1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước ta có hơn 75% dân số làm nghề nông nghiệp, trong đó ngành chăn
nuôi chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nghề chăn nuôi
lợn có một vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp vì: nó cung cấp
nguồn thực phẩm có giá trị cao cho con người (100g thịt lợn có 367 Kcal và
22 g protein); cung cấp phân bón cho trồng trọt (1kg lợn thịt có thể thải 2,5 -
4 kg phân/ngày đêm); cung cấp sản phẩm phụ cho ngành công nghiệp chế
biến. Với mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, đàn lợn nước ta đạt 34,8 triệu con
và có thể xuất khẩu thịt lợn, nước ta đã áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất như con giống; thú y; thức ăn. Tuy nhiên ngành chăn nuôi
luôn phải đối mặt với tình hình dịch bệnh xảy ra ngày càng nhiều và phức tạp,
trong đó có bệnh ký sinh trùng. Điều kiện khí hậu nóng ẩm và mưa nhiều của
nước ta là môi trường thuận lợi để bệnh ký sinh trùng phát triển. Đàn lợn
thường bị nhiễm ký sinh trùng với cường độ nặng, đặc biệt là bệnh giun tròn
đường tiêu hóa. Bệnh không diễn ra nhanh và mạnh như bệnh truyền nhiễm
nhưng lại âm thầm làm cho lợn còi cọc, sinh trưởng phát triển kém, giảm sức
đề kháng từ đó làm giảm năng xuất và hiệu quả kinh tế của ngành chăn nuôi.
Tỉnh Bắc Kạn là một tỉnh miền núi phía Bắc với phương thức chăn nuôi
lạc hậu, chủ yếu là chăn nuôi tận dụng trong các hộ gia đình. Do vậy công tác
vệ sinh thú y trong chăn nuôi còn kém nên khả năng nhiễm bệnh cao, đặc biệt
là bệnh giun tròn đường tiêu hóa.
Để đánh giá tình hình nhiễm giun tròn đường tiêu hóa ở lợn và có cơ sở
khoa học đề xuất biện pháp phòng trị bệnh có hiệu quả, chúng tôi thực hiện đề
tài: “Tình hình nhiễm giun tròn đường tiêu hóa lợn tại một số xã thuộc
huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn và sử dụng thuốc Hanmectin - 25 điều trị”.
2
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định tỷ lệ nhiễm và cường độ nhiễm giun tròn đường tiêu hóa ở
lợn tại một số xã thuộc huyện Chợ Mới - tỉnh Bắc Kạn.
- Nghiên cứu một số triệu chứng lâm sàng điển hình và đặc điểm bệnh
tích của giun tròn đường tiêu hóa ở lợn.
- Thử nghiệm thuốc Hanmectin - 25 điều trị và đề xuất biện pháp phòng
bệnh giun tròn ở đường tiêu hóa cho lợn tại huyện Chợ Mới.
1.3. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ những thông tin về bệnh giun tròn đường tiêu hóa ở lợn; từ
đó có cơ sở khoa học để đề xuất biện pháp phòng, trị bệnh giun tròn cho lợn
có hiệu quả hơn.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: đề tài là những thông tin khoa học về tình hình cảm
nhiễm bệnh giun tròn đường tiêu hóa ở lợn tại huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn
- Ý nghĩa thực hiện: đề tài là cơ sở khoa học khuyến cáo người chăn nuôi
áp dụng các biện pháp phòng trị bệnh giun tròn đường tiêu hóa cho lợn
một cách hiệu quả; hạn chế sự nhiễm mầm bệnh từ môi trường vào cơ thể
lợn, từ đó hạn chế những thiệt hại mà bệnh gây ra, góp phần nâng cao
năng suất chăn nuôi.
3
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
2.1.1. Giun tròn ký sinh ở đường tiêu hóa của lợn
2.1.1.1. Vị trí của giun tròn ký sinh ở đường tiêu hóa lợn trong hệ thống phân
loại động vật
Theo Nguyễn Thị Lê (1998) [16], ký sinh trùng phân bố rất rộng trong
thiên nhiên gồm các đại diện của 20 lớp động vật khác nhau. Có số lượng loài
phong phú nhất là ở loài nguyên sinh động vật trên 3000 loài. Giun sán gồm
đại diện của 13 lớp: Lớp sán lá gần 3000 loài, lớp giun tròn gần 3000 loài, lớp
sán dây gần 1500 loài, lớp giun đầu gai gần 500 loài.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [11], ở lợn cho đến nay đã phát hiện
được 52 loài ký sinh trùng gồm giun tròn, sán dây, sán lá, đơn bào, côn trùng
ký sinh. Trong đó, có một số loài ký sinh trùng phổ biến mà lợn nhiễm với tỷ
lệ và cường độ cao như bệnh giun đũa lợn do Ascaris suum, bệnh sán lá ruột
lợn do Fascioloposis buski … Những bệnh này đã gây ra các tổn thương và
viêm nhiễm kế phát do vi khuẩn sống ở các nội quan của lợn, ảnh hưởng đến
quá trình sinh trưởng của lợn đặc biệt là tiêu tốn thức ăn, giảm tăng trọng từ
15 - 20% so với lợn không bệnh.
Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [17] cho biết: Lớp giun tròn thuộc ngành
giun tròn Nemathelminthes bao gồm hơn 500.000 loài sống ở các điều kiện
sinh thái khác nhau và phân bố rộng trên toàn cầu. Phần lớn giun tròn sống tự
do, chỉ một số ít sống ký sinh ở động vật và thực vật trong khu hệ giun sán ký
sinh ở gia súc Việt Nam đã thống kê được 90 loài giun tròn.
Hệ thống phân loại của một số loài giun tròn ở đường tiêu hóa lợn được
sắp xếp theo vị trí như sau:
Ngành Nemathelminthes
Lớp Nematoda Rudolphi, 1808
Phân lớp Enoplia Chit wood, 1933
Bộ Trichocephaliada Skrjabin et Schulz, 1928
Phân bộ Trichocephaliada Skrjabin et Schulz, 1928
Họ Trichocephalidea Bard, 1953
4
Phân họ Trichocephalinae Ransom, 1911
Giống Trichocephalus Schrank, 1788
Loài Trichocephalus suis schrank, 1788
Họ Trichostrongydae Witen berg, 1925
Phân họ Oesophagostomatinae Railliet, 1916
Giống Oesophagostomum Molin, 1861
Loài Oesophagostomum dentatum
(Rudolphi, 1803)
Loài Oesophagostomum brevicaudatum
(Shwartz et Alicata, 1930)
Loài Oesophagostomum longicaudum
(Goodey, 1925)
Phân lớp Rhabditia Pearse, 1942
Bộ Rhabditia Chitwood, 1933
Phân bộ Rhabditia Chitwood, 1933
Họ Strongyloididae Chitwood et Mcinstsch, 1934
Giống Strongyloides Grassi, 1879
Loài Strongyloides papillosus (Wedl, 1856)
Loài Strongyloides ransomi
(Schwartz et Alicata, 1930)
Bộ Ascaridida Skrjabin et Schulz, 1940
Phân bộ Ascaridida Skrjabin, 1915
Họ Ascaris Linnacus, 1758
Giống Ascaris Linnaeus, 1758
Loài Ascaris suum Goeze, 1782
Bộ Spirurida Chitwood, 1933
Phân bộ Camallaninia Chitwood, 1936
Họ Gnathostomatidae Railliet, 1895
Giống Gnathostoma Owen, 1836
Loài Gnathostoma doloresi (Tubangui, 1925)
Loài Gnathostoma hispidium (Fedtschenko, 1977)
5
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [6] , hiện nay đã biết hơn 5000
loài thuộc lớp giun tròn (Nematoda) trong đó có hơn 1000 loài giun sống tự
do, hơn 3000 loài giun sống ký sinh. Các giun tròn ký sinh có liên quan nhiều
tới thú y gồm 8 bộ phụ:
+ Bộ phụ giun đũa (Ascaridata)
+ Bộ phụ giun kim (Oxyurata)
+ Bộ phụ giun tóc (Trichocephalata)
+ Bộ phụ giun lươn (Rhabdiasata)
+ Bộ phụ giun xoắn (Strongylata)
+ Bộ phụ giun đuôi xoắn (Spirurata)
+ Bộ phụ giun chỉ (Filariata)
+ Bộ phụ Dioctophymata
Chu Thị Thơm và cs (2006) [34], Phan Lục và cs (2006) [20] cho biết:
Đến nay đã biết giun tròn thuộc lớp Nematoda có hơn 3000 loài sống ký sinh
nhưng giun tròn ký sinh ở súc vật nuôi thuộc các bộ phụ sau:
+ Bộ phụ giun kim
+ Bộ phụ giun đũa
+ Bộ phụ giun xoăn
+ Bộ phụ giun tóc
+ Bộ phụ giun xoăn (Spirulata)
+ Bộ phụ giun chỉ
+ Bộ phụ Dictyophymata
+ Bộ phụ giun lươn
+ Bộ phụ Cucullanata
2.2.1.2. Thành phần loài giun tròn ký sinh ở đường tiêu hoá lợn
Theo Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [17], thành phần loài giun tròn ký
sinh ở đường tiêu hoá lợn gồm:
6
Giống
Loài
Trichocephalus Schrank, 1788
Trichocephalus suis Schrank , 1788
Strongyloides Grassi, 1879
Strongyloides papillosus (Wedl, 1856)
Strongyloides ransomi Schwartz et Alicata, 1930
Ascaris Linnacus, 1758
Ascaris suum Goeze, 1782
Oesophagostomum Molin, 1861
Oesophagostomum dentatum (Rudolphi, 1803)
Loài Oesophagostomum brevicaudatum
(Shwartz et Alicata, 1930)
Loài Oesophagostomum longicaudum
(Goodey, 1925)
Gnathostoma Owen, 1836
Loài Gnathostoma doloresi
(Tubangui, 1925)
Loài Gnathostoma hispidium
(Fedtchenko, 1977)
Giun tròn ký sinh gây bệnh nguy hiểm cho người, động vật chủ yếu gồm
các đại diện thuộc các bộ sau: Trichocephaliadae, Strongyloidida, Oxyurida,
Ascaridida, Spirurida (Nguyễn Thị Lê, 1998) [18].
