Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm thpt nâng cao hiệu quả bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho học sinh lớp 12 thông qua đoạn trích vợ nhặt (kim lân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.77 KB, 29 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT YÊN ĐỊNH 3

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

NÂNG CAO HIỆU QUẢ BỒI DƯỠNG PHẨM CHẤT
ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH LỚP 12 THÔNG QUA
TÁC PHẨM “VỢ NHẶT” (KIM LÂN).

Người thực hiện : Lê Thị Thanh Hương
Chức vụ
: Giáo viên
SKKN thuộc môn : Ngữ văn

THANH HOÁ NĂM 2017
1


MỤC LỤC

1. PHẦN MỞ ĐẦU …………………………………………………………..
1.1. Lí do chọn đề tài………………………………….....................................
1.2. Mục đích nghiên cứu……………………………………………………...
1.3. Đối tượng áp dụng, phạm vi, tài liệu nghiên cứu ………………………...
1.4. Phương pháp triển khai đề tài…………………………………………….
2. PHẦN NỘI DUNG………………………………………………………...
2.1. Cơ sở lí luận……………………………………………………………...
2.2. Thực trạng của vấn đề…………………………………………………….
2.3. Nội dung triển khai………………………………………………………
2.3.1. Định hướng chung………………………………………………………


2.3.2. Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho học sinh thông qua “Vợ nhặt” của Kim Lân
2.3.2.1. Luôn mỉm cười, lạc quan trong cuộc sống…………………………...
2.3.2.2. Khao khát sống, biết trân quý sự sống của chính bản thân và mọi người.
2.3.2.3. Dám ước mơ, dám khát khao cuộc sống có ý nghĩa………………….
2.3.2.4. Yêu thương, trân trọng, đùm bọc lẫn nhau ………………………….
2.3.2.5. Giữ gìn vẻ đẹp thiên tính nữ …………………….…………………...
2.3.2.6. Lễ phép, có văn hóa trong giao tiếp và ứng xử ………………………
2.3.2.7. Nén nỗi đau cá nhân, gieo hi vọng và niềm tin vào lịng người khác...
2.3.2.8. Biết chia sẻ khó khăn, ý thức sâu sắc về trách nhiệm của bản thân
trước gia đình và xã hội……………………………………………………….
2.3.2.9. Nắm bắt cơ hội, hướng tới những điều tốt đẹp trong tương lai………
2.4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm………………………………………….
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ…………………………………………….
3.1. Kết luận…………………………………………………………………...
3.2. Kiến nghị………………………………………………………………….
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………...
PHỤ LỤC……………………………………………………………………..

1
1
2
2
3
4
4
4
5
5
5
5

6
6
7
8
9
10
11
11
12
14
14
14
15
….

1. PHẦN MỞ ĐẦU
2


1.1. Lí do chọn đề tài:
- Từ vị trí của bộ môn văn trong cấp học THPT hiện nay:
Ngữ văn được xem là mơn khoa học cơ bản có tác dụng to lớn trong việc
giáo dục ý thức, đạo lý làm người, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, tình cảm thẩm
mỹ cho học sinh. “Đây vừa là bộ môn khoa học, vừa là bộ môn nghệ thuật” [4].
Người học văn phải đáp ứng hai yêu cầu: trang bị kiến thức và hồn thiện nhân
cách. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Có tài mà khơng có đức thì là người
vơ dụng. Có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó”. Như vậy, trong một
con người “tài” và “đức” phải ln song hành với nhau. Đây là hai phạm trù
khác nhau nhưng giữa chúng có mối liên hệ biện chứng với nhau. Trong mỗi
con người cái “tài”, cái “đức” không phải ngẫu nhiên mà có, mà hai chữ ấy

phải được vun đắp, trao dồi và phải được giáo dục ngay từ tấm bé. Việc dạy chữ
(dạy cái tài) và dạy người (dạy cái đức) phải luôn luôn đi song song với nhau,
không được xem nhẹ hay bng bỏ một trong hai mặt ấy. Có như vậy con người
mới phát triển toàn diện được” [3]. Tuy nhiên, xã hội ngày nay đang tiến dần
xa hơn tới xu hướng xem trọng kiến thức mà quên đi những giá trị quan trọng về
đạo đức con người.
Trong những năm gần đây, việc học sinh không mấy mặn mà với bộ môn
Ngữ văn là điều không hiếm. Người giáo viên dạy văn ngoài trang bị đầy đủ
kiến thức cho học sinh thì chưa đủ. Thêm vào đó, người dạy văn cần phải khắc
sâu những bài học đạo đức, giá trị làm người mà tác phẩm đề cập thì đó mới là
điều chúng ta cần bàn. Xã hội hiện nay càng phát triển bao nhiêu thì nhân cách
đạo đức của học sinh càng sa sút bấy nhiêu. Để mỗi cá nhân hoàn thiện nhân
cách, hướng tới xây dựng một xã hội sống đúng đạo lý, hợp tình người thì phải
bắt đầu từ người thầy dạy văn.
- Từ thực tế nhận thức về hành vi đạo đức ở học sinh:

Cùng với sự bùng nổ của công nghệ thông tin và xu hướng phát triển
của xã hội, hành vi đạo đức và sự nhận thức về bản thân ở học sinh có
chiều hướng đi xuống. Điều này, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác
nhau. Trong thời gian gần đây, có nhiều cá nhân có những hành vi lệch
chuẩn, thậm chí là băng hoại về đạo đức. Đau đớn hơn, nó lại xuất hiện khá
nhiều ở lứa tuổi học sinh THPT. Với tâm lí thích thể hiện và khẳng định
mình, khơng ít những cá nhân đã gây ra những tổn thương không nhỏ cho
bản thân, gia đình và xã hội. Bởi vậy, tơi thiết nghĩ việc giáo dục nhân
cách cho học sinh thông qua mỗi bài học là điều vô cùng cần thiết.
- Từ thực tế của việc học tập bộ môn:
Do xu hướng phát triển chung của xã hội, bộ môn Ngữ văn ngày càng ít được
học sinh quan tâm. Đa phần, các em lựa chọn những môn học khối A, B, D để
có hướng mở trong tương lai. Có những giờ dạy văn kém hiệu quả, không chỉ
chưa đáp ứng đủ kiến thức cho học sinh mà còn xem nhẹ giá trị giáo dục rút ra

từ tác phẩm. Việc cung cấp đủ kiến thức cho học sinh chỉ mới đáp ứng một nửa
u cầu của bộ mơn, nửa cịn lại là thông qua tác phẩm, bồi dưỡng phẩm chất
đạo đức, hướng học sinh phát triển toàn diện là điều chúng ta cần bàn.
- Kết quả giáo dục nhân cách học sinh:
3


