Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Thuận lợi & khó khăn trong phát triển kinh tế đối ngoại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.3 KB, 28 trang )

Lời nói đầu
Kinh tế đối ngoại là một hoạt động không thể thiếu đối với bất kì quốc gia nào
trong thời kì hội nhập và phân công lao động quốc tế và Việt Nam cũng không phải
ngoại lệ.
Kinh tế đối ngoại góp phần nối liền sản xuất và trao đổi quốc tế, nối liền thị
trường trong nước với khu vực và quốc tế, góp phần thực hiện trao đổi khoa học kỹ
thuật và công nghệ quản lý giữa các nước với nhau. Hoạt động kinh tế đối ngoại góp
phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra nó còn thu hút khoa học kỹ thuật và
công nghệ khai thác; ứng dụng những kinh nghiệm xây dựng và quản lý nền kinh tế
hiện đại vào nước ta. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta, kinh tế
đối ngoại còn góp phần tích luỹ vốn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo nhiều công ăn
việc làm cho người lao động.
Việt Nam có khả năng mở rộng quan hệ buôn bán và hợp tác kinh tế với thị
trường lớn, những cường quốc công nghệ trên thế giới; đa phương hoá quan hệ thị
trường và đối tượng hợp tác phát triển lĩnh vực kinh tế đối ngoại với tốc độ cao.
Vấn đề đặt ra là để kinh tế đối ngoại phát huy tối đa vai trò của mình, chúng ta
cần phải tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn của đất nước trong quá trình phát triển
kinh tế đối ngoại để từ đó Đảng và Nhà nước ta đưa ra những chính sách kinh tế đối
ngoại phù hợp với sự biến đổi không ngừng của nền kinh tế thế giới.
I. Tính tất yếu khách quan của việc mở rộng quan hệ kinh
tế đối ngoại:
Ngày nay với sự phát triển của những tiến bộ khoa học công nghệ, đặc biệt là
công nghệ thông tin, đã thiết lập mối quan hệ kinh tế xã hội phát triển trên cơ sở hoàn
toàn mới, nó có khả năng vượt qua mọi trở ngại về khoảng cách và biên giới, tạo ra sự
phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Điều đó làm cho thị trường ngày càng mở
rộng, sự luân chuyển của mọi nhân tố làm cho sự phát triển đều gia tăng không ngừng
cả về số lượng và chất lượng, về quy mô và không gian biên giới. Vì thế đã làm cho
nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới cho dù khác nhau về vị trí địa lý, truyền
thống lịch sử, trình độ phát triển ngày càng phụ thuộc lẫn nhau. Phát triển kinh tế
không chỉ đơn thuần là trách nhiệm và nghĩa vụ của một quốc gia, dân tộc nào mà nó
còn là vấn đề chung của toàn nhân loại.


Ngoài ra, còn có rất nhiều quy tắc kỹ thuật, sự chuyển giao công nghệ, nguồn
nhân lực và chất xám đã quy định hoạt động sản xuất và tiêu dùng của các nước ở một
mức độ tương đối lớn.
Nội dung của phân công lao động quốc tế có nhiều biến đổi. Phân công quốc tế
truyền thống lấy các nguồn tự nhiên làm cơ sở, phát triển thành phân công lấy công
nghệ kỹ thuật hiện đại là cơ sở; từ phân công giữa các ngành trong mỗi khu vực, phát
triển thành phân công giữa các ngành thuộc các khu vực và phân công lấy chuyên
môn hoá sản phẩm làm cơ sở; từ phân công diễn ra theo phạm vi sản phẩm, phát triển
thành phân công diễn ra theo phạm vi các yếu tố sản xuất; từ phân công trong lĩnh vực
sản xuất thành phân công trong lĩnh vực dịch vụ. Cơ chế hình thành phân công quốc tế
cũng đang biến đổi, tức là: từ phân công do lực lượng tự phát của thị trường, phát triển
thành phân công do xí nghiệp, chủ yếu là các công ty xuyên quốc gia, do các tập đoàn
kinh tế, tổ chức thương mại khu vực, sự phân công có tính hiệp định. Phân công theo
chiều ngang trở thành hình thức phân công chủ yếu. Nội dung của nó là phân công
theo sản phẩm, linh kiện sản phẩm và theo quy trình công nghệ sản phẩm.
Phân công lao động quốc tế đã hình thành mạng lưới sản xuất có tính thế giới, làm
cho các nước trở thành bộ phận của nền sản xuất thế giới, trở thành một khâu trong
dây chuyền giá trị hàng hoá. Nó có lợi cho các nước trên thế giới phát huy đầy đủ ưu
thế, tiết kiệm lao động xã hội, làm cho các yếu tố sản xuất được phân bổ một cách hợp
lý, nâng cao hiệu quả kinh tế, thúc đẩy kinh tế thế giới phát triển.
Kinh tế đối ngoại sẽ làm cho mối quan hệ quốc tế ngày càng tăng cường và phát
triển. Đến nay lợi ích chung của các quốc gia trên thế giới không ngừng mở rộng; các
nước phát triển và đang phát triển, các nước lớn và nhỏ ngày càng nâng cao mức độ
phụ thuộc vào nhau, dựa vào nhau đẻ cùng tồn tại, hợp tác và phát triển. Xét một cách
cụ thể, kinh tế quốc tế hoá là xu thế tất yếu, biểu hiện sự phát triển nhảy vọt của lực
lượng sản xuất do phân công lao động quốc tế ngày càng diễn ra sâu sắc, rộng rãi trên
phạm vi toàn thế giới dẫn tới sự hình thành nền kinh tế thế giới. Vấn đề mở rộng kinh
tế đối ngoại vượt ra khỏi biên giới quốc gia, hướng tới phạm vi toàn cầu là quá trình
mà mọi cơ hội và nguyện vọng của tất cả các quốc gia ở mọi khu vực trên thế giới cần
tìm ra những điểm chung giữa những nét đặc thù khác biệt để có một cơ chế mới trong

mối quan hệ kinh tế xã hội ngày càng phát triển hơn nữa.
Chính vì những điều trên mà Việt Nam chúng ta đã theo tinh thần đổi mới của Đại
hội VI, VII và VIII, cùng các Nghị quyết của Hội nghị Trung ương trong các kì Đại
hội đều có chú ý đến vấn đề hội nhập quốc tế. Nếu như Đại hội VI, Đảng ta nhấn
mạnh phải “gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới, giải quyết mối quan hệ
tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, có chính sách bảo vệ sản xuất nội địa” thì tại Hội
nghị Trung ương thứ 3 khoá VII đã có bước tiến trong xác định nội dung cụ thể của
hội nhập quốc tế, trong đó khẳng định phải khai thông quan hệ với các tổ chức kinh tế
quốc tế. Tư tưởng này được khẳng định lại tại Hội nghị Trung ương 7 khoá VII là
“từng bước tham gia các hội, các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và thế giới”.
Đại hội VIII của Đảng tiếp tục khẳng định và phát triển sự cần thiết cũng như làm rõ
thêm nội dung và tiến trình hội nhập. Nghị quyết Đại hội nhấn mạnh “xây dựng một
nền kinh tế mở, hội nhập khu vực và thế giới, hướng về xuất khẩu, đồng thời thay thế
nhập khẩu bằng sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”.
II. Thực tế quá trình phát triển kinh tế đối ngoại của Việt
Nam qua một số điểm mốc lớn:
Sau gần hai thập kỷ tiến hành công cuộc Đổi mới đất nước, thế và lực của nước ta
đã lớn mạnh lên nhiều. Trong những năm qua, Việt Nam đã chủ động đàm phán và ký
kết với nhiều nước trong và ngoài khu vực những khuôn khổ quan hệ hữu nghị và hợp
tác toàn diện cho thế kỷ 21: Nhiều Hiệp định, thoả thuận quan trọng đã được ký kết
như Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp định về biên giới
trên bộ, Hiệp định về phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định nghề cá với Trung Quốc,
Hiệp định về phân định thềm lục địa với Indonesia Các mối quan hệ song phương và
đa phương đó đã góp phần không nhỏ vào việc không ngừng củng cố môi trường hoà
bình, ổn định và tạo mọi điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc hội nhập kinh tế
quốc tế.
Hiện nay Việt Nam đã đặt quan hệ ngoại giao với khoảng 172 nước và có quan hệ
về kinh tế, thương mại và đầu tư với gần 200 nước và vùng lãnh thổ. Trong quá trình
đổi mới kinh tế trong nước, kinh tế đối ngoại, Việt Nam đã có nhiều cố gắng nhằm
thiết lập môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế đối ngoại nói riêng và tổng thể nền

kinh tế nói chung. Sau đây xin nêu một số sự kiện lớn :
• Đầu thập kỷ 90, Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, ký kết
hiệp định Paris về Campuchia, cải thiện quan hệ với các nước phương Tây,
ASEAN và các tổ chức tiền tệ quốc tế.
• Năm 1992, hệ thống danh mục hàng xuất nhập khẩu chịu thuế tương đối thống
nhất và hài hòa đã được đưa vào áp dụng. Cũng trong năm này, Hiệp định
thương mại ưu đãi Việt Nam – EEC đã cung cấp các hạn ngạch xuất khẩu cho
hàng dệt may của Việt Nam vào châu Âu đồng thời chúng ta cũng dành một số
ưu đãi về thuế cho một số mặt hàng nhập từ EEC. Hiệp định thương mại quan
trọng với thị trường cao cấp và rộng lớn này đã giải quyết được phần nào vấn
đề thiếu hụt thị trường xuất khẩu của Việt Nam, đồng thời mở ra và tích cực
thúc đẩy một số mặt hàng xuất khẩu, tận dụng được ưu thế về nguồn lực nội địa
của quốc gia.
Cũng trong năm 1992, Việt Nam có quan hệ với Nhật Bản và Nhật Bản là quốc
gia cung cấp vốn ODA lớn nhất, là 1 trong 3 nhà đầu tư hàng đầu tại Việt Nam.
• Nối lại quan hệ tín dụng bình thường với IMF và WB, đàm phán thắng lợi tại
Câu Lạc bộ Paris và London nhằm giảm, xoá, hoãn nợ chính phủ và công ty
của ta, tạo điều kiện hình thành cơ chế Hội nghị tư vấn (CG) hàng năm cam kết
ODA cho Việt Nam bắt đầu từ 1993. Đây có thể coi là một mốc quan trọng phá
thế bao vây cấm vận chống ta của các thế lực đế quốc và thù địch.
• Năm 1994, Việt Nam giành được vị trí là người quan sát của Hiệp định chung
về thuế quan và thương mại GATT (sau đó đổi thành tổ chức Thương mại Thế
giới WTO). Tuy vậy tiến trình gia nhập vào tổ chức này còn rất nhiều khó
khăn, đòi hỏi nỗ lực toàn diện của Việt Nam trong cải cách kinh tế và pháp lý.
Trong quan hệ với Mỹ, Việt Nam luôn tỏ ra thiện chí. Năm 1994 Mỹ đã xóa bỏ
lệnh cấm vận đối với Việt Nam. Đây là một điều kiện quan trọng để chúng ta
thúc đẩy mối quan hệ kinh tế với một môi trường rộng lớn và đầy sôi động.
• Năm 1995 là một dấu mốc hết sức quan trọng khi Việt Nam gia nhập vào
ASEAN (28/7/1995) – một hiệp hội trọng yếu của khu vực, đồng thời chúng ta
cũng trở thành thành viên của AFTA. Có nghĩa là Việt Nam bắt đầu tham gia