2.1.1.3. Đặc điểm hình thái, kích thước các loài giun tròn đường tiêu hóa lợn
Theo Phan Lục và cs (2006) [20] cho biết giun tròn thuộc lớp
Nematoda, ngành Nemathelminthes: Cơ thể hình ống, hình sợi nhưng hai đầu
thon nhỏ dần, hoặc hình ống phân thùy (xoăn mề gà), dài từ 0,1mm đến 1m
(có loại Placenronema gigantisima dài 8m). Giun tròn gồm nhiều loại, sống
tự do và sống ký sinh ở động vật, thực vật (cây trồng).
Đầu giun thường có môi, gai, xoang miệng. Đuôi giun cái thường nhọn,
thẳng, đuôi giun đực thường cong. Một số loài giun tròn có túi đuôi. Cơ thể
giun thường bao bọc bằng lớp vỏ ngoài (cutin) dày. Trên lớp vỏ này có những
vân ngang, dọc, giác, móc và các cấu tạo phụ khác. Thành phần của lớp vỏ
gồm những chất có trọng lượng phân tử lớn, chịu đựng tốt với hóa chất, dịch
tiêu hóa và chức năng như áo giáp bảo vệ đời sống ký sinh của giun. Lớp vỏ
ngoài gồm nhiều lớp. Những giun ký sinh đường tiêu hóa gồm 7 - 10 lớp (lớp
vỏ ngoài, lớp vỏ trong, lớp phiến ngoài, lớp đồng thể, lớp phiến trong, lớp
7
hình bazan, màng bazan, lớp nhiều thớ sợi, màng kép bazan). Những giun ký
sinh ở hệ hô hấp gia cầm không vượt quá 5 lớp vỏ ngoài.
Dưới lớp vỏ cutin là lớp biểu mô và tiếp đến là lớp cơ giúp giun di
chuyển được. Sau lớp cơ, có những tế bào mầm giúp quá trình trao đổi chất
của giun. Lớp vỏ cutin cùng với lớp cơ tạo thành túi da cơ, bên trong là xoang
cơ thể chứa các khí quan.
* Đặc điểm hình thái giun dạ dày
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [11]: Bệnh gây ra do giun dạ dày
Gnathostoma spp, ký sinh ở dạ dày lợn. Ở Việt Nam đã phát hiện 2 loài gây
bệnh giun dạ dày cho lợn:
- Gnathostoma hispidum Fedtschenko, 1872: Loài này thấy ở dạ dày
lợn châu Âu, châu Á, rất giống với G.spinigerum ký sinh ở chó. Con cái dài
25 - 45 mm, con đực dài 12 - 25 mm, trên thân phủ nhiều gai, đoạn đầu màu
hồng và phía trên màu xanh. Giun trưởng thành cắm sâu vào lớp cơ của dạ
dày lợn. Trứng có vỏ mỏng, kích thước 0,074 x 0,042 mm, một cực có nắp.
- Gnathostoma doloresi Tubangui, 1925: Sự phân bố của giun này
không rộng bằng G.hispidium. Con đực dài 28 - 38 mm, rộng 0,4 - 1,66 mm.
Gai sinh dục dài 1,85 mm và 2,07 mm. Con cái dài 27 - 52 mm, rộng 1,3 - 2,8
mm. Lỗ sinh dục ở gần giữa thuộc nửa sau cơ thể. Trứng có kích thước 0,056
- 0,062 x 0,031 - 0,035 mm, có nắp ở hai cực.
* Đặc điểm hình thái giun đũa lợn (Ascaris suum)
Nguyễn Thị Kim Lan và cs 1999 [6] cho biết: Giun đũa ký sinh ở gia
súc, gia cầm thuộc bộ phụ Ascaridata. Bệnh giun đũa lợn do loài Ascaris
suum gây nên, giun ký sinh ở ruột non của lợn nhà và lợn rừng.
Theo Phan Lục và cs (2006) [20], giun đũa lợn có màu trắng sữa, hình
ống, hai đầu hơi nhọn. Đầu giun đũa có 3 môi bao bọc quanh miệng (1 môi ở
phía lưng, 2 môi ở phía bụng). Trên rìa môi có một hàng răng cưa rất rõ, cấu
tạo răng này rất khác nhau giữa hai loài giun đũa, hàng răng cưa ở giun đũa
người không rõ bằng giun đũa lợn. Giun đực dài 12 - 15 cm, đường kính 3,2 -
4,4 mm. Đoạn đuôi cong về phía bụng. Trên mặt bụng ở mỗi bên có từ 69 - 75
gai thịt, có 7 gai thịt sau hậu môn, một gai thịt lẻ dưới hậu môn. Con cái dài
từ 20 - 30 cm, đường kính 5 - 6 mm, đoạn sau thẳng. Đuôi mang hậu môn về
8
phía bụng, hậu môn có hình dạng một cái khe ngang, bọc hai môi gồ lên, âm
hộ có hình dáng một lỗ nhỏ hình bầu dục ở về phía bụng khoảng 1/3 đoạn
trước thân.
Phân biệt giữa giun đực và giun cái là giun đực nhỏ, đuôi cong về mặt
bụng, đuôi giun cái thẳng. Giun đực có hai gai giao hợp bằng nhau, khoảng
cách 1,2 - 2 mm không có túi giao hợp.
Theo Đào Trọng Đạt (1995) [2], trứng giun đũa hình ovan, vỏ dầy, bề
mặt nhăn nheo, màu vàng, trong có nhân màu vàng thẫm. Kích thước từ 45 -
85 μm x 35 - 55 μm. Vỏ trứng giun có tác dụng phòng vệ cao trong vòng đời
phát triển của giun.
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [6] mô tả: Trứng giun đũa hình bầu
dục hơi ngắn, kích thước 0,056 - 0,087 x 0,046 - 0,067 mm, vỏ dày gồm 4 lớp
vỏ, lớp ngoài cùng là protit, màu vàng cánh dán, nhấp nhô làn sóng.
Theo Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (1995) [8]: Trứng có phôi màu
vàng nâu kích thước 50 - 70µ x 40 - 60µ vỏ dày (4 lớp vỏ).
Trứng không phôi: Hình bầu dục 80 - 90µ x 44µ có thể có hoặc không
có lớp vỏ abumin dày bọc bên ngoài.
