Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm thpt hoạt động dạy và học vật lí theo hướng phát triển năng lực ở trường thpt nam đàn 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 62 trang )

PHẦN 1 MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đào tạo những con người lao động phát triển tồn diện có tư duy sáng tạo, có
năng lực thực hành giỏi, có khả năng đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao trước u cầu
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với phát triển nền kinh tế tri thức và
xu hướng tồn cầu hóa là nhiệm vụ cấp bách đối với ngành giáo dục nước ta hiện
nay. Một trong những mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thơng tổng thể
2018 là “Bảo đảm phát triển phẩm chất và năng lực người học thông qua nội dung
giáo dục với những kiến thức, kĩ năng cơ bản, thiết thực, hiện đại; hài hồ đức, trí,
thể, mĩ; chú trọng thực hành, vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết vấn
đề trong học tập và đời sống”.
Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng tiếp cận năng lực
của người học được xác định trong Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội
nghị Trung ương 8 khóa XI của Ban chấp hành Trung ương Đảng về “Đổi mới căn
bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo, đáp ứng yêu cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế” đã chỉ rõ: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng
hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng
của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập
trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập
nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học tập chủ yếu
trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại
khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền
thông trong dạy và học.
Mơn Vật lí là một mơn học gắn với thực nghiệm, các hiện tượng trong tự
nhiên hầu hết được giải thích thơng qua các kiến thức vật lí. Vật lí gắn với các hoạt
động trong đời sống và có ứng dụng trong nhiều lĩnh vực. Việc dạy học gắn với
thực tiễn giúp học sinh hiểu sâu hơn về lí thuyết, thấy được mối liên hệ giữa lí
thuyết và thực tiễn, giải thích được các hiện tượng vật lí xảy ra trong thế giới tự
nhiên xung quanh ta. Nó cịn có một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng đó là rèn luyện
tư duy sáng tạo.


Trong thực tế dạy học vật lí, đa số giáo viên chỉ chú trọng đến dạy kiến thức
lí thuyết, vận dụng kiến thức lí thuyết để giải các bài tập lập luận, tính tốn mà
chưa chú trọng đến việc vận dụng các kiến thức lí thuyết đã học được vào thực tiễn
cuộc sống, khiến cho những kiến thức học sinh thu nhận được mang tính hàn lâm,
khó hiểu, khó ghi nhớ, mang tính áp đặt và xa rời thực tiễn. Việc tổ chức thi cử,
kiến thức thi trong chương trình thi THPT quốc gia, học sinh giỏi… việc ra đề để
cho học sinh vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các vấn đề thực tiễn là đang
cịn ít, chưa sát thực, vẫn chỉ mang tính lí thuyết. Dẫn đến một thực trạng là học
sinh chỉ biết kiến thức lí thuyết và kỹ năng giải bài tập ở mức độ nào đó (mà ta hay
1


gọi là lý thuyết suông) mà quên đi các vấn đề thực tiễn và việc vận dụng kiến thức
đã học để giải quyết các vấn đề thực tiễn đó; khiến cho học sinh càng ngày càng
mất hứng thú ở bộ môn vật lý. Như vậy, sự cần thiết phải tăng cường tính thực
tiễn trong các tiết học bằng các kiến thức thực tiễn, dụng cụ, thí nghiệm (có sẵn, tự
làm), video, tranh ảnh…có thể đưa học sinh tham quan, trải nghiệm. Từ đó giúp
học sinh phát triển năng lực vận dụng lí thuyết vào giải quyết các vấn đề thực tiễn
Chương “Các định luật bảo tồn” Vật lí 10 THPT là chương có nhiều hiện
tượng gắn với đời sống, nếu như dạy học gắn với thực tiễn sẽ làm cho học sinh
hứng thú học tập hơn, nâng cao chất lượng học tập của học sinh hơn.
Từ những lí do trình bày trên, trong khuôn khổ của SKKN, chúng tôi chọn đề
tài: Thông qua dạy học chương “Các định luật bảo tồn” vật lí lớp 10 THPT phát
triển năng lực vận dụng kiến thức vật lí vào thực tiễn cho học sinh.
2. Mục đích nghiên cứu
Phát triển năng lực vận dụng kiến thức vật lí vào thực tiễn của học sinh ,
thơng qua dạy học chương “Các định luật bảo tồn vật lí lớp 10 THPT”, đáp ứng
yêu cầu của chương trình giáo dục phổ thơng tổng thể 2018.
3. Đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên cứu
- Đối tượng: Hoạt động dạy và học vật lí theo hướng phát triển năng lực ở

trường THPT Nam Đàn 2.
- Phạm vi nghiên cứu: Chương “Các định luật bảo tồn” Vật lí 10 THPT.
- Thời gian thực hiện: từ tháng 08/2021 đến tháng 04/2022
4. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lí luận: nghiên cứu tài liệu, các cơng trình nghiên cứu về tăng
cường tính thực tiễn trong q trình dạy học, phương pháp dạy học tích cực của bộ
mơn vật lý, sách giáo khoa phổ thơng, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước về đổi mới giáo dục và đào tạo…
- Phương pháp nghiên cứu các vấn đề thực tiễn trong Chương “Các định luật
bảo toàn” lớp 10 THPT.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm: khảo sát ý kiến của giáo viên, của học sinh
về tăng cường tính thực tiễn trong dạy học. Dự giờ đồng nghiệp, trao đổi ý kiến với
giáo viên, xây dựng hệ thống các câu hỏi, phiếu điều tra để điều tra thực trạng dạy
học gắn liền với thực tiễn ở các trường THPT nơi công tác và các trường bạn.
- Phương pháp thống kê toán học: sử dụng phương pháp thống kê tốn học để
xử lí kết quả thực nghiệm để rút ra kết luận, chứng minh tính khả thi của đề tài.
5. Tính mới của đề tài

2


- Điều tra được thực trạng dạy học Vật lý theo định hướng tăng cường tính
thực tiễn ở một số trường THPT trên địa bàn huyện Nam Đàn và huyện Hưng
Ngun, phân tích các ngun nhân, khó khăn, đưa ra hướng khắc phục, giải pháp
để nâng cao chất lượng dạy học, áp dụng thực nghiệm có hiệu quả tại trường
THPT Nam Đàn 2.
- Xây dựng hệ thống các tình hướng thực tiễn áp dụng vào từng quá trình dạy
học của từng bài phục vụ giảng dạy một số bài học trong Chương “Các định luật
bảo toàn” Vật lý 10 THPT nhằm phát triển năng lực giải quyết vấn đề thực tiễn cho
HS.

- Tổ chức dạy học một số bài Chương “Các định luật bảo toàn” Vật lý 10 tại
trường phổ thông phù hợp với điều kiện dạy học của nhà trường và thu được
những kết quả thiết thực nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ mơn Vật lý. Góp
phần đưa kiến thức lý thuyết gần hơn với thực tiễn, giúp HS thực sự yêu thích,
hứng thú học tập với bộ môn Vật lý. Cùng tham gia vào phong trào thi đua đổi mới
sáng tạo trong dạy học đáp ứng với u cầu chương trình giáo dục phổ thơng tổng
thể 2018.