vào các cam kết cắt giảm thuế quan cho các mặt hàng nhập khẩu nông – công
nghiệp của các nước ASEAN.
• Năm 1996, Việt Nam ban hành tiếp danh mục các hàng hóa với các mức thuế
quan ưu đãi có hiệu lực chung dành cho AFTA, sẽ được áp dụng rộng rãi vào
năm 1997. Nhìn chung mức thuế nhập khẩu tối đa giảm xuống còn 80%. Chính
sách nhập khẩu tiếp tục giảm số lượng hàng hóa quản lý bằng hạn ngạch nhập
khẩu xuống còn 6.
• Tháng 11/1998, Việt Nam đã trở thành thành viên đầy đủ của Diễn đàn Hợp tác
Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APECT). Việt Nam đã trình kế hoạch
hành động về các lịch trình ngắn, trung và dài hạn cho việc thực thi các biện
pháp thuế quan, phi thuế quan, thương mại, dịch vụ…
• Năm 2000 phải kể đến một thành tựu quan trọng của Việt Nam đó là đã tiến tới
ký kết được Hiệp định thương mại với Mỹ. Hiệp định khẳng định bước tiến
mới trong quá trình bình thường hóa quan hệ nói chung và thương mại nói
riêng giữa 2 nước. Sau khi Hiệp định có hiệu lực, Việt Nam sẽ được hưởng và
ngược lại, sẽ dành cho Mỹ quy chế tối huệ quốc và đối xử bình đẳng. Như vậy
các bên của Hiệp định thương mại sẽ có nền tảng pháp lý để xúc tiến các hoạt
động thương mại song phương.
• 11/1/2007 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO), một sân chơi kinh tế toàn cầu chiếm khoảng 90% dân số
thế giới, 95% GDP và 95% giá trị thương mại của toàn thế giới. Việc gia nhập
WTO là kết quả tất yếu của quá trình đổi mới, tích cực hội nhập kinh tế khu
vực và quốc tế của Việt Nam. Đây là bước hội nhập đầy đủ hơn và thực chất
hơn của Việt Nam vào kinh tế thế giới, đồng thời đánh dấu một mốc mới rất
quan trọng trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế: từ hội nhập ở cấp độ khu
vực (ASEAN năm 1995) đến cấp độ liên khu vực (ASEM năm 1996, APEC
năm 1998) và đến cấp độ toàn cầu hiện nay.
• Trong những năm qua, Việt Nam còn gia tăng quan hệ với Liên Hợp Quốc,
IMF, WB… Tính đến nay đã hơn 20 năm Việt Nam tham gia vào Liên Hợp
Quốc và chúng ta đã nhận được sự giúp đỡ từ tổ chức này trong rất nhiều các

lĩnh vực đồng thời chúng ta cũng đóng góp vào sự phát triển của chính tổ chức
này. Ghi nhận vào sự đóng góp đó, lần đầu tiên Việt Nam được bầu vào Hội
đồng Kinh tế xã hội Liên hợp quốc năm 1997. Đây là điều kiện quan trọng cho
phép mở rộng quan hệ giữa Việt Nam – Liên hợp quốc cũng như với các quốc
gia và tổ chức quốc tế khác. Ngày nay chúng ta cũng đã tham gia tích cực vào
các tổ chức và hoạt động khác thuộc Liên hợp quốc như: UNDP, UNFPA,
UNICEF, UNHCR, UNDCP…
 Tóm lại, hơn 25 năm đổi mới vừa qua, nhìn từ góc độ kinh tế đối ngoại thì
đúng là giai đoạn hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực của Việt
Nam. Thời gian đó tuy chưa dài nhưng cùng với những kết quả đạt được,
đó là bài học kinh nghiệm cả thành công lẫn thất bại trên bước đường hội
nhập, đó là hành trang để chúng ta vững bước vào giai đoạn mới, đẩy
nhanh hơn nữa hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế.
III. Thuận lợi trong phát triển kinh tế đối ngoại của Việt
Nam:
1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên:
Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa Đông Nam Á, là nơi gặp gỡ của
những luồng gió xuất phát từ các trung tâm lớn bao quanh tạo nên tự nhiên Việt Nam
rất phong phú và đa dạng. Điều này có tác động sâu sắc đến quy mô, cơ cấu và hướng
phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.
• Việt Nam nằm ở rìa đông của bán đảo Đông Dương, trở thành một đầu mối
giao thông quan trọng từ Ấn Độ Dương đến Thái Bình Dương. Việt Nam có
đường bờ biển dài 3260 km trải dài từ Bắc tới Nam với rất nhiều cảng đặc biệt
là cảng Cam Ranh, cảng Cái Lân…và vùng biển rộng khoảng 1 triệu km2 đã
tạo điều kiện vô cùng thuận lợi để nước ta trở thành cửa ngõ giao thông quan
trọng của khu vực, phát triển vận tải đường biển, kinh tế - thương mại, khoa
học – kỹ thuật với các nước trong khu vực và trên thế giới.
• Nằm trong khu vực Châu Á – Thái Binh Dương, khu vực đang diễn ra các hoạt
động kinh tế sôi động bậc nhất và dần trở thành trung tâm của nền kinh tế thế
giới trong đó “Bốn con rồng Châu Á” (Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc, Hồng

Kông) đang phát triển hết sức mạnh mẽ. Điều này tạo điều kiện cho Việt Nam
giao lưu với những nền kinh tế sôi động, học hỏi được những kinh nghiệm quý
báu, chủ động phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh.
• Tài nguyên thiên nhiên: Việt Nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú
và đa dạng, trong đó có nhiều loại có giá trị kinh tế lớn (than, sắt, đầu mỏ,
bôxit, aptit trong đó bô xít có trữ lượng khoảng 5 tỷ tấn, đứng thứ 3 thế giới;
quặng đất hiếm cũng có trữ lượng đứng thứ hai thế giới). Một số loại khoáng
sản, nhất là dầu khí, đang thu hút sự chú ý của nhiều nước trên thế giới và trong
khu vực. Các sản phẩm của nền nông nghiệp nhiệt đới, của ngành nuôi trồng,
đánh bắt thuỷ, hải sản và của một số ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
có thể phát triển với quy mô lớn nhằm tạo thêm nguồn hàng xuất khẩu. Tài
nguyên thiên nhiên kết hợp với nguồn nhân lực, kinh tế, kỹ thuật ở trong và
ngoài nước là những nguồn lực quan trọng để thực hiện chiến lược kinh tế đối
ngoại.
2. Những yếu tố ổn định về chính trị:
• Nước ta bắt đầu tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện đất nước hòa
bình, chính trị xã hội ổn định. Đây là một nhân tố quan trọng trong giao lưu hội
nhập đảm bảo chúng ta chỉ hòa nhập chứ không hòa tan. Việt Nam không cho
phép tồn tại đa nguyên, đa đảng mà chỉ có một Đảng lãnh đạo duy nhất đó chính là
Đảng Cộng sản Việt Nam, do đó mà tình hình chính trị rất ổn định, rất hiếm khi
xảy ra tranh chấp xung đột. Môi trường hoà bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế và
những xu thế tích cực trên thế giới tiếp tục tạo điều kiện để Việt Nam phát huy nội
lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực, nguồn vốn, công nhệ mới, kinh nghiệm
quản lý, mở rộng thị trường phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đó
là cơ hội lớn để chúng ta tạo ra bước phát triển mới
• Bên cạnh đó, công tác phát triển kinh tế đối ngoại luôn luôn được Đảng và Nhà
nước tạo mọi điều kiện thuận lợi. Đảng xác định đường lối ở tầm vĩ mô “xu thế
không thể tránh khỏi đối với sự phát triển” của việc tham gia kinh tế đối ngoại. Từ
nhận thức này, Việt Nam đã có những bước chuyển lớn trong chính sách kinh tế
nói chung, kinh tế đối ngoại nói riêng. Các chính sách này đều theo hướng tự do

