SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH YÊN BÁI
TRƯỜNG THPT HUYỆN VĂN CHẤN
BÁO CÁO SÁNG KIẾN CẤP CƠ SỞ
(Lĩnh vực: Ngữ văn)
TÊN SÁNG KIẾN
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP, KĨ THUẬT DẠY HỌC
VÀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIỜ HỌC NGỮ VĂN
CHO HỌC SINH LỚP 10 TẠI TRƯỜNG THPT HUYỆN VĂN CHẤN
Tác giả: Vũ Thị Toan
Trình độ chun mơn: Thạc sĩ
Chức vụ: Phó Hiệu trưởng
Đơn vị cơng tác: THPT Văn Chấn
Văn Chấn, ngày 20 tháng 1 năm 2022
I. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: “Một số phương pháp, kĩ thuật dạy học và kiểm tra, đánh
giá theo định hướng phát triển năng lực nhằm nâng cao chất lượng giờ
học Ngữ văn cho học sinh lớp 10 tại trường THPT huyện Văn Chấn”.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Ngữ văn, lớp 10
3. Phạm vi áp dụng sáng kiến: Đối tượng áp dụng là học sinh lớp 10 của trường
THPT huyện Văn Chấn.
4. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ tháng 9 năm 2020 đến tháng 12 năm 2021.
Và sáng kiến có thể áp dụng ở bất cứ thời gian nào khi giáo viên giảng dạy
chương trình Ngữ văn 10.
5. Tác giả
- Họ và tên: Vũ Thị Toan
- Sinh ngày 22 tháng 04 năm 1981
- Trình độ chun mơn: Thạc sĩ
- Chức vụ cơng tác: Phó Hiệu trưởng
- Nơi làm việc: Trường THPT huyện Văn Chấn - Văn Chấn - Yên Bái
- Địa chỉ liên hệ: Trường THPT huyện Văn Chấn - Văn Chấn - n Bái
- Điện thoại: 0984.905.159
6. Đồng tác giả: Khơng
II. MƠ TẢ GIẢI PHÁP SÁNG KIẾN
1. Tình trạng các giải pháp đã biết
1.1. Hiện trạng trước khi áp dụng giải pháp mới
Trong xu hướng tồn cầu hóa, quốc tế hóa hiện nay, con người được xem
là nhân tố chính của sự phát triển. Xã hội càng phát triển, nhu cầu về nguồn lực
con người càng tăng càng đòi hỏi chất lượng dạy và học cần phải được nâng cao.
Hội nghị lần thứ 8, BCH TW khoá XI ngày 04/11/2013 đã ra Nghị quyết số 29–
NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo với quan điểm chỉ
đạo: “Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức
sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với
hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia
đình và giáo dục xã hội”. Theo đó, nghị quyết cũng đã nêu rõ nhiệm vụ và giải
pháp cho giáo dục trong thời kì mới là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp
dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và
vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một
chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự
học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển
năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa
dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”. Để thực hiện
tốt và có hiệu quả nhiệm vụ này nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới toàn diện, căn
bản của ngành giáo dục nước ta hiện nay thì một trong những yếu tố quan trọng
NNH
2
góp phần làm nên thắng lợi là đổi mới phương pháp giảng dạy theo định hướng
phát triển năng lực học sinh.
Phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá năng lực học văn của học sinh
ở các trường phổ thông hiện nay thực sự vẫn còn nhiều vấn đề trăn trở, cần quan
tâm và thay đổi. Với các văn bản văn học, giáo viên chủ yếu hướng dẫn học sinh
tiếp nhận văn bản bằng cách “giảng văn” cho học sinh nghe là chính. Nghĩa là,
giáo viên thường đọc kĩ văn bản, nói ra cho học sinh nghe cái hay, cái đẹp của
văn bản theo cách hiểu của mình hoặc cách hiểu của các nhà phê bình văn học
nổi tiếng cho học sinh (thể hiện qua sách giáo viên và các tài liệu tham khảo).
Học sinh thường nghe và ghi chép lại những điều giáo viên nói để làm tư liệu
cho viết văn nghị luận văn học. Trong dạy học văn học theo lối giảng văn, giáo
viên thường sử dụng phương pháp giảng bình/phân tích để diễn tả những cảm
nhận của bản thân về văn bản. Ngay cả khi vấn đề “Đọc - hiểu” và “Dạy học đọc
hiểu” đã được đặt ra với chương trình 2006 thì người “Đọc - hiểu” ở trường phổ
thông chủ yếu vẫn là giáo viên. Hoạt động đọc của học sinh trong giờ Đọc - hiểu
văn bản văn học thường chỉ dừng lại ở chỗ đọc thành tiếng, đọc diễn cảm. Phần
lớn thời gian của giờ học, nhất là ở những khối lớp của cấp trung học phổ thông,
giáo viên thường “Đọc hộ”, “Cảm thụ hộ” học sinh bằng việc nêu lên hệ thống
nội dung của bài học (đã được chuẩn bị sẵn trong giáo án) và đưa ra những câu
hỏi hướng vào việc làm sáng tỏ những nội dung ấy. Do áp lực thi cử nên trong
nhiều giờ học, nhiệm vụ chính của giáo viên là giảng văn, “Đọc – chép”, “Chiếu
– chép”, nhiệm vụ của học sinh là “Nghe – chép” hoặc “Nhìn – chép”...Ở đây
cần phải hiểu rằng, việc dạy học theo hình thức “giảng văn“ khơng có gì đáng
lên án bởi nó vẫn có giá trị nhất định. Tuy nhiên, trong thời đại hiện nay, nếu
vẫn độc tơn phương pháp này thì việc dạy học văn học ở trường phổ thông chưa
đáp ứng mục tiêu hình thành và phát triển năng lực cho học sinh theo chương
trình giáo dục phổ thơng 2018.
Bên cạnh đó, ở nhiều trường phổ thơng hiện nay, dạy học văn học chủ yếu
nghiêng về hướng dẫn học sinh tiếp nhận văn bản, chưa chú trọng đến việc
hướng dẫn học sinh tạo lập văn bản văn học (Bao gồm sáng tác văn học và viết
văn để bày tỏ những suy nghĩ, cảm xúc riêng, độc đáo của cá nhân). Mặc dù
“Sáng tác văn học” đòi hỏi học sinh phải có năng khiếu và đây khơng phải là
mục tiêu chính của dạy văn học, nhưng việc hạn chế sự sáng tạo của học sinh
trong học văn học ở các trường phổ thông hiện nay cũng khiến cho năng lực văn
học của người học khơng được phát triển một cách tồn diện.
Tổng quan về vấn đề nghiên cứu và phía giáo viên: Hiện nay chưa có một
cơng trình nghiên cứu hay một tài liệu nào công bố về đề tài này một cách đầy
đủ như một tài liệu đầy đủ, chi tiết, tối ưu mà giáo viên có thể soạn giảng hiệu
quả phù hợp với tình hình thực tế của nhà trường được. Hầu hết, các tài liệu
NNH
3
được công bố trước đây, kể cả tài liệu Tập huấn do BGD ban hành bồi dưỡng
cho giáo viên cũng cơ bản chỉ dừng lại ở phần lý thuyết. Trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ giáo dục, mỗi người thầy phải đổi mới được phương pháp giảng
dạy từ “Người học biết gì” chuyển sang yêu cầu “Người học làm được gì”. Xuất
phát từ thực tế này, cơ sở giáo dục các cấp đã nhanh chóng tiếp cận và đổi mới
phương pháp giảng dạy theo định hướng năng lực cho học sinh. Nhiều sáng kiến
của các thầy cô trong các trường phổ thơng qua q trình vận dụng các phương
pháp dạy học mới đã được ra đời và đã phát huy được tính hiệu quả thực tế; các
hoạt động dạy học tích cực được các tổ chun mơn, nhóm chun mơn trao đổi,
thảo luận, thống nhất áp dụng vào giảng dạy và coi đó là một nội dung quan
trọng trong sinh hoạt chuyên đề, sinh hoạt tổ chuyên môn hay cụm chuyên môn
hàng năm trong các nhà trường phổ thông. Tuy nhiên, dù ngành giáo dục nước
ta đang ngày một thay đổi theo hướng tích cực, cụ thể là Chương trình giáo dục
phổ thông 2018 đang dần được thay thế trong tồn bộ hệ thống giáo dục phổ
thơng, nhưng một thực tế cho thấy, các bộ mơn nói chung và bộ mơn Ngữ văn
nói riêng, phương pháp mới vẫn chưa thực hiện được một cách đồng bộ, hiệu
quả ở tất cả các tiết học; giáo viên phải vừa dạy học vừa bồi dưỡng, tập huấn
chương trình giáo dục phổ thơng mới, vừa vận dụng thực hành giảng dạy
phương pháp mới nên khơng tránh khỏi những khó khăn và lúng túng. Bài dạy
vẫn nặng về truyền thụ kiến thức một chiều; phân tích, giảng giải, hỏi – đáp, yêu
cầu học sinh ghi chép vào vở để vận dụng. Cũng có nhiều bài giảng mà giáo
viên đã thay đổi phương pháp mới như: cho học sinh hoạt động nhóm, phát
phiếu học tập, hoạt động một số trị chơi, sân khấu hố tác phẩm…nhưng chưa
thực hiện thường xuyên và chỉ tập trung ở một số tác phẩm nổi tiếng. Vì vậy,
nhiều giờ dạy chưa phát huy được hết tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học
sinh, chưa thực sự tác động, kích thích tư duy và tạo hứng thú cho học sinh. Vẫn
còn nhiều giờ dạy, giáo viên chưa tích cực trong việc đổi mới phương pháp dạy
học, chưa quan tâm đầu tư thời gian và chưa chủ động trong việc sử dụng các
phương tiện dạy học vào việc thiết kế, soạn giảng kế hoạch dạy học dẫn đến giờ
dạy đơn điệu, nhàm chán nên chưa tạo được hứng thú, niềm yêu thích, say mê
của học sinh đối với môn học. Cũng do tiết học bị giới hạn về thời gian, thầy cô
nặng về truyền thụ kiến thức nên nhiều giáo viên chưa chú trọng đến việc giao
bài tập, hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà, hướng dẫn học sinh các kĩ năng
học tập, chưa có những hình thức động viên, khích lệ, khơi gợi niềm u thích
mơn học của học sinh qua việc kiểm tra, đánh giá cho điểm. Đồng thời nhiều
giáo viên chưa mạnh dạn tổ chức các hoạt động trải nghiệm cho học sinh trong
và ngoài nhà trường, chưa hướng dẫn học sinh cách tham khảo tài liệu và tự học
trên các phương tiện Internet.