3


PHẦN II NỘI DUNG
I. CƠ SỞ CỦA VIỆC DẠY HỌC VẬT LÍ THEO HƯỚNG TĂNG
CƯỜNG TÍNH THỰC TIỄN Ở TRƯỜNG THPT
1.1 Cấu trúc của dạy học giải quyết vấn đề tăng cường tính thực tiễn
Để phát huy đầy đủ vai trò của học sinh trong việc tự chủ hành động xây
dựng kiến thức, vai trò của giáo viên trong tổ chức tình huống học tập và định
hướng hành động tìm tòi xây dựng tri thức của học sinh, cũng như phát huy vai trò
của tương tác xã hội (của tập thể học sinh) đối với quá trình nhận thức của mỗi cá
nhân, đồng thời cho học sinh làm quen với quy trình xây dựng, bảo vệ cái mới
trong nghiên cứu khoa học. Tiến trình dạy học này gồm các pha như sau:
Pha thứ nhất: Chuyển giao nhiệm vụ, bất ổn hóa tri thức phát biểu vấn đề
có tính thực tiễn: Giáo viên giao cho học sinh một nhiệm vụ có tiềm ẩn vấn đề,
hướng dẫn học sinh quan tâm đến nhiệm vụ đặt ra, sẵn sàng nhận và tự nguyện
thực hiện nhiệm vụ. Học sinh ý thức được nhiệm vụ khó khăn (vấn đề xuất hiện).
Dưới sự hướng dẫn của giáo viên vấn đề được chính thức diễn đạt.
Pha thứ 2: Học sinh hành động độc lập, tự chủ, trao đổi, tìm tịi, giải quyết
vấn đề có tính thực tiễn. Học sinh làm việc độc lập và trao đổi trong nhóm về cách
giải quyết vấn đề, kết quả thu được, qua đó có thể chỉnh lý, hồn thiện tiếp. Dưới
sự hướng dẫn của giáo viên, hành động của học sinh được định hướng phù hợp với

tiến trình nhận thức khoa học và thơng qua các tình huống thứ cấp khi cần.
Pha thứ 3: Tranh luận, thể chế hóa vận dụng tri thức mới. Dưới sự hướng
dẫn của giáo viên, học sinh tranh luận, bảo vệ cái xây dựng được.
- Giáo viên chính xác hóa, bổ sung, thể chế hóa tri thức mới trong tình huống
thực tiễn. Học sinh chính thức ghi nhận tri thức mới và vận dụng
Sơ đồ các pha DHGQVĐ phỏng theo tiến trình GQVĐ trong nghiên cứu khoa học

4


Pha thứ nhất:
Chuyển giao
nhiệm vụ, bất ổn
hóa tri thức,
phát biểu vấn đề

Pha thứ 2: Học
sinh hành động
độc lập tự chủ,
trao đổi tìm tịi
giải quyết vấn đề

Pha thứ 3: Tranh
luận, thể chế
hóa, vận dụng tri
thức mới

1. Tình huống có tiềm ẩn vấn đề

2. Phát biểu vấn đề bài toán


3. Giải quyết vấn đề: Suy đoán thực hiện giải pháp

4. Kiểm tra, xác nhận kết quả: Xem xét sự phù hợp của lý
thuyết

5. Trình bày, thơng báo, thảo luận, bảo vệ kết quả.

6. Vận dụng tri thức mới để giải quyết nhiệm vụ đặt ra tiếp
theo.

Sơ đồ các pha của tiến trình dạy học giải quyết vấn đề
1.2. Dạy học vật lí gắn với thực tiễn
a) Đặc điểm của mơn Vật lí ở trường THPT
- Vật lí học ở trường phổ thơng chủ yếu là vật lí thực nghiệm. Nhằm trang bị
cho HS những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có hệ thống, bao gồm: các
khái niệm vật lí; các định luật vật lí cơ bản; nội dung chính của các thuyết vật lí và
các ứng dụng quan trọng nhất của vật lí trong đời sống và trong sản xuất.
- Vật lí học là một khoa học chính xác, địi hỏi vừa phải có kĩ năng quan
sát tinh tế, khéo léo tác động vào tự nhiên khi làm thí nghiệm, vừa phải có lơgic
chặt chẽ, biện chứng, vừa phải trao đổi thảo luận để khẳng định chân lí.
- Vật lí học là một mơn khoa học thực nghiệm vì nội dung của nó gắn bó
chặt chẽ với các sự kiện thực tế và có ứng dụng rộng rãi trong sản xuất, đời sống
và kĩ thuật. Vì vậy có thể nói con đường nhận thức đi từ trực quan sinh động đến tư
duy trừu tượng rồi từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn là con đường phổ biến và
5


quan trọng nhất trong quá trình nhận thức các hiện tượng, các q trình, các quy
luật tự nhiên…nói chung và trong dạy học vật lí nói riêng.

Dạy học gắn với thực tiễn GV không chỉ làm cho HS thấy được những ứng
dụng của kiến thức mình đã học, những ứng dụng khoa học, kỹ thuật ứng dụng vào
đời sống mà cịn làm cho HS say mê khoa học, có một hứng thú để tìm tịi, giải
thích những sự thay đổi xung quanh mình, hình thành nên một động cơ học tập
đúng đắn.
Về mặt tâm lý học, cần khơi gợi động cơ học tập bằng những tình huống học
tập, bằng các vấn đề thực tiễn phù hợp với khả năng và mức độ hiểu biết của HS,
có nhận thức đúng đắn trong q trình học tập…tạo cho HS một mơi trường học
tập để học sinh tin tưởng vào khả năng làm việc của mình với những kiến thức đã,
đang và sẽ có.
Mặt khác những kiến thức vật lí phổ thơng là những kiến thức tương đối đơn
giản mà học sinh có thể tìm đọc ở bất cứ SGK, sách tham khảo nào nhưng việc vận
dụng nó và đào sâu chưa được GV quan tâm một cách thỏa đáng, đa phần GV chỉ
cung cấp những kiến thức đã có trong SGK để làm bài tập. Với lối dạy như thế sau
khi dạy xong GV chỉ rèn luyện cho HS làm bài tập chứ chưa rèn cho HS một thái
độ học tập, tinh thần làm việc hợp tác. Quan niệm dạy học cho rằng học sinh rất
trống rỗng, đến khi học mới có thể tiếp thu và biết là sai lầm. HS phổ thơng nhất là
học sinh THPT đã có mức độ trưởng thành nhất định. GV phải dạy cho học sinh
cách đi tìm kiếm kiến thức chứ khơng phải là tiếp thu kiến thức thụ động từ GV.
Trong nhà trường phải bắt đầu rèn luyện cho HS tính tích cực, chủ động, tự giác,
sáng tạo trong học tập để hình thành ở các em kỹ năng sống. Câu nói “kiến thức
này thầy không dạy nên các em không học” là không chấp nhận được. Do đó đánh
giá một tiết học là phải căn cứ vào những hoạt động của HS trong tiết đó. Hiện nay
khoa học cơng nghệ, truyền thơng phát triển một cách mạnh mẽ, những kiến thức
khoa học bắt đầu được đưa hẳn vào các chương trình truyền hình, những chương
trình em u khoa học, mục đích là để các em thấy được những kiến thức bổ ích
cho cuộc sống. Nên dạy học chúng ta phải mạnh dạn đưa những ứng dụng khoa
học vào trong dạy học, từ đó HS hiểu kiến thức. Với mức độ của các em và dưới sự
hướng dẫn của GV, hệ thống câu hỏi gắn liền với thực tiễn sẽ giúp các em nhanh
chóng trả lời một cách dễ dàng không mất nhiều thời gian. Chúng ta cần nhận thấy

rằng có rất nhiều GV khơng dám mạnh dạn cho học sinh làm vì ngại họ khơng làm
được. Điều đó cũng một phần đúng, HS sẽ không bao giờ làm được nếu giao
nhiệm vụ cho HS rồi đến giờ yêu cầu HS báo cáo, còn nếu có GV hướng dẫn, gợi ý
thì học sinh sẽ hồn thành được nhiệm vụ được giao. Khi đó việc học trở nên nhẹ
nhàng hơn, môi trường học, lớp học cũng trở nên thân thiện, dễ gần hơn, HS cảm
nhận được những kiến thức xung quanh thật ý nghĩa cho cuộc sống. Với cách làm
này học sinh khơng chỉ thích mơn học mà mình đảm nhận mà cịn ham mê tìm tòi,
học hỏi trong các tiết học khác. Thực tế nếu tìm cách cho HS tự lực học tập, nhưng
HS chỉ tự lực học tập trong khuôn khổ kiến thức đã biết và tự trả lời các câu hỏi
6


nhằm tìm hiểu kiến thức và đi xây dựng các kiến thức trong SGK chứ chưa vượt ra
khỏi khuôn khổ của lớp học.
b) Vai trị của tính thực tiễn trong dạy học vật lí
Thực tiễn là cơ sở và động lực của nhận thức, thực tiễn là tiêu chuẩn của
chân lý ... Thực tiễn bao gồm nhiều hoạt động khác nhau, trong đó quan trọng nhất
là hoạt động sản xuất, hoạt động cải tạo xã hội và thực nghiệm khoa học.
Hầu hết các bài tập vật lí đều gắn liền với các hiện tượng trong tự nhiên, các
ứng dụng trong kĩ thuật. Do vậy, có thể nói tính thực tiễn của bài học vật lí là các
sản phẩm mà GV cần truyền đạt cho HS theo yêu cầu của môn học thơng qua ví dụ
thực tế, bài tập thực tế, thí nghiệm và các ứng dụng kĩ thuật.
Vật lí học là một trong số ít mơn học có mối quan hệ rất chặt chẽ với tự nhiên,
kĩ thuật và đời sống. Bởi vậy, việc dạy học vật lí phải được gắn với thực tiễn,
thơng qua những ứng dụng của nó trong kĩ thuật và đời sống. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân trong đó có áp lực từ các kì thi nên việc dạy và học vật lí nặng về lí
thuyết, thường theo kiểu “ghi nhớ - tái hiện”. Kết quả là khả năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn của HS là rất hạn chế. Điều đó cho thấy, việc tăng cường tính
thực tiễn của bài học trong dạy học vật lí là rất cần thiết, nó kích thích hứng thú
học tập của HS, góp phần đổi mới phương pháp dạy học, tránh được lối dạy học

