Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

skkn vận DỤNG một số PHƯƠNG PHÁP, kĩ THUẬT dạy học TÍCH cực để NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG dạy học môn tự NHIÊN xã hội lớp 2+3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.2 KB, 24 trang )

VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP, KĨ THUẬT DẠY HỌC TÍCH
CỰC ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC MÔN TỰ NHIÊN- XÃ
HỘI LỚP 2+3

A. LÍ DO CHỌN CHUYÊN ĐỀ:
Tự nhiên và Xã hội là một môn học cung cấp cho học sinh những hiểu biết
cơ bản ban đầu về các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội với mối quan hệ
trong đời sống thực tế của con người. Trong chương trình tiểu học cùng với các
môn học khác. Tự nhiên và Xã hội trang bị cho các em học sinh những kiến
thức cơ bản. của bậc học, góp phần bồi dưỡng phẩm chất, nhân cách toàn diện
của con người.
Từ thực tế giảng dạy môn Tự nhiên- xã hội ở lớp 2+ 3, đáp ứng yêu cầu đổi
mới phương pháp dạy học để tìm ra những biện pháp tối ưu nhất góp phần nâng
cao chất giảng dạy. Người giáo viên phải thực hiện đổi mới các phương pháp
dạy học sao cho học sinh là người chủ động nắm bắt kiến thức của môn học một
cách tích cực, sáng tạo góp phần hình thành phương pháp và nhu cẩu tự học, tự
phát hiện, tự phát hiện, tự giải quyết các tình huống có vấn đề đặt ra trong bài
học. Để đạt được mục tiêu đó, giáo viên cần vận dụng một số phương pháp, kĩ
thuật dạy học tích cực.
Việc vận dụng các kỹ thuật dạy học trong môn Tự nhiên- xã hội không phải
là vấn đề đơn giản, nó phụ thuộc khá nhiều vào yếu tố khách quan như cơ sở vật
chất, thiết bị dạy học, trình độ học sinh... Với giáo viên thì các phương pháp, kỹ
thuật dạy học tích cực không phải là vấn đề quá mới mẻ nhưng cũng không phải
là ai cũng thực hiện được một cách dễ dàng bởi việc vận dụng vào thực tiễn
chưa thật thường xuyên, nhiều tiết còn mang tính hình thức... Qua việc dự giờ
cho thấy: việc ứng dụng các kỹ thuật dạy học còn khá khiêm tốn, một phần do


việc nắm bắt của giáo viên về kỹ thuật dạy học còn hạn chế, phần vì điều kiện
cơ sở vật chất, khả năng của học sinh...
Xuất phát từ thực tế đó, tổ 2+3 tiến hành nghiên cứu và thực hiện chuyên đề:


"Vận dụng một số phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực để nâng cao chất
lượng dạy học Tự nhiên- xã hội lớp 2+ 3"
B. MỤC ĐÍCH CHUYÊN ĐỀ
Thực hiện chuyên đề nhằm mục đích giúp giáo viên nắm được nội dung,
yêu cầu cần đạt về môn Tự nhiên- xã hội lớp 2+ 3. Trang bị cho giáo viên một
số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực để vận dụng vào giảng dạy nhằm phát
huy được tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh. Qua đó góp phần nâng
cao chất lượng dạy học môn Tự nhiên- xã hội.
C. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ:
I. Mục tiêu dạy học môn Tự nhiên- xã hội lớp 2+ 3:
1. Kiến thức:
Có một số kiến thức cơ bản, ban đầu về:
 Con người và sức khỏe (cơ thể người, cách giữ vệ sinh cơ thể và phòng
tránh bệnh tật, tai nạn)
 Một số sự vật, hiện tượng đơn giản trong tự nhiên và xã hội.
2. Kĩ năng:
Bước đầu hình thành và phát triển những kĩ năng:
 Tự chăm sóc sức khỏe cho bản thân, ứng xử hợp lí trong đời sống để
phòng chống một số bệnh tật và tai nạn.