* Đặc điểm hình thái của giun lươn ở lợn (Strongyloides ransomi)
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [6] mô tả: Giun lươn sống ký sinh ở
ruột lợn, giun cái sống ký sinh dài 2,1 - 4,4 mm. Đuôi ngắn, âm hộ ở vào nửa
sau của thân giun, trứng uốn khúc. Trứng hình bầu dục, màu trắng, kích thước
0,045 - 0,055 mm x 0,026 - 0,035 mm, trong trứng có ấu trùng.
Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [11] cho biết: Tác nhân gây bệnh giun lươn
ở Việt Nam là hai loài giun lươn thuộc giống Strongyloides ký sinh ở ruột
non của lợn có hình thái sau:
Loài Strongyloides ransomi (Schwartf et Alicata, 1930): Ký sinh ở ruột
non lợn. Giun đực có hình sợi, dài 0,87 - 0,90 mm, lỗ huyệt cách nút đuôi 0,7
mm. Giun cái dài 2,1 - 4,2 mm rộng 0,04 - 0,08 mm. Lỗ sinh dục ở 1/3 phần
sau cơ thể cách nút đuôi là 0,36 - 1,53 mm, hai buồng trứng là các ống mỏng
xuất phát gần lỗ sinh dục,một buồng trứng hướng lên phía trên cơ thể, buồng
còn lại hướng phía đuôi. Tử cung chứa 1 - 10 trứng, trứng giun giống hình
trứng gà, kích thước 0,037 - 0,060 x 0,025 - 0,042 mm.
9
Loài Strongyloides papillosusus (Wedl, 1856): Ký sinh ở ruột non bò và
lợn, con đực chưa được mô tả, con cái hình chữ S, dài 4,8 - 6,3 mm, rộng
0,042 - 0,078 mm, lỗ miệng có 4 môi (1 môi lưng, 1 môi bụng, 2 môi bên),
thực quản dài 0,770 - 1,029 mm, lỗ sinh dục có rãnh ngang, cách nút đuôi 1,8
- 2,3 mm, hai bên có mấu lồi kitin, đầu hai buồng trứng rất gần lỗ sinh dục,
một buồng chạy về phía trước, một buồng chạy về phía sau cơ thể. Tử cung
chứa 4 - 75 trứng. Trứng có vỏ mỏng và phẳng, kích thước 0,048 - 0,060 x
0,025 - 0,036 mm.
* Đặc điểm hình thái giun tóc (Trichocephalus suis)
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [6], Phạm Sỹ Lăng và cs [8], cho
biết: Giun có màu trắng đục, giống một sợi tóc, cơ thể chia làm hai phần rõ
rệt: Phần đầu nhỏ thực quản có các tế bào xếp thành chuỗi hạt, có chiều dài
bằng 2/3 cơ thể, phần sau ngắn và to, bên trong là ruột và cơ quan sinh sản.
Giun đực dài 20 - 52 mm, rộng 0,634 - 0,713 mm, đuôi hơi tù, phần đuôi cuộn
tròn lại. Chỉ có một gai giao hợp dài 5 - 7 mm được bao bọc trong cái màng
có nhiều gai nhỏ bao phủ, lỗ huyệt thông ra ngoài ở phần cuối của giun. Giun
cái dài 39 - 53 mm, đuôi thẳng, hậu môn ở vào phần cuối của thân, âm hộ ở
đoạn cuối cùng của thực quản.
Trứng giun tóc hình hạt chanh, màu vàng nhạt, có hai núm ở hai đầu, có
kích thước 0,052 - 0,061 x 0,027 - 0,03 mm.
*Đặc điểm hình thái giun kết hạt (Oesophagostomum dentatum)
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [6], các loài thuộc giống
Oesphagostomum có đặc điểm hình thái chung là túi miệng hình ống rất nhỏ,
quanh miệng có một bờ gồ lên hình đĩa, có các tua ở quanh miệng, có rãnh cổ,
phía trước rãnh cổ biểu bì nở ra tạo thành túi đầu, sau rãnh cổ có gai cổ, giun
đực có túi đuôi và một đôi gai giao hợp dài bằng nhau, âm hộ giun cái ở gần
hậu môn.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan (1999) [6], Phan Lục và cs (2006) [20] , thì
loài Oesophagostomum dentatum ký sinh ở ruột già của lợn, là loài giun tròn
nhỏ không có cánh đầu. Có 9 tua ngoài và 18 tua trong, túi đầu to gai cổ ở hai
bên chỗ phình to của thực quản. Giun đực dài 8 - 9 mm, có túi đuôi, hai gai
10
giao hợp dài 1 - 1,14 mm. Giun cái dài 8 - 11,2 mm, âm đạo dài 0,1 - 0,15
mm, hơi xuyên vào cơ quan thải trứng.
Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [11] cho biết, trứng giun kết hạt hình ovan,
kích thước 0,056 - 0,071 x 0,032 - 0,045 mm.
Theo Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (1995) [8]: Oesophagostomum
dentatum. Ký sinh ở ruột già lợn không có cánh đầu. Túi miệng nông, có 9 tua
ngoài và 18 tua trong, túi đầu to, gai cổ ở hai bên chỗ phình to của thực quản.
Giun đực dài 8 - 9mm x 0,14 - 0,37mm có túi đuôi. Sườn bụng song song
nhau, đầu mút của sườn này gắn liền với ria mép của túi đuôi. Ba sườn hông
bắt nguồn ở cùng một gốc, sườn hông trước tách rời 2 sườn kia, còn sườn
hông giữa và sau song song nhau, sườn lưng trong lại chia thành hai nhánh,
có hai gai giao hợp dài 1,00 - 1,14mm.
Giun cái dài 8 - 11,3mm, đuôi dài 0,117 - 0,374mm. Âm hộ ở trước hậu
môn, cách hậu môn 0,208 - 0,388mm. Âm đạo rộng về phía trước dài 0,1 -
0,15mm hơi xuyên vào cơ quan thải trứng.
Trứng: 70 - 74µ x 40 - 42µ, gồm 8 - 16 hạt (trong vỏ trứng)
2.1.1.4. Đặc điểm cấu tạo của giun tròn
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [6] : Lớp ngoài là biểu bì bằng
giác chất (kitin), có vân ngang, vân dọc hoặc vân chéo. Một số loài giun tròn
có những chỗ biểu bì phình to gọi là cánh (cánh thân, cánh đuôi - chỉ có một
số giun đực có cánh đuôi). Một số loài giun có gai chồi và các bộ phận phụ
khác có tác dụng cảm giác, vận động và bám vào ký chủ. Dưới lớp biểu bì là
lớp hạ bì gồm một lớp tế bào dẹt. Trong cùng là lớp tế bào cơ có hình sợi,
hình bó hoặc hình vòng tròn tùy loài.
+ Hệ tiêu hóa: Giun tròn có hệ tiêu hóa khá hoàn chỉnh. có một ống dài
chạy dọc theo thân gồm: Môi → Miệng → Thực quản → Ruột → Trực tràng
→ Hậu môn.
Môi (có thể có ba lá môi quanh miệng hoặc không có, hoặc không rõ)
Miệng (thường ở đỉnh đầu), xung quanh miệng là môi mào. Một số là
có xoang miệng, đôi khi có răng bên trong. Sau miệng là thực quản hình viên
trụ hoặc củ hành, cuối thực quản có tuyến tiết ra dịch tiêu hóa. Ruột có ống
dài tận cùng là lỗ hậu môn thường ở cuối thân. Riêng giun chỉ (Filariata)
không có lỗ hậu môn.
11
+ Hệ bài tiết: Gồm có hai ống bắt nguồn từ phía sau và hợp lại ở hai vị
trí trước rồi đổ ra ngoài qua lỗ bài tiết ở ngang vùng thực quản.
+ Hệ thần kinh: Gồm một vòng thần kinh thực quản, từ đó phân ra
nhiều nhánh thần kinh đi về phía trước và sau tới các phần của cơ thể. Có
nhiều nhánh nhỏ nối với các nhánh chính này. Đầu mút sợi thần kinh nhỏ nằm
trong các gai ở đầu, cổ, thân giun - đó là các gai cảm giác.
+ Hệ sinh dục: Hầu hết giun tròn là đơn tính (đực, cái riêng biệt). Giun
đực nhỏ, đuôi cong; giun cái đuôi thẳng, kích thước lớn hơn.