Trong q trình giảng dạy bản thân đã khơng ngừng học hỏi, tích lũy được
nhiều kinh nghiệm hay để có thể áp dụng trong thực tế. Việc bồi dưỡng nhân
cách của học sinh thông qua tác phẩm văn học, hướng các em phát triển đầy đủ
về “đức, trí, thể, mĩ” đã có nhiều thành tích đáng ghi nhận. Có những tập thể
gồm nhiều cá nhân kém về phẩm chất đạo đức, trường hợp cá biệt đã có nhiều
chuyển biến tích cực theo chiều hướng đi lên.
Từ những lí do trên tôi đã chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả bồi dưỡng phẩm
chất đạo đức cho học sinh lớp 12 thông qua đoạn trích “Vợ nhặt” (Kim Lân)”
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Tơi nghiên cứu đề tài này nhằm:
+ Mong muốn góp phần tìm ra giải pháp bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho
học sinh lớp 12, hướng các em trưởng thành về nhân cách.
+ Mở ra một con đường mới để áp dụng vào những tác phẩm khác nhằm hình
thành cho các em thái độ, kỹ năng sống, bồi đắp tình cảm thẩm mỹ, giáo dục
lịng nhân ái.
+ Tạo mơi trường học tập thân thiện giữa thầy và trị. Từ đó, giúp các em
giao tiếp, ứng xử đúng mực, lễ phép với thầy cô, bạn bè
+ Được nghe lời nhận xét góp ý từ đồng nghiệp, đồng mơn
+ Nâng cao chất lượng học tập và giáo dục của bộ mơn, góp phần nhỏ bé vào
công cuộc CNH – HĐH đất nước.
+ Mong muốn được HĐKH các cấp nhận xét, đánh giá, ghi nhận kết qủa nỗ
lực của bản thân giúp cho tơi có nhiều động lực mới hồn thành tốt nhiệm vụ
được giao.

1.3. Đối tượng áp dụng, phạm vi, tài liệu nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng áp dụng
Là học sinh khối A, lớp 12C3 trường THPT Yên Định 3.
Thuận lợi:
+ Học sinh cuối cấp, có ý thức, chăm ngoạn, lễ phép, có mục tiêu rõ ràng
trong việc chọn ngành, chọn nghề.
+ Học sinh nơng thơn, ít tệ nạn xã hội, có ý thức vươn lên để thốt khỏi đói
nghèo.
+ Một số học sinh có năng lực, có nguyện vọng tham gia các cuộc thi HSG
do trường, tỉnh tổ chức, đa phần đặt ra mục tiêu phấn đấu 2 tham gia thi tuyển
sinh vào các trường ĐH, cao đẳng…
- Khó khăn:
+ Phần đơng là học sinh có học lực trung bình, khá. Chủ yếu là học sinh nam,
chiếm hơn 2/3 tổng số học sinh cả lớp.
+ Gia đình ở xa, đi lại khó khăn nên việc đi chậm, vắng học diễn ra thường
xuyên
+ Phần lớn, số học sinh nam của lớp đều thuộc vào đối tượng học sinh có
hạnh kiểm Yếu, TB, Khá. Rất ít trường hợp học sinh có hạnh kiểm Tốt (trừ học
sinh nữ). Cụ thể:
1/3 học sinh có nhu cầu thực sự - Học khá đều các môn
1/3 học để theo khối
- Học lực trung bình
1/3 khơng thể học các khối khác - Học yếu, ý thức kém
4


1.3.2. Phạm vi áp dụng
Đề tài được áp dụng vào việc: Bồi dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho
học sinh.
1.3.3. Tài liệu nghiên cứu: SGK Ngữ văn 12, Tài liệu Giáo dục học, Tài liệu

kỹ năng sống…
1.4. Phương pháp triển khai đề tài: Thực hiện bồi dưỡng phẩm chất đạo
đức cho học sinh lớp 12 thông qua các buổi học chính, học bồi dưỡng, các giờ tự
chọn.

2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
5


2.1.1. Cơ sở của việc dạy học bộ môn:
“Dạy học là một tác động hai chiều giữa giáo viên và học sinh, trong đó học
sinh là chủ thể của quá trình nhận thức, cịn giáo viên là người tổ chức các hoạt
động nhận thức và giáo dục cho học sinh” [2]. Nếu giáo viên có phương pháp
bồi dưỡng tốt, giáo dục tốt thì học sinh sẽ nắm kiến thức dễ dàng, hoàn thiện
dần nhân cách và ngược lại
2.1.2. Cơ sở của việc nắm kiến thức, kĩ năng
- Về mặt kiến thức: Học sinh phải nắm được các đơn vị kiến thức cơ bản
trong sách giáo khoa, trong giờ giảng văn. Đó là nền tảng cơ bản để các em phát
triển tư duy, nâng cao năng lực cảm thụ giá trị thẩm mỹ trong tác phẩm văn
học.
- Về kĩ năng: Từ tác phẩm văn học, học sinh biết vận dụng kiến thức vào
thực tế, hình thành thái độ đạo đức đúng đắn thể hiện quan điểm, tình cảm của
mình. Đồng thời, giúp các em hình thành những bài học làm người trong giao
tiếp ngoài cuộc sống.
2.2. Thực trạng của vấn đề
- Việc dạy của người thầy: Đa phần, có rất nhiều giáo viên tâm huyết với
nghề văn. Bên cạnh đó, cũng khơng ít các giáo viên đánh giá nhẹ nghề của
mình. Phần thì do học sinh ngày càng xa lạ với mơn văn, phần thì học sinh cá
biệt ngày càng nhiều, phần thì do xu thế phát triển chung của xã hội…Bởi vậy

đối với một giờ dạy văn, khơng khí nhàm chán, máy móc là điều thường thấy,
rất ít những giáo viên chú trọng bồi dưỡng phẩm chất đạo đức thông qua bài
học. Vì thế, tác phẩm mới chỉ dừng lại ở cung cấp kiến thức.
- Việc học của học sinh: Trong xã hội hơm nay, để có những học sinh thực
sự yêu văn, đam mê văn không phải nhiều. Phần lớn, các em khơng u thích
mơn văn vì văn dài, khó nhớ, khó thuộc…và phần cịn vì cả người dạy. Người
dạy không gợi gợi trong các em cái giá trị cốt lõi, không chạm tới tâm hồn các
em giá trị giáo dục. Vì vậy, mơn văn ngày càng xa lạ, nhàm chán, thụ động
trong sự tiếp nhận của học sinh
- Việc thi cử: Trong các đề thi Đại học, Cao đẳng và học sinh giỏi gần đây,
chất lượng môn Ngữ văn có phần chưa cao. Việc học sinh nắm vững kiến thức
nhưng triển khai kiến thức chưa thực sự hiệu quả. Học sinh chưa biết kết hợp giá
trị thẩm mỹ với giá trị kiến thức nhằm tạo chiều sâu cho bài viết, tác động đến
nhận thức và rung cảm thẫm mỹ của người đọc.
- Việc ứng xử: Một thực trạng nhức nhối trong xã hội ngày nay, đó là căn
bệnh “vơ cảm” trong học tập. Học sinh có lối ứng xử kém ý thức, thiếu lễ độ với
người lớn tuổi, chạy đua theo những thói học địi của xã hội mà quên đi lối tu
dưỡng phẩm chất đạo đức. Đã có khơng ít những trường hợp ứng xử thiếu văn
hóa giữa học sinh với học sinh, giữa học sinh với giáo viên... Cao hơn nữa, là
những hành động không đẹp mắt, vi phạm phẩm chất đạo đức của một người
học sinh.
Từ những lý do trên, việc bồi dưỡng giá trị đạo đức cho học sinh là việc làm
cần thiết. Đây là nhiệm vụ quan trọng đối với những giáo viên trực tiếp giảng
dạy môn Ngữ văn.
6