 Quan sát, nhận xét, nêu thắc mắc, đặt câu hỏi, biết cahcs diễn đạt những
hiểu biết của mình về các sự vật, hiện tượng đơn giản trong tự nhiện và
xã hội.
3. Thái độ:
Hình thành và phát triển những thái độ và hành vi:
 Có ý thức thực hiện các quy tắc giữ vệ sinh, an toàn cho bản thân, gia
đình và cộng đồng.
 Yêu thiên nhiên, gia đình, trường học, quê hương.
II. Những thuận lợi và khó khăn trong day- học môn Tự nhiên- xã hội:

1. Thuận lợi:
- Với chương trình Tự nhiên và Xã hội, giáo viên được hướng dẫn cách xây
dựng thiết kế bài học theo hướng mới có phân chia từng hoạt động cụ thể, rõ
ràng, có chỉ dẫn các phương pháp theo từng chủ đề.
- Ngay từ đầu năm học, giáo viên được học tập, bồi dưỡng về các phương
pháp, kĩ thuật dạy học tích cực của Phòng Giáo duc, nhà trường tổ chức.
- Nội dung môn học được xây dựng theo hướng tích hợp phù hợp với đặc
điểm của học sinh.
- Nhiều HS say mê học hỏi, tìm tòi để hiểu về thế giới Tự nhiên, Xã hội và
thế giới con người xung quanh các em .
2. Khó khăn:
- Giáo viên còn thiếu kinh nghiệm với cách tổ chức hoạt động tích cực cho
HS lĩnh hội kiến thức. Hoặc có tổ chức thì còn lúng túng, mất thời gian, qua loa.


- Một số giáo viên chưa coi trọng đồ dùng dạy học của bộ môn hoặc ngại
dùng, có chuẩn bị song thao tác còn vụng về, lúng túng. Do vậy khiến các em
không thích thú với môn học, hiệu quả giờ học không cao.
- Một số học sinh còn thiếu vốn hiểu biết về cuộc sống xã hội, các hiện
tượng tự nhiên. Các em diễn đạt còn kém, lúng túng khi tham gia các hoạt động
như thảo luận nhóm, trò chơi, trình bày bài làm.
- Học sinh chưa tích cực, chủ động trong việc học: mọi sự chuẩn bị cho tiết
học phụ thuộc vào thầy cô, cha mẹ.
Chính vì vậy mục tiêu phát huy tính tích cực của học sinh là vấn đề cần thiết .
mỗi GV cần vận dụng có hiệu quả các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực,
bắt nhịp với việc đổi mới chung của ngành Giáo dục và cũng chính là để học
sinh chủ động trong học tập có phương pháp tự chiếm lĩnh, tự tìm kiếm kiến
thức mới trở thành người năng động, sáng tạo.
3. Tìm hiểu nguyên nhân:
Việc dạy học Tự nhiên và Xã hội đôi khi diễn ra còn khô khan, cứng

nhắc, mang tính chất đối phó cho đầy đủ chương trình. Học sinh, phụ huynh và
thậm chí cả giáo viên vẫn cho rằng môn học này là phụ nên không chuyên tâm
để ý, nên hay bị cắt giảm thời lượng để dành thời gian cho hai môn học
chính:Toán và Tiếng Việt vốn có lượng kiến thức nhiều.
Hiện nay, việc áp dụng các kĩ thuật dạy học tích cực vào giảng dạy còn hạn chế.
Nguyên nhân là do một số giáo viên vẫn còn có quan điểm cho rằng những kĩ
thuật dạy học tích cực rất khó áp dụng vào giảng dạy trong thời gian từ 35-40
phút trên lớp nên cũng rất ít sử dụng các kĩ thuật này. Ngoài ra còn do cơ sở vật
chất phục vụ cho việc dạy học chưa đảm bảo cho việc đổi mới phương pháp dạy
học.
Qua những tiết dự giờ tổ thấy giáo viên hạn chế trong việc vận dụng
phương pháp cũng như kĩ thuật dạy học tích cực nên chủ yếu học sinh tiếp thu