Cơ quan sinh dục đực gồm tinh hoàn hình ống nối với ống dẫn tinh, túi
chứa tinh và gai giao cấu thò ra ngoài qua lỗ huyệt để cố định và thụ tinh cho
con cái. Một số loài có bánh lái để điều khiển gai giao cấu. Với bộ phụ
Strongylata, giun đực thường có túi đuôi (ô giao hợp) gồm hai thùy: hai thùy
hông và một thùy lưng. Thùy hông chứa sườn bụng trước, sườn bụng sau,
sườn hông trước, sườn hông giữa và sườn hông sau. Thùy lưng chứa sườn
lưng trong và sườn lưng ngoài để đỡ thùy lưng.
Cơ quan sinh dục cái gồm hai buồng trứng là ống dẫn ngoằn ngoèo
thông với ống dẫn trứng, đến tử cung, cuối cùng là lỗ sinh sản cái ở mặt bụng
(vị trí tùy loại khác nhau). Sau khi giao phối xong, giun cái đẻ trứng hay ấu
trùng theo phân hoặc bằng đường khác ra ngoài. Trong trứng chứa phôi bào
hình quả dâu hoặc chứa ấu trùng.
+ Bộ phận hô hấp và tuần hoàn: Bị tiêu giảm vì sống trong môi trường
yếm khí.
2.1.1.5. Vòng đời của giun tròn
Theo Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [17], đa số giun tròn đẻ trứng, một số
loài đẻ ấu trùng. Trứng được bao bọc trong nhiều lớp vỏ, vỏ ngoài phẳng hoặc
lồi lõm, ở một số loài trứng có nắp ở hai cực. Trứng hoặc ấu trùng của giun
tròn được thải ra môi trường ngoài cùng với phân, đờm, nước tiểu và nước
mắt của gia súc.
Theo Phan Lục và cs (2006) [20], trứng sau khi được thụ tinh, trong
trứng tiếp tục phát triển từ một phôi bào thành nhiều phôi bào, hình quả dâu,
hình ấu trùng giun và hình thành ấu trùng giai đoạn I, sau đó lột xác lần 1
thành ấu trùng giai đoạn II, sau đó lột xác 2 lần thành ấu trùng giai đoạn III,
12
sau lột xác giai đoạn 3 thì ấu trùng giai đoạn IV được hình thành, sau lột xác
lần 4, ấu trùng biến thành giun tròn dạng trưởng thành, ký sinh trong vật chủ.
Lần lột xác 3,4 thường xảy ra trong vật chủ cuối cùng.
Căn cứ vào đặc điểm quá trình phát triển, giun tròn được chia làm hai dạng:
+ Giun tròn phát triển trực tiếp (Giun tròn địa ốc): Vòng đời phát triển
của những loài giun này không cần vật chủ trung gian. Trứng hoặc ấu trùng
sau khi được thải trừ từ vật chủ ra môi trường ngoài, tiếp tục phát triển, lột
xác đến giai đoạn gây nhiễm (ấu trùng giai đoạn III), và nhiễm trực tiếp cho
vât chủ. Giun tròn phát triển trực tiếp gồm hai kiểu:
Kiểu thứ nhất: Thường gặp ở giun đũa, giun tóc, giun kim. Quá trình
phát triển theo sơ đồ sau:
Dạng trưởng thành→ trứng→ trứng gây nhiễm
(vật chủ cuối cùng) (chứa ấu trùng A3)
Kiểu thứ hai: Thường gặp ở giun xoắn (Strongylidae), giun thận
(Stephanurus), giun móc (Ancylostoma) … và diễn ra như sau:
+ Giun tròn phát triển gián tiếp (giun tròn sinh học): Vòng đời phát
triển của những loài giun này cần có vật chủ trung gian. Ấu trùng phát triển
đến giai đoạn gây nhiễm ở trong vật chủ trung gian. Giun tròn gián tiếp gồm
hai kiểu:
Kiểu thứ nhất: Thường gặp ở giun đuôi xoắn (Spirurata), giun phổi
(Metastrongylus) … Giun trưởng thành trong vật chủ cuối cùng, ấu trùng gây
nhiễm tiếp tục phát triển thành giun trưởng thành.
Kiểu thứ hai: Thường gặp ở giun chỉ (Filariata). Giun trưởng thành thụ
tinh, đẻ ấu trùng A1 trong cơ thể vật chủ. Ấu trùng A1 vào hệ tuần hoàn, vào
Trứng
Trứng có ấu
trùng A1
A2
A3
Phân
t
0
, A
0
, pH
Dạng trưởng thành
(ở vật chủ cuối cùng)
Thoát vỏ
trứng
Xâm nhập vào vật chủ cuối cùng lột xác
13
máu. Khi vật chủ trung gian (côn trùng) hút máu, ấu trùng A1 xâm nhập vào
vật chủ trung gian và phát triển thành ấu trùng A2, A3 (ấu trùng gây nhiễm).
Khi côn trùng là vật chủ trung gian hát máu, ấu trùng A3 xâm nhập vào vật
chủ cuối cùng và phát triển thành giun trưởng thành.
Ngoài các dạng trên, giun xoắn (Trichinella spiralis) có vòng đời phát
triển rất đặc biệt. Giun cái đẻ ấu trùng ở niêm mạc ruột vật chủ. Ấu trùng xâm
nhập vào hệ tuần hoàn và di hành về các cơ, tạo thành ấu trùng gây nhiễm. Vì
thế, vật chủ cuối cùng và vật chủ trung gian là cùng một động vật nhiễm
Trichinella spiralis.
* Vòng đời của giun dạ dày lợn
Theo Bùi Lập và cs (1979) [38], thì trứng Gnathostoma theo phân ra
ngoài sau 9 - 10 ngày đã nở ra ấu trùng, ấu trùng này có thể sống trong nước
20 - 30 ngày. Để tiếp tục phát triển thì ấu trùng này phải được bọ nước ăn
phải. Sau khi vào cơ thể bọ nước, ấu trùng Gnathostoma chủ động chui vào
xoang cơ thể, sau 5 ngày lột xác và vào ngày thứ 10 - 12 thì đạt đến giai đoạn
trưởng thành. Trong vòng phát triển của G.hispidium có thể có ký chủ dự trữ
là cá và ếch nhái. Như vậy lợn nhiễm bệnh bằng hai con đường: Khi uống
nước chứa bọ nước bị cảm nhiễm hay ăn phải ký chủ dự trữ (cá, ếch) có chứa
ấu trùng cảm nhiễm.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [11] thì ký chủ trung gian là loài giáp
xác thuộc họ Cyclopidae .Trứng theo phân ra ngoài tùy theo điều kiện nhiệt
độ khoảng 10 - 15 ngày trở thành ấu trùng. Ấu trùng có thể sống ở nước 22ºC
được 2 - 3 ngày. Cyclops ăn ấu trùng, tùy điều kiện nhiệt độ sau khi vào
Cyclops từ ngày thứ 7 đến ngày thứ 12 thì ấu trùng phát triển đến giai đoạn
gây nhiễm cho lợn. Ấu trùng giai đoạn cảm nhiễm này dài 0,49 - 0,52 mm
cũng có gai biểu bì như giun trưởng thành. Ấu trùng có thể xâm nhập vào ký
chủ trung gian dự trữ thứ hai như cá, ếch tạo thành kén.
Lợn bị nhiễm giun do:
- Uống nước có Cyclops đã chứa ấu trùng cảm nhiễm.
- Ăn phải ký chủ trung gian thứ hai (ếch, cá … ) có chứa ấu trùng
trong kén.
14
Vào lợn, ấu trùng Gnathostoma di hành trực tiếp đến dạ dày lợn, cũng
thấy một số giun non vào các cơ quan khác là gan và động mạch gan.
*Vòng đời của giun đũa lợn
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [6] cho biết: Giun cái đẻ mỗi ngày
200000 trứng, trung bình giun cái đẻ 27 triệu trứng (Cram, 1923). Trứng theo
phân ra ngoài , ở nhiệt độ 24ºC và độ ẩm thích hợp, trong hai tuần trứng có
phôi thai, sau một tuần nữa thì phôi thai lột xác thành trứng có sức gây bệnh.