“giáo điều - sách vở”.
Các ứng dụng của bài học vật lí trong thực tiễn rất phong phú và đa dạng. Vì
vậy, việc tăng cường tính thực tiễn của bài học trong dạy học sẽ làm cho bài dạy trở
nên sinh động hơn, gây được hứng thú đối với HS, nhờ đó có thể tích cực hóa hoạt
động nhận thức của HS trong q trình dạy học. Do đó, việc tăng cường tính thực tiễn
của bài học được coi là một trong những biện pháp góp phần đổi mới phương pháp
dạy học trong nhà trường THPT hiện nay.
Dạy học gắn với thực tiễn góp phần phát huy nhân cách của HS, thông qua
việc khuyến khích các tư duy ngẫu hứng ngay trong q trình lĩnh hội kiến thức,
hình thành ở HS rất nhiều đức tính quan trọng và rất cần thiết cho việc học tập của
các em, cũng như trong đời sống của các em sau này. Dạy học gắn với thực tiễn
làm các em học tập thoải mái hơn, tinh thần, thái độ học tập cũng tốt hơn. Trong
quá trình dạy học GV khơng chỉ kích thích hứng thú học tập của HS mà cách tổ
chức học tập gắn liền với thực tiễn cũng đóng vai trị quan trọng trong q trình
học tập của HS. Qua những thảo luận, tranh luận, ý kiến của mỗi cá nhân được bộc
lộ, được khẳng định hay bác bỏ, qua đó những hiểu biết của họ được hình thành
hay chính xác hóa, mặt khác trong việc học tập theo nhóm, tất cả mọi HS từ người
học kém đến người học khá, đều có thể trình bày ý kiến của mình, tức là có điều
kiện tự thể hiện mình. Điều đó kích thích rất mạnh đến hứng thú học tập của học
sinh.Từ đó rèn luyện cho HS rất nhiều kỹ năng sống và làm việc (giao tiếp, hợp
tác, tổ chức, quản lý, ra quyết định…) và kỹ năng thu thập thông tin và xử lý thông
7


tin từ những nguồn thông tin khác nhau (thực tiễn, tài liệu, sách báo, internet…) đó
là những kỹ năng cần thiết của một công dân trong thời kỳ hội nhập.
1.3. Thực trạng dạy học vật lí ở trường THPT và sự cần thiết phải tăng
cường tính thực tiễn nhằm gây hứng thú cho HS trong dạy học mơn vật lí
Vật lí học là mơn khoa học thực nghiệm, đặc điểm nổi bật là phần lớn kiến
thức vật lí trong chương trình trung học phổ thơng đều có liên hệ với thực tiễn

cuộc sống và là cơ sở vận dụng cho nhiều ngành kĩ thuật. Trong bộ mơn vật lí, sự
phong phú về kiến thức, sự đa dạng về các loại hình thí nghiệm và mối liên hệ chặt
chẽ giữa kiến thức vật lí với thực tế đời sống là những lợi thế khơng nhỏ đối với
tiến trình đổi mới phương pháp dạy học bộ môn, đặc biệt là đổi mới theo hướng
tăng cường tính thực tiễn của bài học.
Để tìm hiểu thực trạng dạy và học gắn liền với thực tiễn nhằm gây sự hứng
thú cho HS chúng tôi tiến hành khảo sát thăm dò ý kiến (phụ lục 1 và 2) ở 5 trường
THPT trên địa bàn huyện Nam Đàn và huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Cụ thể
số lượng GV các trường được khảo sát như sau:
STT

Tên trường

Số lượng GV

Số lượng HS

1

THPT Nam Đàn 2

7

124

2

THPT Nam Đàn 1

4


83

3

THPT Kim Liên

4

82

4

THPT Lê Hồng Phong

3

42

5

THPT Đinh Bạt Tụy

2

38

Tổng cộng

20


369

Qua khảo sát thực tế ở các trường THPT nói trên cho thấy, việc dạy học vật lí
ở một số trường phổ thơng vẫn cịn nặng về lý thuyết, giáo viên ít quan tâm đến
dạy học giải quyết vấn đề tăng cường tính thực tiễn, ít sử dụng bài tập thực tế. Việc
đổi mới phương pháp dạy học cịn chậm, hình thức dạy học theo lối “thơng báo tái hiện” cịn phổ biến, tình trạng “dạy chay” (khơng có hoặc ít sử dụng các thiết bị
dạy học) vẫn chưa được khắc phục triệt để, thêm nữa các phương pháp dạy học
tích cực chưa được vận dụng một cách có hiệu quả; khả năng vận dụng kiến thức
vật lí trong đời sống của HS rất hạn chế.
Một thực trạng chung là HS có thể vận dụng các định luật vật lí để giải BT
tính tốn thì được, nhưng khơng thể vận dụng định luật để làm sáng tỏ được những
vấn đề xuất hiện trong thực tiễn và đời sống. Chẳng hạn: HS có thể vận dụng định
luật Bảo tồn động lượng để tìm vận tốc sau va chạm của một bài toán vật lý
nhưng khơng giải thích được hoặc giải thích mơ hồ vì sao súng lại bị giật khi bắn?
Hay HS khơng thể giải thích được tại sao khi bắt bóng (với lực căng sút căng) thì
8


thủ mơn phải ơm bóng và rụt tay vào người mình? … Do đó, trong các giờ học vật
lí, học sinh còn thờ ơ và thường “ngại” giải quyết các vấn đề, các câu hỏi liên quan
đến thực tiễn cuộc sống, mặc dù đa số HS cho rằng việc giải quyết vấn đề được các
câu hỏi như thế là rất thú vị. Trong khi vận dụng, hầu hết HS chỉ quan tâm đến các
BT tính tốn mà ít chú ý đến BT định tính và các câu hỏi vận dụng trong thực tiễn.
HS đồng nhất việc giải BT vật lí như là giải toán, chỉ quan tâm đến con số mà
không để ý đến đơn vị, cũng như bản chất của các hiện tượng vật lí liên quan, như
vậy kiến thức học được đã khơng được phát huy mà cịn làm cho HS cảm thấy mệt
mỏi vì kiến thức học quá xa rời với thực tiễn của cuộc sống. từ đó các em khơng
say mê, u thích mơn học vật lí và khi nào cũng cảm thấy vật lí là mơn khó học.
Một số ngun nhân cơ bản dẫn đến thực trạng trên có thể kể đến là:

Đối với GV: Trong việc dạy lí thuyết cũng như BT, đa số GV dành nhiều thời
gian và công sức để dạy cho HS nắm được các định luật, nhận diện được các kiểu,
các dạng bài tập vật lí và cách vận dụng các cơng thức vật lí cho từng kiểu loại bài
tốn đó mà ít chú trọng đến việc làm sáng tỏ bản chất của hiện tượng mơ tả trong
đề, điều đó phải chăng đích đến cũng chỉ là để kịp thời gian cho bài thi trắc nghiệm
trong các kỳ thi đạt chỉ tiêu của nhà trường đề ra?
Trong các giờ học vật lí, GV cịn ít sử dụng các phương pháp dạy học tích
cực, chưa gây được hứng thú cho HS, đặc biệt là dạy học gắn với thực tiễn, hình
thức thảo luận nhóm ít được vận dụng vì số lượng HS trong một lớp q đơng, việc
sử dụng thí nghiệm biểu diễn, thiết bị dạy học của GV chưa nhiều, cơ hội để các
em được quan sát, được tiếp cận với các thí nghiệm thực hành, được rèn luyện các
thao tác là rất hạn chế. Bên cạnh đó, việc kiểm tra đánh giá chưa chú trọng nhiều
đến vấn đề vận dụng kiến thức vào thực tiễn đời sống, chưa có nhiều BT có nội
dung thực tế, mà chủ yếu vận dụng chỉ thiên về những BT tính tốn.
Các câu hỏi thực tiễn thường phức tạp, tốn nhiều thời gian cho việc giải và
chấm bài nên GV thường ngại khi sử dụng chúng.
Đối với HS: Trong các giờ học vật lí, HS còn thờ ơ và thường “ngại” trả lời,
giải quyết vấn đề, các câu hỏi liên quan đến thực tiễn cuộc sống. Trong q trình
làm bài tập vật lí, hầu hết HS chỉ quan tâm đến các bài tập tính tốn mà khơng
quan tâm đến bài tập định tính và câu hỏi thực tiễn. HS đồng nhất việc giải bài tập
vật lí như giải một bài tốn, chỉ quan tâm đến các con số mà chưa chú ý đến đơn
vị, đến bản chất của các đại lượng vật lí.
Học sinh thường chú trọng học để thi hơn là học để biết, học để giải quyết
một vấn đề nào đó trong thực tiễn, để làm ra một sản phẩm nào đó, do đó loay
hoay tính tốn nhiều hơn là tìm tịi khám phá để hiểu biết. Bởi các em thường tâm
niệm, thi cái gì học cái đấy. Khả năng sử dụng ngôn ngữ, lập luận để gải quyết vấn
đề thực tiễn còn yếu, khả năng vận dụng kiến thức để tạo ra các sản phẩm phù hợp
với năng lực gần như chưa có.
9



Đối với chương trình: Theo đánh giá của nhiều nhà khoa học, sau hơn 20
năm đổi mới, mặc dù đã có những chuyển biến tích cực, song Giáo dục – Đào tạo
nước ta vẫn đang bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Một trong những hạn chế phải kể
đến đó là nội dung chương trình cịn thiên về lí thuyết, ít nhiều còn mang tính hàn
lâm, nặng về lí thuyết, nặng về thi cử, ít gắn với thực tiễn đời sống.
Sách giáo khoa vật lí hiện nay tuy đã chú trọng đến tính thực tiễn của mơn
học thơng qua các bài đọc thêm nhưng như thế vẫn là còn quá ít. Số lượng câu hỏi
bài tập mang tính ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống trong các bài kiểm tra ở
trường phổ thơng cũng như trong các kì thi cịn rất khiểm tốn.
Qua khảo sát ý kiến của các thầy cô giáo bộ môn vật lý tại các trường THPT
Nam Đàn 1, THPT Nam Đàn 2 (Huyện Nam Đàn), THPT Đinh Bạt Tụy (Huyện
Hưng Nguyên)… thì dạy học gắn với thực tiễn đặc biệt là chương “Các định luật
bảo toàn” vật lí 10 THPT chưa được các thầy cơ áp dụng hoặc áp dụng chưa
thường xuyên trong các tiết học. Điều này có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là
một số ngun nhân sau:
- Do có ít thời gian: Theo các thầy cô giáo thời gian cho mỗi tiết học là 45
phút mà lượng kiến thức và nội dung của bài học cần đạt được theo chuẩn kiến
thức, kỹ năng là q nhiều vì vậy khơng cịn thời gian để GV liên hệ với thực tiễn.
- Do tư tưởng GV ít coi trọng vai trò, tác dụng của tính thực tiễn trong bài
học. Tính thực tiễn của bài học đã bị “bỏ sót” ngay trong khâu thiết kế bài giảng,
nội dung giáo án còn thiên về cung cấp kiến thức giáo khoa một cách thuần túy,
chưa coi trọng việc soạn và sử dụng bài giảng theo hướng tích cực hóa hoạt động
nhận thức của HS, điều này làm cho HS khá thụ động trong việc lĩnh hội tri thức,
nhất là vận dụng kiến thức vào giải quyết vấn đề thực tiễn.
- Do ở các trường THPT hiện nay, tuy đã có phịng thí nghiệm nhưng dụng cụ
thí nghiệm, các phương tiện kĩ thuật,… chưa thực sự đầy đủ hoặc nếu có thì chất
lượng khơng đảm bảo, cho kết quả thiếu chính xác. Hầu hết các trường THPT chưa
có GV chun trách thiết bị để hỗ trợ cho việc lắp ráp, hoặc có thì khơng đúng
chun nghành đào tạo, sửa chữa nên việc sử dụng thiết bị dạy học còn mang tính

hình thức, chưa hiệu quả.
- Việc tạo ra các sân chơi theo hướng phát triển năng lực vận dụng kiến thức
vật lí vào thực tiễn cho HS cịn rất ít, như tổ chức xây dựng thí nghiệm tự làm,
tham quan, cuộc thi vận dụng kiến thức đã học thành các sản phẩm thú vị, ứng
dụng....cịn rất ít và hạn chế.
- Do ảnh hưởng và cách đánh giá trong thi cử, trong các bài kiểm tra định kì
hay kiểm tra thường xun thường khơng có các câu hỏi vận dụng lí thuyết gắn với
thực tiễn, dẫn đến tình trạng dạy để “phục vụ thi cử”, chỉ chú ý những gì cần thiết
để HS đi thi hay kiểm tra.
10


Từ kết quả khảo sát, tôi cũng thấy được mức độ quan tâm và những khó khăn
mà các thầy cơ gặp phải khi dạy học tăng cường tính thực tiễn nhằm gây hứng thú
cho HS. Từ việc điều tra cùng với việc nghiên cứu lý luận tơi đã có những cơ sở để
xây dựng tiến trình dạy học chương “Các định luật bảo tồn” Tại trường THPT
một cách có hiệu quả.
1.4. Một số biện pháp tăng cường tính thực tiễn trong hoạt động dạy học
vật lí ở trường THPT
a) Dùng các phương tiện trực quan mang tính thực tiễn
Trong chương trình vật lí 10 nói chung cũng như trong chương “Các định
luật bảo tồn” nói riêng những định luật, những q trình vật lí nếu dùng những
dụng cụ học tập, phim ảnh, hình vẽ, dụng cụ thí nghiệm… sẽ làm cho HS dễ nhớ
và hiểu sâu.
Việc sử dụng phim khoa học, tranh ảnh, hình vẽ có những ưu điểm sau:
+ Nếu như khơng có điều kiện cho HS tham quan, thì học sinh vẫn có thể
thấy được hiện tượng xảy ra.
+ HS có ấn tượng sâu sắc khi được xem phim, tranh ảnh, hình vẽ. Từ đó các
em dễ hình dung, ấn tượng và nhớ bài học lâu hơn.
Một khi kiến thức được mơ tả qua hình ảnh thì học sinh cảm thấy dễ nhớ và

dễ học hơn, các nghiên cứu giáo dục cho thấy HS chỉ nhớ được 10% những gì đọc,
20% những gì nghe và khoảng 50% những gì chúng thấy khi chúng trực tiếp quan
sát các thiết bị, các vật thật, học sinh cảm thấy dễ học hơn và đặc biệt là khả năng
quan sát. Với hình thức trực quan sẽ nâng cao hiệu quả của việc dạy học nhờ
những biểu tượng rõ ràng, phát huy được hình tượng tư duy trực quan bằng trí nhớ.
Riêng điều này ở trường THPT Nam Đàn 2 chúng tôi cực kỳ có lợi thế khi 100%
phịng học được trang bị máy chiếu (hoặc tivi). GV có thể cho HS quan sát những
thiết bị trực quan trong cuộc sống để tăng tính sinh động, đối với những dụng cụ
nhỏ và dễ kiếm GV cho HS chuẩn bị đem đến lớp. Với những thiết bị lớn, khó tìm
kiếm GV cho HS quan sát tại phịng thí nghiệm. Cịn với những kiến thức tương
đối khó và mang tính trừu tượng GV cần tìm cách gắn những kiến thức đó với các
hiện tượng thực tế.
Ví dụ: Khi học bài học về định luật bảo tồn cơ năng, giáo viên có thể cho
học sinh quan sát trực tiếp dao động của con lắc đơn, từ đó học sinh thấy được rõ
hơn là khi động năng tăng thì thế năng giảm và ngược lại.
Tóm lại, tranh ảnh, hình vẽ, phim đóng vai trị trung gian giữa thực tế với tư
duy, bởi vì chúng đã cụ thể hóa những gì trừu tượng thành đơn giản, những gì mà
thực tế quá phức tạp.
b) Trình bày những ứng dụng kỹ thuật của vật lí
11