nhanh tham gia học tập, số học sinh tiếp thu chậm ít có cơ hội tham gia hoạt
động. Chính vì thế việc học tập thường ít hứng thú, nội dung đơn điệu, giáo viên
ít quan tâm đến phát triển năng lực cá nhân.
+ Nhiều em còn xem nhẹ phân môn Tự nhiên- xã hội, chưa có thái độ, phương
pháp học tập đúng đắn. Vì thế học sinh chưa có ý thức tự tìm hiểu các nội dung
liên quan đến bài học (Kiến thức thực tế hạn chế).
+ Nhiều em trình bày chưa chặt chẽ, thiếu mạnh dạn, tự tin; kỹ năng giao tiếp
còn hạn chế nên khó đạt yêu cầu đề ra do vốn từ còn hạn chế, khả năng phân
tích, tổng hợp chưa cao.

III. Vận dụng một số phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực để nâng cao
chất lượng dạy học Tự nhiên- xã hội lớp 2+ 3"
Xuất phát từ cơ sở thực trạng nói trên, tổ chuyên môn nhận thấy việc nghiên
cứu đổi mới phương pháp và vận dụng kĩ thuật dạy học tích cực trong dạy môn
Tự nhiên- xã hội là một trong những việc làm cần thiết nhằm từng bước khắc
phục, tháo gỡ dần thực trạng nói trên để nâng cao hiệu quả giờ dạy và tạo điều

kiện cho mọi đối tượng học sinh trong lớp tham gia vào việc lĩnh hội kiến thức.
Có rất nhiều phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực mà người giáo viên có thể
sử dụng trong quá trình giảng dạy để phát huy tính tích cực của học sinh. Tuy
nhiên trong chuyên đề này chỉ mới đề cập đến một số phương pháp, kỹ thuật
dạy học tích cực có thể sử dụng trong giảng dạy Tự nhiên- xã hội. Bao gồm: kỹ
thuật mảnh ghép, kỹ thuật đặt câu hỏi, kỹ thuật chia nhóm- tổ chức hoạt động
nhóm, phương pháp đóng vai, phương pháp trò chơi, phương pháp Bàn tay nặn
bột.
1. Kỹ thuật đặt câu hỏi:


1.1. Khái niệm: Đặt câu hỏi là việc GV đặt câu hỏi để HS trả lời hoặc để HS đặt
câu hỏi cho GV để nhận thức kiến thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo và phát triển
năng lực, phẩm chất. Dùng trong hầu hết các môn học và nhiều loại bài học (lý
thuyết, thực hành)
1.2. Tầm quan trọng của việc đặt câu hỏi:
Trong dạy học nói chung và môn Tự nhiên và Xã hội nói riêng, hệ thống
câu hỏi của giáo viên có vai trò quan trọng, là một trong những yếu tố quyết
định chất lượng việc lĩnh hội, tìm tòi kiến thức của học sinh. Thay cho việc
thuyết trình, đọc chép, nhồi nhét kiến thức, giáo viên phải chuẩn bị hệ thống các
câu hỏi để học sinh suy nghĩ, phát hiện kiến thức, phát triển nội dung bài học,
đồng thời khuyến khích học sinh động não tham gia thảo luận xoay quanh
những ý tưởng, nội dung của bài học theo trật tự logic. Hệ thống câu hỏi còn
nhằm định hướng, dẫn dắt cho học sinh từng bước phát hiện ra bản chất của sự
vật, quy luật của hiện tượng, kích thích tính tích cực tìm tòi, sự ham hiểu biết.
Trong quá trình nêu câu hỏi, giáo viên là người tổ chức, học sinh chủ động tìm
tòi, sáng tạo, phát hiện kiến thức mới. Đồng thời qua đó học sinh có được niềm
vui, hứng thú của người khám phá và tự tin khi thấy mình được cùng với các
bạn tìm ra kiến thức mới. Kết quả là học sinh vừa lĩnh hội được kiến thức mới
đồng thời biết được con đường tìm ra kiến thức đó, trưởng thành thêm một bước