Lợn nuốt phải trứng này thì ấu trùng nở ở ruột, chui vào mạch máu niêm mạc,
theo máu về gan. Một số ít chui vào ống lâm ba và màng treo ruột, vào tĩnh
mạch màng treo ruột vào gan. Sau khi nhiễm 4 - 5 ngày thì hầu hết ấu trùng di
hành tới phổi, sớm nhất là sau 18 giờ muộn nhất là sau 12 ngày vẫn có ấu
trùng vào phổi. Khi tới phổi, ấu trùng lột xác thành ấu trùng kỳ III, ấu trùng
này từ mạch máu phổi chui vào tế bào, qua khí quản và cùng với niêm dịch
lên hầu, rồi được nuốt xuống ruột non, lột xác lần nữa và phát triển thành giun
trưởng thành. Thời gian ấu trùng di hành là 2 - 3 tuần, trong khi di hành một
số ấu trùng có thể vào lách, tuyến giáp trạng, não …
Vòng di chuyển của giun đũa lợn là vòng di chuyển từ gan - phổi - ruột.
Giun đũa hình thành vòng đời là 54 - 62 ngày, tuổi thọ của giun đũa
không quá 7 - 10 tháng, giun đũa lợn phát triển không cần ký chủ trung gian.
Giun đũa sống bằng chất dinh dưỡng của ký chủ, bằng cách tiết dịch
tiêu hóa, phân giải tổ chức ở niêm mạc ruột và lấy tổ chức đó nuôi bản thân.
Tuổi thọ của giun đũa không quá 7 - 10 tháng. Nhưng nếu điều kiện sống bất
lợi (ký chủ sốt cao) thì tuổi thọ giun ngắn hơn.
Theo Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (1995) [8] cho biết: Trứng theo
phân lợn ra ngoài (trứng có phôi) gặp điều kiện độ ẩm và nhiệt độ thích hợp
Ascaris suum
(Ký sinh ở ruột non lợn)
Trứng
Ấu trùng
(có sức gây nhiễm)
Ấu trùng
Phổi<-Gan<-Máu<-
Niêm mạc ruột
Phân
t
0
, A
0
, pH
15
khoảng hai tuần tế bào trứng phát dục thành ấu trùng (điều kiện nhiệt độ thích
hợp nhất: 30 - 35ºC và trứng có thể phát dục ở nhiệt độ 15 - 35ºC ẩm độ thích
hợp 80 - 95%). Ấu trùng I qua 1 tuần lễ nữa lột xác thành trứng có ấu trùng
gây nhiễm. Trứng này bị lợn nuốt phải vào ruột non sẽ thành giun trưởng
thành. Trứng giun đũa lợn có thể sống rất lâu từ 11 tháng đến 5 năm. Trứng có
sức đề kháng rất mạnh với tất cả các loại hóa chất (bazơ, axit), chống đỡ kém
với khô ráo, và ánh nắng mặt trời chiếu trực tiếp.
Tuổi thọ của giun đũa khoảng 7 - 10 tháng. Hết tuổi thọ giun đũa theo
phân lợn ra ngoài. Asen (1958) cho rằng tuổi thọ của giun đũa 55 tuần. Tuổi
thọ của giun phụ thuộc vào lão hóa của giun và tình trạng thay đổi sinh lý và
sức đề kháng của lợn. Gặp điều kiện không có lợi (con vật bị bệnh truyền
nhiễm, sốt cao … ) thì tuổi thọ của giun ngắn lại, số lượng giun có thể vài con
tới 1000 giun trên một cơ thể lợn.
* Vòng đời của giun lươn lợn
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [6], giun lươn cái đẻ trứng ở
ruột non, trứng theo phân ra ngoài đã có ấu trùng bên trong. Trứng ra ngoài sẽ
phát triển theo hai hướng:
Trực tiếp: Vào mùa hè (ấm áp) trứng phát triển nhanh, sau 5 - 6 giờ nở ra ấu
trùng giun lươn, 1 - 2 ngày sau phát triển thành ấu trùng có sức gây nhiễm.
Gián tiếp: Ấu trùng có sức gây nhiễm thành giun đực và giun cái sống
tự do. Sau giao phối, giun cái đẻ ra trứng có ấu trùng.
Ấu trùng có sức gây nhiễm ở hướng phát triển trực tiếp hay gián tiếp
hoàn toàn giống nhau (dài 0,6 - 0,7 mm, thực quản hình ống dài, không có
chỗ phình to). Ấu trùng này vào cơ thể ký chủ theo hai đường:
Chui qua da vào tổ chức liên kết, tới cơ, theo máu hệ lâm ba về phổi, ấu
trùng chui qua mạch máu vào chi nhánh khí quản, theo đờm lên hầu rồi được
nuốt xuống ruột non, sau 6 - 8 ngày thì thành giun lươn ký sinh.
Qua đường tiêu hóa, ấu trùng lẫn vào thức ăn, nước uống, vào đường
tiêu hóa thì chui qua niêm mạc dạ dày vào mạch máu, vào phổi cũng giống
như trên.
Tuổi thọ của giun lươn ở gia súc non khoảng 5 - 9 tháng.
16
Phạm Sỹ Lăng (2006) và cs [11] cho biết, giun sống trong hoặc dưới
lớp niêm mạc ruột non. Giun cái sống ký sinh và sinh sản đơn tính. Giun đực
và giun cái sống tự do và thực hiện giao cấu ngoài ký chủ. Sự cảm nhiễm của
vật chủ do nuốt phải ấu trùng cảm nhiễm giai đoạn III và ấu trùng chui qua
da. Sau khi vào cơ thể gia súc mang thai gây nhiễm cho bào thai trước khi
sinh. Ký sinh trùng còn có thể xâm nhập vào cơ thể vật nuôi sơ sinh qua bú
sữa đầu.
Ấu trùng sau khi xâm nhập vào máu về phổi, đi vào các phế nang, gây
ho và tiết dịch. Chúng phát triển trong cơ thể vật chủ đến trưởng thành mất
khoảng 9 ngày. Sự phát triển của chúng theo hai con đường:
Một là vòng đời đơn tính do giun cái trưởng thành đẻ trứng trong cơ thể
vật chủ mà không cần thụ tinh. Trứng thải qua phân ra ngoài rồi phát triển
thành ấu trùng cảm nhiễm giai đoạn III.
Hai là vòng đời hữu tính, giun trưởng thành đẻ trứng ở ruột non, trứng
phát triển thành ấu trùng các giai đoạn, các ấu trùng này phát triển thành giun
đực và giun cái trưởng thành. Chúng có thể sống ngoài cơ thể vật chủ. Trứng
được thụ tinh, nhóm này sẽ phát triển thành ấu trùng cảm nhiễm và được vật
chủ nuốt vào cơ thể, giai đoạn này thực hiện trong vòng 10 ngày.
Theo tác giả Trịnh Văn Thịnh (1985) [33] cho biết: Trong cơ thể lợn,
giun cái ký sinh đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài. Giun lươn phát triển theo
hai cách: Trực tiếp và gián tiếp. Trong điều kiện, độ ẩm và nhiệt độ như nước
ta, từ trứng phát triển thành ấu trùng cảm nhiễm, thời gian cần khoảng 24 - 36
giờ (phát triển trực tiếp) hoặc từ 2 - 4 ngày (phát triển gián tiếp). Ấu trùng
cảm nhiễm xâm nhập vào cơ thể lợn hoặc qua da, hoặc qua đường tiêu hóa.
Trong cơ thể lợn, ấu trùng di hành theo hệ tuần hoàn và lâm ba về phổi; ở đấy,
một số ấu trùng lên mồm trở về ruột non, số khác theo hệ tuần hoàn mà đi
khắp cơ thể, cuối cùng cũng về ruột non. Ở ruột non lợn, ấu trùng phát triển
thành giun trưởng thành và đẻ trứng. Thời gian phát triển trong cơ thể lợn từ 5
đến 9 ngày.
17
* Vòng đời của giun tóc lợn
Vòng đời phát triển của giun tóc phát triển theo sơ đồ sau:
Thời gian hoàn thành vòng đời là 30 - 52 ngày.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [6] : Giun cái đẻ trứng trong
ruột già của ký chủ. Trứng theo phân ra ngoài, gặp điều kiện thuận lợi qua 15
- 28 ngày trứng phát triển thành trứng có sức gây bệnh. Trứng này theo thức
ăn, nước uống vào đường tiêu hóa của ký chủ, ấu trùng được nở ra, chui sâu
vào niêm mạc ruột già, tiếp tục phát triển thành giun trưởng thành.