NNH
4
Về phía học sinh: Do đặc thù của bộ mơn, đa số phải ghi chép nhiều, đơn
điệu, có phần mệt mỏi nên các em học sinh trở nên thụ động, không hăng hái
phát biểu ý kiến, chỉ ngồi nghe thầy cơ giảng giải, phân tích, chữa bài và ghi
chép; nhiều học sinh chưa thấy được ý nghĩa và giá trị của bộ mơn trong học tập
và cuộc sống nên cịn coi thường bộ mơn, vì vậy vẫn cịn hiện tượng: khơng học,
khơng đọc, khơng nghe, khơng ghi chép, thậm chí làm bài qua loa, đại khái khi
được kiểm tra; nhiều học sinh chưa cố gắng, nỗ lực trong học tập; thái độ dựa
dẫm, ỉ lại vào thầy cô, bạn bè nên kết quả học tập rất thấp. Bên cạnh đó, một số
học sinh chăm ngoan, chịu khó nhưng kết quả học tập chưa cao vì chưa biết
cách xác định những nội dung chính của bài học, chưa có kĩ năng tìm hiểu tác
phẩm, phân tích nhân vật, tình huống truyện…; tự ti, nhút nhát khơng dám trình
bày trước đám đơng; cũng có những học sinh có tố chất, sở trường nhưng chưa
có cơ hội được phát huy năng lực, sáng tạo của bản thân do tiết dạy của giáo
viên một số giáo viên chưa thực sự đổi mới.
+ Năm học 2019-2020, 2020-2021 sáng kiến đã được thực hiện thể
nghiệm, được áp dụng trong phạm vi hẹp, vận dụng một số phương pháp kĩ
thuật dạy học chủ yếu trong phần Khởi động và phần Vận dụng luyện tập.
+ Năm học 2021-2022, qua quá trình tập huấn các Modun của chương
trình GDPT 2018, đặc biệt sau quá trình áp dụng cụ thể với đối với môn Ngữ
văn khối 10, với học sinh đầu cấp THPT thì phương pháp giảng dạy tích cực
theo định hướng năng lực học sinh càng được quan tâm và chú trọng hơn. Đồng
thời, đây cũng là tiền đề bước đầu cho chương trình GDPT 2018 sẽ thực hiện
đối với học sinh lớp 10 trong năm học 2022-2023. Vì vậy, với đặc thù là một
trường đóng trên địa bàn vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, để góp phần nâng cao
chất lượng và hiệu quả dạy và học, bản thân tơi trong q trình giảng dạy đã chú
trọng đến:“Một số phương pháp, kĩ thuật dạy học và kiểm tra, đánh giá
theo định hướng phát triển năng lực nhằm nâng cao chất lượng giờ học
Ngữ văn cho học sinh lớp 10 tại trường THPT huyện Văn Chấn”.
1.2. Thuận lợi
Một là: Đa số học sinh có ý thức tu dưỡng và rèn luyện đạo đức, biết lắng
nghe và cố gắng học tập.
Hai là: Do đặc thù của bộ mơn, có nhiều tác phẩm văn học, một số bài về
văn thuyết minh hay trình bày một vấn đề… học sinh thể tự do trình bày những
suy nghĩ, quan điểm của bản thân một cách khách quan, chân thực và sáng tạo.
Thông qua các tác phẩm văn học, với sự định hướng, hướng dẫn của giáo viên,
học sinh có cơ hội được thể hiện năng lực cá nhân của bản thân với nhiều hình
thức tổ chức đa dạng, phù hợp với tâm lí lứa tuổi học sinh. Thơng qua các hoạt
động học nhóm, sân khấu hoá, hoạt động trải nghiệm tập thể, các em học sinh có
cơ hội được cảm thơng, u thương, gần gũi và chia sẻ với nhau hơn.
Ba là: Có một số học sinh thực sự yêu thích, đam mê môn học. Điều này
được thể hiện qua những phát hiện, khám phá riêng của học sinh trong quá trình
học tập.
NNH
5
1.3. Khó khăn
Một là: Tiết học Ngữ văn nói chung phải đọc, nghe, ghi chép nhiều; chủ
yếu giáo viên làm việc nhiều, học sinh thụ động ghi chép, không phát huy được
năng lực tự làm việc, sáng tạo và tư duy của học sinh.
Hai là: Học sinh chưa có kĩ năng tiếp cận và tìm hiểu các nội dung của
bài học; chưa biết cách Đọc - hiểu và xác định những kiến thức cơ bản, những
nội dung quan trọng của bài học.
Ba là: Nhiều học sinh cịn lười học, khơng chuẩn bị bài ở nhà, coi thường
bộ môn; trong lớp không chú ý nghe giảng, không ghi chép bài; ỉ lại, không vận
động suy nghĩ.
Bốn là: Do đặc thù của bộ mơn và cịn sự hạn chế về thời gian nên nhiều
sản phẩm chuẩn bị chu đáo, công phu, sáng tạo của học sinh khơng đủ thời gian
trình bày trên lớp theo ý tưởng của học sinh. Các hoạt động trải nghiệm ở một số
tiết học với mong muốn được thực hiện trong và ngồi nhà trường cịn gặp nhiều
khó khăn.
Nhằm thay đổi tư duy về cách dạy, cách học bộ mơn Ngữ văn đáp ứng
chương trình giáo dục phổ thông 2018 đối với học sinh lớp 10 – học sinh đầu
cấp THPT và trên cơ sở kế thừa sáng kiến năm học 2020-2021, đó là lý do tơi
chọn đề tài: “Một số phương pháp, kĩ thuật dạy học và kiểm tra, đánh giá
theo định hướng phát triển năng lực nhằm nâng cao chất lượng giờ học
Ngữ văn cho học sinh lớp 10 tại trường THPT huyện Văn Chấn”.
2. Nội dung (các) giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến
2.1. Mục đích của giải pháp
Một là: Đáp ứng kịp thời về đổi mới giáo dục theo chương trình giáo dục
phổ thông 2018, dạy học theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh khối
10 của trường THPT huyện Văn Chấn.
Hai là: Tạo giờ học sôi nổi; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
học sinh; đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh.
Ba là: Nâng cao chất lượng và hiệu quả giờ học; chất lượng kiểm tra,
đánh giá để khích lệ tinh thần, ý thức học tập và đam mê môn học của học sinh;
bồi dưỡng phương pháp tự học, các kĩ năng học tập bộ môn: kĩ năng diễn đạt,
thuyết minh, trình bày một vấn đề; kĩ năng vận dụng giải quyết các vấn đề thực
tiễn thông qua các phương pháp, hình thức dạy học tích cực; rèn cho học sinh
bản lĩnh tự tin trong giao tiếp cũng như giải quyết các tình huống trong học tập
và cuộc sống. Từ đó hình thành các năng lực, phẩm chất tốt của học sinh.
Bốn là: Khắc phục tình trạng chán học, lười học, chưa coi trọng giá trị bộ
môn; giúp các em u thích, đam mê mơn học, phát triển các phẩm chất, năng
lực; học đi đơi với hành, từ đó có cái nhìn thay đổi theo chiều hướng tích cực về
bộ môn Ngữ văn.
Năm là: Là điều kiện cho giáo viên giảng dạy được nâng cao trình độ,
năng lực chuyên môn nghiệp vụ theo phương pháp mới; tạo cơ hội cho giáo viên
được chia sẻ, học tập từ đồng nghiệp trong và ngoài nhà trường.