“Việc nghiên cứu những ứng dụng kỹ thuật của vật lí là thiết lập mối quan
hệ giữa lý thuyết và thực tiễn, giữa cái trừu tượng (khái niệm, định luật) và cái cụ
thể (các thiết bị kỹ thuật, máy móc). Nhờ đó làm cho các kiến thức vật lí trừu
tượng trở nên sâu sắc và mềm dẻo hơn.
Việc nghiên cứu các ứng dụng kỹ thuật của vật lí góp phần phát triển tư duy
vật lí kỹ thuật của học sinh, làm cho HS thấy được vai trò của kiến thức vật lí với
đời sống sản xuất. Qua đó kích thích hứng thú, nhu cầu học tập của HS.
GV trình bày những ứng dụng của kiến thức vật lí là hình thức đơn giản

nhất. Tùy theo điều kiện của GV, HS cũng như điều kiện của nhà trường việc trình
bày những ứng dụng kỹ thuật này có thể trình bày sau bài học hoặc nếu có điều
kiện thì cho HS tìm hiểu rồi báo cáo cho cả lớp, đồng thời các bạn khác trong lớp
nhận xét. Q trình trình bày có thể mở rộng ra ngồi chương trình nhưng mục tiêu
chủ yếu là cung cấp thông tin, minh chứng mối quan hệ giữa kiến thức và vận dụng
kiến thức của con người trong khoa học và đời sống. Việc này sẽ mang lại hiệu quả
học tập nhân đôi nếu giáo viên sử dụng hình minh họa, phim ảnh, hoặc đề cập
được những ứng dụng, những phát minh mới nhất có liên quan đến kiến thức, bài
đang học.
Chúng ta đang sống trong thời đại công nghệ thông tin, với những phát minh
của nhân loại đang nở rộ với tốc độ ngày càng cao. Vốn hiểu biết của nhân loại
từng ngày, từng giờ ngày càng được bổ sung thêm, những bằng chứng mới về các
quy luật diễn ra trong thực tế quanh ta. Nếu trong giảng dạy chúng ta chỉ dừng lại
ở các kiến thức kinh điển, không đề cập đến những phát minh, những ứng dụng
mới nhất của các kiến thức, thì điều đó đồng nghĩa với việc chúng ta khơng tạo
điều kiện cho HS thâm nhập thực tế và làm thui chột những khả năng sáng tạo.
Ví dụ: Sau khi học xong kiến thức
chuyển động bằng phản lực, giáo viên cho
học sinh quan sát qua video “Chuyển động
của vệ tinh vinasat”. Bằng việc cho học sinh
quan sát ứng dụng kiến thức vào thực tế cuộc
sống, học sinh sẽ nắm vững kiến thức lý
thuyết và niềm tin vào khoa học hơn.
* Video chuyển động vệ tinh vinasat 1
c) Liên hệ kiến thức vật lí qua bài tập mang tính thực tiễn
Trong giáo trình về phương pháp dạy học vật lí cũng như SGK vật lí, những
bài tập là những bài tập luyện tập được lựa chọn một cách phù hợp với mục đích
chủ yếu là nghiên cứu các hiện tượng vật lí, hình thành các khái niệm vật lí, phát
triển năng lực tư duy vật lí của HS và rèn luyện kỹ năng vận dụng các kiến thức
của HS vào thực tiễn.

12


Việc sử dụng cũng như giảng dạy bài tập vật lí trong trường THPT có tác dụng
giúp HS hiểu và vận dụng một cách sâu sắc các kiến thức đã học, đồng thời là một
trong những phương tiện giúp cho HS phát huy được tính tích cực, sáng tạo, rèn luyện
kỹ năng, kỹ xảo, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, rèn luyện thói quen vận dụng kiến
thức để giải quyết các vấn đề thực tiễn. Kỹ năng vận dụng kiến thức trong việc giải
bài tập và trong thực tiễn đời sống chính là thể hiện khả năng tiếp thu, hiểu biết và vận
dụng những kiến thức mà HS đã thu nhận được. Bài tập vật lí với chức năng là một
phương pháp dạy học có một vị trí đặc biệt trong dạy học vật lí.
Thơng qua bài tập vật lí HS nắm được những quy luật vận động của thế giới
vật chất, nó cịn giúp HS hiểu rõ những quy luật, biết phân tích và vận dụng những
quy luật ấy vào thực tiễn. Việc giải các bài tập còn tạo điều kiện cho HS vận dụng
kiến thức đã học để giải quyết các tình huống cụ thể thì kiến thức đó mới trở nên
hồn thiện.
Trong q trình giải quyết các tình huống cụ thể mà các bài tập đặt ra, HS sử
dụng các thao tác tư duy như phân tích, so sánh, tổng hợp, khái qt hóa và trừu
tượng hóa…để giải quyết vấn đề, do đó tư duy của HS có điều kiện để phát triển.
Có thể coi bài tập vật lí là một phương tiện tốt nhất để phát triển tư duy, óc tưởng
tượng, khả năng độc lập trong suy nghĩ và hành động, tính kiên trì trong việc khắc
phục những khó khăn trong cuộc sống của HS.
Bài tập còn cung cấp thêm kiến thức, mở rộng hiểu biết của HS về các vấn
đề của đời sống và sản xuất đồng thời phát triển tư duy của HS. Bài tập vật lí cịn
là cơ hội để GV đề cập đến những kiến thức mà trong giờ dạy lý thuyết chưa có
điều kiện để đề cập, qua đó bổ sung thêm kiến thức cho HS. Bài tập còn cung cấp
cho HS những số liệu mới về phát minh, những ứng dụng…khơng những giúp HS
hịa nhịp với sự phát triển của khoa học kỹ thuật của thời đại mà các em đang sống
mà cịn rèn luyện cho các em tính kiên trì trong việc khắc phục những khó khăn
trong cuộc sống.

Do vậy việc xây dựng bài tập mang tính thực tiễn để sử dụng trong quá trình
dạy học cũng như trong học tập của HS cần được GV quan tâm.
* Bài tập vật lí định tính mang tính thực tiễn
Bài tập định tính là những bài tâp khi giải, HS khơng cần phải thực hiện các
phép tính phức tạp khi cần thiết chỉ làm những phép tính đơn giản, có thể tính
nhẩm được.
Bài tập định tính có rất nhiều ưu điểm về mặt phương pháp học. Đưa được lí
thuyết vừa học lại gần với đời sống, thực tiễn xung quanh, các bài tập định tính
làm tăng thêm ở HS hứng thú môn học, tạo điều kiện cho HS suy luận phát triển
ngơn ngữ vật lí. Phương pháp giải bài tập định tính bao gồm việc xây dựng những
suy lí lơgic của HS. Việc giải các bài tập định tính rèn luyện cho HS hiểu rõ được
13


bản chất của các hiện tượng vật lí và những quy luật của chúng, dạy cho HS biết áp
dụng kiến thức vào thực tiễn.
Khơng những thế, bài tập định tính còn là phương tiện để củng cố và đào
sâu kiến thức, giúp HS ứng dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống và giải
quyết nó, dựa trên những kết quả của bài tập đó HS rút ra được những hiểu biết,
những kinh nghiệm cho cuộc sống bản thân.
Ví dụ: Tại sao người tham gia giao thông luôn được nhắc nhở khơng phóng
nhanh vượt ẩu. Hãy giải thích yếu tố “phóng nhanh” có liên quan đến yếu tố tai
nạn giao thơng như thế nào?
Một số bài tập vật lí định tính có thể chuyển thành thí nghiệm hay cho HS
thiết kế các thí nghiệm. Hoặc HS có thể tự tìm hiểu những bài tập hoặc tự tìm được
những bài tập vật lí định tính mới phù hợp với kiến thức và năng lực mà HS có
được. Mặt khác dựa trên các bài tập vật lí định tính sẽ kích thích sự suy nghĩ, tìm
tịi của HS, đồng thời vận dụng kiến thức đã học vào giải thích các hiện tượng tự
nhiên, ứng dụng trong đời sống, trong kỹ thuật cũng như mở rộng tầm mắt kỹ thuật
cho HS, chuẩn bị cho HS đi vào hoạt động thực tế.