về trình độ tư duy. Như vậy không những khắc sâu được kiến thức mà còn phát
triển tư duy cho học sinh.
1.3. Nguyên tắc đặt câu hỏi:
Đặt câu hỏi là một trong những kỹ năng hết sức hữu ích mà giáo viên cần phát
triển. Trong một giờ dạy, người giáo viên giỏi luôn biết sử dụng nhiều câu hỏi
với nhiều mục đích khác nhau. Ở một chừng mực nhất định, việc đặt câu hỏi là
quá đơn giản bởi đó là việc mà tất cả chúng ta làm hàng ngày. Tuy nhiên, người
đặt câu hỏi cũng phải có kỹ năng, kĩ thuật và hiểu biết thì mới có thể diễn đạt


câu hỏi một cách rõ ràng, chính xác, tung ra câu hỏi đúng thời điểm để đem lại
hiệu quả tối đa, và khai thác câu trả lời để đặt câu hỏi tiếp theo. Khi đặt câu hỏi
cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Câu hỏi phải liên kết logic với bài học.
- Ngôn ngữ trình bày câu hỏi rõ vấn đề hỏi (từ nghi vấn phù hợp).
- Phù hợp với trình độ tư duy của lứa tuổi HS, kích thích HS suy nghĩ (hạn chế
câu hỏi nhắc lại thuần túy).
- Đặt câu hỏi đúng lúc và đúng chỗ (đúng lúc HS đang suy nghĩ, đúng chỗ có
vấn đề trong bài học).
1.4. Vận dụng kỹ thuật đặt câu hỏi trong giảng dạy Tự nhiên- xã hội lớp 2+ 3:
- Dùng trong hầu hết các bài học trong cả ba chủ đề: Con người và sức
khoẻ; Xã hội ; Tự nhiên
- Dùng trong tất cả các phần của quá trình học (trải nghiệm để Khởi động,
Khám phá, Luyện tập, Vận dụng, Mở rộng)
1.5. Ví dụ minh họa:
Sau đây là một ví dụ cụ thể khi dạy bài "Rễ cây" - TN& XH lớp 3.
Mục tiêu chính của bài học là: Giúp học sinh nhận biết được rễ cây được chia
làm hai loại chính là rễ cọc và rễ chùm. Để giúp học sinh đạt được mục tiêu này
tôi đã sử dụng hệ thống các câu hỏi từ khâu đầu tiên của bài học tới khâu phát
hiện tình huống có vấn đề sau đó tổ chức cho học sinh tìm ra kiến thức mới.

Hệ thống câu hỏi của GV
Trước khi đưa ra hệ thống câu hỏi,
giáo viên chuẩn bị 2 chậu cây: chậu
cây rau rền, chậu cây hành cho học
sinh quan sát.

Hoạt động của HS


1. Các con nhìn thấy những bộ phận
nào của cây?
2. Bộ phận nào của cây các con chưa
nhìn thấy?
3. Rễ cây ở đâu mà ta không nhìn thấy?

- thân, lá, cành,.....
- Bộ phận chưa nhìn thấy là rễ của cây
- Vì rễ cây mọc ở đất. Vì đất che kín rễ
cây,....
- Rễ cây có 3 loại, có 2 loại, rễ cây rất

4. Theo các con, rễ cây như thế nào?
Có mấy loại rễ cây?

nhỏ, rễ cây rất to, rễ cây có màu trắng,
rễ cây có màu nâu, rễ cây rất dài, rễ cây
giống râu ngô, rễ cây giống cái cọc cắm
xuống đất,.....
- Chúng con xem báo, xem sách, xem


5. Tại sao các em biết được điều đó?

trong mạng, quan sát được khi trồng
cây...