2.2. Nội dung các giải pháp
Với sự thay đổi vượt bậc của ngành giáo dục ta hiện nay về cách dạy,
cách học và cách ra đề thi trong đó có mơn Ngữ văn thì địi hỏi việc vận dụng
NNH
6
một phương pháp tối ưu, hiệu quả trong giảng dạy là rất cần thiết. Chương trình
GDPT 2018 trong đó có phương pháp giảng dạy theo định hướng phát triển
năng lực học sinh đang được ngành giáo dục nước ta quan tâm, triển khai thực
hiện đối với học sinh lớp 10 từ năm học 2022-2023. Mặt tích cực của phương
pháp giáo dục này lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên định hướng, học sinh
chủ động lĩnh hội kiến thức. Đồng thời, phương pháp giáo dục mới cũng tránh
được tiết học mệt mỏi, rập khuân, máy móc.
Giải pháp: “Một số phương pháp, kĩ thuật dạy học và kiểm tra, đánh
giá theo định hướng phát triển năng lực nhằm nâng cao chất lượng giờ
học Ngữ văn cho học sinh lớp 10 tại trường THPT huyện Văn Chấn” tập
trung vào các nội dung sau:
- Giáo viên tổ chức, hướng dẫn và rèn cho học sinh các kĩ năng học tập tốt
bộ môn Ngữ văn.
- Áp dụng phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực học
sinh nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, niềm hứng thú yêu thích
cho học sinh trong nhiều giờ học Ngữ văn vốn mệt mỏi, ghi chép nhiều.
- Khơi gợi và phát huy được nhiều phẩm chất và năng lực của học sinh
như: tinh thần đoàn kết, yêu thương, chia sẻ của các học sinh trong lớp; rèn được
kĩ năng làm việc nhóm, năng lực giải quyết vấn đề và tư duy sáng tạo, năng lực
tự làm việc, tự tìm hiểu khám phá, trau dồi kiến thức bộ môn và đời sống xã
hội…
- Thay đổi cách kiểm tra, đánh giá học sinh nhằm khích lệ, động viên tinh
thần và ý thức học tập tích cực của học sinh.
2.2.1. Cách thức thực hiện:
- Giáo viên:
+ Vận dụng linh hoạt các phương pháp: nghiên cứu tài liệu; quy nạp, diễn
dịch, quan sát; các phương pháp, kĩ thuật dạy học mới; thực nghiệm qua quá
trình giảng dạy; qua sản phẩm, kết quả học tập, điểm số của học sinh; phân tích,
tổng hợp, phân loại.
+ Định hướng, giao nhiệm vụ cho học sinh chuẩn bị bài học ở nhà và áp
dụng thực hiện các phương pháp trong tiến trình dạy học ở trên lớp.
+ Một số hình thức sân khấu hóa tác phẩm văn học, vẽ tranh, làm thơ, lập
sơ đồ tư duy bài học của học sinh…kết hợp với việc ứng dụng công nghệ thông
tin và một số phương pháp dạy học tích cực theo định hướng phát triển năng lực
học sinh.
+ Kiểm tra, nhận xét, đánh giá sản phẩm và kết quả học tập của học sinh.
- Học sinh: Tuỳ thuộc vào mỗi phương pháp dạy học mà giáo viên định
hướng, học sinh thực hiện theo các giai đoạn phù hợp của giải pháp để có được
kết quả tốt nhất trong quá trình học tập. Tăng cường các hoạt động: Trao đổi,
thảo luận, thuyết trình, báo cáo và vận dụng thực hành thông qua việc báo cáo
các sản phẩm học tập và qua các bài kiểm tra.
2.2.2. Các bước thực hiện giải pháp:
Một là: Phương pháp dạy học khám phá
NNH
7
Dạy học khám phá là cách thức tổ chức dạy học, trong đó học sinh tự tìm
tịi, khám phá, phát hiện ra tri thức mới thông qua thông qua các hoạt động dưới
định hướng của giáo viên. Với phương pháp dạy học tích cực này, tơi đã vận
dụng trong việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà; cách xác định các đơn
vị kiến thức của bài học và cách tiếp cận với các nội dung bài học; đồng thời rèn
kĩ năng học bộ môn theo ý, theo các nội dung của bài học thông qua việc lập sơ
đồ tư duy.
* Sau mỗi tiết học trên lớp, tôi thường dành khoảng 3-5 phút cuối giờ để
dặn dò học sinh về nhà học bài cũ và hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài mới. Để
giúp các em học sinh soạn bài đạt hiệu quả, hiểu thực chất vấn đề; tránh soạn bài
theo hình thức chống đối, qua loa, đại khái là chép vở của học sinh năm học
trước hoặc chép các loại sách tham khảo học tốt văn mà không hiểu bản chất vấn
đề, tôi hướng dẫn và định hướng học sinh cách soạn bài như sau:
- Đối với phần Làm văn và Tiếng Việt
+ Đọc sách giáo khoa và tìm hiểu nội dung bài học: Đọc tất cả các nội
dung đề mục và phần Hướng dẫn học bài.
+ Xác định kiến thức trọng tâm của bài học thông qua phần “Kết quả cần
đạt”, phần “Ghi nhớ” và hệ thống các câu hỏi có chứa đựng các nội dung, luận
điểm ở cuối mỗi bài học.
+ Gạch chân ghi nhớ những nội dung quan trọng, cơ bản của bài học qua
các đề mục, các ý chính trong sách giáo khoa.
+ Lập sơ đồ tư duy bài học thông qua những từ khố hay những nội dung
quan trọng của bài học.
Ví dụ: Bài Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt (Tiết1):
Bước 1: Đọc sách giáo khoa, xác định nội dung bài học thông qua
các đề mục và phần Hướng dẫn học bài. Cụ thể: Khái niệm ngôn ngữ sinh hoạt,
các dạng biểu hiện của ngôn ngữ sinh hoạt và vận dụng thực hành lí thuyết
thơng qua phần Luyện tập cuối sách giáo khoa.
Bước 2: Xác định trọng tâm kiến thức của bài học thông qua phần
Kết quả cần đạt và phần Ghi nhớ/Hệ thống câu hỏi trong phần Hướng dẫn học
bài/Luyện tập. Cụ thể: Bài học Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt cần nắm được
khái niệm ngôn ngữ sinh hoạt, phong cách ngôn ngữ sinh hoạt với những đặc
trưng cơ bản; kĩ năng phân tích và sử dụng ngơn ngữ theo phong cách ngôn ngữ
sinh hoạt.
Bước 3: Gạch chân ghi những nội dung quan trọng, cơ bản của bài
học qua các đề mục, các ý chính trong sách giáo khoa: 1.Khái niệm ngơn ngữ
sinh hoạt: Là lời ăn tiếng nói hàng ngày, dùng để thơng tin, trao đổi ý nghĩ, tình
cảm… đáp ứng những nhu cầu trong cuộc sống. 2. Các dạng biểu hiện: Nói,
viết…
Bước 4: Lập sơ đồ tư duy thơng qua từ khoá hoặc nội dung quan
trọng: Nội dung quan trọng của bài học gồm: Khái niệm và các dạng biểu hiện
bằng các hình thức lựa chọn sơ đồ phù hợp với niềm yêu thích của các em học
sinh.
- Đối với các tác phẩm văn học:
NNH
8
+ Đọc tác phẩm: Đọc lướt lần 1, đọc kĩ tác phẩm lần 2, vừa đọc vừa xác
định và đánh dấu bố cục tác phẩm; gạch chân dưới các chi tiết, hình ảnh thể hiện
tư tưởng hoặc giá trị của tác phẩm ngay trong sách giáo khoa.
Ví dụ: Tác phẩm Tấm Cám:
Bước 1: Đọc tác phẩm, đánh dấu bằng bút chì trực tiếp bên lề sách giáo
khoa bố cục tác phẩm: Bố cục tác phẩm gồm 3 phần: Phần 1: “Từ đầu… đến
không phải làm việc nặng”. Phần 2: Từ đoạn “Một hôm… đến đoạn kiệu rước
Tấm về cung”. Phần 3: Đoạn còn lại.
Bước 2: Gạch chân dưới những chi tiết/hình ảnh thể hiện tư tưởng hoặc
giá trị của tác phẩm như: Cái yếm đỏ, con cá bống, chiếc giày thêu, con chim
vàng anh, cây xoan đào, cái khung cửi, quả thị… Hoặc chi tiết: Tấm làm lụng
vất vả, hết chăn trâu, gánh nước, đến thái khoai, vớt bèo còn Cám được mẹ
nuông chiều, được ăn trắng mặc trơn…
+ Trả lời các câu hỏi theo phiếu học tập sau:
Thời đại Nét chính Ảnh
Phong
Vị trí của
tác
giả về cuộc hưởng của cách/nội
tác giả đối
sống
đời
q
dung sáng với
Tác giả
hương,
tác
VHVN/VH
gia đình
TG
………
……...
………
…………
…………..
Ví dụ: Đại
cáo Ngơ
(Nguyễn
Trãi)
NNH
Qn
Minh xâm
lược nước
ta,
khởi
nghĩa Lam
Sơn…
Tuổi
thơ: mẹ
mất, ông
ngoại
qua đời.
- 1400,
đỗ Thái
học sinh
cùng cha
làm quan
dưới triều
đại nhà
Hồ
- 14071428:
Kháng
chiến
chống
qn
Minh,
viết bình
Ngơ đại
cáo, làm
chức
Có truyền
thống lớn:
u nước,
khoa
bảng, văn
hố.