* Bài tập vật lí định lượng mang tính thực tiễn
Là bài tập muốn giải quyết nó ta phải thực hiện hàng loạt các phép tính và
kết quả thu được là đáp số định lượng, tìm giá trị một số đại lượng vật lí. Dựa vào
mục đích học ta có thể phân loại bài tập dạng này thành 2 loại:
* Bài tập tập dượt:
Là những bài tập cơ bản, đơn giản, trong đó chỉ đề cập đến một hiện tượng,
một định luật và sử dụng một vài phép tốn đơn giản. Nó có tác dụng củng cố kiến
thức cơ bản vừa học, giúp HS hiểu rõ ý nghĩa định luật và công thức biểu diễn, sử
dụng các đơn vị vật lí tương ứng và có thói quen cần thiết để giải bài tập phức tạp.
Ví dụ: Một tàu thủy chạy trên sơng theo đường thẳng kéo một sà lan với lực
không đổi F=5.103N. Hỏi khi lực thực hiện được một công bằng 15.10 6J thì sà lan
đã dời chổ theo phương của lực được qng đường bằng bao nhiêu?
* Bài tập tính tốn tổng hợp
Là những bài tập phức tạp mà muốn giải nó HS phải vận dụng nhiều kiến
thức ở nhiều khái niệm, định luật, dùng nhiều cơng thức. Kiến thức tích hợp nhiều
nội dung kiến thức trong một chương, một phần hoặc các phần của tài liệu vật lí.
Loại tài liệu này giúp HS đào sâu, mở rộng kiến thức, thấy được mối liên hệ giữa
các kiến thức vật lí với nhau, luyện tập phân tích những hiện tượng phức tạp ra
thành những phần đơn giản tuân theo một định luật xác định.
Ví dụ: Một ơ tơ đang chạy với vận tốc 54km/h thì lái xe phát hiện vật cản
trước mặt cách khoảng 18m. Lái xe tắt máy và hãm phanh gấp với lực cản không
14


đổi và bằng 75% trọng lượng của xe. Hỏi xe có kịp dừng để khỏi đâm vào vật cản
khơng?
Như vậy, với những loại bài tập này không những dùng để giảng dạy cho HS
kiến thức mà còn thấy rằng bài tập mang tính thực tiễn và phù hợp với trình độ của HS.
d) Tổ chức hoạt động ngoại khóa
Hoạt động ngoại khóa là hoạt động nằm ngồi thời gian học chính khóa,

hoạt động ngoại khóa là những hoạt động rất thiết thực và bổ ích với HS. HS vừa
được học vừa được vui chơi giải trí, tạo niềm hứng khởi để học tập tốt hơn.
Trong điều kiện học tập hiện nay “hoạt động ngoại khóa” là một hình thức
tổ chức dạy học có tính chất tự nguyện và được tiến hành ngồi giờ lên lớp. Nó tạo
điều kiện thuận lợi cho HS hoạt động theo hứng thú, sở thích riêng của từng HS và
góp phần hướng nghiệp cho họ. Hoạt động ngoại khóa cịn có thể giúp HS củng cố,
mở rộng, khơi sâu thêm tri thức về một số lĩnh vực nhất định gắn liền với thực tế,
phát huy tác dụng học tập với đời sống”. Việc tổ chức học tập theo hình thức này
chỉ có thể thực hiện trong điều kiện như một buổi sinh hoạt chuyên đề, để đưa các
kiến thức vật lí gắn với đời sống cho HS, không thể tổ chức hết trong một tiết học,
với kiểu học tập như thế này chỉ có thể học tập sau khi học xong một chương nào
đó thuộc chương trình học. Quá trình thảo luận khiến người học chú tâm hơn đến
các đề tài đang được bàn thảo trong quá trình học, những vấn đề được đào sâu hơn,
tham gia sáng tạo tri thức, trao đổi suy nghĩ và có quan điểm một cách rõ ràng,
hình thành thói quen tương tác trong học tập, nhưng bên cạnh đó cũng phát triển
một số kỹ năng khác, trong quá trình thảo luận sẽ xuất phát các vấn đề về thực tế.
Trong quá trình thảo luận các vấn đề thực tiễn được đưa vào giải quyết và đồng
thời thấy được tính thực tiễn của kiến thức đã học và những ứng dụng của nó, mặt
khác các buổi thảo luận khơng hạn hẹp trong thời gian một tiết học nên học sinh có
thể thoải mái trình bày những quan điểm của mình và đồng thời khơng chịu áp lực
về điểm số do đó các em sẽ tự tin hơn, thích thú hơn khi tiếp xúc với các vấn đề
đó.
e) Tổ chức các cuộc thi “thiết kế mơ hình thí nghiệm, thiết bị vật lí”.
Thiết kế mơ hình thí nghiệm hay các thiết bị vật lí là một biện pháp để phát
huy sự sáng tạo khéo léo của HS cũng như GV. Đồng thời hỗ trợ đắc lực cho GV
trong quá trình giảng dạy.
Việc tổ chức các cuộc thi này tùy thuộc vào thời điểm có kỷ niệm những ngày
lễ lớn trong năm học, GV có thể tổ chức cho HS thiết kế các mơ hình thí nghiệm có
tác dụng minh họa những kiến thức đã và đang học trong chương trình hoặc các mơ
hình các thiết bị vật lí có ứng dụng và có ý nghĩa khoa học.

Thơng qua các cuộc thi này, HS sẽ tích cực tìm hiểu các kiến thức, việc lơi
cuốn HS vào các phong trào nhưng mang tính học tập, HS sẽ năng động hơn, sáng
tạo hơn, phát triển tư duy cho HS, từ chỗ mở rộng những hiểu biết của HS về
15


những ứng dụng khoa học kỹ thuật của vật lí để bồi dưỡng tình cảm u thích bộ
mơn, đồng thời giáo dục hướng nghiệp với ngành nghề sau này cho HS bên cạnh
việc tổ chức này có thể tiến tới góp phần vào việc thành lập câu lạc bộ vật lí trong
nhà trường đây cũng là mơ hình học tập thoải mái, kiến thức khơng bó gọn trong
chương trình học mà nó sẽ vượt ra ngồi kiến thức đã học, kích thích trí tị mị,
sáng tạo trong q trình học tập của HS.
g) Tham quan
Tham quan là phương pháp được tiến hành bằng cách đưa HS đi thăm, đi
xem những sự vật, hiện tượng có ý nghĩa tích cực trong cuộc sống. Đây là một
hình thức củng cố kiến thức và giáo dục tư tưởng cho HS.
Tham quan là biện pháp quan trọng giáo dục kĩ thuật tổng hợp cho HS.
Những buổi tham quan các nhà máy và nông trường giúp cho HS thấy được các
hiện tượng vật lí trong mối liên hệ tương hỗ của chúng, thấy được sự vận dụng tri
thức khoa học trong thực tiễn sản xuất của con người cũng như vai trò của các tri
thức đó trong nền sản xuất hiện đại.
Đi tham quan HS sẽ thấy được các quá trình sản xuất, hoạt động của các
máy móc, các cơ chế và hoạt động sản xuất của con người. HS có dịp làm quen với
những xu hướng cơ bản của sự phát triển kĩ thuật hiện đại, cơ khí hóa, điện khí
hóa, tự động hóa.
Ví dụ: Cho học sinh tham quan nhà máy thủy điện. Được tận mắt chứng kiến
hoạt động của nhà máy thủy điện, từ đó HS sẽ dùng những kiến thức đã học giải
thích nguyên tắc hoạt động của nhà máy dẫn đến HS sẽ hiểu được sâu sắc kiến
thức bài học về sự bảo tồn năng lượng, sự chuyển hố năng lượng tốt hơn.
Để tham quan có hiệu quả cần xác định rõ mục đích, nhiệm vụ của buổi