2.3. Nội dung triển khai
2.3.1. Định hướng chung:
- Khơng có một tác phẩm văn học mà giá trị giáo dục thể hiện ngay trên bề

mặt câu chữ. Ngược lại, nó nằm ở chiều sâu văn bản buộc học sinh rút ra.
- Thông qua một tác phẩm văn học, dù là tác phẩm thơ hay văn xi đều có
những giá trị giáo dục nhất định. Có tác phẩm chứa nhiều, có tác phẩm chứa ít.
Vì thế, mơn Ngữ văn được xem là bộ mơn nghệ thuật khơi gợi tình cảm thẩm
mỹ, bồi dưỡng và hoàn thiện nhân cách cho học sinh.
- Muốn phát hiện ra những giá trị đạo đức của tác phẩm cần:
+ Đọc kỹ tác phẩm, đánh dấu lại những đoạn qua trọng về sự diễn biến tâm
lý, tình cảm, lối ứng xử của nhân vật trữ tình trong tác phẩm.
+ Liên hệ với bản thân, với quy tắc ứng xử hợp lẽ thường trong cuộc sống…
2.3.2. Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho học sinh thông qua “Vợ nhặt”
của Kim Lân
2.3.2.1. Luôn mỉm cười, lạc quan trong cuộc sống
Cuộc sống đến với mỗi chúng ta đều không hề đơn giản và dễ dàng. Nó là sự
tổng hịa của tất cả những cung bậc cảm xúc: hạnh phúc, đau đớn, vui vẻ, mệt
mỏi... Bi kịch, sự vấp ngã trước khó khăn là điều khơng thể tránh khỏi. Thế
nhưng, có nhiều cá nhân chán nản, mệt mỏi khi phải đối mặt với nó. Khơng
thiếu những cá nhân bi quan, sống bng thả, đánh mất mình. Tuy vậy, Tràng
trong “Vợ nhặt” đứng trước cuộc sống đầy khó khăn, chết chóc nhưng vẫn luôn
lạc quan, tin tưởng vào cuộc sống:
…Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm
bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở
khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”.
…“Hắn nghĩ bụng: “Quái sao nó lại buồn thế nhỉ?...Ồ sao nó lại buồn thế
nhỉ?...” Hắn nhổ vu vơ một bãi nước bọt, tủm tỉm cười một mình.”
“Ít lâu nay hắn xe thóc Liên đồn lên tỉnh. Mỗi bận qua cửa nhà kho lại thấy
mấy chị con gái ngồi vêu ra ở đấy. Hắn đoán họ ngồi đấy nhặt hạt rơi hạt vãi,
hay ai có cơng việc gì gọi đến thì làm. Một lần hắn gị lưng kéo cái xe bị thóc
vào dốc tỉnh, hắn hị một câu chơi cho đỡ nhọc…Tràng ngối cổ lại vuốt mồ hơi
trên mặt cười [1].
Bước 1: Từ đoạn trích trên, giáo viên phân tích để học sinh thấy được hoàn

cảnh sống vất vả, cực nhọc của Tràng. Tuy vậy, Tràng vẫn không tỏ ra bi quan
hay chán nản, anh ln tự tạo cho mình niềm vui và tiếng cười, xóa tan đi những
mệt mỏi của cuộc sống. Từ đó, giáo viên mở rộng ý nhằm giáo dục học sinh về
lịng lạc quan vượt qua những chơng gai, thử thách. Khắc sâu vào tầm nhận thức
của học sinh thông qua hành động: ln học cách mỉm cười trong mọi hồn
cảnh. Đó là một tấm gương về nghị lực sống mà mỗi chúng ta cần học tập.
Bước 2: Bên cạnh đó, đưa ra một số dẫn chứng từ thực tế cuộc sống như:
biểu hiện của sự chán nản khi vấp phải khó khăn, mệt mỏi dẫn đến sống bng
thả, đánh mất mình. Thậm chí, phó mặc cho cuộc đời xơ đẩy, đầu hàng trước
cám dỗ. Từ đó, nhắc nhở học sinh về thái độ sống, nghị lực vươn lên trong bất kì
hồn cảnh nào.
7


2.3.2.2. Khao khát sống, biết trân quý sự sống của chính bản thân và mọi
người
Tác phẩm mở đầu bằng những hình ảnh miêu tả bức tranh thê thảm của nạn
đói năm Ất Dậu. Mạng sống con người chỉ tính trong gang tấc. Xác người chết
như ngả rạ. Trong hoàn cảnh ấy, con người vẫn khao khát sống, ham sống mãnh
liệt. Sự sống với họ trở nên quý giá. Đặc biệt là hình ảnh nhân vật Thị:
Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc
liền chẳng chuyện trị gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng thở:
- Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.
Hắn cười:
- Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe
rồi cùng về.
Nói thế Tràng cũng cứ tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật. [1]
Bước 1: Từ đoạn trích trên, giáo viên cần phân tích cho học sinh thấy được
tình cảnh đáng thương của thị giữa cơn đói khát. Cái đói khiến cho thị thay đổi
cả về nhân hình và nhân tính, làm thị mất đi vẻ đẹp thiên tính nữ. Trong cơn đói

khổ, người ta khơng nghĩ được gì ngoài miếng ăn. Giáo viên khắc sâu hành động
của thị: gợi ý để Tràng mời ăn và cúi đầu ăn một chặp hết bốn bát bánh đúc.
Sau đó theo khơng Tràng về làm vợ mà không cần thách cưới. Thông qua đó,
giáo viên định hướng để học sinh thấy được đó khơng phải là bản tính vốn có
của thị, chính cái đói đã khiến thị méo mó về nhân cách. Hành động của thị xuất
phát từ một thực tế: trong bước đường cùng, đối diện với cái chết, con người
vẫn nghĩ đến sự sống, vẫn khao khát sống mãnh liệt. Từ đó, giáo dục học sinh
biết trân trọng sự sống của chính bản thân, xem nó là thứ q giá nhất. Đồng
thời, cần trân trọng sự sống và tính mạng của những người xung quanh.
Bước 2: Bên cạnh đó, giáo viên đưa thêm một số dẫn chứng từ thực tế cuộc
sống: Xem thường sự sống bản thân mỗi khi bế tắc, vấp ngã, đau khổ, tức
giận…một số cá nhân muốn kết thúc tất cả bằng cái chết. Đó là sự chạy trốn hèn
nhát, đáng phê phán. Thậm chí gây bao khổ đau cho người thân. Đồng thời,
nhắc nhở học sinh biết quý trọng sự sống của người khác, không làm điều gì tổn
hại đến sự sống và nhân cách của họ.
2.3.2.3. Dám ước mơ, dám khát khao cuộc sống có ý nghĩa
Trong cơn đói khát, con người khơng nghĩ được gì ngồi miếng ăn và sự tồn
tại của chính mình. Những người dân trong xóm ngụ cư đều lo lắng trước cái đói
và cái chết. Thế nhưng, Tràng lại dám ước mơ: khát khao một mái ấm gia đình
hạnh phúc. Tràng dám đánh cược cả mạng sống của mình để đổi lấy cuộc sống
thực sự có ý nghĩa. Đó khơng chỉ là lòng dũng cảm mà còn là bản lĩnh cá nhân
trong cuộc sống:
Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng
chả biết có ni nổi khơng, lại cịn đèo bịng. Sau khơng biết nghĩ thế nào, hắn
tặc lưỡi một cái:
- Chậc, kệ!
Hôm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng
vài thứ lặt vặt rồi ra hàng cơm đánh một bữa no nê rồi cùng đẩy xe bò về. [1]
8