Thời gian hoàn thành vòng đời trong cơ thể tùy loài giun tóc nhưng đối
với Trichocephalus suis cần 30 ngày.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [11], giun tóc phát triển vòng đời
không cần vật chủ trung gian. Giun cái đẻ trứng trong ruột già của vật. Trứng
theo phân ra ngoài, gặp điều kiện thuận lợi (nhiệt độ 18 - 30ºC, ẩm độ 80 -
85%) sẽ phát triển thành trứng cảm nhiễm sau 15 - 28 ngày.
Lợn nuốt phải trứng cảm nhiễm qua thức ăn, nước uống sẽ bị nhiễm giun.
Trứng cảm nhiễm vào ruột lợn phát triển thành giun trưởng thành cần 30 ngày.
Theo tác giả Trịnh Văn Thịnh (1985) [33] cho biết: Chu kỳ sinh học
gồm hai giai đoạn: một giai đoạn ở ngoại cảnh, phát triển từ trứng đến ấu
trùng cảm nhiễm; giai đoạn thứ hai ở ký chủ, ấu trùng cảm nhiễm phát triển
thành giun trưởng thành. Không có thời kỳ di hành trong cơ thể ký chủ.
Trứng
Ấu trùng
(có sức gây nhiễm)
nhggggagggggggâygggn
hnhinhinhiễm)
Ấu trùng
Phân
t
0
, A
0
, pH
Gia
súc
nuốt
Thọc sâu đầu vào niêm mạc ruột
T
richocephalus suis
(manh tràng)
18
* Vòng đời của giun kết hạt lợn.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [6], thì trứng theo phân ra
ngoài, gặp nhiệt độ 25 - 27ºC, sau 10 - 17 giờ nở thành ấu trùng, qua 2 lần lột
xác, sau 7 - 8 ngày thì ấu trùng gây nhiễm. Khi ký chủ nuốt phải, ấu trùng này
tới ruột thì chui vào niêm mạc ruột tạo những u kén, lột xác lần thứ 3, tới
ngày 6 - 8 thì ấu trùng kì IV, sau đó rời khỏi niêm mạc ruột và lột xác lần nữa
thành giun trưởng thành.
Theo Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (1995) [8] cho biết: Vòng đời giun
kết hạt không cần vật chủ trung gian. Trứng: 70 - 74µ x 40 - 42µ, gồm 8 - 16
hạt (trong vỏ trứng) khi mới nở gặp nhiệt độ 25 - 27ºC sau 10 - 17 giờ trứng
nở thành ấu trùng. (Theo Chonesby cần 24 giờ). Ấu trùng một đo được 304 -
307µ lúc mới nở, sau phát triển đo được: 425 - 433 micron. Ấu trùng I sau 24
- 48 giờ ở nhiệt độ 22 - 24ºC phát dục thành ấu trùng II dài 440 - 645 micron.
Ấu trùng phát triển được 2 ngày thì thành ấu trùng gây nhiễm III, dài 515 -
532µ, kể cả vỏ dài 660 - 720µ. Ấu trùng này lẫn vào thức ăn nước uống và ký
chủ. Khi tới ruột chui vào niêm mạc ruột tạo thành những u kén.
Thời gian hoàn thành vòng đời 24 - 43 ngày.
Trứng
Ấu trùng kì I
Ấu trùng kì II
Ấu trùng kì III
t
0
, A
0
, pH
Gia súc nuốt
Oesophagostomum
dentatum
(ruột già, kết tràng)
Phân
Ấu trùng kì IV
(trong u kén ở thành ruột)
Ấu trùng kì V
(phát triển trong xoang ruột)
19
2.1.1.6.Sức đề kháng của ấu trùng giun tròn.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [6], trứng giun đũa có sức đề
kháng rất cao do có 4 lớp vỏ dày trong điều kiện tự nhiên sống được 1- 2
năm, có sức đề kháng mạnh với một số chất hóa học như Formol 2%, Creolin
3%, H
2
SO
4,
NaOH 2%.
Ở nhiệt độ 45 - 50ºC chết trong nửa giờ, nước nóng 60ºC diệt trứng
trong 5 phút, nước 70ºC chỉ cần 1 - 10 giây. Vì vậy ủ phân theo phương pháp
nhiệt sinh học sẽ diệt được trứng giun đũa.
Nguyễn Phước Tương (2002) [36] cho biết: Trứng giun đũa khi thải qua
phân đã có phôi. Trứng tiếp tục phát triển phụ thuộc vào áp lực oxy, nhiệt độ,
độ ẩm, môi trường. Ở vùng khô lạnh trứng có thể sống trên 6 năm.
Nuôi trong phòng thí nghiệm trứng phát triển thành phôi thai bình
thường trong dung dịch foocmol 2%. Theo Soulsby (1965), dưới ánh sáng
mặt trời trực tiếp trứng bị diệt trong một vài tuần. Theo Phạm Chức (1980),
trứng giun đũa phát triển bình thường trong axit axetic và axit lactic 20%
nhưng axit picric đặc có thể dung giải vỏ kitin. Trứng bị phá hủy trong NaOH
10% ở 70ºC trong vòng 15 - 20 phút. Formalin 10% làm cho trứng không nở
và ấu trùng không gây nhiễm.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [6] : Trứng giun lươn có sức
đề kháng yếu ở nhiệt độ thấp trứng ngừng phát triển. Ở trên 50ºC và - 9ºC
trứng bị chết. Ấu trùng gây nhiễm sống ở nơi ẩm ướt được 2 tháng, không
sống được nơi khô hạn.
Sức đề kháng của giun kết hạt là 5 - 9ºC trứng ngừng phát triển, ở nhiệt
độ 35ºC trứng bị chết. Gặp điều kiện thích hợp trứng phát triển thành ấu trùng
gây nhiễm trên dưới một tuần.
Theo Đoàn Thị Phương và cs (2010) [25]: Thời gian trứng giun lươn nở
và phát triển thành ấu trùng có sức gây bệnh trong mùa đông là 3 - 5 ngày,
trong mùa hè là 2 - 4 ngày. Thời gian sống của ấu trùng giun lươn có sức gây
bệnh trong màu đông là 15 - 25 ngày, trong mùa hè là 20 - 35 ngày.
Ấu trùng O.dentatum có sức đề kháng tốt với nhiệt độ, để ở - 19ºC đến
- 29ºC qua 10 ngày vẫn sống và chết cũng để ở - 19ºC đến - 29ºC đến 31
ngày, để ở nhiệt độ phòng bình thường ấu trùng có thể sống 1 năm. Ấu trùng
rất nhạy cảm với khô ráo.
20
2.1.2. Bệnh giun tròn ở đường tiêu hoá lợn
2.1.2.1. Đặc điểm dịch tễ học của một số bệnh giun tròn đường tiêu hoá lợn.
Theo Trương Lăng và cs (2002) [14], cho biết tỷ lệ nhiễm G.hispidium
là khá phổ biến, lên đến 30 - 40%. Mức độ cảm nhiễm nặng đã thấy 42 giun
trưởng thành bám vào niêm mạc dạ dày và khoảng 100 ấu trùng nằm trong
lớp cơ của thành dạ dày.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (1997) [9], giun đũa phân bố rộng khắp thế
giới nguyên nhân chính là do vòng đời của giun đũa rất đơn giản, truyền trực
tiếp và sức đề kháng của trứng giun rất cao.
Theo Phan Lục và cs (2006) [21], lợn thường nhiễm giun đũa với tỷ lệ
cao, cường độ lớn ở lứa tuổi 3 - 5 tháng. Lợn nuôi thả có tỷ lệ nhiễm giun cao
hơn nuôi nhốt. Lợn thiếu dinh dưỡng, thiếu vitamin thường bị nhiễm giun cao
hơn so với lợn đầy đủ dinh dưỡng. Trứng giun ở giai đoạn gây nhiễm có sức
đề kháng tốt với điều kiện bất lợi của môi trường.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [12] cho biết: Tỷ lệ nhiễm giun theo
lứa tuổi của lợn như sau: Lợn dưới 2 tháng tuổi, tỷ lệ nhiễm 46,9%; Lợn 3 - 7
tháng tuổi, tỷ lệ nhiễm 72,4%; Lợn trên 8 tháng tuổi, tỷ lệ nhiễm 73,3%. Lợn
con có tỷ lệ nhiễm giun thấp; ngược lại, đối với lợn lớn, khi ấu trùng nhiễm
vào thì gây ra bệnh rất nặng và trên ruột có rất nhiều u kén. Thời gian sống
của Oesophagostomum dentatum ở cơ thể lợn từ 8 - 10 tháng.