hóa, tất nhiên là ở các tầng lớp khác nhau, phụ thuộc vào thực lực cụ thể của từng
lĩnh vực… Trong khi triển khai chính sách đối ngoại đa dạng hoá, đa phương hoá,
Việt Nam luôn coi trọng củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác của
Việt Nam với các nước bạn bè truyền thống, các nước khác ở Châu Á, Đông Âu,
Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG), Trung Đông, Châu Phi và Mỹ La-tinh;
hợp tác phát triển mạnh trên nhiều lĩnh vực, nhất là kinh tế, thương mại, đầu tư, du
lịch, lao động…
Hiện nay quan hệ đối ngoại của Việt Nam đã được rộng mở. Việt Nam bình
thường quan hệ với các nước lớn, với hầu hết các chủ thể trong quan hệ quốc tế. Đây
là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn,
các tổ chức quốc tế chủ chốt. Vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên
trường quốc tế, đây là nền tảng, thuận lợi cho việc đặt nền móng cho đường lôứi đối
ngoại của Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI.
3. Yếu tố thuận lợi về kinh tế:
Một yếu tố thuận lợi là nền kinh tế có trình độ và chất lượng phát triển cao hơn. Từ
năm 1986, thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp đã được thay thế
bằng thể chế kinh tế thị trường theo định hướng XHCN; tính chất tự cung tự cấp, khép
kín trong nền kinh tế được thay thế bằng xu hướng mở cửa, hội nhập quốc tế. Cơ chế
thị trường là hạt nhân của quỹ đạo phát triển kinh tế mới theo nghĩa nó định hình một
phương thức mới gắn kết nền kinh tế nước ta với nền kin tế thế giới. Nó cũng tạo ra
một lớp chủ thể kinh tế mới về chất. Đó là các chủ thể kinh doanh độc lập, có trình độ,
bản lĩnh cạnh tranh trên thị trường ngày càng được nâng cao. Sự hiện diện của cơ chế
thị trường thực sự tạo ra trạng thái xuất phát mới của nền kinh tế nước ta. Điều mấu
chốt là cơ chế phân bổ nguồn lực xuất hiện động lực kinh tế trên cơ sở hệ thức đo mới
(thước đo giá trị).
4. Yếu tố thuận lợi về nguồn nhân lực:
• Quy mô dân số nước ta hiện nay là 89 triệu người, là nước đông dân thứ 14 trên
thế giới. Việt Nam là nước có tỉ lệ tham gia lực lượng lao động là tương đối cao
(khoảng 50%). So với các nước ASEAN, Việt Nam có quy mô lực lượng lao động
và tỷ lệ tham gia lực lượng lao động lớn thứ hai sau Thái Lan. Một thuận lợi đặc

biệt phải kể đến đó là nước ta đã bước vào thời kỳ cơ cấu dân số vàng với nhóm
dân số trẻ nhất trong lịch sử của đất nước. Hiện nay nhóm dân số từ 10-24 tuổi
chiếm gần 1/3 dân số cả nước. Trong khi thời kỳ dân số vàng tiếp tục duy trì, Việt
Nam có cơ hội tận dụng nguồn nhân lực dồi dào này bằng việc đảm bảo cho mọi
thanh niên có cơ hội được tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, giáo dục và đào tạo.
Điều này sẽ góp thanh niên chuẩn bị tốt hơn để có thể đóng góp đáng kể tăng
trưởng và phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
• So với thế giới, trình độ học vấn của nước ta được xếp vào hạng trên trung bình:
HDI năm 2011 của Việt Nam là 0,593, thuộc nhóm các nước có mức phát triển con
người trung bình, xếp thứ 128/187 nước được khảo sát. Số năm đi học trung bình
là 5,5 năm. Tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi từ 25 - 26 cũng đạt tới 99,86%. Ở độ
tuổi từ 36 trở lên (ngoài độ tuổi xóa mù chữ), tỷ lệ người biết chữ là 99,7%.
• Người Việt Nam có truyền thống cần cù, thông minh, ham học hỏi, cầu tiến bộ, có
ý chí và tinh thần tự lực tự cường. Chúng ta là một dân téc phát triển khá về thể lự
c và trí lực, có tính động cơ cao để tiếp thu nhanh kiến thức khoa học công nghệ
hiện đại. Có thể nói đây là một trong số các lợi thế so sánh can ta trong quá trình
hội nhập. Bởi vì ngày nay lợi thế so sánh của sự phát triển nhanh chóng đang
chuyển dần từ yếu tố giàu tài nguyên, tiền vốn… sang lợi thế về trình độ trí tuệ tri
thức cao của con người. Chất xám trở thành nguồn vốn lớn và quý giá, là nhân tố
quyết định sự tăng trưởng và phát triển của mọi quốc gia.
• Phát triển kinh tế đối ngoại sẽ tạo cơ hội để nguồn nhân lực của nước ta khai thông
giao lưu với thế giới bên ngoài. Ta có thể xuất nhập khẩu lao động thông qua các
hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu. Đồng thời tạo điều kiện nhập khẩu lao
động có trình độ kỹ thuật cao mà hiện nay chúng ta đang rất cần. Như vậy, với lợi
thế nhất định về nguồn nhân lực cho phép lựa chọn định dạng phù hợp để tham gia
hội nhập, phát triển kinh tế đối ngoại và chính qua đó, chúng ta có điều kiện để
nâng cao chất lượng nguồn lao động Việt Nam.
 Thành tựu nổi bật:
Hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam đã phát triển hết sức ngoạn mục kể từ khi
thực hiện chủ trương mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới.

Trong thời gian gần đây, hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam đã phát triển mạnh
mẽ. Năm 2006, Việt Nam đã đạt những kỷ lục mới về kinh tế đối ngoại:
- Kim ngạch xuất khẩu đạt gần 40 tỷ đôla, đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 10,2 tỷ
đôla và viện trợ phát triển chính thức đạt 4,445 tỷ đôla.
- Đặc biệt ngày 11/1/2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO). Việc gia nhập WTO là kết quả tất yếu của
quá trình đổi mới, tích cực hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế của Việt Nam.
 Xuất khẩu:
Từ năm 1993 đến nay, với chủ trương mở cửa hội nhập, chính sách đa dạng hóa,
đa phương hóa, xuất khẩu của Việt Nam đã có bước phát triển vượt trội. Nếu năm
1985, kim ngạch xuất khẩu mới đạt 0,70 tỷ USD, thì năm 2010 đã vượt qua mốc
70 tỷ USD. Tỷ lệ xuất khẩu so với GDP tăng khá nhanh: năm 1985 mới đạt 5%,
năm 1995 đạt 26,2%, năm 2000 đạt 46,4%, năm 2005 đạt 61,1%, năm 2007 đạt
68,4%, năm 2010 đạt 70,9% - tương đương tỷ lệ của các nước Đông Nam Á, cao
gấp 3 lần tỷ lệ của châu Á và thế giới, đứng thứ 5 trên thế giới.
Tốc độ tăng xuất khẩu khá cao, từ năm 1993 đến năm 2010 gần như liên tục đạt
mức 2 chữ số (chỉ bị giảm vào năm 2009 và tăng thấp vào năm 1998, 2001). Kim
ngạch xuất khẩu năm 2010 cao gấp 24 lần năm 1993, gấp gần 3,6 lần năm 2003…
Nhiều mặt hàng xuất khẩu có khối lượng lớn, kim ngạch đứng thứ hạng cao trên
thế giới, như gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, thủy sản, dệt may, giày dép, gỗ và sản
phẩm gỗ Thị trường xuất khẩu được mở rộng ra gần 200 nước và vùng lãnh thổ
trên thế giới. Xuất khẩu dịch vụ đã tăng khá, từ 4.265 triệu USD năm 2005 lên
7.460 triệu USD năm 2010.
 Đầu tư:
Tính từ năm 1988 đến tháng 7/2011, tổng vốn FDI đăng ký lên đến 222 tỷ USD.
Tổng vốn thực hiện ước đạt trên 84,2 tỷ USD. Cả 63 tỉnh, thành phố đều có vốn
FDI, trong đó có 26 tỉnh, thành phố có số vốn đăng ký đạt trên 1 tỷ USD, đứng đầu
là TP.HCM, Bà Rịa - Vũng Tàu, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, Ninh Thuận,
Quảng Nam, Hà Tĩnh, Phú Yên… Có 79 nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp
vào Việt Nam, trong đó có 22 nước và vùng lãnh thổ đầu tư trên 1 tỷ USD, đứng

đầu là Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Nhật Bản, Malaysia, Mỹ… Khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài hiện chiếm 18,72% GDP, 43,1% giá trị sản xuất công
nghiệp, trên 55% kim ngạch xuất khẩu.
Nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài mới xuất hiện từ năm 2004 với 13 triệu
USD, nhưng tăng mạnh lên 141 triệu USD trong năm 2005, đạt 1.339 triệu USD
năm 2006, tới 6.500 triệu USD năm 2007. Năm 2008 và 2009, vốn đầu tư gián tiếp
giảm, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới.
 Những thành tựu trong phát triển kinh tế đối ngoại Việt Nam
năm 2012:
Năm 2012, kinh tế đối ngoại của Việt Nam đạt được kết quả nổi bật trong đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI), vỗn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và xuất nhập khẩu.
• Có thể nói năm 2012 là năm hoạt động đối ngoại rất nhộn nhịp, dồn dập. Số lượng
đoàn lãnh đạo cấp cao nước ta đi thăm các nước, đặc biệt là lãnh đạo cấp cao của
các nước vào thăm Việt Nam tăng mạnh với 31 đoàn, gấp 4-5 lần so với các năm.
Nhìn lại năm 2012, chúng ta đã tiếp tục đưa quan hệ với các nước, nhất là các đối
tác ưu tiên, quan trọng, bạn bè truyền thống đi vào chiều sâu, ổn định, thực chất.
Quan hệ 3 nước Việt Nam – Lào – Campuchia ngày càng trở nên gắn bó, bền chặt.
Quan hệ với một số đối tác có tầm quan trọng chiến lược với Việt Nam được nâng
cấp và thể chế hóa. Quan hệ với Nga năm 2012 đã được nâng lên tầm mới đó là
Đối tác chiến lược toàn diện. Chúng ta cũng đưa quan hệ chiến lược của chúng ta
với Trung Quốc tiếp tục đi vào ổn định, phát triển. Quan hệ hợp tác với các đối tác
chiến lược khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Anh cũng trở nên sâu sắc hơn.
Một hiện tượng trong năm 2012 là quan hệ với các nước Mỹ Latinh được đẩy lên
rất cao. Bằng chứng là trong tổng số 31 đoàn đến Việt Nam thì 11 đoàn là lãnh đạo
của các nước Mỹ Latinh Các chuyến thăm này đã mở ra rất nhiều cơ hội để đẩy
mạnh hợp tác giữa Việt Nam với các nước Mỹ Latinh trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt
là các lĩnh vực mà hai bên có thế mạnh và nhu cầu hợp tác phát triển
• Tăng giải ngân vốn FDI và ODA:
Tính từ năm 1988 đến nay, tổng lượng vốn FDI được cấp phép đạt khoảng 243 tỷ
USD, lượng vốn của các dự án còn hiệu lực đạt khoảng 212 tỷ USD, lượng vốn