Bước 1: Từ đoạn trích trên, giáo viên cần phân tích, chỉ rõ cho học sinh thấy
được khát khao một cuộc sống thực sự của Tràng. Bên bờ vực của “cái chết”,
Tràng vẫn nghĩ về “cái sống”. Hai tiếng “Chậc, kệ!” không phải đơn giản là sự
liều lĩnh trong những phút giây thiếu suy nghĩ. Mà đó chính là sự đánh cược sự
sống với cuộc đời để có được hạnh phúc trọn vẹn. Điều quan trọng là giáo viên
cần chỉ rõ cho học sinh thấy được cuộc sống tăm tối, đói nghèo…của con người
Việt Nam trước cách mạng. Đồng thời làm bật lên ước mơ, khát khao hướng tới
một cuộc sống có ý nghĩa, thốt khỏi sự tăm tối của cuộc sống hiện tại. Đây là
khát vọng chính đáng của Tràng nói riêng và con người nói chung. Thơng qua
đó, giáo viên định hướng ước mơ trong tương lai cho học sinh bởi sống khơng
có ước mơ, khơng khát khao vươn lên thì cuộc sống sẽ trở nên vơ nghĩa.
Bước 2: Giáo viên đưa thêm một số dẫn chứng ngoài cuộc sống như:
+ Những con người tật nguyền họ vẫn học tập, mơ ước và khát khao cuộc
sống có ý nghĩa
+ Những con người có số phận bất hạnh, mồ côi...họ vẫn đang nuôi ước mơ
và quyết tâm thực hiện....
Từ đó, giáo viên định hướng cho học sinh về ý nghĩa của cuộc sống. Khi bản
thân các em đang đứng trước ngưỡng cửa tương lai thì đây chính là lúc để các
em đến gần hơn với ước mơ và khát vọng của mình. Đồng thời, động viên, khích
lệ để các em vượt qua tự ti, mặc cảm về bản thân trong cuộc sống.
2.3.2.4. Yêu thương, trân trọng, đùm bọc lẫn nhau
“Vợ nhặt” mở ra khơng khí đầy tang thương đau đớn. Ở đó, ta bắt gặp những
mảnh đời bất hạnh đang chống chọi với cơn đói, cơn khát. Đó là hình ảnh những
người dân trong xóm ngụ cư – một thứ cỏ rác của hương thôn bị người đời coi
khinh. Tiêu biểu hơn cả là thị. Con người ấy không tên họ rõ ràng, khơng nhà
cửa, người thân...cái đói đã làm lu mờ tất cả. Thị đại diện cho một lớp người với
hoàn cảnh éo le, bất hạnh:
Hắn giương mắt nhìn thị, khơng hiểu. Thật ra lúc ấy hắn cũng chưa nhận ra
thị là ai. Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi,

trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ cịn thấy hai con mắt.
…………………………………………………………………………
Hơm ấy hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng
vài thứ lặt vặt rồi ra hàng cơm đánh một bữa no nê rồi cùng đẩy xe bò về. [1]
Bước 1: Từ đoạn trích trên, giáo viên cần chỉ rõ cho học sinh thấy được
hoàn cảnh đáng thương của thị. Khơng cịn là một cơ nàng hoạt bát, nhanh nhảu,
sắc sảo như lần đầu tiên Tràng gặp, mà đó là một nạn nhân khốn khổ của cái đói.
Đồng thời, giáo viên khắc sâu hành động Tràng đãi thị bốn bát bánh đúc. Đó
khơng phải là sự dại khờ mà xuất phát từ tình thương của người cùng cảnh ngộ.
Anh Tràng khơng thể từ chối khi thấy bộ dạng đói rách của thị trong khi hoàn
cảnh của Tràng cũng chẳng khá giả gì. Hơn nữa, Tràng dám cho thị cùng về với
mình, cùng trèo lên cái phao sống đang trịng trành giữa dịng thác lũ đói – chết.
Đó là sự sẻ chia miếng ăn dù cái chết có cận kề. Từ đó, giáo viên giáo dục học
sinh về tình u thương, đùm bọc những mảnh đời bất hạnh: “thương người như
thể thương thân”, “lá rách ít đùm lá rách nhiều”.
9


Giáo viên cần chỉ cho học sinh thấy được hành động của Tràng: trước khi về
nhà, Tràng dẫn vợ ra tỉnh mua cho thị “cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt rồi ra
hàng cơm đánh một bữa no nê rồi cùng đẩy xe bò về”, Tràng còn mua hai hào
dầu để thắp sáng đêm tân hơn nhân dịp có vợ mới. Trong hồn cảnh nhặt vợ
Tràng khơng hề khinh rẻ, mỉa mai mà trái lại, anh rất quan tâm, trân trọng,
nâng niu cái phần quý giá của tâm hồn mình.
Bước 2: Chỉ ra biểu hiện của tình yêu thương, sự trân trọng của bà cụ Tứ đối
với nàng dâu mới:
Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt
xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: người ta có gặp
bước đói khổ, khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình cũng
mới có được vợ…Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với nàng dâu

