểm quyết

định của kháng nguyên. Do đó, khi kháng nguyên tiên mao trùng gặp kháng
thể đặc hiệu kháng tiên mao trùng, sẽ có hiện tượng một phân tử kháng thể
đặc hiệu liên kết với nhiều phân tử kháng nguyên và ngược lại. Kết quả là các
hạt latex cùng với kháng nguyên chụm lại, tạo thành đám ngưng kết có thể
quan sát bằng mắt thường. Kháng nguyên dùng cho phản ứng là kháng
nguyên bề mặt được tinh chế từ chủng T. evansi không nhuộm màu.
Phương pháp này có thể ứng dụng trong kiểm tra dịch tễ và có thể ứng
dụng ở cơ sở. Tuy nhiên tỷ lệ phát hiện bệnh không cao do phương pháp này
cho kết quả dương tính cả khi con vật khỏi bệnh nhưng vẫn còn kháng thể tồn
tại trong huyết thanh; mặt khác, đối với những súc vật mới nhiễm bệnh TMT
trong huyết thanh chưa có kháng thể nên khi kiểm tra bằng phương pháp
LATEX sẽ cho kết quả âm tính.
* Phương pháp CATT (Card Agglutination Test for Trypanosomiasis)
Đây là phương pháp ngưng kết trực tiếp giữa kháng nguyên và kháng
thể trên bản nhựa, được dùng để phát hiện kháng thể lưu động trong máu
động vật nhiễm bệnh.
Nguyên lý: kháng nguyên TMT đã được nhuộm màu kết hợp với kháng
thể tạo thành những đám kết tủa li ti màu xanh.
Cách tiến hành: dùng ống hút 2,5 ml dung dịch buffer cho vào lọ kháng
nguyên chuẩn đã được nhuộm màu (CATT reagent), lắc đều. Cho vào lọ
kháng nguyên đối chứng (đối chứng dương, đối chứng âm) mỗi lọ 0,5 ml
dung dịch buffer, lắc đều. Dùng micropipette pha loãng huyết thanh theo tỷ lệ
cần chẩn đoán (1/8). Cho các mẫu huyết thanh cần chẩn đoán đã được pha
loãng lần lượt vào các vòng tròn của bản CATT, cho kháng nguyên đối chứng
vào hai vòng tròn khác của bản, mỗi loại 1 giọt (tương đương 45µl). Sau đó

×