thực hiện đạt khoảng 99,5 tỷ USD. Đã có 22 nước và vùng lãnh thổ có lượng vốn
đăng ký đạt trên 1 tỷ USD, trong đó có 11 nước và vùng lãnh thổ đạt trên 5 tỷ
USD, đặc biệt có 8 đối tác đạt trên 10 tỷ USD (lớn nhất là Nhật Bản, tiếp đến là
Hàn Quốc, Đài Loan-Trung Quốc, Singapore, Quần đảo Vigin thuộc Anh,
Hongkong, Malaysia, Mỹ).
Lượng vốn ODA cam kết năm 2012 đạt 7,3 tỷ USD (cam kết cho năm 2013 đạt
gần 6,5 tỷ USD); lượng vốn giải ngân ước đạt trên 3,6 tỷ USD, đạt kỷ lục từ trước
đến nay.
• Xuất khẩu là động lực của tăng trưởng kinh tế:
Năm 2012, tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước ước đạt 114,6 tỷ USD, kim ngạch
xuất khẩu/GDP đạt trên 82%, cao nhất từ trước tới nay, cao hơn nhiều so với tỷ lệ
65,5% của năm 2006 trước khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại (WTO) và
thuộc loại cao trên thế giới
Tăng trưởng xuất khẩu đạt được ở cả 2 khu vực, trong đó khu vực doanh nghiệp
FDI so với khu vực kinh tế trong nước cao hơn về tốc độ tăng (gấp 10 lần), cả về
tỷ trọng trong tổng số (55,8% so với 44,2%).
Biểu đồ: Ước tốc độ tăng, giảm của các lĩnh vực kinh tế đối ngoại năm 2012 so với
năm 2011 (%)
(Nguồn: Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước và ước tính chuyên gia)
 Những thành tựu to lớn đạt được trong hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt
Nam những năm qua đã tạo tiền đề cho kinh tế đất nước tiếp tục tăng trưởng cao
và bền vững, hướng đến mục tiêu trở thành nước về cơ bản công nghiệp hóa theo
hướng hiện đại vào năm 2020.

IV. Khó khăn trong phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam:
Một vấn đề bao giờ cũng tồn tại tính hai mặt. Nước ta đã có một số thuận lợi nhất
định làm nền tảng cơ bản để phát triển nhanh kinh tế đối ngoại, song bên cạnh đó Việt
Nam chúng ta cũng gặp không ít những khó khăn, thách thức trong quá trình thúc đẩy
phát triển kinh tế đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế. Nếu chúng ta không có biện
pháp ứng phó, khắc phục tốt những khó khăn này thì sự thua thiệt về kinh tế, xã hội có

thể là rất lớn. Ngược lại nếu chúng ta có những chiến lược thông minh, chính sách
khôn khéo thì sẽ hạn chế được thua thiệt và dành được nhiều lợi ích cho đất nước.
Những khó khăn mà Việt Nam đã và đang phải đối mặt đến từ cả hai phía khách quan
và chủ quan.
A – Về phía khách quan:
1. Nước ta đã trở thành một trong những quốc gia hàng đầu về xuất khẩu gạo
và cà phê song đồng thời cũng phải chịu những tổn thất do giá của hàng
nông sản nói chung và gạo, cà phê nói riêng trên thế giới giảm:
Kể từ năm 1989, nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo, sau đó là cà phê với vị trí
thứ hai, thứ ba thế giới. Và đến năm 2012 khi mà Thái Lan đột nhiên rút khỏi vị trí số
1 thế giới về xuất khẩu gạo thì Việt Nam đã nghiễm nhiên trở thành quốc gia xuất
khẩu gạo hàng đầu thế giới. Song do giá cả các mặt hàng này hạ thấp liên tục từ cuối
thập kỷ 1990 đến nay đã gây cho ngành sản xuất gạo và cà phê nước ta những tổn thất
rất lớn. Thực tế của thế giới cho thấy, trong vòng vài thập kỷ gần đây, giá cả các hàng
nông phẩm và nguyên liệu bị hạ thấp liên tục và không ổn định, do những thay đổi về
công nghệ sản xuất và sử dụng cũng như những thay đổi trong cơ cấu tiêu dùng.
Trong những năm tới đây chưa có những dự báo đảm bảo chắc chắn là giá các hàng
nông sản và nguyên liệu không giảm nữa.
Vấn đề là thị trường thế giới cho đến nay gần như đã bão hòa, và sản phẩm nào
cũng đều đã có các ông chủ chiếm giữ thị phần. Nước ta là một thị trường mới nổi,
nên ta sản xuất thêm nhiều gạo, cà phê , thì người khác phải giảm sản xuất những
mặt hàng này, nếu không sẽ dẫn tới tình trạng dư thừa, cung vượt cầu, giá cả sẽ hạ,
hoặc dẫn tới những giải pháp bảo hộ thương mại. Cung về gạo và cà phê đã vượt cầu,
do đó giá liên tục giảm. Đứng trước tình trạng giá gạo và cà phê giảm, những người
sản xuất gạo và cà phê không có cách gì chống đỡ, ngoài việc phải thu hẹp sản xuất. ở
đây cung cầu của thị trường đã điều tiết giá cả và sản xuất. Người sản xuất buộc phải
thu hẹp sản xuất khi giá cả thị trường đã thấp hơn chi phí sản xuất.
Từ hai trường hợp trên đây ta có thể thấy rằng việc nghiên cứu tìm hiểu thị trường,
xác định dung lượng các thị trường, các giới hạn của thị trường và khả năng thâm
nhập tối đa của hàng Việt Nam vào các thị trường đó là một vấn đề rất quan trọng.

Nước ta đã xuất khẩu cà phê vào thị trường Mỹ mà không gặp trở ngại gì, vì người
Mỹ không trồng cà phê, nhưng giới hạn lại là tổng cầu về cà phê trên thế giới. Không
có sự nghiên cứu đánh giá chính xác tổng cầu này chắc sẽ gây ra những tổn hại cho ta
khi gia tăng quá mức một mặt hàng xuất khẩu nào đó.
2. Phát triển kinh tế đối ngoại trong điều kiện các quốc gia trên thế giới áp
dụng một số các biện pháp tinh vi hơn như hàng rào tiêu chuẩn kĩ thuật,
thuế chống bán phá giá… đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu
của Việt Nam:
Để minh họa cho trường hợp này, chúng ta hãy cùng xem xét câu chuyện về xuất khẩu
cá tra, cá basa của Việt Nam sang thị trường Mỹ.
Hoạt động xuất khẩu cá tra, basa của Việt Nam sang thị trường Mỹ được bắt đầu
từ năm 1996, sau khi lệnh cấm vận kinh tế được bãi bỏ. Cá xuất khẩu chủ yếu vào thị
trường Mỹ là sản phẩm fillet đông lạnh. Ngay sau những nỗ lực xâm nhập thị trường
Mỹ, năm 2002, lượng cá tra, cá basa fillet đông lạnh xuất khẩu từ Việt Nam vào Mỹ
bắt đầu tăng mạnh. Mỹ hiện là thị trường xuất khẩu cá tra, cá ba sa lớn thứ hai của
Việt Nam, chỉ sau các nước EU. Trong năm 2012, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này
của Việt Nam vào Mỹ đạt hơn 358 triệu USD, chiếm khoảng hơn 20% trong tổng kim
ngạch hơn 1,7 tỉ USD xuất khẩu sản phẩm này của Việt Nam.
Tuy nhiên, cũng chính từ đây, sự thành công của hoạt động xuất khẩu cá tra, cá
basa vào thị trường Mỹ lại là nguyên nhân dẫn đến vụ kiện bán phá giá đầu tiên giữa
Mỹ và Việt Nam diễn ra vào ngày 28/6/2002. Các nhà nuôi cá da trơn của Mỹ nhiều
lần tìm cách ngăn cản các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập thị trường Mỹ. Trong đó
có cả việc gây sức ép lên các cơ quan chức năng của Mỹ tạo ra các hàng rào kỹ
thuật, coi cá tra, cá ba sa của Việt Nam không phải là cá da trơn. Diện tích nuôi cá
da trơn ở Mỹ đã giảm khoảng một nửa, từ khoảng 67.000 ha mặt nước xuống còn hơn
33.000 ha. Hiệp hội Các nhà nuôi cá da trơn Mỹ (CFA) đệ trình đơn lên DOC và Ủy
ban Thương mại Quốc tế Mỹ (ITC) cáo buộc rằng, các sản phẩm cá tra, cá basa fillet
đông lạnh từ Việt Nam được bán thấp hơn giá trị hợp lý tại thị trường Mỹ, gây thiệt
hại về vật chất cho sản xuất cá da trơn Mỹ. Phía nguyên đơn trong vụ kiện là 500 trại
nuôi cá da trơn thuộc CFA và 8 DN chế biến thủy sản Mỹ. Bên bị đơn là 53 DN chế