mới:
- Ừ, thơi các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lịng…
Bà lão nhìn người đàn bà, lịng đầy thương xót. [1]
Bước 3: Khơng chỉ Tràng thương xót, trân trọng thị mà ngay đến bà cụ Tứ,
bà là người thấu hiểu hơn ai hết sự thua thiệt và tình cảnh đáng thương của thị.
Bà đã đặt mình vào vị trí của người khác để suy nghĩ. Sống trong cái đói, cái
khổ, bà trân trọng và yêu thương người phụ nữ cùng cảnh ngộ. Giáo viên nhấn
mạnh: cái đói, cái chết chưa hẳn đã đáng sợ, điều đáng sợ là con người sống
vô cảm, dửng dưng trước nỗi đau đồng loại. Ở đây, con người đã biết đùm
bọc, trân trọng, yêu thương nhau. Đó là sức mạnh giúp con người vượt qua
những giông bão của cuộc đời.
Bước 4: Lấy một số dẫn chứng cụ thể trong xã hội để giáo dục học sinh về
tình yêu thương, sự đùm bọc trong cuộc sống
+ Qun góp, ủng hộ người nghèo, những người có hồn cảnh đặc biệt khó
khăn, trẻ em lang thang, cơ nhỡ...
+ Hiến máu cứu người, trân trọng những mảnh đời bất hạnh.
+ Yêu thương con người, sẵn sàng cứu giúp con người khi gặp hoạn nạn...
Từ đó, giáo viên khắc sâu cho học sinh sức mạnh của tình yêu thương. Đừng
làm việc tốt khi trong mỗi chúng ta muốn được đền đáp lại. Sống là để cho đi.
Một xã hội phồn vinh, giàu mạnh sẽ là một xã hội được xây nên từ tình u
thương. Những con người có lịng nhân ái, sẵn sàng giúp đỡ người khác sẽ nhận
được chính những gì mà người đó cho đi.
2.3.2.5. Giữ gìn vẻ đẹp thiên tính nữ
Trong xã hội hiện đại, nét đẹp nữ tính ở người phụ nữ Việt Nam đang dần
mai một. Văn hóa phương Tây đang ảnh hưởng khơng nhỏ đến lối sống, trang
phục, ứng xử, nhân cách của con người. Nhiều cá nhân đang dần đánh mất đi nét
đẹp vốn có. Tác phẩm “Vợ nhặt” thể hiện thành cơng vẻ đẹp truyền thống của
người phụ nữ Việt Nam thông qua nhân vật thị:
Bước 1: Giáo viên chỉ ra cho học sinh thấy được hành động, thái độ ngượng
ngùng của thị khi cùng Tràng về nhà:

Người đàn bà như cũng biết xung quanh người ta đang nhìn dồn cả về phía
mình, thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia.
10


...Người đàn bà theo lời hắn ngồi xuống mép giường. Cả hai bỗng cùng
ngượng nghịu. [1]
Bước 2: Giáo viên chỉ rõ đoạn văn miêu tả sự thay đổi của thị sau đêm tân
hôn:
Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng.
Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã
thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín
nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch…Ngồi vườn
người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn đang quét lại
cái sân.
Người đàn bà lẳng lặng đi vào trong bếp. Tràng nom thị hôm nay khác lắm,
rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực. [1]
Bước 3: Thơng qua những đoạn trích tiêu biểu trong tác phẩm, giáo viên
nhấn mạnh vẻ đẹp nữ tính: đó là biết điều, ý tứ, giàu lòng tự trọng, biết giữ gìn
nhân cách, đảm đang, tháo vát, chăm chỉ. Đó cũng là phẩm chất tốt đẹp của
người phụ nữ Việt Nam. Từ đó, hình thành trong tâm hồn các em ý thức sâu sắc
về giá trị của bản thân, đặc biệt là học sinh nữ. Định hướng cho các em những
hành động và cách cư xử đúng mực, giữ gìn vẻ đẹp thiên tính nữ.
Bước 4: Giáo viên mở rộng thêm một số biểu hiện không phù hợp, không
đẹp mắt, đi ngược lại với chuẩn mực chung của xã hội ở nữ giới hiện nay. Đặc
biệt là tình trạng gây bè kéo cánh, bạo lực học đường, văng tục chửi bậy, yêu
theo phong trào, đánh mất bản thân, sống đua đòi…ở một bộ phận học sinh nữ.
Giúp các em nhận thức được thiên tính nữ, có ý thức giữ gìn vẻ đẹp nhân cách
của chính mình.
2.3.2.6. Lễ phép, có văn hóa trong giao tiếp và ứng xử

Bước 1: Thị vốn là một người phụ nữ ý tứ, biết điều nhưng chính cái đói đã
khiến thị lu mờ tất cả, thị trở nên chua chát, đanh đá, cong cớn với lối giao tiếp
không mấy lịch sự trong lần thứ hai gặp Tràng:
Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở cổng chợ tỉnh thì
thị ở đâu sầm sập chạy đến. Thị đứng trước mặt hắn sưng sỉa nói:
- Điêu! Người thế mà điêu! [1]
Bước 2: Chỉ ra sự thay đổi trong giao tiếp và ứng xử của thị với bà cụ Tứ:
Bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà. Đến giữa sân bà lão đứng sững
lại, bà lão càng ngạc nhiên hơn. Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy
nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao
lại chào mình bằng u?
…Bà lão lập cập bước vào. Người đần bà tưởng bà lão già cả, thị cất tiếng
chào lần nữa:
- U đã về ạ! [1]
Bước 3: Giáo viên cần chỉ rõ lối giao tiếp của thị khi gặp Tràng ở dốc tỉnh.
Thị cong cơn, đanh đá, không hỏi han trước sau. Tất cả đều xuất phát từ cái đói
Thế nhưng kể từ khi theo Tràng trở về, thị đã có sự thay đổi rất lớn. Bản tính
ngày thường của thị vốn khơng phải là những gì ta thấy Bản tính ngày thường
của thị vốn khơng phải là những gì ta thấy khi nói chuyện với Tràng. Thị vẫn
biết giữ gìn, vẫn ý thức được lễ nghĩa trong giao tiếp với người trên. Giáo viên
11


phân tích cho học sinh thấy được thái độ ứng xử lễ phép của thị trước bà cụ Tứ.
Đồng thời, giáo dục học sinh về thái độ lễ phép trong giao tiếp với ông bà, cha
mẹ, thầy cô và những người lớn tuổi.
Bước 4: Giáo dục học sinh về văn hóa trong giao tiếp, ứng xử. Trước khi nói,
mỗi người cần phải suy nghĩ và cân nhắc lời nói của mình cho phù hợp với đối
tượng và hồn cảnh. Đồng thời, giáo viên mở rộng thêm về lối ứng xử và những
hành vi không đẹp mắt của một bộ phận giới trẻ hiện nay: thấy người lớn làm

ngơ không chào hỏi, ăn nói cộc lốc với người trên, vơ lễ với thầy cô, cha mẹ,
văng tục, chửi bậy nơi công cộng…
2.3.2.7. Nén nỗi đau cá nhân, gieo hi vọng và niềm tin vào lòng người
khác
Bước 1: Niềm tin và hi vọng trong cuộc sống đã làm nên phép màu kì diệu,
nó hướng con người đến tương lai tươi sáng, tiếp thêm nghị lực để con người
vượt qua khó khăn:
Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi
may ra ông giời cho khá…Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có
ra rồi con cái chúng mày về sau.
…Bữa cơm ngày đói trơng thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm
rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon
lành. Bà cụ vừa ăn, vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói
tồn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này:
- Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đơi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp
kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy lại có
đàn gà ngay cho mà xem…[1]
Bước 2: Trong tác phẩm, tâm lí của bà cụ Tứ được diễn biến vơ cùng phức
tạp. Người mẹ nghèo ấy ai ốn, xót thương cho số kiếp của con mình. Tuy vậy,
bà cố nén nỗi đau, nỗi buồn, sự tủi phận vào trong để tạo khơng khí đầm ấm, vui
vẻ trong gia đình. Giáo viên phân tích để học sinh thấy được tấm lòng thơm
thảo, yêu thương con của người mẹ nghèo ấy. Những câu nói của bà cụ Tứ:
“Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra rồi con cái chúng mày
về sau”, “khi nào có tiền ta mua lấy đơi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia
làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy lại có đàn gà
ngay cho mà xem”. Bà lão nói tồn chuyện vui, tồn chuyện sung sướng về sau
này”. Giữa cơn đói khát, bà vẫn an ủi, động viên, gieo hi vọng, thắp lên niềm
tin cho con mình để chúng lạc quan vươn lên khỏi hoàn cảnh.
Bước 3: Giáo viên đưa ra một số minh chứng ngoài cuộc sống như:
- Những con người đang đối diện với bệnh tật, cái chết, họ vẫn không ngừng