Theo Phan Địch Lân và cs (2005) [16], điều tra mổ khám lợn ở 7 tỉnh
miền Bắc và miền Trung kết quả như sau: Tỷ lệ lợn nhiễm giun đũa từ 13,2 -
43,55% với cường độ nhiễm trung bình từ 3,0 - 21,5 con/lợn. Tỷ lệ nhiễm
giun tóc từ 12,5 - 40,3% với cường độ nhiễm cao có trường hợp thấy 1219
con giun tóc ở ruột già của 1 lợn.
Theo Bùi Quý Huy (2006) [3], cho biết bệnh giun đũa, giun tóc ở lợn
đều có khả năng lây sang người và mọi lứa tuổi đều bị cảm nhiễm.
Theo Phạm Sỹ Lăng (2009) [12] cho biết: Ở Hà Nội, tỷ lệ nhiễm giun
theo tuổi lợn như sau: lợn từ 2 - 6 tháng tuổi nhiễm 4,3 - 30%, lợn trên 6
tháng tuổi nhiễm 0,56 - 7,8%, không thấy giun tóc ở lợn dưới 2 tháng tuổi.
Điều kiện chăn nuôi tốt, vệ sinh và dinh dưỡng đầy đủ tỷ lệ nhiễm thấp 2,5%.
Ngược lại điều kiện chăn nuôi kém thì tỷ lệ tăng 23%. Kết quả điều tra ở các
21
lò mổ các tỉnh (Trinh Văn Thịnh, 1958) cho biết tỷ lệ nhiễm như sau: Nghĩa
Lộ 40,3%, Quảng Ninh 33,7%, Hà Bắc 27,3%, Thanh Hóa 12,5%, Hải Hưng
15,1%, Nam Hà 33,3%.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [6], thì tỷ lệ nhiễm giun kết hạt
theo tuổi lợn như sau: lợn dưới 2 tháng tuổi nhiễm 46,9%, lợn dưới 3 - 4
tháng tuổi nhiễm 67,4%, lợn dưới 5 - 6 tháng tuổi nhiễm 72,1%, lợn trên 8
tháng tuổi nhiễm 73,3%, tỷ lệ nhiễm giun kết hạt ở các loài gia súc khác nhau
thì khác nhau.
Theo Nguyễn Thiện và cs (1996) [29] qua điều tra mổ khám, tình
hình nhiễm giun đũa ở các tỉnh như sau: Nghĩa Lộ 40,3%, Quảng Ninh
33,7%, Hà Bắc 27,3%, Thanh Hóa 12,5%, Hải Hưng 40,5%; Nam Hà
33,3%; Hà Tĩnh: 43,5%.
Phan Địch Lân và cs (2005) [16] cho biết: tỷ lệ nhiễm giun kết hạt ở
lợn tăng dần theo tuổi do lợn con có sức đề kháng tốt đối với giun kết hạt nên
tỷ lệ nhiễm thấp. Tuy ấu trùng gây nhiễm vào lợn con nhưng không gây ra
những u kén ở ruột, ngược lại đối với lợn lớn sau khi ấu trùng gây nhiễm vào
thì gây bệnh rất nặng và trên ruột có rất nhiều u kén. Ngoài ra do thời gian
sống của Oesophagostomum dentatum ở trong cơ thể lợn tương đối dài từ 8 -
10 tháng. Quá trình truyền lây giun này còn phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên
(nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng…). Ở mỗi vùng, khi gặp điều kiện thích hợp trứng
phát triển thành ấu trùng gây nhiễm phải trên dưới một tuần, khi nhiệt độ 9
0
C
thì trứng ngừng phát triển, khi nhiệt độ 35
0
C thì trứng bị chết. Ngoài ra,
truyền lây bệnh này còn liên quan đến tình hình chăn thả. Nếu thường xuyên
chăn thả trên bãi chăn đã bị ô nhiễm mầm bệnh thì gia súc rất dễ nhiễm phải
giun này.
Theo Bùi Lập (1979) [38], ở miền bắc Việt Nam tỷ lệ nhiễm giun dạ
dày ở lợn rất cao: 63,9%.
Theo Đoàn Thị Phương và cs (2010) [25] : Trứng và ấu trùng giun lươn
phát tán cả khu vực nền chuồng, xung quanh chuồng nuôi; vườn, bãi trồng
cây thức ăn cho lợn do hoạt động tưới phân tươi cho cây.
Theo Chu Thị Thơm và cs (2006) [34], thì lợn ngày càng lớn tỷ lệ
nhiễm giun kết hạt ngày càng cao (lợn dưới 2 tháng tuổi nhiễm 46,9%, lợn
22
trên 8 tháng tuổi nhiễm 73,7%). Bệnh thấy ở nhiều nơi chăn nuôi không đảm
bảo vệ sinh.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [12]: Điều tra các lò sát sinh TP. Hồ
Chí Minh và Đà Lạt, Lương Văn Huấn (1994) đã thấy bệnh giun dạ dày do
G.hispidium là một bệnh khá phổ biến ở lợn, tỷ lệ nhiễm 30 - 40%. Khí hậu
ấm áp thuận tiện cho sự sống và phát triển của trứng và ấu trùng; mưa nhiều
và kéo dài, nhiệt đọ môi trường trung bình 25ºC. Các ấu trùng khu trú trong
lớp cơ của dạ dày nên khi khám thịt không thấy được.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [12], cho biết: Lợn con mắc bệnh
giun đũa sinh trưởn và phát dục không đầy đủ, sản phẩm (thịt) giảm đến 30%.
Ở Việt Nam, bệnh giun đũa lợn thấy ở tất cả các vùng sinh thái, trong
các cơ sở nuôi lợn tập trung và gia đình. Bệnh thường ở thể mãn tính, không
làm cho lợn chết như các bệnh truyền nhiễm cấp tính nhưng làm cho lợn giảm
tăng trọng, gây nhiều thiệt hại về kinh tế.
Động vật cảm nhiễm là lợn nhà và lợn rừng ở các lứa tuổi, nhưng lợn
con từ 1 - 3 tháng tuổi nhiễm giun đũa với tỷ lệ cao nhất và bị bệnh nặng hơn
lợn trưởng thành.
Qua kiểm tra mổ khám 1000 lợn ở 7 tỉnh phía Bắc (1962 - 1963).
Nguyễn Hữu Bình và cs cho thấy: tỷ lệ nhiễm giun đũa từ 13,2 - 43,5% và
cường độ nhiễm từ 3 - 21 giun/lợn. Điều kiện khí hậu nóng và ẩm thuận lợi
cho trứng giun phát triển, mặt khác vệ sinh thú y ở các cơ sở chăn nuôi chưa
được thực hiện tốt, chưa ủ phân, còn bón phân tươi vào ruộng trồng thức ăn
của lợn (Phạm Văn Khuê, 1963), nên lợn bị nhiễm giun đũa rất phổ biến.
Tỷ lệ nhiễm giun đũa của lợn cao ở lứa tuổi từ 1 tháng đến 7 tháng tuổi,
sau đó tỷ lệ giảm theo lứa tuổi tăng lên. Lợn con dưới 2 tháng tuổi, tỷ lệ
nhiễm giun 39,2%; 3 - 4 tháng tuổi, tỷ lệ nhiễm 48,0%. Trên 8 tháng tuổi tỷ lệ
nhiễm 24,9%.
Theo Nguyễn Xuân Bình (2005) [1], cho rằng bệnh giun đũa lợn chủ
yếu lây qua đường thức ăn, nước uống. Khi trứng giun đi vào trong ruột lợn
sẽ phát triển thành ấu trùng, chúng sẽ chui qua niêm mạc ruột đến tim, gan và
phổi. Ấu trùng đến phổi gây viêm phổi, từ phổi ấu trùng theo đờm, nước bọt
đi xuống ruột non phát triển thành giun trưởng thành.
23
Theo Phan Lục và cs (2006) [20] cho rằng lợn thường nhiễm giun đũa
với tỷ lệ cao, cường độ lớn ở lứa tuổi 3 -5 tháng. Lợn nuôi thả có tỷ lệ nhiễm
giun cao hơn nuôi nhốt. Lợn thiếu dinh dưỡng, thiếu vitamin thường bị nhiễm
giun. Trứng giun ở giai đoạn gây nhiễm có sức đề kháng tốt với điều kiện bất
lợi của môi trường.