tham quan, liên hệ với nơi cần tham quan để có kế hoạch cụ thể, phổ biến kế hoạch
đến HS (nhấn mạnh địa điểm, thời gian, chi phí, quy định của buổi tham quan…)
đồng thời phải có bài thu hoạch.
Tuy nhiên tham quan phải tùy điều kiện của từng lớp, từng nhóm HS cũng như
tùy từng vùng miền, tùy chương và bài học mới thực hiện được.
1.5. Quy trình thiết kế bài học vật lí theo hướng tăng cường tính thực tiễn
Để thiết kế được các tiến trình dạy học cụ thể theo hướng phát huy tính thực
tiễn chúng ta cần dựa trên cơ sở sau:
- Xác định mục tiêu dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương.
- Lôgic phát triển nội dung của chương theo SGK hiện hành.
- Nội dung học của chương.
- Chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc triển khai dạy học các nội dung
của chương theo hướng phát huy tính thực tiễn.
16


+ Xác định một số vấn đề thực tiễn của chương.
+ Xây dựng hệ thống bài tập định lượng gắn với thực tiễn.
+ Xây dựng hệ thống bài tập định tính có nội dung thực tiễn.
+ Xác định các phương tiện, thiết bị và tài liệu hỗ trợ giảng dạy.
+ Xác định tư liệu hỗ trợ hoạt động học tập cho HS.
* Bên cạnh đó trong q trình giảng dạy GV cần phải chú ý đến các nguyên
tắc sau:
- Phải có năng lực thực hiện phù hợp với hồn cảnh thực tế (trường hợp
tham quan, hoạt động ngoại khóa…).
- Khơng lạm dụng quá nhiều, chất lượng hơn số lượng.
- Những ứng dụng đưa ra hấp dẫn, chọn lọc, đảm bảo tính chính xác, khoa
học, phù hợp với trình độ HS.
- Mang tính phổ biến hoặc có tính thời sự.
- Bố trí thời gian hợp lý trong q trình giảng dạy, luôn tạo sự thoải mái cho

HS, ngữ điệu phù hợp, vui vẻ, nghiêm túc tránh sự nhàm chán.
Như vậy, dạy học vật lí gắn với thực tiễn nhằm đưa thực tiễn vào trong q
trình dạy học, ở đây GV khơng những hướng dẫn cho HS tìm kiến thức, xử lý
thơng tin mà còn hướng dẫn cho HS thấy được tầm quan trọng của kiến thức cũng
như những ứng dụng kiến thức mà mình đã, đang và sẽ trên con đường tìm kiếm và
học tập từ đó các kỹ năng của HS được phát triển, HS cảm thấy thoải mái khi học
tập cũng như tiếp cận tri thức.
Thay vì áp dụng rập khn các mơ hình tiên tiến vào giảng dạy, thì ở đây
dạy học vật lí sẽ phù hợp với điều kiện mà các trường không đầy đủ cơ sở vật chất,
đặc biệt là các trường ở vùng sâu, vùng xa như hiện nay.
Dạy học vật lí gắn với thực tiễn là hình thức học tập gắn kết được lý thuyết
và thực tiễn, khơi gợi được sự sáng tạo và hứng thú cho hành trình khám phá khoa
học của HS.
II. TỔ CHỨC DẠY HỌC VẬT LÝ NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
VẬN DỤNG KIẾN THỨC THEO HƯỚNG TĂNG CƯỜNG TÍNH THỰC
TIỄN CHƯƠNG “CÁC ĐỊNH LUẬT BẢO TỒN” VẬT LÍ 10 THPT
2.1. Đặc điểm chương “Các định luật bảo tồn” Vật lí 10 THPT
Các định luật bảo tồn có vai trị đặc biệt quan trọng trong vật lí học, đó là
những định luật tổng quát, áp dụng cho mọi hệ kín, từ vi mơ đến vĩ mơ. Các định
luật bảo tồn có ý nghĩa lớn về mặt phương pháp luận (phương pháp bảo toàn hay
quan điểm bảo toàn, tư tưởng bảo toàn dùng để nghiên cứu vật lí học); phương
pháp bảo tồn là phương pháp sử dụng các định luật bảo toàn như những phương
17


pháp cơ bản giải bài tốn vật lí; phương pháp bảo tồn khơng chỉ bổ sung cho
phương pháp động lực học mà cịn có thể thay thế hồn tồn trong trường hợp
không áp dụng được phương pháp động lực học do không biết rõ các lực tác dụng
(như trong trường hợp va chạm, nổ...). Các định luật bảo toàn là cơ sở vật lí của
nhiều ứng dụng kĩ thuật quan trọng: chuyển động phản lực, cơng nghiệp năng

lượng, hồn thiện các thiết bị kỹ thuật,...Dạy học các định luật bảo tồn có nhiều
tiện lợi để bồi dưỡng phương pháp nhận thức vật lí, giáo dục thế giới quan khoa
học và giáo dục kỹ thuật tổng hợp.
Ở lớp 10 THPT những kiến thức đó được nghiên cứu sâu hơn ở mức độ định
lượng; ngoài ra học sinh được nghiên cứu trọn vẹn định luật bảo toàn động lượng.
Gồm 5 bài:
- Bài 23: Động lượng. Định luật bảo toàn động lượng.
- Bài 24: Công và công suất.
- Bài 25: Động năng.
- Bài 26: Thế năng.
- Bài 27: Cơ năng.
Phân tích chương trình và nội dung SGK Vật lí 10 chúng ta có thể xây dựng
sơ đồ cấu trúc nội dung chương “Các định luật bảo toàn” qua sơ đồ sau:

18


Sơ đồ Cấu trúc chương “Các định luật bảo toàn” Vật lí 10
Các định luật bảo tồn

Định luật bảo tồn động
lượng

Xung lượng

Định lý biến
thiên động
năng

Định luật bảo toàn cơ năng


Động
lượng

Hệ kín

Định luật bảo
tồn động
lượng

Định luật
bảo tồn
động
lượng

Bài tập va
chạm

Cơng

Thế năng

Cơng
suất
Cơ năng

Định luật bảo
toàn năng lượng

Động năng


Định lý
động
năng

Định luật bảo
toàn cơ năng

19


2.2. Phát triển năng lực vận dụng kiến thức vật lí vào thực tiễn của học
sinh.
thơng qua dạy học chương “ Các định luật bảo tồn vật lí lớp 10 THPT”
a) Các phương tiện tham gia hỗ trợ dạy học chương
1. Các video: Giáo viên có thể tự quay hoặc tìm kiếm các video chính thống trên
các trang mạng ví dụ thuvienvatly.com; youtobe.com…
Cầu thủ đá vơ lê đưa bóng vào
Chuyển động của quả bóng bay
lưới đối phương

Súng giật sau khi bắn

Tên lửa xe đạp

Chuyển động của vệ tinh Vinasat

Chuyển động của tên lửa nhiều tầng

20



Búa máy đóng cọc

Nước lũ cuốn trơi nhà cửa

2. Các thí nghiệm ảo, mơ phỏng thí nghiệm
Hịn bi va chạm vào thành

Hai hòn bi va chạm vào nhau

Nguyên tắc chuyển động của nhà máy thủy điện

3. Các tranh ảnh
Ảnh các nhà máy thủy điện

21


Người bắn cung

Vận động viên nhảy sào

2.3. Các bước cần thực hiện khi thiết kế dạy học vật lí gắn với thực tiễn
Bước 1: Xác định mục tiêu của chương
Bất kì một hoạt động nào cũng cần phải đề ra mục tiêu. Nhờ vậy hoạt động
mới có định hướng đúng, tổ chức phù hợp và kết quả mới được đánh giá rõ ràng.
Mục tiêu là cái đích của bài học cần đạt tới một cách cụ thể, phải chỉ rõ sản
phẩm của bài học. Trong dạy học theo hướng tăng cường tính thực tiễn, sản
phẩm là những hiện tượng thực tế, thí nghiệm và các ứng dụng kĩ thuật liên quan