hi vọng để hướng về sự sống.
- Luôn hi vọng trong những hoàn cảnh tuyệt vọng, vững niềm tin vào cuộc
sống.
- Biết động viên, an ủi, tiếp thêm niềm tin và nghị lực cho người khác trong
những hoàn cảnh đặc biệt…
2.3.2.8. Biết chia sẻ khó khăn, ý thức sâu sắc về trách nhiệm của bản
thân trước gia đình và xã hội
12


Bước 1: Chỉ ra đoạn văn thể hiện ý thức sâu sắc về trách nhiệm của Tràng
trước gia đình nhỏ của mình:
Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như
cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng phấn chấn đột ngột tràn
ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn
phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng
muốn làm việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà.
…Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa. Hình như ai nấy đều có ý nghĩ
rằng thu xếp cửa nhà cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi,
làm ăn có cơ khấm khá hơn. [1]
Bước 2: Chỉ ra đoạn văn thể hiện sự cảm thông, thấu hiểu, biết sẻ chia khó
khăn của những thành viên trong gia đình bà cụ Tứ:
- Chè đây. – Bà lão múc ra một bát – Chè khoán đây, ngon đáo để cơ.
Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị
điềm nhiên và vào miệng. Tràng cầm cái bát thứ hai mẹ đưa cho, người mẹ vẫn
tươi cười, đon đả:
- Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà
chẳng có cám mà ăn đấy.
Tràng cầm đôi đũa, gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun ngay
lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Bữa cơm từ đấy khơng ai nói

câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn
lên vào tâm trí mọi người. [1]
Bước 3: Giáo viên phân tích cho học sinh thấy rõ sự thay đổi và chuyển biến
trong suy nghĩ nơi Tràng. Từ một con người ngờ nghệch, không để ý gì đến căn
nhà của mình, Tràng đã dần nhận ra đó chính là tổ ấm của hắn. Hắn cảm thấy
mình phải có trách nhiệm để tu sửa lại căn nhà. Không chỉ Tràng mà cả thị, bà
cụ Tứ cũng ý thức rõ điều này. Họ cùng tham gia xây dựng, ý thức được trách
nhiệm của bản thân trước gia đình.
Đoạn văn thứ 2: Giáo viên phân tích cho học sinh thấy được sự thấu hiểu
hoàn cảnh thiếu thốn trong cơn đói khổ, họ biết đồng cảm, biết cùng nhau sẻ
chia những đắng cay trong cuộc sống.
Bước 4: Giáo viên mở rộng đến một số biểu hiện của lối sống ích kỉ, vơ cảm
trước những khó khăn của gia đình, lười biếng trong lao động, thích hưởng thụ,
vơ trách nhiệm, ỷ lại, sống thờ ơ với những vất vả, khó khăn của gia đình, khơng
biết sẻ chia mà chỉ biết đòi hỏi, phục vụ…nhằm giáo dục học sinh về cách sẻ
chia, có ý thức về bổn phận và trách nhiệm của bản thân trước gia đình và xã
hội.
2.3.2.9. Nắm bắt cơ hội, hướng tới những điều tốt đẹp trong tương lai
Bước 1: Chỉ ra đoạn văn nói về suy nghĩ của Tràng thông qua cuộc đối thoại
với người vợ nhặt:
Im lặng một lúc, thị lại tiếp:
- Trên mạn Thái Ngun, Bắc Giang người ta khơng chịu đóng thuế nữa đâu.
Người ta cịn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy.
Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi…Hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc
của Nhật.
13


…Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…[1]
Bước 2: Giáo viên phân tích để học sinh thấy rõ suy nghĩ tích cực, hướng về

tương lai của Tràng. Giữa bữa cơm thảm hại của ngày đói, tiếng trống thúc thuế
vang lên từng hồi dồn dập. Qua câu chuyện của thị, Tràng vỡ ra nhiều điều trong
suy nghĩ. Hình ảnh cuối cùng kết thúc tác phẩm gieo vào lịng người đọc một
niềm tin: rất có thể Tràng sẽ là một trong số đám người đói đi trên đê Sộp, phá
kho thóc của Nhật. Đó là suy nghĩ nhưng nó sẽ sớm biến thành hành động thực
tiễn. Giữa cơn đói khát, Tràng đang nhận thức đúng đắn, hướng tới những điều
tốt đẹp trong tương lai.
Bước 3: Giáo viên giáo dục học sinh về cách sống, trân trọng cơ hội để
chứng minh bản lĩnh của mình; biết vươn lên vượt lên trên khó khăn, thử thách
trong cuộc sống; luôn hướng tới những điều tốt đẹp trong tương lai…
2.4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm
* Đối với hoạt động giáo dục:
Đề tài “Nâng cao hiệu quả bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho học sinh
lớp 12 thông qua đoạn trích “Vợ nhặt” (Kim Lân)” giúp các em học sinh nhận
thức đúng đắn, tu dưỡng phẩm chất đạo đức của mình nhằm đạt hiệu quả cao
học tập và giao tiếp.
 Thuận lợi:
Sau khi vận dụng đề tài này tôi nhận thấy đa số học sinh nhận thức đúng
đắn về những phẩm chất đạo đức cần có trong mỗi con người. Từ đó, hướng các
em vào ứng xử có văn hóa trong giao tiếp. Khơng chỉ riêng đối với tác phẩm
này mà ở hầu hết các tác phẩm khác, tôi đều kết hợp cả việc dạy chữ và dạy
người, dạy kiến thức và dạy kỹ năng sống cho học sinh. Trong các năm tôi
nhận thấy một kết quả rõ rệt. Những lớp mà tơi được trực tiếp giảng dạy cịn tồn
tại rất ít những biểu hiện thiếu văn hóa trong ứng xử. Hầu hết các em đã có sự
trưởng thành vượt bậc về nhận thức, về lời ăn tiếng nói đúng chuẩn mực, đời
sống tình cảm, tư tưởng của các em phát triển theo chiều hướng tích cực. Xếp
loại hạnh kiểm loại TỐT chiếm tỉ lệ cao hơn hẳn so với đợt đầu năm.
Khảo sát xếp loại hạnh kiểm tháng 12, 1, 2, 3, 4 lớp 12C3 trường THPT Yên Định 3
khi áp dụng phương pháp này đã có được kết quả như sau:


Lớp

12C3

Sĩ số

43

Xếp
loại
Tốt
Khá
TB
Yếu
Kém

Hạnh
kiểm
T12
14
12
14
2
1

Hạnh
kiểm T1
19
11
12

1
0

Hạnh
kiểm
T2
23
9
10
1
0

Hạnh
kiểm
T3
26
8
9
0
0

Hạnh
kiểm T4
30
6
7
0
0

 Hạn chế:

- Trong việc triển khai đề tài: Bên cạnh những em có nhiều nỗ lực và cố
gắng vươn lên để hoàn thiện nhân cách, còn rất nhiều em chưa đáp ứng được kỳ
vọng của bản thân và thầy cơ. Trong q trình học tập các em chưa chịu khó
lắng nghe, chưa chịu khó rèn luyện, ý thức kém nên hiệu quả chưa cao.
- Một số em vẫn tồn tại tâm lý xem nhẹ môn học.
14


- Một số học sinh vẫn bị ảnh hưởng trực tiếp những tác động tiêu cực bên
ngoài nhà trường, chưa chú trọng rèn luyện phẩm chất đạo đức…
* Đối với bản thân:
Đây là một hướng triển khai có tính sáng tạo trong thực tiễn giảng dạy và
giáo dục. Nó giúp bản thân tơi có thể thực hiện hiệu quả các tiết dạy, đảm bảo
mục tiêu giáo dục, vừa dạy người vừa dạy chữ. Đồng thời, thông qua việc theo
dõi sự tiến bộ ở các em học sinh, tôi cảm thấy có thêm động lực, yêu nghề, yêu
người và ra sức phấn đấu vì sự nghiệp trồng người.
* Đối với đồng nghiệp và nhà trường:
Đây là một đề tài sáng tạo có thể áp dụng trong phạm vi bộ mơn nói riêng
và các mơn học khác nói chung. Nó sẽ là một hướng tiếp cận gần gũi nhằm giáo
dục đạo đức cho học sinh một cách hiệu quả nhất. Đây là một đề tài tơi nghĩ có
lợi ích rất lớn hỗ trợ hoạt động dạy học và giáo dục của nhà trường. Góp phần
đổi mới và nâng cao trình độ chun môn của nhà giáo.
Bài học kinh nghiệm:
- Việc bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho học sinh 12 thông qua tác phẩm
văn học là bài học kinh nghiệm quý giá, mở ra một hướng tiếp cận giáo dục
nhân cách học sinh ngay trong bản thân bài học.
- Việc phân tích kết hợp với bồi dưỡng, giáo dục đạo đức, lối sống cho
học sinh đã giúp cho giáo viên nắm vững mục tiêu, nhiệm vụ của người giáo
viên dạy văn từ đó cũng nâng cao chất lượng giảng dạy mơn văn.
- Giúp giáo viên khơng ngừng tìm tịi, sáng tạo, từ đó nhằm nâng cao

trình độ chun mơn nghiệp vụ của giáo viên để tránh nguy cơ tụt hậu.
- Rèn cho học sinh phương pháp học tập tích cực, áp dụng kiến thức vào
thực tế cuộc sống. Kiến thức phải đi đơi với thực hành, trí tuệ phải đi đơi với
đạo đức.

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:

15


Trong cấp học THPT: Phẩm chất đạo đức, lối sống của học sinh ln được
coi trọng vì nó phản ánh được hiệu quả chất lượng dạy người và dạy chữ của
giáo viên, là thước đo để đánh giá sự nỗ lực, phấn đấu của thầy và trị.
Muốn có sản phẩm của hoạt động sư phạm tốt phải bắt đầu từ người thầy
trước. Trong quá trình giảng dạy người thầy phải biết bắt đầu từ những kỹ năng
đơn giản nhất như dạy bài mới như thế nào cho tốt, phân tích tác phẩm như thế
nào để bồi dưỡng được các kiến thức, kỹ năng sống, giáo dục nhân cách cho học
sinh thông qua bài học…Kiến thức, sự hiểu biết về kỹ năng sống, kinh nghiệm
và tư cách của người thầy có sức lan tỏa lớn đối với học sinh.
Đề tài của tôi không bắt nguồn từ những ý tưởng lớn lao mà xuất phát từ
thực tế mà tôi đã được trải nghiệm trong quá trình giảng dạy nhiều năm. Nội
dung của để tài giúp cho học sinh rèn luyện, bồi đắp tình cảm thẩm mỹ tốt hơn
cách giáo dục thơng thường mang tính chất lý thuyết. Vì vậy tơi cũng tin tưởng
rằng: Đề tài của tôi sẽ được áp dụng rộng rãi cho các đối tượng, nhất là đối
tượng học sinh khối 12 – những học sinh đang đứng trước ngưỡng cửa tương lai
với ước mơ xây dựng một xã hội tốt đẹp
Tơi mong muốn nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía đồng nghiệp, các
tổ chức chun mơn để tôi làm được tốt hơn trong những năm tới.
3.2. Kiến nghị:

Tôi mong muốn nhà trường sẽ tạo điều kiện hơn nữa về cơ sở vật chất, kĩ
thuật và các loại tài liệu tham khảo liên quan đến giáo dục đạo đức học sinh
thông qua bài học.
Tôi hi vọng đề tài này sẽ được các bạn đồng chí, đồng nghiệp tham khảo và
có thể triển khai một cách rộng rãi trong công tác giảng dạy và giáo dục.
Tôi mong muốn Hội đồng khoa học đánh giá công bằng, khách quan, trung
thực và ghi nhận đóng góp của bản thân tơi để tôi tiếp tục cống hiến nhiều hơn
nữa cho sự nghiệp giáo dục.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
tôi không sao chép của người khác
ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 22 tháng 5 năm 2017
Người viết

Lê Thị Thanh Hương

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. SGK Ngữ văn 12. (Cơ bản) Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 6/2011.
16


2. Tham khảo các tài liệu từ nguồn Internet.
3. Hồ Chí Minh:  Tồn tập,  NXB. Chính trị Quốc gia, 2/2000.
4. Phương pháp dạy học văn. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008