2.1.2.2. Cơ chế sinh bệnh của giun tròn ở đường tiêu hoá lợn
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [6] cho biết: Bệnh ký sinh
trùng ở đường tiêu hoá của lợn thường tiến triển ở thể mãn tính. Vì vậy, các
triệu chứng biểu hiện thường không rõ ràng và thường bị các triệu chứng khác
che lấp, nên người ta thường ít quan tâm. Vì vậy, con vật nhiễm bệnh thường
gieo rắt ra bên ngoài, lây lan từ con này sang con khác, làm cho mầm bệnh có
điều kiện phát sinh. Những con mắc bệnh thì cơ thể gầy còm, thiếu máu, giảm
sức đề kháng. Sở dĩ, có tác hại này là do bốn tác động sau của ký sinh trùng
đến cơ thể vật chủ.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [11] cho biết:
* Tác động cơ giới:
Phần nhiều ký sinh trùng đều gây những biến loạn cơ giới ở những cơ quan
mà ký sinh trùng ký sinh, biểu hiện: Gây sung huyết, xuất huyết, rách loét.
Những ký sinh trùng có kích thước lớn, ký sinh với số lượng nhiều thường
gây tắc, thủng và vỡ các khí quan hình ống như: ruột, ống mật, mạch máu.
Nhiều ký sinh trùng còn có giác bám, móc làm rách, thủng, tróc niêm mạc,
xuất huyết, phá hoại các tổ chức, gây xuất huyết.
Phần lớn ấu trùng của ký sinh trùng khi xâm nhập vào vật chủ đều có quá
trình di hành qua nhiều khí quan và gây tổn thương cho các khí quan này.
* Tác động chiếm đoạt: Ký sinh trùng nuôi dưỡng bản thân bằng cách
chiếm đoạt một phần dinh dưỡng của vật chủ, hút máu vật chủ. Tác động này
diễn ra liên tục bởi nhiều ký sinh trùng nên làm vật chủ gầy, yếu, thiếu máu.
* Tác động đầu độc: Một số ký sinh trùng tiết độc tố, mặt khác còn đào
thải ra các sản vật của quá trình trao đổi chất làm cho vật chủ bị trúng độc.
Tác hại của các chất độc này tùy pha phát triển của ký sinh trùng, ở giai đoạn
ấu trùng gây tác hại nhiều hơn ở giai đoạn ở giai đoạn trưởng thành.
24
* Tác động truyền bệnh: Một số ngoại ký sinh trùng hút máu vật chủ,
đồng thời còn truyền những bệnh có thể gây thành dịch làm chết súc vật.
Ấu trùng ký sinh trùng di hành trong vật chủ còn mang theo nhiều vi
khuẩn và vius vào các khí quan, gây ra các bệnh kế phát.
Sau đây là cơ chế sinh bệnh của giun tròn đường tiêu hóa lợn:
+ Bệnh giun lươn ở lợn:
Tác hại cơ giới: Ấu trùng chui qua da, mạch máu phổi, gây viêm phổi.
Giun cái trưởng thành ở ruột non gây viêm ruột, rối loạn tiêu hoá.
Tác hại mang trùng: Ấu trùng có thể mang vi khuẩn phó thương hàn từ
bên ngoài, qua da ký chủ vào cơ thể ký chủ, gây bệnh truyền nhiễm ghép với
bệnh ký sinh trùng.
+ Bệnh giun đũa lợn:
Thời kỳ ấu trùng hay trưởng thành đều gây bệnh. Ấu trùng di hành gây
tổn thương các khí quan mở đường cho vi khuẩn vào cơ thể. Ấu trùng di hành
qua phổi làm cho bệnh suyễn lợn càng nặng hơn và tỷ lệ phát bệnh có thể tăng
gấp 10 lần.
Theo Anderdahl (1957) [37], nếu cho lợn khỏe nuốt trứng giun đũa, sau 5
ngày cho nhiễm bệnh suyễn thì bệnh tích ở phổi rộng gấp 10 lần so với lợn chỉ bị
bệnh suyễn. Khi ấu trùng theo máu vào gan gây lấm tấm xuất huyết, đồng thời
gây huỷ hoại tế bào gan. Khi ấu trùng từ mạch máu phổi di chuyển tới phế bào
gây ra vỡ mạch máu, ở phổi có nhiều điểm xuất huyết, phổi bị viêm, triệu chứng
viêm phổi có thể kéo dài 5 - 14 ngày, có khi làm con vật chết. Khi là giun trưởng
thành thì làm loét niêm mạc ruột non, gây đau bụng, nếu nhiều thì làm tắc ruột,
khi chui vào ống dẫn mật làm tắc gây hoàng đản.
Giun đũa tiết độc tố gây nhiễm độc thần kinh trung ương và mạch máu,
con vật có triệu chứng thần kinh như tê liệt hoặc hưng phấn, co giật.
Giun lấy chất dinh dưỡng của ký chủ, thải cặn bã gây độc cho ký chủ.
Kết quả là làm cho ký chủ gầy còm, chậm lớn. Giun đũa nhiều làm tắc ruột có
khi thành búi, ruột có thể rách hay thủng.
Lợn bị giun đũa thường yếu ớt, mệt mỏi, lông xù, dần dần gầy còm.
Nếu làm rách ruột thì lợn chết đột ngột. Giun có thể chui lên dạ dày, thực
quản, ra, mồm hoặc qua yết hầu vào phổi gây ngạt thở.
25
+ Bệnh giun tóc ở lợn:
Giun tóc có phần đầu nhỏ, dài, phần này cắm sâu vào niêm mạc ruột
gây tổn thương, mở đường cho vi khuẩn gây bệnh vào cơ thể ký chủ. Trong
quá trình sống, giun tóc tiết độc tố và thải cặn bã làm con vật trúng độc.
Giun tóc lấy dịch tổ chức niêm mạc ruột để sống gây ra hiện tượng xuất
huyết, viêm ruột và dẫn đến ỉa chảy
+ Bệnh giun kết hạt ở lợn:
Ấu trùng chui vào niêm mạc ruột tạo thành những hạt (u kén). Những
hạt này thường bị mưng mủ do ấu trùng giun mang vi khuẩn vào gây nên.
Giun trưởng thành hút máu ký chủ và ăn các tế bào niêm mạc ruột già
làm cho con vật bị mất máu, loét niêm mạc gây rối loạn tiêu hoá nặng.
Giun tiết độc tố gây trúng độc cho ký chủ làm cho gia súc non chậm
lớn, gia súc trưởng thành giảm khả năng sản xuất.
+ Bệnh giun dạ dày ở lợn:
Theo Bùi Lập và cs (1979) [38], giun Gnathostoma bám chắc và bám
rất sâu vào thành dạ dày hay thực quản lợn. Vì thế trên bề mặt tương mạc của
thực quản hay dạ dày thường có thể thấy những chỗ u. Giun dựa vào những
cấu tạo kitin của đầu và cutin ở thân phá hủy niêm mạc dạ dày, dẫn đến viêm
cấp sau thành viêm dạ dày mãn tính.
2.1.2.3. Triệu chứng và bệnh tích của bệnh giun tròn đường tiêu hoá lợn
* Đối với bệnh giun đũa lợn:
+ Triệu chứng: Bệnh giun đũa có triệu chứng rõ rệt và tác hại nhiều ở
lợn con từ 2 - 4 tháng tuổi. Giun đũa gây bệnh do tác động cơ giới, độc tố tác
hại đến cơ thể lợn và chiếm đoạt chất dinh dưỡng, Triệu chứng chính của
bệnh là viêm ruột, bần huyết và gầy dần, có triệu chứng thần kinh ở lợn con
(co giật). Ấu trùng, khi đi qua phổi có thể gây tụ huyết hay viêm phổi. Lợn
con có thể bị tắc ruột và thủng ruột khi nhiễm với cường độ cao.
+ Bệnh tích: Khi viêm phổi thấy trên mặt phổi có đám xuất huyết màu
đỏ sẫm, có nhiều ấu trùng giun đũa ở phổi. Khi giun trưởng thành thấy ruột
non viêm cata, có nhiều giun ký sinh ở ruột non. Nếu tắc và vỡ ruột thì có
bệnh tích viêm phúc mạc.