biến thủy sản đông lạnh của Việt Nam.
Vụ kiện đã kéo dài 8 năm khi mà các trại nuôi và DN chế biến cá da trơn của Mỹ
và các DN Việt Nam không tìm được sự đồng thuận trong việc xác định giá của các
sản phẩm cá basa Việt Nam. Và đến ngày 12/8/2003, mặt hàng cá tra xuất khẩu vào
Mỹ sau một thời gian tăng trưởng mạnh mẽ đã chính thức bị áp thuế chống bán phá
giá. Mặc dù sau đó, DOC đã 2 lần tiến hành xem xét hành chính, một số DN xuất
khẩu cá của Việt Nam như: Vĩnh Hoàn, Agifish, Nam Việt… được giảm thuế nhưng
hầu hết các DN khác hiện vẫn phải chịu mức thuế suất cao, do đó ảnh hưởng rất lớn
tới khả năng tăng xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
Như vậy, tính đến năm 2012 thì đây đã là lần thứ 7 trong 8 năm liên tiếp cá tra, cá
basa Việt Nam đứng trước việc bị phía Mỹ áp đặt thuế chống bán phá giá, trong đó
Việt Nam đều là bị đơn, gây thiệt hại trực tiếp đối với lợi ích và hoạt động kinh doanh
không chỉ đối với nông dân và các nhà xuất khẩu Việt Nam, mà còn đối với cả các
DN và người tiêu dùng Mỹ. Và mới đây, ngày 14/3/2013, Bộ Thương mại Mỹ đã ra
phán quyết lựa chọn nước thứ ba để tính thuế chống bán phá giá đối với cá tra, cá ba
sa Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ. Theo đó, nước thứ 3 Bangladesh sau 8 năm được áp
dụng đã được thay bằng Indonesia. DOC vừa đưa ra phán quyết lần thứ 8 trong vụ
kiện chống bán phá giá cá tra và basa của Việt Nam vào thị trường Mỹ. Theo đó, thuế
suất đánh vào mặt hàng cá tra, cá ba sa của các doanh nghiệp Việt Nam tăng lên
70 lần. Điều này khiến các doanh nghiệp rơi vào hoàn cảnh khó khăn hơn bao giờ hết
và nguy cơ sản lượng xuất khẩu vào thị trường Mỹ sẽ giảm mạnh.
3. Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước bị ảnh hưởng nghiêm
trọng:
Tham gia vào các tổ chức, liên kết kinh tế thế giới và khu vực, nước ta phải tuân
thủ các lộ trình cắt giảm thuế quan và gỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan, đồng thời với
đó là hàng hóa nước ngoài sẽ ào ạt đổ vào nước ta, chèn ép nhiều đơn vị sản xuất kinh
doanh trong nước, kéo theo hệ quả xấu về việc làm, thu nhập và đời sống can người
lao động. Bởi hàng hóa của nước ta do kỹ thuật, công nghệ và quản lý còn kém nên
chất lượng thấp mà giá thành vẫn cao hơn so với hàng nhập. Trong khi đó, nước ngoài
với dây chuyền công nghệ hiện đại, tay nghề lao động vững vàng, vốn lớn, trình độ

quản lý cao nên sản phẩm làm ra mẫu mà đẹp, chất lượng tốt lại không bị đánh thuế
khi xuất khẩu sang thị trường Việt Nam nên giá cả rất hợp lý. Sức cạnh tranh bấp
bênh của các doanh nghiệp trong nước được thể hiện rõ.
Ví dụ: giá thành sản xuất đường trong nước khoảng 15.500 đồng/kg trong khi ở Thái
Lan thì chỉ khoảng 10.000 đồng/kg. Giá đường sản xuất ở Việt Nam luôn cao hơn giá
trung bình thế giới khoảng 100 USD/tấn. (Xem biểu đồ dưới đây)
4. Phát triển kinh tế đối ngoại ảnh hưởng đến quyền độc lập, tự chủ của quốc
gia:
Không ít ý kiến cho rằng: nước ta hiện nay với xuất phát điểm kinh tế quá thấp,
nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, thị trường phát triển chưa đồng bộ, một
bộ phận đáng kể của nền kinh tế vẫn còn chưa thoát khỏi lối sản xuất hàng hóa nhỏ,
công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh kém. Trong khi đó, các
nước đi trước nhất là các nước tư bản phát triển có lợi thế hơn hẳn về nhiều mặt. Do
đó nếu chúng ta mở rộng phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại với các nước đó thì sẽ
khó tránh khỏi bị lệ thuộc vào mặt kinh tế và từ chỗ lệ thuộc vào kinh tế sẽ dẫn đến
không giữ vững được quyền độc lập tự chủ. Trong quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ yếu
là với các quốc gia có tiềm lực mạnh, có thể chứa đựng những yếu tố tiêu cực như
muốn kìm hãm, thậm chí gây sức ép buộc Việt Nam phải thay đổi những vấn đề có
tính nguyên tắc như định hướng, mục tiêu, mục đích phát triển. ví dụ, mục đích chính
của các công ty xuyên quốc gia là lợi nhuận còn đối với Việt Nam thì vấn đề có lợi
nhuận vẫn chưa đủ, mà mục đích chính phải là vì “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh”. Trong rất nhiều trường hợp quan hệ kinh tế đã giúp tạo ra
lợi nhuận, nhưng không công bằng, một số tầng lớp dân cư được hưởng lợi nhưng lại
nảy sinh nhiều vấn đề cho xã hội nói chung. Như vậy, nếu chúng ta không nhanh
nhạy, khôn khéo trong việc xử lý các mối quan hệ kinh tế và có từng chính sách điều
chỉnh quan hệ phù hợp với từng đối tác thì rất có thể sẽ rơi vào tình trạng bị phụ thuộc
dẫn đến mất quyền độc lập tự chủ.
B – Về phía chủ quan:
1. Xuất phát điểm của nền kinh tế Việt Nam:
Ngay từ năm 1994, nhiều nhà kinh tế cũng như lãnh đạo Việt Nam đã

nói đếnnguy cơ tụt hậu xa về kinh tế. Nước ta phát triển với điểm xuất phát thấp bị
chiến tranh tàn phá nặng nề hơn nữa lại là nước có nền nông nghiệp là chủ yếu.
Thêm vào đó công nghiệp lại phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở các thành
phố lớn. Do đó sự phát triển công nghiệp ở vùng sâu vùng xa lại càng khó khăn
hơn. Hiện nay, xét trên bình diện chung thì Việt Nam chậm hơn so với các nước
NICs khoảng 30 năm, so với Thái Lan kém khoảng 20 năm và với Trung Quốc là
10 năm. Tất nhiên còn cách xa các nước phát triển lâu hơn nữa. Mặc dù chúng ta
đã có ý thức rõ rệt và những hành động tích cực nhằm thu hẹp khoảng cách này
song trên thực tế nguy cơ này không những chậm được cải thiện mà thậm chí còn
diễn ra theo hướng tiêu cực.
Mặc dù cuộc khủng hoảng tài chính 1997 nổ ra ở Thái Lan và hậu quả lan rộng
nặng nề ra các nước như Indonesia, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nga… nhưng sau khủng
hoảng các nước đã phục hồi và có sự bứt phá rất ngoạn mục (Ví dụ: Hàn Quốc đạt tốc
độ tăng trưởng GDP trên 9%, Trung Quốc trên 8% ). Trong khi Việt Nam được đánh
giá là đứng ngoài khủng hoảng nhưng tốc độ lại sụt giảm khá mạnh và sự phục hồi
xem ra rất chậm với 5,8% năm 1998 và 4,7% năm 1999 so với khoảng 9% của thời kỳ
1993 – 1997.
2. Cơ sở hạ tầng nước ta còn kém phát triển:
Các cơ sở hạ tầng cần cho hoạt động kinh tế đối ngoại là các cảng biển, đặc biệt là
cảng trung chuyển quốc tế, sân bay quốc tế, các đường cao tốc nối từ các trung tâm
kinh tế đến sân bay và cảng biển, hệ thống liên lạc, viễn thông, cung cấp điện,
• Về cảng biển, theo các chuyên gia nước ngoài, hiệu suất cảng biển Việt Nam
được xếp thứ bảy trong số 9 nước Đông Á mà họ đánh giá, Việt Nam xếp sau
Xingapo, Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, chỉ xếp trên Trung Quốc
và Inđônêxia. Phải nói thêm là phần lớn hàng xuất khẩu của Trung Quốc đều
qua cảng Hồng Kông, nên Việt Nam chỉ hơn Indonesia. Các hãng vận tải biển
nước ngoài xếp cảng Việt Nam vào nhóm độc quyền kiểu "Cácten" vì tất cả các
cảng do nhà nước sở hữu và vận hành. Nước ta chưa có cảng trung chuyển
quốc tế, nên hàng xuất khẩu của ta phải trung chuyển qua các cảng Hồng Kông,
Xingapo, làm tăng thêm chi phí khoảng 20 - 30%. Phí cảng của ta do Ban vật

giá chính phủ định hiện là rất cao, trong khi công nghệ bốc dỡ kém, quản lý lạc
hậu, thời gian giải phóng tàu lâu, càng làm tăng thêm chi phí cho người xuất
khẩu.
• Về hàng không, ta có 2 sân bay quốc tế ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh,
nhưng đều kém các sân bay quốc tế trong khu vực. Theo quy định hiện nay các
hãng hàng không nước ngoài không được phép có "quyền tự do thứ năm" trong
việc mang hàng vào và ra khỏi Việt Nam từ các điểm trung chuyển như Băng
Cốc, Hồng Kông, do vậy công suất đều thừa, không sử dụng hết. Giá vé máy
bay của ta hiện còn cao so với khu vực, cùng với tình trạng luôn phải chậm giờ
bay, hoãn chuyến càng làm giảm sức hấp dẫn của hàng không Việt Nam.
• Về đường cao tốc, nước ta mới có được vài trăm km đường cao tốc - một con
số quá bé nhỏ so với các quốc gia trong khu vực. Số lượng đường cao tốc ít ỏi
đã làm cho hàng hoá chậm đến cảng và sân bay quốc tế, làm tăng thêm chi phí
và thời gian.
• Về cung cấp điện, tiêu dùng điện theo đầu người ở nước ta hiện vào khoảng
232 Kwh, dưới mức trung bình của các nước có thu nhập thấp 363 Kwh, dưới
xa mức trung bình của các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương - 787
Kwh. Tình trạng bị cắt điện và tăng giảm điện áp đã gây thiệt hại đáng kể cho
các nhà máy sản xuất hàng xuất khẩu. Giá điện của Việt Nam bán cho các nhà
sản xuất được xếp vào loại cao so với khu vực.
• Về liên lạc, viễn thông, tuy đã có nhiều tiến bộ, nhưng còn những hạn chế sau:
giá dịch vụ viễn thông quá đắt so với khu vực; giá thuê bao đường truyền được
quốc tế đánh giá là cực kỳ cao với nhiều thủ tục phiền hà; tốc độ truy cập
Internet quá chậm; thương mại điện tử không phát triển.
Các cơ sở hạ tầng của kinh tế đối ngoại có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự
phát triển hiệu quả của nó. Người ta đã tính rằng có đến trên 70% những khác biệt về
giá trị xuất khẩu trên đầu người là phụ thuộc vào trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng.
Nếu không có đủ cảng, sân bay quốc tế, điện, đường thì có nghĩa là chỉ có một bộ
phận dân cư tham gia kinh tế đối ngoại
Những yếu tố của cơ sở hạ tầng không những phải được xây dựng hiện đại mà