9
- Đa dạng
về thể loại.
- Chữ Hán,
Nơm;
- Nhà văn
chính luận
kiệt xuất
- Nhà thơ
thơ trữ tình
sâu sắc…
Bậc anh
hùng dân
tộc,
nhà
văn
hố
lớn, danh
nhân văn
hố
thế
giới.
Tác phẩm
Thừa
Chỉ.
- 1439:
Về ở ẩn
tại
Cơ
Sơn.
- 1440:
lại ra phị
vua giúp
nước.
- 1442:
Vụ án Lệ
Chi Viên,
bị chu di
tam tộc.
- 1464:
Lê Thánh
Tông
minh oan
- 1980:
UNESCO
công
nhận:
danh
nhân văn
hố thế
giới.
Hồn cảnh Vị
sáng
tác trí/xuất
của
tác xứ
của
phẩm
tác phẩm
………..
Ví
dụ: Đầu
Chuyện
XVI
chức phán
sự
đền
Tản Viên
(Trích –
Nguyễn
Dữ)
NNH
……….
TK Rút trong
tập
Truyền kì
mạn lục
Nội dung
và nghệ
thuật
chính của
tác phẩm
……….
Chi
tiết/Hình
ảnh đặc sắc
mang
ý
nghĩa
tư
tưởng của
tác phẩm
………….
Nội
dung:
Lịng u
chính
nghĩa và
niềm
tự
hào
về
người trí
thức nước
Ngơ
Tử
Văn
tắm
gội sạch sẽ,
khấn trời,
châm lửa
đốt đền; Tử
văn mặc kệ,
vẫn cứ ngồi
ngất
10
Giá
trị/ý Bài học
nghĩa của rút ra
tác phẩm
được từ
tác
phẩm
…………
….
- Qua nhân
vật NTV,
tác phẩm
đề cao tinh
thần khảng
khái, cương
trực, dũng
cảm
đấu
tranh
……….
.
Thẳng
thắn,
dũng
cảm
đấu
tranh
chống
cái xấu
cái ác;
Việt qua ngưởng tự chống lại niềm tin
tính cách nhiên…
cái ác, trừ vào sức
dũng cảm,
hại
cho mạnh
kiên
dân.
của lẽ
cường của
- Thể hiện phải
Ngơ
Tử
niềm
tin chân
Văn.
vào cơng lí, chính.
Nghệ
chính nghĩa
thuật: Kể
nhất định
chuyện
thắng gian
sinh động,
tà.
hấp dẫn,
giàu kịch
tính.
- Từ cảm nhận và ấn tượng về tác phẩm, em hãy: Phác hoạ bức tranh tái
hiện lại tác phẩm; vẽ sơ đồ tư duy về các nội dung tác phẩm; sân khấu hoá tác
phẩm, sáng tác thơ; phân tích, cảm nhận về tác phẩm.
Ví dụ 1: Từ tác phẩm Cảnh ngày hè(Nguyễn Trãi): Phác hoạ lại bức
tranh thiên nhiên và chân dung của nhà thơ trong cảnh ngày hè, từ bức tranh
đó, hãy phân tích, cảm nhận vẻ đẹp của bức tranh cảnh ngày hè và tâm trạng
của nhà thơ.
Ví dụ 2: Từ tác phẩm Tấm Cám: Viết kịch bản, lựa chọn, phân vai và diễn
kịch sân khấu hoá truyện Tấm Cám.
* Một thực tế cho thấy, đa số học sinh lớp 10 chưa biết cách học bài đạt
hiệu quả, vẫn còn quen lối mòn học thuộc lòng, chỉ học những nội dung thầy cô
cho ghi chép mà thiếu các kĩ năng học hiệu quả, thiếu sự sáng tạo, tư duy. Vì
vậy, rất cần việc giáo viên hiểu được tâm lý để hướng dẫn các em các kĩ năng
học bộ môn. Để tránh học lan man, không nắm vững được nội dung cơ bản của
bài học, tôi đã định hướng cho học sinh cách xác định các đơn vị kiến thức của
bài học và cách tiếp cận với các nội dung bài học như sau:
- Trong quá trình soạn bài, học bài, các em đọc toàn bộ các nội dung bài
học trong sách giáo khoa. Sau đó, xác định kiến thức trọng tâm của bài học
thông qua phần Kết quả cần đạt và phần Ghi nhớ trong sách giáo khoa.
- Để nắm bắt được các nội dung cơ bản của bài học, các em cần nắm được
cấu trúc của bài học, xác định được đơn vị kiến thức bài học thông qua các đề
mục, tiêu đề của bài học. Đối với tác phẩm văn học, cần nắm được bố cục của
tác phẩm gồm mấy phần/đoạn, nội dung chính của mỗi phần/đoạn đó là gì ?
Ví dụ 1: Bài Tính chuẩn xác, hấp dẫn của văn bản thuyết minh:
+ Đọc sách giáo khoa thấy rõ bài học gồm 2 nội dung qua đề mục, tiêu đề
của bài: I. Tính chuẩn xác trong văn bản thuyết minh; II. Tính hấp dẫn của văn
bản thuyết minh và phần cuối là Luyện tập vận dụng.
+ Kiến thức trọng tâm của bài học thông qua phần Kết quả cần đạt và
phần Ghi nhớ là: Hiểu và viết được văn bản thuyết minh chuẩn xác, hấp dẫn;
Văn bản thuyết minh cần phải chuẩn xác…, có tính khách quan, khoa học, đáng
tin cậy. Văn bản thuyết minh phải hấp dẫn để thu hút sự chú ý, theo dõi của
NNH
11
người đọc, người nghe… sử dụng nhiều hình tượng sinh động, nhiều so sánh cụ
thể, câu văn phải biến hoá linh hoạt…
Ví dụ 2: Tác phẩm Đại cáo bình Ngơ(Nguyễn Trãi)
+ Đọc thuộc tác phẩm.
+ Bố cục gồm 4 đoạn (Phần Hướng dẫn học bài đã chỉ rõ). Nội dung của
từng đoạn như sau:
++ Đoạn 1: “Từng nghe…Chứng cứ còn ghi”: Luận đề chính nghĩa cuộc
kháng chiến.
++ Đoạn 2: “Vừa rồi…Ai bảo thần dân chịu được”: Tố cáo tội ác của
giặc Minh.
++ Đoạn 3: “ Ta đây…Cũng là chưa thấy xưa nay”: Quá trình chinh
phạt, kháng chiến và thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
++ Đoạn 4: “Xã tắc…Ai nấy đều hay”: Tuyên bố độc lập, khẳng định sự
nghiệp chính nghĩa.
* Đối với học sinh lớp 10 – học sinh đầu cấp THPT còn gặp nhiều bỡ ngỡ
trong việc làm quen, tiếp cận với phương pháp giảng dạy cấp THPT, đặc biệt là
kĩ năng học sao cho hiệu quả. Ở cấp dưới các em vẫn còn quen với việc học
thuộc lịng, thầy cơ dạy thế nào ghi như thế, ghi chép nội dung bài học chậm, thụ
động trong tiếp thu bài học, ít sáng tạo, chưa biết cách xác định kiến thức trọng
tâm để học, kiến thức lan man, dài dịng…Từ những lẽ trên, tơi đã hướng dẫn
học sinh cách học bộ môn theo ý, theo các đơn vị kiến thức bài học qua việc lập
sơ đồ tư duy như sau:
- Chuẩn kĩ bài học mới ở nhà, trên lớp chú ý tập trung học tập, suy nghĩ,
kết hợp với việc tự học, tự tìm hiểu thêm kiến thức, các em hãy rút ra các nội
dung chính của bài học.
- Từ các nội dung đó, để dễ học, dễ thuộc, dễ nhớ, các em cụ thể hố các
nội đó bằng sơ đồ tư duy vào vở, vào bảng phụ, bảng trên lớp học hoặc trình
chiếu trên Powerpoint.
Từ việc quen học theo lối truyền thống, cách chuẩn bị bài và học bài này
giúp các em biết xác định được kiến thức trọng tâm của bài học, chịu khó hơn
trong việc học bài và chuẩn bị bài và có khả năng tư duy, sáng tạo trong học tập.
Ví dụ: Tác phẩm Cảnh ngày hè(Nguyễn Trãi)
Chuẩn bị bài ở nhà, trên lớp chú ý tiếp thu kiến thức, ghi chép bài học,
sau tiết học rút ra nội dung chính của bài học là: Thông qua bức tranh ngày hè
đẹp, sinh động, đầy sức sống cho thấy tình yêu thiên nhiên; yêu đời, yêu cuộc
sống; yêu nhân dân, đất nước của Nguyễn Trãi hoặc Bài thơ thể hiện vẻ đẹp của
thiên nhiên và tâm hồn của Nguyễn Trãi.