đến bài học mà HS phải nắm được.
Mục tiêu cần đạt được sau khi học xong một chương sẽ được xác định dựa
trên mục tiêu đào tạo, mục tiêu của môn học, của chương, của bài học tùy theo
nhu cầu, trình độ của học sinh. Để thiết kế tiến trình dạy học cho chương “Các
định luật bảo toàn” về mục tiêu của chương tôi đã nêu ra ở trên.
Bước 2: Xác định một số vấn đề thực tiễn của chương.
Các vấn đề thực tiễn ứng dụng kiến thức thì rất nhiều, nhưng việc đưa vào
các vấn đề để học sinh giải quyết là một việc rất quan trọng. Khi dạy học tùy
thuộc vào điều kiện từng trường và học sinh từng vùng miền mà GV lựa chọn
các vấn đề thực tiễn sao cho phù hợp.
Dựa vào mục tiêu, nội dung kiến thức và sự ứng dụng của các kiến thức đó
tơi đã lựa chọn những vấn đề thực tiễn để đưa vào dạy học ở chương này là:
22


- Vấn đề 1: Giải thích nguyên tắc hoạt động của tên lửa?
- Vấn đề 2: Tại sao dòng nước lũ đang chảy mạnh có thể cuốn trơi cây cối,
phá hủy nhà cửa?
- Vấn đề 3: Giải thích nguyên tắc hoạt động của nhà máy thủy điện?
- Vấn đề 4: Giải một số bài tập thực tiễn ứng dụng các định luật bảo toàn.
Bước 3: Xây dựng hệ thống bài tập gắn với thực tiễn
Bài tập rất cần thiết cho việc rèn kỹ năng cũng như việc vận dụng kiến thức
đã học vào giải quyết nhiệm vụ học tập. Hệ thống bài tập với số liệu và hiện
tượng thực tế góp phần giúp học sinh thấy được những ứng dụng của vật lí vào
cuộc sống. Dưới đây là hệ thống bài tập gắn với thực tiễn chương “các định luật
bảo toàn”.
BÀI TẬP ĐỊNH LƯỢNG
Bài 1: Một người khối lượng m1= 50 kg đang chạy với vận tốc v 1 = 4 m/s
thì nhảy lên một chiếc xe khối lượng m 2 = 80 kg chạy song song ngang với
người này với vận tốc v2 = 3 m/s. Sau đó xe và người vẫn tiếp tục chuyển động

theo phương cũ. Tính vận tốc xe sau khi người này nhảy lên nếu ban đầu xe và
người chuyển động:
a) Cùng chiều
b) Ngược chiều
Câu hỏi định hướng:
- Hệ xe + người là hệ gì ?
- Nêu cơng thức định luật bảo tồn động lượng ?
- Nếu xét về độ lớn như thế nào ?
- Từ bài tập rút ra được bài học gì trong cuộc sống? (định hướng thực tế
và nhân sinh quan cho học sinh).
Hướng dẫn giải :
Xét hệ xe + người là hệ kín.
Theo định luật bảo toàn động lượng :
m1 ⃗
v 1 +m2 ⃗
v 2= ( m 1 +m2 ) ⃗v

a) Khi người nhảy cùng chiều thì:
v=

m 1 v 1 +m 2 v 2 50. 4 +80 .3
=
=3 , 38 m/ s
m 1 +m 2
50+ 80

Vậy xe tiếp tục chuyển động theo chiều cũ với vận tốc 3,38 m/s.

b) Khi người nhảy ngược chiều thì:
23



v=

−m1 v 1 +m2 v 2 −50 . 4 +80 .3
=
=0,3 m/s
m1 +m 2
50+80

Vậy xe tiếp tục chuyển động theo chiều cũ với vận tốc 0,3m/s.
Bài 2: Một tên lửa khối lượng M =10 000 kg đang bay thẳng đứng lên
trên với vận tốc 100 m/s thì phụt ra sau trong một thời gian rất ngắn một lượng
khí có khối lượng m = 1 000 kg khí với vận tốc 800 m/s. Tính vận tốc của tên
lửa ngay sau khi phụt khí?
Câu hỏi định hướng:
- Hệ tên lửa - khí là hệ gì?
- Viết cơng thức định luật bảo tồn động lượng cho hệ?
- Nếu xét về độ lớn?
- Vận tốc của tên lửa ngay sau khi phụt khí được xác định như thế nào?
- Từ bài tập rút ra được bài học gì trong cuộc sống?
Hướng dẫn giải:
Vì thời gian phụt khí là rất ngắn nên trọng lượng và sức cản của khơng khí
coi như chưa ảnh hưởng đến vận tốc của tên lửa ngay sau khi phụt khí. Tên lửa
và khí phụt ra lúc này có thể coi là hệ cô lập.
Chọn chiều dương là chiều thẳng đứng từ dưới lên.
Động lượng của hệ trước khi phụt khí:

⃗p=M ⃗v


.

'
⃗'
⃗'
Động lượng của hệ ngay sau khi phụt khí: p =( M −m) v + mv1

Vì tên lửa và khí chuyển động trên cùng một đường thẳng nên có thể viết biểu
thức đại số của định luật bảo toàn động lượng cho hệ:
Mv= ( M −m ) v ' −mv '1
'

⇒v =

Mv +mv '1
M −m

=

10000 .100+1000 . 800
=200 m/ s
10000−1000

Ngay sau khi phụt khí, vận tốc của tên lửa là 200 m/s. Vì vận tốc này dương nên
tên lửa tăng tốc.
Bài 3: Trên hồ có một con thuyền, mũi thuyền hướng thẳng góc với bờ.
Lúc đầu thuyền nằm yên, khoảng cách từ mũi thuyền tới bờ là 0,75 m. Một
người bắt đầu đi từ mũi đến đuôi thuyền. Hỏi mũi thuyền có cập bờ được khơng,
nếu chiều dài của thuyền là l = 2m. Khối lượng của thuyền là M = 140kg, của
người là m = 60 kg. Bỏ qua ma sát giữa thuyền và nước.

Câu hỏi định hướng:
- Hệ thuyền - người là hệ gì?
24


- Áp dụng định luật bảo toàn động lượng cho hệ thuyền - người như thế nào?
- Nếu xét về độ lớn?
- Quảng đường thuyền dịch chuyển được tính như thế nào?
- Từ bài tập rút ra được bài học gì trong cuộc sống?
Hướng dẫn giải:
Gọi vận tốc của thuyền đối với bờ là v, vận tốc của người đối với thuyền
là u. Chọn chiều dương là chiều chuyển động của thuyền.
Định luật bảo toàn động lượng áp dụng cho hệ kín thuyền - người:
Mv+m(v-u) =0
Suy ra :

u M +m
=
v
m

Tỉ số các độ dời của người và thuyền cũng bằng tỉ số các vận tốc:
u l M +m
= =
v s
m

Khi người đi hết chiều dài l của thuyền thì thuyền cũng dịch chuyển được độ
dời:
s=


m
60 . 2
l=
=0,6 m
M +m 140+60

Kết quả là mũi thuyền chưa chạm được bờ.
Bài 4: Một ô tô đang chạy với vận tốc 54 km/h thì lái xe phát hiện vật cản
trước mặt cách khoảng 18 m. Lái xe tắt máy và hãm phanh gấp với lực cản
không đổi và bằng 75% trọng lượng của xe . Hỏi xe có kịp dừng để khỏi đâm
vào vật cản khơng?
Câu hỏi định hướng:
- Cơng thức tính trọng lượng?
- Quảng đường xe đi được sau khi hãm phanh được xác định như thế nào?
- Từ bài tập rút ra được bài học gì trong cuộc sống?
Hướng dẫn giải:
Đổi v0 = 54 km/h = 15 m/s.
Gọi m là khối lượng của xe.
Trọng lượng của xe là: P = mg
Vì ơ tô chuyển động trên đường nằm ngang nên thế năng không đổi. Độ biến
thiên động năng bằng công của ngoại lực:
25


×