còn phải đồng bộ, và trong một thời hạn càng ngắn càng tốt. Chỉ cần một trong các
yếu tố trên khiếm khuyết cũng đủ gây tổn hại cho các hoạt động kinh tế đối ngoại. Và
nếu chúng được xây dựng với một thời hạn quá dài hàng chục năm, trong khi các cam
kết hội nhập quốc tế của ta có thời hạn ngắn hơn, thì như vậy chúng ta sẽ bỏ lỡ thời cơ
tận dụng những lợi thế do các cam kết quốc tế mang lại.
Kinh doanh cơ sở hạ tầng trong nhiều năm trước đây thường do các công ty nhà
nước độc quyền đảm nhận, kể cả ở các nước phương Tây. Nhưng thực tế cho thấy tình
trạng độc quyền của các công ty nhà nước đã dẫn tới những hậu quả tiêu cực - chi phí
cao, phiền hà, lãng phí, tham nhũng…
3. Tình trạng bảo hộ mậu dịch vẫn còn khá cao:
Khung thuế nhiều và nhiều mặt hàng nhập khẩu còn chịu mức thuế cao: mặt hàng
rượu ngoại vẫn chịu thuế suất 40 – 50%; mặt hàng điện tử giá trị cao vào khoảng 50 -
75%; mặt hàng ô tô……… Chỉ có 20% số dòng thuế được áp dụng mức thuế dưới
5%. Việc hoàn thuế cho các hàng hoá nhập để xuất có quá nhiều thủ tục phức tạp
phiền hà và kém hiệu lực. Các biện pháp phi thuế quan nhằm bảo hộ mậu dịch vẫn
còn được áp dụng đối với nhiều lĩnh vực, đặc biệt là sự quản lý của các bộ chuyên
ngành. Hàng rào bảo hộ mậu dịch cao này tưởng như chỉ có tác dụng ngăn chặn các
dòng hàng nhập khẩu, nhưng trên thực tế chúng đã tác động tiêu cực tới toàn bộ hoạt
động kinh tế đối ngoại. Vì khi đánh thuế cao vào các hàng hoá nhập khẩu, giá bán của
chúng và các hàng hoá liên quan ở trong nước đã tăng lên. Các nhà xuất khẩu phải sử
dụng các hàng hoá giá cao này, công nhân viên của họ cũng phải tiêu dùng các hàng
hoá nhập khẩu giá cao, mà mức cao giá này ước tính vào khoảng 20 - 100% tuỳ theo
mặt hàng. Do vậy đã đẩy chi phí của các hàng xuất khẩu tăng lên, giảm khả năng cạnh
tranh của chúng, và tác động xấu đến xuất khẩu. Hàng rào bảo hộ mậu dịch cao chỉ
khuyến khích sản xuất thay thế nhập khẩu, FDI cũng tự nhiên phải theo hướng này,
trong khi thị trường nội địa của ta nhỏ bé và ngày càng bão hoà, do vậy FDI không
tăng lên được và thậm chí đã chậm lại. Hàng rào bảo hộ còn ảnh hưởng xấu tới cả du
lịch, vì giá cả tiêu dùng ở Việt Nam cao, không hấp dẫn khách du lịch.
4. Chi phí sản xuất của ta nói chung còn cao hơn một số nước trong khu vực,
do đó sức cạnh tranh bị giảm nhiều:

Chi phí sản xuất phụ thuộc vào các yếu tố: thuế nhập khẩu, thuế doanh thu, VAT ,
các phụ phí, tiền lương, giá các dịch vụ, công nghệ được sử dụng
Thuế nhập khẩu, kể cả hàng rào phi thuế quan, của nước ta hiện nay có lẽ ở vào
hàng cao nhất khu vực, cao hơn cả Trung Quốc, trong khi mức thuế quan của nhiều
quốc gia Đông Á hiện chỉ còn vào khoảng 4 - 6%. Thuế doanh thu của ta ở mức 20-
30%, cũng vào hàng cao nhất khu vực. Thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, phụ thu
đều ở mức cao. Thuế thu nhập đối với người nước ngoài của ta hiện ở mức cao nhất
trong khu vực, là 50%, trong khi ở Inđônêxia là 30%, ở Thái Lan là 37%, ở Trung
Quốc là 45%. Mức thuế thu nhập cao này đã làm cho người nước ngoài không muốn
làm việc ở Việt Nam.
Tính chung chi phí lao động của nước ta hiện nay tương tự với Indonexia, và thấp
hơn các nước ASEAN-4, nhưng mức thấp này đã giảm dần.
Giá các dịch vụ như liên lạc, viễn thông, hàng không, điện, nước đều ở mức cao:
- Chi phí điện cao hơn 4 nước ASEAN: Singapore, Malayxia, Thái Lan, Indonesia.
- Giá nước cao hơn Philipin và gần ngang với Malayxia, Thái Lan.
- Chi phí liên lạc, viễn thông vào loại cao nhất khu vực.
- Chi phí vận tải hàng không, đường biển cao hơn cả Trung Quốc.
Công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp Việt Nam khá lạc hậu so với các
quốc gia khác trong khu vực. Ví dụ, xí nghiệp sản xuất xi măng Sao Mai do nước
ngoài đầu tư sản xuất ở nước ta 1 tấn xi măng chi phí 12 USD, trong khi các xí nghiệp
sản xuất xi măng của ta chi phí 26 USD.
 Chi phí sản xuất của ta cao như vậy, nên khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam
bị giảm thiểu cả ở thị trường trong lẫn ngoài nước.
5. Chính sách tiền tệ và tín dụng hỗ trợ hoạt động kinh tế đối ngoại còn yếu:
Tỷ giá giữa đồng VN với USD và các đồng tiền khác tuy đã được nhiều lần điều
chỉnh kể từ 1996, nhưng hiện vẫn còn cao. Theo một số chuyên gia nước ngoài, mức
cao này khoảng trên 10%, và đã tác động tiêu cực đến hàng xuất khẩu của Việt Nam
vào thị trường ASEAN, Nhật Bản và Liên minh châu Âu, trừ Trung Quốc và Mỹ.
Đồng VN cao giá và chưa do thị trường đích thực xác định đã tác động xấu không chỉ
tới xuất khẩu mà cả tới FDI và du lịch. Đồng tiền Việt Nam cho đến nay, chưa có thể

chuyển đổi tự do. Trong khi tổng giá trị xuất nhập khẩu của nước ta đã ngang bằng
tổng GDP, thì đây là một vấn đề rất bất lợi. Buôn bán quốc tế lớn đến thế, mà đồng
tiền không chuyển đổi tự do được, có nghĩa là các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu của
ta phải chịu các chi phí chuyển đổi tiền với thủ tục phiền hà và tốn kém thời gian. Đã
thế họ còn phải chịu thiệt do quy định về kết hối ngoại tệ, tiền của họ thu được do xuất
khẩu, khi nhập khẩu cần ngoại tệ lại phải xin phép ngân hàng cấp.
Các hoạt động kinh tế đối ngoại từ xuất nhập khẩu, du lịch đến đầu tư nước ngoài
đều cần đến những nguồn vốn to lớn. Không có đủ vốn, cũng có nghĩa là kinh tế đối
ngoại không hoạt động được. Những nguồn vốn này hiện đang dư thừa cả trong và
ngoài nước. Hàng năm, hàng tỷ USD tiền gửi tiết kiệm đã không sử dụng được ở
trong nước phải gửi ra các ngân hàng ở nước ngoài, nếu tính cả số tiền gửi ra nước
ngoài qua các kênh không chính thức thì số tiền đó còn lớn hơn. Nguồn vốn tích trữ
trong dân dưới nhiều dạng của cải khác nhau còn khá lớn. Nguồn vốn dư thừa trên thế
giới phải tính đến hàng ngàn tỷ USD. Vấn đề là chúng ta chưa có một cơ chế thích
hợp để thu hút nguồn vốn này cho hoạt động kinh tế đối ngoại.
Cơ chế và bộ máy huy động và phân bổ các nguồn vốn của nước ta hiện quá lạc
hậu và vẫn theo cơ chế mệnh lệnh và bao cấp. Các ngân hàng thương mại quốc
doanh là những chủ thể huy động và cho vay các nguồn vốn trong nước nhưng họ vẫn
phải hoạt động theo chỉ lệnh là chính, các ngân hàng cổ phần nhỏ bé, các ngân hàng
nước ngoài hoạt động rất hạn chế. Thị trường vốn trong nước mới manh nha và còn
nhỏ bé. Việc huy động và phân bổ vốn ở nước ta hiện chủ yếu vẫn do các ngân hàng
thương mại quốc doanh đảm nhận với rất nhiều hạn chế. Các ngân hàng này yếu đến
mức không cung ứng được các yêu cầu về vốn cho các doanh nghiệp hoạt động phục
vụ nhu cầu nội địa, nói gì đến các nhu cầu của kinh tế đối ngoại
Hơn nữa, hoạt động kinh tế đối ngoại đòi hỏi các ngân hàng cung ứng phải am
hiểu thị trường thế giới, phải dám chấp nhận rủi ro, phải có năng lực không những
thẩm định các dự án cho vay, mà còn đưa ra được các dự án kinh doanh đối ngoại có
hiệu quả thích hợp với các nhà đầu tư. Các ngân hàng thương mại của ta, kể cả ngân
hàng ngoại thương, nói chung đã không có được những khả năng đó. Hơn nữa, những
quy định về thế chấp hiện hành là một hạn chế lớn đối với việc cung ứng vốn cho hoạt