6. Em nào có thể lấy ví dụ chứng minh
điều mình nói là đúng?
7. Bây giờ các em quan sát cây rau rền,
cây hành và trao đổi trong nhóm để trả
lời câu hỏi:

- HS tự nêu VD
- HS thích thú quan sát 2 cây rau rền,
cây hành .
- HS mạnh dạn mô tả trong nhóm đặc
điểm rễ của từng cây.

a. Rễ của cây rau rền mọc thế nào? Rễ + Cây rau rền có một rễ chính to, dài
của cây đó là loại rễ gì?
mọc từ gốc, xung quanh rễ đó có nhiều
rễ phụ nhỏ đâm ra. Rễ cây mọc như vậy
gọi là rễ cọc.
b. Rễ của cây hành mọc như thế nào?
Rễ của cây đó là loại rễ gì?

+ Cây hành có nhiều rễ con mọc đều ra
từ gốc tạo thành từng chùm. Rễ cây
mọc như vậy gọi là rễ chùm.



8. Theo các em có mấy loại rễ cây

- HS khẳng định có 2 loại rễ cây là rễ
cọc và rễ chùm.

9. Các em có chắc chắn điều mình nói - HS quan sát và đưa ra kết luận
là đúng không?
(Cho HS quan sát ảnh cây trầu
không, cây củ cải để HS đưa ra câu trả
lời)
- Dưới sự hướng dẫn của giáo viên HS
=> Dựa vào những câu hỏi dẫn dắt của
giáo viên, kết hợp với quan sát cây cụ
thể và những hiểu biêt thực tế của
mình, các em đã chứng minh được
những dự đoán ban đầu của mình là

rút ra được kết luận: Có 2 loại rễ chính
là rễ cọc và rễ chùm. Ngoài ra một số
cây còn có rễ phụ (trầu không, vạn niên
thanh,...), một số cây có rễ phình ra từ
củ (củ cải đường, củ cà rốt,...

đúng hay chưa đúng. Từ đó các em chủ
động chiếm lĩnh được kiến thức của bài
mới và đưa ra được kết luận.
Với hệ thống câu hỏi logic, khoa học đảm bảo từ dễ tới khó nên tiết học
diễn ra rất sôi nổi hào hứng. Các em thích thú tìm hiểu kiến thức mới ngay từ
những câu hỏi dẫn dắt ban đầu. Trong quá trình các em tìm hiểu kiến thức mới,
em nào cũng chăm chú quan sát để trả lời các câu hỏi mà giáo viên đưa ra. Từ

đó các em chủ động nắm kiến thức mới một cách tự nhiên không gò bó.-> Đó
chính là sự thành công của tiết học. Vậy khi đặt câu hỏi chúng ta cần đảm bảo
các nguyên tắc sau:
Câu hỏi phải đảm bảo tính sư phạm: dễ hiểu, rõ ràng, ngắn gọn, vừa sức đối với
học sinh (câu 1, 2, 3). Câu 1,2 các em đều có thể trả lời được dựa vào kiến thức
cũ và vốn hiểu biết thực tế.
Câu hỏi phải đảm bảo tính lô gic, tính hệ thống đảm bảo theo dụng ý sư phạm
nhất quán, phải liên quan tới việc thực hiện mục tiêu bài học. Câu 4 là câu hỏi


nêu vấn đề. Câu hỏi trọng tâm xoáy vào mục tiêu bài học (hay còn gọi "Câu hỏi
có vấn đề") và được móc xích, tiếp nối từ câu 1, 2, 3.
Câu hỏi phải đảm bảo được tính đa dạng và tính phát triển liên tục theo mức độ
phát triển của kiến thức và trình độ học tập của học sinh. Câu 5,6 là các câu hỏi
kiểm tra vốn hiểu hiểu biết của các em. Câu 7 là câu hỏi dẫn dắt gợi mở cho HS
tìm ra kiến thức mới. Câu hỏi này định hướng cho các em tìm ra kiến thức và
giúp học sinh mạnh dạn tự tin khi cùng chia sẻ với bạn trong nhóm. Câu này
mang tính chất phát triển cho các câu hỏi trước đó. Câu hỏi 9 có tính chất nâng
cao, mở rộng kiến thức cho các em, phù hợp với mức 4 theo như đánh giá của
thông tư 22. Đây cũng chính là vấn đề cốt lõi để đảm bảo 4 mức độ kiến thức
trong một giờ học. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu kiểm tra đánh giá
theo thông tư 22 (4 mức độ kiến thức).
Đặt câu hỏi chính là trọng tâm của sự giao tiếp và trao đổi thông tin giữa giáo
viên và học sinh trong các giờ học. Để đạt được mục đích sư phạm của mình
trong các giờ học thì kĩ thuật đặt câu hỏi cần phải khéo léo, đảm bảo các nguyên
tắc như đã nêu. Có như vậy mới góp phần tạo nên thành công của một khâu học
tập hoặc một tiết học.
2. Kĩ thuật Chia nhóm và tổ chức hoạt động nhóm:
Đây là một trong những phương pháp được sử dụng rộng rãi trong tiết Tự
nhiên và Xã hội . Bởi việc tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm là đặc biệt