Hai là: Kiểm tra, đánh thường xuyên kết quả học tập của học sinh
Kiểm tra là một là một cách tổ chức đánh giá(hoặc định giá), do đó nó có
ý nghĩa và mục tiêu như đánh giá(hoặc định giá). Đánh giá thường xuyên hay
còn gọi là đánh giá quá trình là hoạt động đánh giá diễn ra trong tiến trình thực
hiện hoạt động giảng dạy mơn học, cung cấp thông tin phản hồi cho giáo viên và
học sinh nhằm mục tiêu cải thiện hoạt động, giảng dạy, học tập. Mục đích của
đánh giá thường xuyên nhằm thu thập các minh chứng liên quan đến kết quả học
tập của học sinh trong quá trình học để cung cấp những phản hồi cho học sinh và
NNH
12
giáo viên biết những gì họ đã làm được so với mục tiêu, yêu cầu của bài học,
của chương trình và những gì họ chưa làm được để điều chỉnh hoạt động dạy và
học. Đánh giá thường xuyên đưa ra những khuyến nghị để học sinh có thể làm
tốt hơn những gì mình chưa làm được, từ đó nâng cao kết quả học tập trong thời
điểm tiếp theo. Kiểm tra, đánh giá là một khâu không thể tách rời trong q trình
dạy học; là cơng cụ hành nghề quan trọng của giáo viên; là một bộ phận quan
trọng của quản lý giáo dục, quản lý chất lượng dạy và học
Một trong những nguyên nhân dẫn đến việc học sinh lười học, lười chuẩn
bị bài trước khi đến lớp là việc kiểm tra, đánh giá chưa thường xuyên liên tục
của giáo viên về việc chuẩn bị bài của học sinh ở nhà và việc học tập của học
sinh ở trên lớp, đồng thời chưa có biện pháp mềm dẻo nhưng cương quyết để
học sinh thực sự chú tâm việc học bài và chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
Quá trình kiểm tra, đánh giá của giáo viên về việc chuẩn bị bài và học bài
của học sinh có thể vận dụng linh hoạt, hợp lý trong tiết học. Với phương pháp
kiểm tra tích cực này, trong q trình giảng dạy tơi đã áp dụng trong việc kiểm
tra, đánh giá việc học bài, chuẩn bị bài ở nhà và việc học tập ở trên lớp của học
sinh như sau:
- Với các môn Làm văn và Tiếng Việt: Kiểm tra phần chuẩn bị bài của
học sinh đầu giờ hoặc đến nội dung phần học nào tơi kiểm tra phần đó thơng qua
việc đặt câu hỏi phát vấn học sinh hoặc trực tiếp nội dung chuẩn bị của học sinh.
Có thể kiểm tra xác suất 3-5-7… học sinh trong giờ học. Những câu hỏi nếu có
trong sách giáo khoa mà học sinh khơng trả lời, tức là học sinh chưa đọc sách,
chưa soạn bài ở nhà và trên lớp cũng chưa chú ý bài giảng. Từ đó, tơi phát hiện
ra được học sinh học bài và chuẩn bị bài ở nhà trên lớp như thế nào và có giải
pháp điều chỉnh ngay: nhắc nhở học sinh vi phạm lần 1. Những lần sau, nếu học
sinh vẫn khơng chuẩn bị bài, học bài thì phải chép bài từ 5 lần trở lên về nội
dung không trả lời được nếu có trong sách và trong bài học hoặc bị đánh giá
điểm thấp.
- Đối với tác phẩm văn học: Kiểm tra phần chuẩn bị bài của học sinh
thông qua vở soạn, nắm được nội dung bài học, phiếu học tập, bài thuyết trình,
bảng phụ hoặc câu hỏi phát vấn theo tiến trình bài học như: Đối với truyện, tác
phẩm có những nhân vật nào? Xác định nhân vật chính, nhân phụ, nhân vật trữ
tình trong tác phẩm ? Mối quan hệ của các nhân vật đó ? Cốt truyện, không gian,
thời gian, nhân vật, chi tiết, ngôi kể, giọng điệu kể, thứ tự kể được thể hiện như
thế nào trong tác phẩm? Với thơ, nhận xét về các yếu tố thẩm mĩ của thể loại
như: tứ thơ, nhân vật trữ tình, vần, nhịp, giọng điệu, cách ngắt nhịp, các biện
pháp tu từ và dụng ý của nhà văn sử dụng các hình thức nghệ thuật đó ? Tìm các
chi tiết, hình ảnh em ấn tượng nhất trong tác phẩm ? Nêu cảm nhận và cho biết ý
nghĩa tư tưởng của nhà văn gửi gắm qua chi tiết hoặc hình ảnh đó?...
Việc kiểm tra như trên, giáo viên sẽ nắm bắt được ngay việc học bài và
chuẩn bị bài của học sinh như thế nào, từ đó có biện pháp điều chỉnh, uốn nắn
việc học tập của học sinh được tốt hơn.
Ví dụ: Tác phẩm Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thuỷ
+ Để kiểm tra việc đọc và chuẩn bị bài của học sinh tôi đưa ra các dạng
câu hỏi như: Chỉ ra điểm khác biệt của thể loại truyền thuyết với các đặc trưng
NNH
13
của thể loại truyện khác ? Với câu hỏi này, trong phần Tiểu dẫn sách giáo khoa
đã chỉ rõ: Không chú trọng tính chính xác như các văn bản lịch sử…những câu
chuyện trong lịch sử dựng nước, giữ nước của ông cha ta được khúc xạ qua lời
kể của nhiều thế hệ….nhuốm màu thần kì mà vẫn thấm đẫm cảm xúc đời
thường.
+ Để kiểm tra học sinh đã đọc tác phẩm hay chưa, nắm được cốt truyện,
mối quan hệ giữa các nhân vật hay không tôi đưa ra những câu hỏi như: Tác
phẩm có mấy nhân vật? Mối quan hệ của các nhân đó như thế nào?
+ Để kiểm tra ý thức tìm tịi, sáng tạo, mở rộng kiến thức của học sinh tôi
hỏi các dạng câu hỏi nâng cao như:
++ Có ý kiến cho rằng Mị Châu là kẻ bán nước, xứng đáng với“ bản án”
của An Dương Vương. Hãy cho biết ý kiến, quan điểm của em ?
++ Tại sao Rùa vàng lại hiện lên mặt nước và thét lớn “Kẻ ngồi sau lưng
chính là giặc đó” tức là chỉ Mị Châu là giặc nhưng sau đó rẽ nước dẫn vua (An
Dương Vương) xuống biển?
++ Tác phẩm mang đến cho em những những bài học kinh nghiệm sâu
sắc gì trong học tập và cuộc sống ?
Ba là: Phương pháp dạy học hợp tác
Dạy học hợp tác là cách thức tổ chức dạy học, trong đó học sinh làm việc
theo nhóm để cùng nghiên cứu, trao đổi ý tưởng và giải quyết vấn đề đặt ra.
Thực tế cho thấy, tính tự lập là một trong những đức tính tốt, cần thiết của
mỗi người nói chung và của học sinh nói riêng trong việc học tập và giải quyết
các vấn đề trong cuộc sống. Tuy nhiên, tăng cường hoạt động trao đổi, thảo luận
nhóm và thuyết trình các nội dung bài học là một trong những hoạt động học tập
tích cực giúp học thêm gắn bó, tình cảm, chia sẻ, học hỏi kiến thức, rèn được kĩ
năng nói, kĩ năng giao tiếp…Tuy nhiên, hoạt động này nếu giáo viên không trực
tiếp quan tâm hướng dẫn học sinh mà chỉ đơn giản là giao nhiệm vụ cho học
sinh và đại diện nhóm trình bày thì kết quả nhận kiến thức được sẽ không đồng
đều ở tất cả các học sinh mà chỉ có hiệu quả ở các em tích cực học tập, suy nghĩ
và sáng tạo. Vì vậy, với hoạt động này tôi hướng dẫn học sinh thực hiện như
sau:
- Giao nội dung hoạt động nhóm cho các tổ hoặc theo bàn.
- Cử một học sinh làm Nhóm trưởng ghi chép, tổng hợp các nội dung thảo
luận.
- Yêu cầu, các thành viên đều phải có ý kiến thảo luận và được chuẩn bị
chu đáo để trình bày.
- Sản phẩm thảo luận hồn thành, các thành viên lần lượt trình bày nội
dung của nhóm khi đã được cả nhóm thống nhất biên tập, sắp xếp logic.
Ví dụ: Tác phẩm Thu hứng(Đỗ Phủ)
+ Chia lớp thành 2 nhóm.
+ Giao nhiệm vụ cho 2 nhóm:
++ Nhóm 1: Cảm nhận về bức tranh mùa thu.
++ Nhóm 2: Cảm nhận về tâm trạng/cảm xúc của nhà thơ qua bức tranh
mùa thu.
NNH
14
+ Các nhóm trao đổi, thảo luận; tất cả các học sinh trong nhóm đều phải
tham gia ý kiến trao đổi. Cử một học sinh làm nhóm trưởng ghi lại và tổng hợp
các ý kiến của các thành viên trong nhóm, biên tập và sắp xếp theo thứ tự logic
của câu hỏi rồi phân cơng các thành viên trong nhóm lần lượt trình bày.