động kinh tế đối ngoại.
 Những hạn chế trên đây cho thấy, nếu không sớm đổi mới, khai thông các
luồng vốn cung cứng cho hoạt động kinh tế đối ngoại, thì khó có thể đáp ứng
được yêu cầu vốn để mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại.
6. Vấn đề về hàng xuất khẩu:
Điều đáng chú ý là tỷ lệ hàng chế biến xuất khẩu có xu hướng tăng dần nhưng tỷ lệ
hàng xuất khẩu thô vẫn là chủ yếu, chiếm tới 60% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nước ta
chủ yếu vẫn xuất khẩu các mặt hàng thô, ít hàm lượng khoa học kỹ thuật như: nông
sản, dệt may, da giày… Tỷ lệ cao này cho thấy trình độ công nghệ của các doanh
nghiệp, của ngành kinh tế còn thấp kém. Bên cạnh đó, hình thức xuất khẩu chủ yếu
của các mặt hàng công nghiệp chủ yếu là gia công lắp ráp cho nước ngoài…Hàm
lượng hàng nội địa còn thấp, chưa tạo được sự liên kế từ khâu cung cấp nguyên liệu
cho đến khâu sản xuất ra thành phẩm và xuất khẩu.
7. Các ngành dịch vụ chưa thực sự phát triển:
Các ngành dịch vụ, theo cách tính của WTO, hiện có khoảng 155 ngành, bao gồm
các hoạt động ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, viễn thông, hàng không, du lịch, tư
vấn Ở các nước phát triển, các ngành dịch vụ đã chiếm khoảng 60 - 70% GDP. Vai
trò của nó cực kỳ quan trọng đối với toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là
trong thời đại chuyển sang nền kinh tế tri thức. Ở nước ta các ngành dịch vụ hiện đại
rất kém phát triển. Không những thế, quan niệm của xã hội ta vẫn xem trọng sản xuất
vật chất hơn dịch vụ, vẫn có xu hướng tập trung các nguồn lực cho sản xuất vật chất,
kể cả các nguồn lực bên ngoài. Sản xuất vật chất là quan trọng, không ai phủ nhận,
nhưng tầm quan trọng của nó không thể lấn át dịch vụ. Nếu ta tập trung đầu tư vào sản
xuất thép, xi măng nhưng không đầu tư thích đáng vào các dịch vụ tài chính, ngân
hàng, bảo hiểm, tư vấn thì sản xuất thép, xi măng sẽ rơi vào tình trạng chi phí cao,
chất lượng thấp, thiếu thị trường Một nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chỉ được
khuyến khích đầu tư vào sản xuất vật chất khi họ bí, cần tư vấn không có, cần vay vốn
lại khó khăn, cần bảo hiểm lại quá phức tạp, cần liên lạc viễn thông lại quá đắt Do
vậy đã có nhà đầu tư nước ngoài nhận xét rằng phải có lòng dũng cảm mới dám đầu tư
vào Việt Nam. Môi trường dịch vụ hoạt động kém là một cản trở lớn đối với các

nhà đầu tư từ các nước phát triển, vì họ đã quen với môi trường đầu tư có hoạt động
dịch vụ rất tốt. Điều đó giải thích tại sao các nhà đầu tư Âu, Mỹ, Nhật lại do dự khi
đầu tư vào Việt Nam.
8. Cơ cấu nhập khẩu chưa mang lại hiệu quả cho sự phát triển của nền kinh
tế:
Cơ cấu nhập khẩu của mỗi nước khác nhau có thể khác nhau tùy theo trình độ phát
triển và các điều kiện lịch sử kinh tế, văn hóa, tự nhiên khác nhau. Trong điều kiện
hiện nay, cơ cấu này phải phù hợp với cơ cấu xuất khẩu, phù hợp với nhu cầu của thị
trường thế giới và trong nước. Nghĩa là nó phải nhập những thứ để có thể sản xuất, gia
công và xuất khẩu có hiệu quả và do vậy đương nhiên là có thể đáp ứng nhu cầu thay
thế nhập khẩu.
Một cơ cấu nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu thay thế nhập khẩu sẽ rất khó đáp
ứng cho yêu cầu xuất khẩu. Song dù khác nhau thế nào đi nữa, thì một cơ cấu nhập
khẩu có hiệu quả và hiện đại thường bao gồm 5 nhóm hàng hóa sau: bằng phát minh
sáng chế; máy móc thiết bị; nguyên nhiên vật liệu; hàng tiêu dùng và dịch vụ. Cơ cấu
nhập khẩu của các nước phát triển thường có đủ cả 5 nhóm hàng hóa trên đây, tuy có
thể khác nhau về tỷ trọng. Cơ cấu nhập khẩu của các nước đang và kém phát triển
thường chỉ bao gồm 3 nhóm hàng hóa: máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu và
hàng tiêu dùng. Có rất ít nước đang phát triển có một cơ cấu nhập khẩu đủ cả 5 nhóm
hàng hóa. Cơ cấu nhập khẩu có 3 nhóm hàng hóa là một cơ cấu chỉ phù hợp với nền
kinh tế hướng nội, thay thế nhập khẩu. Ở những nước này, người ta nhập máy móc
thiết bị cùng với nguyên nhiên vật liệu trong nước không có để sản xuất ra hàng hoá
tiêu dùng trong nước cần; và để có tiền nhập khẩu, những nước này đã xuất khẩu tài
nguyên của họ như: dầu mỏ, các loại quặng, nông, lâm, hải sản Cần lưu ý là nếu chỉ
dùng ngoại tệ do xuất khẩu tài nguyên để mua máy móc thiết bị, công nghệ, thì
thường rơi vào tình thế phải mua máy móc thiết bị cũ - đất nước sẽ thành “bãi thải
công nghệ". Cơ cấu nhập khẩu có đủ 5 nhóm hàng hóa sẽ phù hợp với hướng xuất
khẩu và hội nhập quốc tế, bởi vì nhờ có nhập khẩu bằng phát minh sáng chế và dịch
vụ, nên các máy móc thiết bị và nguyên vật liệu nhập khẩu được sử dụng có hiệu quả,
có sức cạnh tranh quốc tế. Nhật Bản là một ví dụ nổi bật. Năm 1950, Nhật Bản chưa

phải là một nước phát triển, chưa có các công nghệ nguồn, nên Nhật Bản đã thực thi
chính sách chú trọng nhập khẩu kỹ thuật nước ngoài. Trong thời kỳ 1950 - 1974 tổng
số vụ nhập khẩu kỹ thuật của Nhật Bản là 15.289, trong đó gần 70% từ Mỹ, do vậy tỷ
trọng hàng chế tạo theo bằng sáng chế phát minh nước ngoài của Nhật Bản đã ở mức
cao nhất thế giới và tính đến năm 1968, nhờ nhập khẩu kỹ thuật và các dịch vụ cần
thiết, Nhật Bản đã tiết kiệm được trên 100 tỷ USD và đưa ngành công nghiệp chế tạo
của Nhật Bản lên ngang tầm thế giới.
Cơ cấu nhập khẩu của nước ta hiện là cơ cấu nhập khẩu 3 nhóm hàng hóa - máy
móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu và hàng tiêu dùng; hầu như không có nhập khẩu
bằng phát minh sáng chế và dịch vụ. Trong ba nhóm hàng hoá trên, nhóm hàng tiêu
dùng thường chiếm một tỷ trọng nhỏ và giảm dần trong những năm gần đây. Năm
1995, hàng tiêu dùng còn chiếm 15,2% tổng giá trị nhập khẩu, nhưng đến năm 2001,
đã giảm xuống chỉ còn 5,3%. Trong nhiều năm ta tỏ ra rất yên tâm về cơ cấu nhập
khẩu này, vì cho rằng ta chỉ nhập máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu cần cho
phát triển sản xuất trong nước. Một cơ cấu cần cho phát triển sản xuất trong nước hẳn
phải là một cơ cấu tiến bộ. Song thực tế đã không hẳn như vậy. Việc ta chỉ nhập khẩu
ít hàng tiêu dùng - khoảng 10% tổng giá trị nhập khẩu - là điều không bình thường.
Thường các nước ở trình độ phát triển thấp như ta, kể cả Nhật Bản thời kỳ những năm
1950, tỷ lệ nhập khẩu hàng tiêu dùng cũng vào khoảng 20% tổng giá trị hàng nhập
khẩu. Ở nước ta, vì nhập khẩu hàng tiêu dùng chính thức chịu mức thuế cao và nhiều
cấm đoán, nên tình trạng buôn lậu mới trở thành quốc nạn, và kèm theo nó là nạn
tham nhũng. Nếu cộng cả giá trị hàng nhập lậu nữa, thì tỷ trọng nhập khẩu hàng tiêu
dùng chắc đã không kém 20% tổng giá trị nhập khẩu.
Việc ta không nhập khẩu bằng phát minh sáng chế là một khiếm khuyết lớn.
Nước ta chỉ xuất khẩu dầu thô, nông hải sản, khó đủ vốn mua được máy móc thiết bị
hiện đại, do vậy phải mua máy móc thiết bị cũ - xuất hiện nguy cơ biến nước ta thành
"bãi thải công nghệ cũ". Do ta không nhập bằng phát minh sáng chế để hiện đại hóa
các máy móc cũ, nên phải dùng máy móc cũ, công nghệ lạc hậu, tiêu xài nhiều
nguyên, nhiên liệu vật liệu nhập khẩu - làm gia tăng chi phí. Ta cũng không nhập khẩu
các dịch vụ cần cho phát triển công nghiệp như các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo

hiểm, viễn thông, tư vấn v.v nên các máy móc thiết bị và nguyên nhiên vật liệu nhập
khẩu về được sử dụng càng kém hiệu quả.
Lý thuyết kinh tế học hiện đại chú trọng xuất khẩu để thu ngoại tệ, nhưng cũng
đặc biệt chú trọng nhập khẩu - nhập khẩu những thứ để có thể hiện đại hóa kinh tế đất
nước và phù hợp với định hướng xuất khẩu.
 Những phân tích trên đây cho thấy nước ta đã đến lúc phải đổi mới cơ cấu nhập
khẩu, và phải từ đổi mới cơ cấu nhập khẩu mới có thể đổi mới được cơ cấu
xuất khẩu.
9. Trình độ chuyên môn của lao động còn thấp và đang mất dần lợi thế về lao
động giá rẻ:
• Tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp, trong khi các nước NICs có tỷ lệ rất cao,
thường gấp 2,5 - 3 lần Việt Nam (60 - 70%). Như vậy, tỷ lệ lao động qua đào
tạo ở Việt Nam ( 24,8% - năm 2005) chưa đạt chỉ tiêu của một nước công
nghiệp ở trình độ thấp. Đến năm 2009 tỷ lệ LĐ qua đào tạo đã tăng lên khoảng
38% nhưng ngay cả số đã qua đào tạo thì cơ cấu cũng còn nhiều điểm chưa hợp
lý.
Cơ cấu trình độ 1979 1989 1999 2005
CĐ, ĐH trở lên /
Trung cấp / Công
nhân kĩ thuật
1 / 2,17 /
3,06
1 / 1,74 /
2,13
1 / 1,14 /
1,36
1 /
0,82 /
2,88
• Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam đang rất thiếu lao