PHỤ LỤC
GIÁO ÁN THỂ NGHIỆM
17



TIẾT PPCT: 61 – 62

VỢ NHẶT
(Kim Lân)
I. MỤC TIÊU BÀI DẠY HỌC:
1. Kiến thức: Giúp học sinh:
- Hiểu được tình cảm thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói
khủng khiếp năm 1945 do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra.
- Hiểu được niềm khát khao hạnh phúc gia đình, niềm tin bất diệt vào cuộc
sống và tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau giữa những con người lao động ngèo
khổ ngay trên bờ vực thẳm của cái chết.
- Nắm được những nét đặc sắc về nghệ thuật của thiên truyện: sáng tạo tình
huống, gợi khơng khí, miêu tả tâm lí, dựng đối thoại
2. Kĩ năng:
- Biết cách đọc - hiểu một tác phẩm tự sự
3. Thái độ:
- Trân trọng, cảm thông trước khát vọng hạnh phúc của con người; biết ơn cách
mạng đã đem lại sự đổi đời cho những người nghèo khổ, nạn nhân của chế độ cũ
II. PHƯƠNG TIỆN THỰC HIỆN:
- SGK, Sách giáo viên, Chuẩn kiến thức và kỹ năng 12
- Sách tham khảo...
III. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC:
- Thuyết giảng, diễn giảng, phân tích
- Nêu vấn đề, Thảo luận...
IV. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:
1. Ổn định lớp:
2. Kiểm tra bài cũ:
- Phân tích diễn biến tâm lí của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ.
3. Bài mới:
Giới thiệu bài: Phát xít Nhật bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay nên chỉ trong

vài tháng đầu năm 1945, từ Quảng Trị đến Bắc Kì, hơn hai triệu đồng bào ta
chết đói. Nhà văn Kim Lân đã kể với ta một câu chuyện bi hài đã diễn ra trong
bối cảnh ấy.
HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY VÀ
TRỊ
Hoạt động 1:
- Tổ chức hướng dẫn học sinh tìm
hiểu chung qua hệ thống câu hỏi
gợi mở
GV: ? Bằng hiểu biết của mình cùng
với việc tìm hiểu phần Tiểu dẫn trong
SGK hãy giới thiệu những nét chính
về nhà văn Kim Lân?
HS: Thảo luận và trả lời

NỘI DUNG BÀI HỌC
I. Tìm hiểu chung:
1.Tác giả:
- Tên khai sinh là: Nguyễn Văn Tài
(Sinh ngày 01/08/1920 – 07/08/2007 tại
Hà Nội)
- Quê hương: làng Phù Lưu – Tân
Hồng – Tiên Sơn – Bắc Ninh
18


GV: ? Hồn cảnh gia đình có tác - Gia đình: Sinh ra trong một gia đình
động gì đến bản thân nhà văn sau ngèo, cuộc sống khó khăn, vất vả từng
này?
có lúc phải ăn cháo cám.

HS: thảo luận và trả lời
- Bản thân: chỉ học hết bậc tiểu học sau
đó phải đi làm nhiều nghề để kiếm sống.
Vừa làm thợ vừa viết văn, 1945 ơng
tham gia Hội văn hóa cứu quốc từ đó
liên tục hoạt động văn nghệ phục vụ
cách mạng.
GV: Sự nghiệp văn chương của Kim - Sự nghiệp văn chương: chia làm 2 giai
Lân có gì nổi bật?
đoạn:
HS: thảo luận và trả lời
+ Trước cách mạng: sáng tác của ông
chủ yếu tái hiện các phong tục thôn quê
như: chơi non bộ, chọi gà, chọi chim…
+ Sau cách mạng: sáng tác của Kim Lân
đi vào phản ánh thực tế đời sống người
dân thôn quê, những con người cực nhọc
nghèo đói nhưng vẫn yêu đời, yêu sống
lạc quan tin tưởng vào tương lai.
GV: ? Hãy kể tên những tác phẩm
- Tác phẩm tiêu biểu: “Đôi chim
tiêu biểu của Kim Lân.
thành”; “Con mã mái”; “Chó săn”; “Nên
HS: Làm việc cá nhân và trả lời.
vợ nên chồng”; “Con chó xấu xí”…
GV: ? Kim Lân có vị trí như thế nào - Vị trí:
trên văn đàn Việt Nam?
+ Là cây bút truyện ngắn vững vàng viết
HS Thảo luận và trả lời
về nông thơn bằng tình cảm thương q.

Ơng được mệnh danh là nhà văn của
“Những người chân đất”, “Con đẻ của
ruộng đồng” một lòng một dạ đi về với
“đất”, với “người”, với “thuần hậu
ngun thủy” của cuộc sống nơng thơn.
+ Ngồi viết văn, ơng cịn làm báo, diễn
kịch, đóng phim. Kim Lân thích vẽ, có 4
người con là họa sỹ.
GV: ? Nét tiêu biểu trong những sáng - Nội dung văn chương: Phản ánh vẻ đẹp
tác của Kim Lân?
tâm hồn và cuộc sống của người nông
HS Thảo luận và trả lời
dân Việt Nam bấy giờ: Nghèo khổ, thiếu
thốn mà vẫn yêu đời; thật thà, chất phác
mà thơng minh, hóm hỉnh.
- Được tặng giải thưởng nhà nước về
văn học nghệ thuật năm 2001.Tên của
ông được đặt cho 1 con phố thuộc
phường Kinh Bắc của thành phố Bắc
Ninh (nằm trong cụm phố mang tên các
văn nghệ sĩ)
2. Tác phẩm:
19


GV: ? Tác phẩm có xuất xứ như thế a. Xuất xứ:
nào?
- Lấy phiên bản từ tác phẩm “Xóm ngụ
HS Làm việc cá nhân và trả lời
cư”(viết 1946) nhưng còn dang dở rồi bị

mất bản thảo. Sau 1954, tác giả viết lại
dựa 1 phần vào cốt truywện cũ và lấy tên
là “Vợ nhặt” (1955)
- Tác phẩm in trong tập truyện ngắn
“Con chó xấu xí” (xuất bản 1962)
b. Tóm tắt tác phẩm: SGK
GV ? Theo em văn bản được chi làm c. Bố cục: chia làm 3 phần
mấy phần? Nội dung của từng phần? - Đoạn 1: Từ đầu đến “...thành vợ thành
HS Thảo luận và trả lời
chồng…”: Tràng đưa người vợ nhặt về
nhà.
- Đoạn 2: Từ “ít lâu nay” đến “cùng đẩy
xe bò về”: Kể lại chuyện hai người gặp
nhau và nên vợ, nên chồng.
- Đoạn 3: Từ “Tràng chợt đứng dừng
lại” đến “cứ chảy xuống rịng rịng”:
Tình thương của người mẹ già nghèo
khó đối với đơi vợ chồng mới.
- Đoạn 4: Còn lại: Lòng tin về sự đổi đời
trong tương lai
Hoạt động 2:
- Tổ chức hướng dẫn học sinh đọc hiểu qua hệ thống câu hỏi gợi mở
GV:? Những vật nhặt được thường
như thế nào?
HS Thảo luận và trả lời

II. Đọc – hiểu văn bản:
1. Ý nghĩa nhan đề:
- “Nhặt” thường đi với những thứ khơng
giá trị hoặc ít giá trị, thứ người ta mang

vứt đi.

? Người đàn ông theo quan niệm
xưa có những việc gì lớn?
HS Thảo luận và trả lời
GV mở rộng: Trong đời sống tinh
thần của người Việt thì lấy vợ là 1
việc hệ trọng trong cuộc đời của
người đàn ơng. Dân gian có câu:
“Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà
Trong ba việc ấy thật là khó
thay”
Như vậy, việc lập gia đình rất hệ
trọng. Lấy vợ là việc hỷ thế nhưng
nhặt vợ lại không phải thế.
GV: ? Em hiểu thế nào là nhặt vợ?
- “Vợ nhặt”: nhặt được vợ một cách dễ
HS Thảo luận và trả lời
dàng như nhặt cái rơm, cái rác ngoài
20



×