Bốn là: Phương pháp đóng vai
Phương pháp đóng vai là là phương pháp dạy học thơng qua mơ phỏng
các tình huống có liên quan đến nội dung học tập, người học đảm nhiệm các vai
diễn, hành động để có thể thể hiện hiểu biết, suy nghĩ, thái độ của bản thân về
vấn đề trong tình huống/kịch bản, qua đó tác động đến bạn học và giáo viên.
Theo chương trình 2018, năng lực văn học - một biểu hiện của năng lực
thẩm mĩ “là khả năng nhận biết, phân tích, tái hiện và sáng tạo các yếu tố thẩm
mĩ thông qua hoạt động tiếp nhận và tạo lập văn bản văn học”. Như vậy, năng
lực văn học bao gồm hai phương diện: tiếp nhận và tạo lập văn bản văn học theo
đặc trưng của từng thể loại (với các yếu tố thẩm mĩ riêng). Tuy nhiên, với học
sinh phổ thơng, chương trình nghiêng về u cầu học sinh tiếp nhận văn học hơn
là tạo lập văn bản văn học (còn gọi là sáng tác văn học). Việc phát huy năng
khiếu, sáng tạo, niềm u thích mơn học thơng qua các hoạt động xây dựng kịch
bản sân khấu hóa tác phẩm, làm thơ, họa nhạc... cũng là việc vận dụng phương
pháp dạy học định hướng hành động. Đây là một quan điểm dạy học làm cho trí
óc và các hoạt động chân tay kết hợp chặt chẽ với nhau. Trong quá trình học tập,
học sinh thực hiện các hiệm vụ học tập và hoàn thành các sản phẩm hành động,
có sự kết hợp linh hoạt giữa hoạt động trí tuệ và hoạt động chân tay. Đây là một
quan điểm dạy học tích cực hố và tiếp cận tồn thể. Phương pháp dạy học này
có ý nghĩa quan trọng cho việc thể hiện nguyên lý giáo dục kết hợp lý thuyết với
thực tiễn, tư duy và hành động, trong đó học sinh tự lực thực hiện trong nhóm
một nhiệm vụ học tập phức hợp, gắn với các vấn đề thực tiễn, kết hợp lí thuyết
và thực hành, có tạo ra các sản phẩm có thể cơng bố. Phương pháp này giúp cho
học sinh phát huy năng khiếu, sáng tạo, niềm u thích mơn học thơng qua các
hoạt động xây dựng kịch bản sân khấu hóa tác phẩm, làm thơ, họa nhạc...
Năng khiếu, sáng tạo và niềm yêu thích của học sinh thực sự có được là
phải có cơ hội, khơng gian, bạn cùng ý tưởng, sở thích cùng trải nghiệm và
người thầy khơi gợi cảm hứng. Nhằm đáp ứng nhu cầu giáo dục cùng với sự
phát triển của xã hội hiện đại ngày nay, ngồi kiến thức bộ mơn thì kĩ năng, sự
trải nghiệm, việc vận dụng thực hành là yếu tố quan trọng quyết định đến hiệu
quả học tập của học sinh. Qua các hoạt động này, giúp học sinh có cơ hội được
bộ lộ tài năng, năng khiếu của bản thân. Tuy nhiên, để thực hiện và chuẩn bị tốt
được các hoạt động xây dựng kịch bản sân khấu hóa tác phẩm, làm thơ, họa
nhạc thì phải có cảm hứng, sự đầu tư về thời gian, trí tuệ và niềm u thích bộ
mơn. Để khơi gợi được niềm say mê, sáng tạo và khả năng bộc lộ năng lực, tài
năng trong học tập của học sinh như trên, tôi đã định hướng học sinh chuẩn bị
như sau:
- Từ việc đọc và cảm thụ tác phẩm văn học, các em thấy tác phẩm đó thể
chuyển thể thành sân khấu hóa khơng? Nếu có, các em hãy xây dựng kịch bản,
lựa chọn các thành viên trong lớp phù hợp với các nhân vật để nhập vai, hóa
thân nhân vật, sân khấu hoá tác phẩm văn học.
NNH
15
- Các tác phẩm văn học gợi trong các em những tình cảm và cảm xúc đặc
biệt nào? Hãy chuyển những cảm xúc đó thành những vần thơ hoặc bài hát, lời
ru...
Sản phẩm được thai nghén và hoàn thành của các em học sinh hay, ý
nghĩa được trình bày trước lớp, được giáo viên và học sinh nhận xét, góp ý và
đánh giá cho điểm; được đăng tải trên trang trang Web của cá nhân học sinh,
thầy cô giáo và nhà trường nhằm ghi nhận, động viên, khích lệ tài năng và tinh
thần học tập tốt của học sinh. Đây là một trong những yếu tố giúp học sinh có
động lực lớn trong học tập vì học sinh vừa được đánh giá điểm cao, vừa được
thầy cô và các bạn ghi nhận, biểu dương tài năng, sự cố gắng của bản thân, từ đó
học sinh có động lực và cảm hứng để học tập. Qua quá trình giảng dạy và áp
dụng phương pháp này, tôi thấy học sinh rất phấn khởi khi được thầy cô, bạn bè,
phụ huynh khen ngợi, được thầy cô ghi nhận và đánh giá điểm cao. Từ đó sức
lan toả của cách học này đến nhiều học sinh khác tích cực, thi đua nhau cùng
nhau học, cùng nhau tiến bộ. Tăng cường hoạt động học này cịn giúp học sinh
gần gũi, đồn kết và q trọng nhau hơn.
Ví dụ: Đoạn trích “Trao duyên” (Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)
- Từ tâm trạng, bi kịch tình yêu của Thuý kiều khi trao duyên cho Thuý
Vân, viết kịch bản truyện và lựa chọn 2 bạn nữ trong lớp đóng vai Thuý Kiều và
Thuý Vân diễn cảnh Trao duyên.
- Từ tình yêu sâu nặng, bi kịch tình yêu tan vỡ, thân phận bất hạnh và
nhân cách cao đẹp của Thuý Kiều, với những cảm xúc đặc biệt của cá nhân, em
hãy làm bài thơ thể hiện sự đồng cảm, chia sẻ với Thuý Kiều.
Năm là: Kĩ thuật dạy học phòng tranh
Kĩ thuật phòng tranh là cách thức tổ chức hoạt động học tập trong đó các
kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập của học sinh được trưng bày như một phòng
tranh triển lãm. Học sinh di chuyển, quan sát các sản phẩm của học sinh khác,
đặt câu hỏi và nêu ra nhận xét hoặc ý kiến góp ý. Sau đó, giáo viên tổ chức đánh
giá mức độ hồn thành nhiệm vụ học tập của cá nhân hoặc của nhóm. Với kĩ
thuật dạy học này, tơi đã tổ chức định hướng thực hiện thơng qua việc khơi gợi
trí liên tưởng, tưởng tượng, sáng tạo của học sinh qua các bức tranh vẽ. Từ bức
tranh đó, học sinh phân tích, bình văn.
Tưởng tượng là một hoạt động tâm lý nhằm tái tạo biến đổi các biểu
tượng trong trí nhớ thành các hình tượng mới. Liên tưởng, tưởng tượng khơng
chỉ giúp cho học sinh xác định đúng những ấn tượng trực quan, chủ quan khi
tiếp xúc với văn bản mà thông qua q trình phân tích sẽ giúp học sinh chuyển
từ nhận thức cảm tính sang nhận thức lý tính để từ đó học sinh đi vào chiều sâu,
bề rộng của nhận thức tạo cơ sở khách quan trong thao tác đánh giá toàn bộ giá
trị của tác phẩm. Liên tưởng, tưởng tượng sáng tạo có chức năng như là cầu nối
tư tưởng con người với con người, con người với thế giới xung quanh. Những
người có khả năng liên tưởng, tưởng tượng và sáng tạo tốt bao giờ cũng có đời
sống tâm hồn phong phú, nhạy cảm, tinh tế.
Thực tế cho thấy, do một số nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan nên
nhiều học sinh khơng thích học bộ mơn Ngữ văn. Từ việc khơng thích dẫn đến
ngại, lười học, lười suy nghĩ, sáng tạo, từ đó như bị mặc định về bộ môn: Văn
NNH
16
bản dài, mất thời gian đọc, khó hiểu, khơng thực tế… Điều này vơ hình dung
khiến cho học sinh khơng có cảm hứng học bộ mơn. Để khắc phục tình trạng
này, tôi đã khơi gợi cho học sinh sự liên tưởng, tưởng tượng và sáng tạo qua quá
trình chuẩn bị bài và học bài như sau:
- Đọc kĩ tác phẩm. Cảm thụ và thẩm thấu tác phẩm ở nhiều góc độ. Trong
quá trình đọc-hiểu tác phẩm, hãy điền vào phiếu học tập:
Tác phẩm
Cảnh vật/Thiên nhiên
Con người/Tâm trạng
…………….. ………………………………… ……………………………
Ví dụ: Cảnh Vẻ đẹp của bức tranh nhiên Tác giả với tâm hồn yêu
ngày hè
nhiên cảnh ngày hè độc đáo, đầy thiên nhiên, yêu đời, yêu
sức sống: màu sắc, âm thanh, nhân dân, đất nước.
cuộc sống…
- Từ những cảm nhận của bản thân về tác phẩm, đặc biệt là những ấn
tượng về vẻ đẹp, giá trị của tác phẩm, em hãy liên tưởng, tưởng tượng rồi tái
hiện lại bức tranh ấy dưới các góc nhìn của cá nhân.