động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao và chất lượng nguồn
nhân lực Việt Nam cũng thấp hơn so với nhiều nước khác. Nếu lấy thang điểm
là 10 thì chất lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm (xếp thứ 11/12
nước Châu Á tham gia xếp hạng của WB) trong khi Hàn Quốc là 6,91; Ấn Độ
là 5,76; Malaysia là 5,59; Thái Lan là 4,94
• Theo số liệu của Hiệp hội Da giày, túi xách Việt Nam (Lefaso), mức lương
bình quân của lao động ở Việt Nam khoảng 100 - 150 USD/tháng, đứng sau
lương lao động tại Trung Quốc từ 120 - 180 USD/tháng. Trong khi đó, mức
lương của Ấn Độ 100 - 120 USD/tháng, Indonesia 70 - 100 USD/tháng,
Bangladesh là 50 – 70 USD/tháng. So sánh mức chênh lệch trên, giá sản xuất
tại Việt Nam kém cạnh tranh so với nhiều nước khác, chưa kể sức ép tăng
lương với doanh nghiệp vẫn còn.
Tại một số ngành như chế biến thực phẩm, y tế, xây dựng, vận tải, hóa chất, dệt
có tình trạng lao động thiếu hụt kỹ năng nghiêm trọng. Lợi thế về chi phí nhân
công thấp khi hoạt động tại Việt Nam đang dần mất đi sức hấp dẫn với các nhà
đầu tư nước ngoài.
10. Doanh nghiệp Việt Nam chưa ý thức bảo vệ thương hiệu và chưa có nhiều
kinh nghiệm trong giao thương quốc tế:
Từ sau hàng loạt vụ kiện quốc tế, cụ thể sau vụ tranh chấp thương hiệu cá ba sa
với Mĩ… các nhà doanh nghiệp Việt Nam đã nhận ra rằng chìa khoá duy nhất mở
cánh cửa đưa hàng hoá Việt Nam thâm nhập thị trường quốc tế và cạnh tranh trên sân
nhà là: "Thương hiệu".
Trên thị trường quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu mạnh các mặt
hàng tiêu dùng, nông thủy hải sản, thực phẩm, … với chất lượng không thua kém với
các sản phẩm quốc tế. Tuy nhiên, khoảng 90% sản phẩm Việt Nam vào thị trường thế
giới hầu hết thông qua trung gian dưới dạng thô hoặc gia công cho các thương hiệu
nước ngoài. Do đó, hình ảnh thương hiệu Việt Nam thường mờ nhạt đối với khách
hàng nước ngoài. Chưa kể một số thương hiệu Việt Nam thường phải đối phó với
những tranh chấp thương hiệu trên thị trường thế giới (trường hợp của cà phê Trung
Nguyên, thuốc lá Vinataba, bánh phồng tôm Sa Giang, giày dép Biti’s, nước mắm Phú

Quốc…)

 Trong thời gian gần đây, nhận thức được tầm quan trọng của thương hiệu đối với
hoạt động sản xuất kinh doanh, một số doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu quan tâm
đến việc xây dựng thương hiệu và bảo hộ thương hiệu trên thị trường toàn cầu (Phở
24, bưởi Năm Roi, …). Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam chưa có nhận
thức đầy đủ và đúng mức về vấn đề xây dựng thương hiệu một cách lâu dài và phát
triển thương hiệu bền vững trong môi trường cạnh tranh và kinh doanh toàn cầu. Theo
một điều tra gần đây của Dự án hỗ trợ Doanh nghiệp về năng lực xây dựng và quảng
bá thương hiệu, với mẫu 500 doanh nghiệp trên toàn quốc thì có đến 25 – 30% doanh
nghiệp không hề đầu tư vào việc xây dựng thương hiệu, trên 70% có đầu tư nhưng
không toàn diện, đầy đủ ở mức dưới 5%.

Bài học từ thương hiệu thuốc lá “VINATABA”:
Năm 2002, Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam (Vinataba) đã bị Công ty Sumatra (trụ
sở chính tại Indonesia) kiện vì đã bán sản phẩm thương hiệu Vinataba tại thị trường
Lào và Campuchia. Sau một thời gian tìm hiểu, Vinataba mới biết rằng, thương hiệu
của mình đã bị “đánh cắp”, vì Sumatra đã “nhanh chân” đăng ký tên sản phẩm mà
chẳng có một bao thuốc lá nào bán ra thị trường. Vì vậy, để thương hiệu được công
nhận tại hai thị trường trên, Vinataba đã phải bỏ ra hàng tỷ đồng để tham gia “cuộc
chiến pháp lý”. Tuy nhiên, với những thị trường xa, Vinataba đành phải nhượng
quyền sở hữu thương hiệu (do chi phí cho việc giành lại thương hiệu quá tốn kém).
Ngoài ra, còn một số khó khăn khác như hệ thống luật pháp chồng chéo, không minh
bạch; ý thức trách nhiệm của người lao động còn lỏng lẻo; hiệu quả kinh doanh của
một bộ phận doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp nhà nước còn rất yếu kém; bộ máy
quản lý nhà nước yếu kém, quan lieu, tham nhũng…
 Những khó khăn nói trên không chỉ hoàn toàn là những thách thức mà nó còn chứa
đựng các yếu tố tích cực, bởi vì thông qua việc phải đối mặt với những khó khăn đó
mà chúng ta sẽ tìm ra được những giải pháp hữu hiệu nâng cao sức cạnh tranh của
hàng hóa dịch vụ đồng thời các doanh nghiệp Việt Nam sẽ trở nên năng động hơn,

hoạt động có hiệu quả hơn trong điều kiện chúng ta đang tập trung phát triển kinh tế
đối ngoại.
V. Giải pháp:
1. Những thay đổi trong chính sách kinh tế và pháp luật:
Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu và toàn diện, trọng tâm là xây
dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Cải thiện mạnh mẽ
môi trường đầu tư, kinh doanh theo hướng cạnh tranh bình đẳng, tạo thuận lợi cho sự
phát triển của các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nhằm thu hút
và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước, coi đó là động lực
quan trọng để giải phóng và phát huy mọi nguồn lực còn tiềm tàng của đất nước. Theo
hướng này, Nhà nước cần đưa ra một chương trình tổng thể xây dựng môi trường cạnh
tranh ở Việt Nam. Chương trình này cần đề cập trên nhiều phương diện: chính sách
thương mại, chính sách tiếp cận các nguồn vốn, chính sách sử dụng đất, cải cách khu
vực doanh nghiệp nhà nước, phát triển khu vực tư nhân, cải cách chính sách tài chính
– tiền tệ (chính sách thuế, tái cơ cấu và đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống
ngân hàng, phát triển thị trường chứng khoán…).
2. Đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng:
Trong thời gian trước mắt, ta phải tập trung đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng cần
thiết cho kinh tế đối ngoại như: vệ tinh viễn thông, hệ thống đường cáp quang truyền
dẫn; xây dựng một cảng trung chuyển quốc tế, hiện đại hoá các sân bay quốc tế; mở
rộng các đường cao tốc ở các vùng trọng điểm; tăng cường việc xây dựng các nhà
máy điện và hiện đại hoá hệ thống truyền dẫn, giảm tiêu hao thất thoát điện; gia tăng
các cơ sở sản xuất nước và hiện đại hoá hệ thống cung cấp nước
Cần phải có hàng chục tỷ USD để xây dựng những cơ sở hạ tầng trên đây. Vốn
ngân sách nhà nước, kể cả nguồn vốn ODA cũng không thể đủ đáp ứng các nhu cầu to
lớn này. Do vậy cần phải có quy hoạch tổng thể về cơ sở hạ tầng, nhà nước có thể tạm
thời chuyển vốn đầu tư xây dựng các nhà máy sản xuất công nghiệp sang xây dựng cơ
sở hạ tầng. Mở rộng các hình thức huy động vốn đa dạng, cần có chính sách để mọi
thành phần kinh tế có thể tham gia kinh doanh cơ sở hạ tầng. Ngay những nước giàu
như Mỹ, Nhật, nhà nước cũng không đủ tiền xây dựng các cơ sở hạ tầng, mà phải huy

động các thành phần kinh tế khác. Nước ta nghèo hơn nên càng phải sử dụng các
thành phần ngoài nhà nước. Do vậy trong những năm gần đây, xu hướng cho phép
khu vực tư nhân tham gia kinh doanh hạ tầng cơ sở đã ngày càng phổ biến ở nhiều
nước. Hiện ta đã cho phép một số công ty nước ngoài xây dựng các nhà máy điện
dưới hình thức BOOT (xaa, có thể cần phải mở rộng hơn hình thức này sang nhiều
lĩnh vực khác.
3. Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp:
Chúng ta cần có một lộ trình hội nhập quốc tế chủ động và tích cực phù hợp với thực
tế. Lộ trình này một mặt tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tự vươn lên,
mặt khác dùng sức ép của việc giảm dần hàng rào bảo hộ để buộc các doanh nghiệp
phải vươn lên, nếu không sẽ bị đào thải. Thực tế lịch sử cho thấy các doanh nghiệp, kể
cả doanh nghiệp tư nhân, không mấy khi tự đổi mới để vươn lên, mà thường chỉ đổi
mới khi có sức ép bên ngoài đặt họ trước sự lựa chọn - hoặc phải phá sản hoặc phải
đổi mới. Một lộ trình hội nhập quốc tế tích cực, giảm hàng rào bảo hộ chính là sức ép
cần thiết bên ngoài đó.
4. Khai thông các nguồn vốn cung ứng cho hoạt động kinh tế đối ngoại:

×