- Từ bức tranh đó, hãy phân tích, cảm nhận cái hay, cái đẹp của tác phẩm
(Trình bày trước lớp).
Ví dụ: Tác phẩm “Tỏ lịng” (Phạm Ngũ Lão)
+ Vẻ đẹp hình tượng người anh hùng vệ quốc hiên ngang, lẫm liệt với lí
tưởng và nhân cách lớn lao.
+ Các nhóm liên tưởng, tưởng tượng vẻ đẹp người anh hùng và tái hiện
lại qua bức tranh vẽ trên giấy A0.
+ Sản phẩm của các nhóm được trưng bày lên bảng, đại diện các nhóm
phân tích, cảm nhận vẻ đẹp của bài thơ qua hình tượng người anh hùng.
+ Các nhóm khác nghe, nhận xét và bổ sung về nội dung sản phẩm, hình
thức trình bày văn bản, ngơn từ, ngữ điệu… của người thuyết trình, cảm nhận.
+ Giáo viên nhận xét, chốt kiến thức, đánh giá cho điểm nhóm/cá nhân.
Những sản phẩm của học sinh đều được đánh giá ghi nhận, biểu dương và
cho điểm. Điều quan trọng nhất để học sinh có thể làm được điều này là gần gũi
trò chuyện với học sinh trong giờ học, động viên và khích lệ các em học, đặc
biệt là các em có thêm năng khiếu hội hoạ, có sở thích và năng lực trình bày
trước đám đông. Kết quả của học sinh phải được giáo viên ghi nhận và đánh giá
cụ thể bằng số điểm ở mức độ tương đối cao. Khi đã khơi gợi, định hướng được
một số học sinh thực hiện, thì sẽ có khả năng lan toả đến các học sinh khác,
ngay cả những học sinh trước đó rất lười học, yếu khả năng thuyết trình.
Sáu là: Hướng dẫn học sinh cách học và tham khảo tài liệu bổ trợ kiến
thức cho bài học trên Internet.
Trong thời đại công nghệ hiện đại phát triển như hiện nay thì việc tự
học, tự bồi dưỡng kiến từ nhiều kênh thông tin khác nhau, đặc biệt là trên
Internet là đơn giản và hữu ích. Phần nhiều học sinh đều có điện thoại thơng
minh hoặc gia đình có máy tính, nhưng các em đều sử dụng vào các mục đích
giải trí, nhắn tin…là chính mà chưa biết, chưa để tâm vào việc sử dụng thiết bị
điện thoại thơng minh, máy tính có Internet để khai thác nhiều tài liệu học tập
phong phú và bổ ích.
NNH
17
Trong quá trình tự học, thì việc tự thu thập thơng tin trong q trình học
tập là hoạt động có tính mục đích. Q trình thu thập thơng tin phải giải đáp cụ
thể các câu hỏi: Thông tin này thu thập để làm gì, phục vụ cho cơng việc gì, liên
quan đến những khía cạnh nào của vấn đề ? Nhằm hạn chế việc sử dụng điện
thoại thông minh, máy tính vào nhiều việc vơ bổ, mất tiền, mất thời gian, tơi đã
hướng dẫn học sinh cách tìm tài liệu để học bổ trợ kiến thức bộ môn như sau:
- Vào trang Web Google.com.vn, đánh tên vào nội dung cần tìm.
- Mở nội dung tài liệu đọc tham khảo, nghiên cứu và chắt lọc những kiến
thức quan trọng, những kiến thức mới.
- Ghi chép những nội dung kiến thức quan trọng vào vở để thêm nguồn tư
liệu học.
- Đối với các tác phẩm văn học, các em tìm đến trang đọc và bình tác
phẩm trực tiếp trên mạng Internet: >kham phá đến
trang Học đường – Hẻm Radio Sách nói hay nhất Viẹt Nam. Để có sẵn nguồn
tư liệu học khi khơng có mạng Internet, chủ động về thời gian, khơng gian cho
việc nghe tác phẩm thay vì phải đọc tác phẩm, các em có thể coppy về USB/thẻ
và cài vào điện thoại, rồi mở nghe đi nghe lại cho đến khi nhớ và nắm được nội
dung tác phẩm thông qua phần đọc và bình tác phẩm.
- Để có tài liệu tin cậy, chính xác, các em tìm đến Cổng thơng tin
giáo dục của Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT các tỉnh, website trang Cổng thông
tin điện tử Sở GD&ĐT Yên Bái , trang Học văn-Văn
học, Văn học tuổi trẻ…
Từ sự hướng dẫn và nhắc nhở, hỏi han thường xuyên của giáo viên,
học sinh đã thấy được tác dụng của việc tự học, tự bồi dưỡng kiến thức trên
Internet phong phú, đa dạng và bổ ích. Điều này giúp các em có tinh thần
thoải mái, tích cực, chủ động hơn về thời gian học tập. Từ đó, kết quả học
tập của các em học sinh được cải thiện rõ rệt, học sinh nghe bài hiểu nhanh
hơn, nắm được nội dung, giá trị tác phẩm nhiều hơn. Hiện tượng thụ động,
lười đọc tác phẩm, không nắm được tác phẩm đã hạn chế hơn rất nhiều.
Ví dụ 1: Bài thơ “ Nhàn”(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
+Mở điện thoại thơng minh/máy tính có Internet, vào trang Web
Google.com.vn, đánh tên nội dung: Cảm nhận vẻ đẹp bài thơ Nhàn của
Nguyễn Bỉnh Khiêm
+ Trang hiện ra tài liệu hiện ra nhiều như: Top 10 bài cảm nhận về bài
thơ Nhàn hay nhất – Văn 10 – Download.vn/HoaTieu.vn; Vẻ đẹp trong bài thơ
Nhàn – Diễn đàn HOCMAI…
+ Đọc và lựa chọn tài liệu tham khảo hay; chắt lọc những kiến thức trọng
tâm về quan niệm sống nhàn và vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ghi
chép vào vở để có thêm nguồn tài liệu học tập.
+ Cần tham khảo tài liệu học tập của bài học liên quan đến sơ đồ tư duy.
Vì sơ đồ tư duy dễ học, dễ nhớ…
+ Tham khảo cách viết văn, cách dẫn dắt ý, hành văn… để bổ sung và
hoàn thiện những hạn chế của bản thân trong quá trình viết văn.
NNH
18
Ví dụ 2: Nghe đọc truyện và lời bình tác phẩm Truyện Chức phán sự đền
Tản Viên (Nguyễn Dữ)
+ Mở điện thoại thơng minh/máy tính có Internet, vào trang Web
Google.com.vn, đánh tên nội dung: Nghe đọc và lời bình tác phẩm Truyện Chức
phán sự đền Tản Viên(Nguyễn Dữ)
+ Trang hiện ra tài liệu hiện ra nhiều như: Vi deo Chuyện chức phán sự
đền Tản Viên – Giá trị - Lời bình cuối truyện; Video đọc truyện và lời bình
Truyện Chức phán sự đền Tản Viên(Nguyễn Dữ)…
Ví dụ 3: Nghe đọc truyện và lời bình về tác phẩm Kim Vân Kiều
truyện(Thanh Tâm Tài Nhân) và Truyện Kiều(Nguyễn Du)
Mở điện thoại thông minh/máy tính có Internet, vào trang Web
>kham phá, trang hiện ra rất nhiều tác phẩm,
chọn tác phẩm Kim Vân Kiều truyện nghe đọc phân tích, so sánh hai tác
phẩm Kim Vân Kiều truyện(Thanh Tâm Tài Nhân) và Truyện Kiều
(Nguyễn Du) để nâng cao, bồi dưỡng sâu kiến thức bài học.
3. Khả năng áp dụng của giải pháp
Sáng kiến: “Một số phương pháp, kĩ thuật dạy học và kiểm tra, đánh
giá theo định hướng phát triển năng lực nhằm nâng cao chất lượng giờ
học Ngữ văn cho học sinh lớp 10 tại trường THPT huyện Văn Chấn” tôi đã
áp dụng đối với lớp 10, các lớp tôi giảng dạy. Giải pháp đã được chia sẻ, thảo
luận trong nhóm tổ và được đồng nghiệp áp dụng giảng dạy đối với học sinh
toàn trường, đặc biệt là học sinh khối 10. Đồng thời giải pháp cũng nhận được
sự chia sẻ của một số giáo viên môn Ngữ văn trường THCS - THPT Nghĩa Tâm
trong quá trình giảng dạy đối với học sinh khối 10 – học sinh đầu cấp từ năm
học 2019-2020 đến nay. Các giải pháp này, qua quá trình giảng dạy đến nay tôi
và các đồng nghiệp trong tổ chuyên môn vẫn áp dụng trong q trình giảng dạy,
có mở rộng hơn về hình thức tổ chức theo định hướng năng lực học sinh và vận
dụng linh hoạt ở các lớp phù hợp với các đối tượng học sinh. Đối với học sinh
khối 10, học sinh đầu cấp thì các giải pháp trên càng có ý nghĩa quan trọng hơn
trong việc rèn kĩ năng học tập bộ môn và đạt được nhiều kết quả tích cực. Qua
theo dõi q trình học tập của học sinh, tôi thấy khả năng áp dụng sáng kiến rất
thiết thực, hiệu quả cho cả giáo viên và học sinh trong giờ học. Đối với những
đối với những học sinh trước đó cịn lười học, chưa u thích học bộ mơn thì khi
áp dụng phương pháp này học sinh đó đã chịu khó học hơn, chịu khó hỏi bạn,
học nhóm để có kết quả học tập cao hơn; với những học sinh nhận thức chậm thì
đã có những kết quả và hiệu ứng tích cực là thấy dễ hiểu bài hơn, biết cách xác
định kiến thức trọng tâm hơn. Sáng kiến có thể áp dụng đối với học sinh cấp
THPT, đặc biệt là học sinh lớp 10 của các trường thuộc huyện Văn Chấn và các
trường THPT trên địa bàn của tỉnh Yên Bái.
4. Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng giải pháp
Sáng kiến: “Một số phương pháp, kĩ thuật dạy học và kiểm tra, đánh
giá theo định hướng phát triển năng lực nhằm nâng cao chất lượng giờ
học Ngữ văn cho học sinh lớp 10 tại trường THPT huyện Văn Chấn” đã
NNH
19
được nghiên cứu và áp dụng trong các giờ học Ngữ văn lớp 10 đã thu được kết
quả như sau:
- Về phía học sinh: Thay vì giờ học vốn nặng nề, mệt mỏi, ghi chép nhiều thì
khơng khí giờ học sôi nổi, hào hứng hơn; học sinh biết cách chắt lọc ý chính để
ghi chép; chủ động, mạnh dạn phát biểu ý kiến, trình bày quan điểm sáng tạo
của cá nhân; tự tin đứng trước đám đơng để thuyết trình, phân tích và truyền
cảm hứng đến các bạn trong cả lớp chú ý lắng nghe và học tập theo. Hiệu quả
nhất của các giải pháp của sáng kiến là học sinh chủ động học bài và chuẩn bị
bài trước khi đến lớp; học sinh chủ động nộp sản phẩm chuẩn bị bài cho giáo
viên qua gmail và đến giờ học chủ động trình bày sản phẩm của mình trước lớp
rất tự nhiên và sáng tạo. Đa số các em nắm vững được kĩ năng học bộ mơn từ đó
rèn được kĩ năng viết văn tương đối tốt. Nhiều học sinh đã phát huy được vai trò
chủ thể sáng tạo, đã chủ động lĩnh hội kiến thức; chủ động tìm hiểu, học tập trên
Intenet, sách tham khảo và thầy cô, bạn bè và để bồi dưỡng và nâng cao kiến
thức; biết vận dụng kiến về đời sống xã hội để thẩm thấu ý nghĩa của tác phẩm,
từ đó học sinh thấy được cái hay, cái đẹp và giá trị của bộ môn Ngữ văn. Cũng
từ việc thực hiện đồng bộ, linh hoạt và thường xuyên các giải pháp trên, mà bộ
môn cịn giúp học sinh thêm dồn kết, q trọng và yêu thương nhau hơn; các
em đã có những chia sẻ, giúp đỡ nhau trong tạo nên được tinh thần thi đua, phấn
đấu trong học tập và cuộc sống.
- Về phía giáo viên: Giúp cho học sinh có giờ chất lượng; tạo được khơng khí
giờ học thoải mái, tự nhiên; khơi gợi được ở các em học sinh sự sáng tạo, chủ
động bày tỏ quan điểm, thái độ và bản thân về các vấn đề đạo đức và đời sống
thông qua nội dung bài học; rèn được cho học sinh kĩ năng sống, kĩ năng giao
tiếp và khả năng vận dụng linh hoạt đặc trưng của bộ mơn trong mọi tình huống
của đời sống; giúp các em biết cách học, cách chuẩn bị bài hiệu quả; định hướng
cách học, cách tham khảo tài liệu để có được kết quả tốt nhất. Qua các giải pháp
của sáng kiến này cũng giúp các em học sinh xóa đi “định kiến” về bộ mơn Ngữ
văn là không thực tế, lãng mạn; là phải nghe nhiều, ghi chép nhiều, mệt mỏi…
Giải pháp cũng giúp giáo viên có thêm động lực, hứng thú và miệt mài hơn
trong việc bồi dưỡng chuyên môn; giáo viên được lắng nghe những tâm tư, tình
cảm và những sáng kiến của học sinh để từ đó có cách để điều chỉnh phương
pháp giảng dạy phù hợp với từng đối tượng học sinh giảng dạy. Từ đó, cũng
tăng thêm tình cảm gần gũi, chia sẻ, tự hào, yêu thương hơn của thầy và trò.
- Qua việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh trong các giờ học,
tôi thấy hầu hết các em đã có kĩ năng học tập tốt bộ mơn Ngữ văn; có ý thức học
bài và chuẩn bị bài trước khi đến lớp; chủ động, sáng tạo trong việc tự học, tự
nghiên cứu tài liệu; nâng cao khả năng nói, giao tiếp trước đám đơng; bồi dưỡng
thêm được nhiều năng lực cá nhân, những phẩm chất tốt đẹp và lối sống tích
cực. Qua bảng so sánh trước và sau khi áp dụng sáng kiến đối với học sinh
trường THPT Văn Chấn, cụ thể qua 02 lớp học 10A1 và 10A6 với 97 hoc sinh
cho thấy: Số học sinh khá, giỏi, tích cực học tập tăng; số học sinh yếu, khơng
tích cực giảm đáng kể. Điều này cho thấy tính khả thi của giải pháp.
- Bảng so sánh, đối chiếu kết quả:
NNH
20
Bảng 1:
+ Bảng kết quả thu được từ các tiết học rèn kĩ năng của học sinh trên lớp:
Trước khi áp dụng giải pháp
Sau khi áp dụng giải pháp
Năm học: 2021-2022
Năm học: 2021-2022
Sĩ
Chưa có Chưa bộc Chưa
Chưa có Chưa bộc Chưa
Lớp số
kĩ năng lộ
tài chịu khó kĩ năng lộ tài năng chịu khó
học văn, năng và suy nghĩ, học văn, và năng suy nghĩ,
viết văn. năng
vận động viết văn. khiếu văn vận động
Chưa biết khiếu văn tích cực Chưa
chương,
tích cực
cách học chương, và sáng biết cách khả năng và sáng
bài
và khả năng tạo trong học bài giao tiếp, tạo trong
soạn bài giao tiếp, học tập. và soạn thuyết
học tập.
hiệu quả thuyết
Chưa
bài hiệu trình…
Chưa
trình…
u thích quả
u thích
bộ mơn
bộ mơn
Ngữ văn.
Ngữ văn.
10A1 49
15
20
14
02
05
04
(30,6%)
(40,8%) (28,6%) (4,08%)
(10,2%)
(8,2%)
10A6 48
24
40
35
07
10
9
(50%)
(83,3%) (72,9%) (14,5%)
(16,7%)
(18,8%)
+ Bảng kết quả thu được từ các bài kiểm tra của học sinh:
Lớp Sĩ
Trước khi áp dụng giải pháp
Sau khi áp dụng giải pháp
số
Năm học: 2021-2022
Năm học: 2021-2022
K-G
TB
Y
K-G
TB
Y
10A1 49
12
26
11
40
9
0
(24,5%)
(53,1%)
(22,4%)
(81,6%) (18,4%)
(%)
10A6 48
5
23
20
11
27
10
(10,4%)
(47,9%)
(41,7%)
(22,9%) (56,3%) (20,8%)
Qua bảng 2 bảng so sánh trên, ta nhận thấy rõ số học sinh khá giỏi tăng,
số học sinh yếu đã giảm khá nhiều khi áp dụng giải pháp.
- Một số sản phẩm, minh chứng trong số rất nhiều sản phẩm của giáo viên
và học sinh khi áp dụng các giải pháp:
NNH
21
Học sinh phân tích, cảm nhận bài thơ Cảnh ngày hè(Nguyễn Trãi) qua
bức tranh vẽ trực tiếp trên bảng.
Sơ đồ tư duy trình bày trực tiếp trên bảng của học sinh trong bài thơ
Cảnh ngày hè(Nguyễn Trãi) và bài thơ Tỏ lòng( Phạm Ngũ Lão)
NNH
22
Học sinh làm việc nhóm, cảm nhận về hình tượng người anh hùng vệ quốc trong
bài thơ Tỏ lòng(Phạm Ngũ Lão) qua bức tranh vẽ.
Những bức tranh của học sinh làm việc nhóm thoả sức sáng tạo, bộc lộ năng
khiếu và niềm đam mê môn học trong một số bài học Tỏ lòng(Phạm Ngũ Lão),
Cảnh ngày hè(Nguyễn Trãi), Nhàn(Nguyễn Bỉnh Khiêm), Thu hứng(Đỗ Phủ)…
NNH
23
NNH
24
Bài thuyết minh của học sinh trong bài: Phương pháp thuyết minh
NNH
25