quan trọng. Trước hết nó cho phép học sinh có nhiều cơ hội hơn để diễn đạt và
khám phá ý tưởng của các em, mở rộng suy nghĩ, hiểu biết đồng thời rèn luyện
kĩ năng nói. Nó cũng cho phép học sinh có cơ hội để học hỏi từ các bạn cùng
nhóm. Nó phát huy vai trò trách nhiệm của các thành viên trong nhóm, điều đó
làm phát triển kĩ năng xã hội và hình thành tính cách trẻ thơ…
Tùy từng bài học, tùy từng hoạt động dạy học ta có thể tổ chức hoạt động
nhóm ở ngoài lớp học hay trong lớp học cho phù hợp. Thường xuyên thay đổi


các hình thức chia nhóm, để mỗi học sinh có thể được lập nhóm với các bạn
khác nhau trong lớp :
+ Chia nhóm theo cặp
+ Chia nhóm theo bàn.
+ Chia nhóm theo tổ.
+ Chia nhóm theo sở thích của học sinh.
+ Chia nhóm theo trình độ học sinh.
+ Chia nhóm theo thứ tự trong sổ lớp.
Tuy nhiên dù thảo luận nhóm trong bất kỳ hình thức nào (ở ngoài lớp học hay ở
trong lớp học) đều phải tiến hành theo các bước sau:
- Bước 1: Chia nhóm chuẩn bị thảo luận.
- Bước 2: Giao nhiệm vụ rõ ràng cụ thể cho từng nhóm.
- Bước 3: Làm việc theo nhóm.
- Bước 4: Tổng kết thảo luận chung cả lớp.
* Ví dụ minh họa:
a. Hoạt động nhóm trong lớp học:
Ví dụ: Bài 4: Làm gì để xương và cơ thể bạn phát triển tốt?- Lớp 2
Thảo luận: Hoạt động 1:Làm gì để xương và cơ thể phát triển tốt?
Mục tiêu:
- Nêu được những việc cần làm để xương và cơ thể phát triển tốt.
- Giải thích tại sao không nên mang những vật quá nặng.

Bước 1: Chia nhóm chuẩn bị thảo luận:


- Chia nhóm: Ở hoạt động này giáo viên chia theo cặp: 2 học sinh ngồi cạnh
nhau tạo thành 1 cặp (mỗi bàn 2 học sinh/1 cặp)
Chia nhóm theo cặp không cần thiết phải cử nhóm trưởng và thư ký nhóm.
-Nêu thời gian thảo luận: 7 phút
Bước 2:Giao nhiệm vụ rõ ràng cụ thể cho từng nhóm:
- Mỗi cặp thảo luận 2 vấn đề sau:
+ Quan sát 1, 2, 3, 4, 5 trong sách giáo khoa trang 10, 11 nói với nhau về nội
dung các hình đó (giáo viên treo tranh vẽ lên bảng để học sinh quan sát).
+ Thảo luận: "Nên và không nên làm gì để cơ và xương phát triển tốt?"
- Gọi 3 - 4 học sinh nhắc lại nhiệm vụ thảo luận ( 2 vấn đề trên)
- Hướng dẫn cách làm việc: Các em quan sát kỹ lần lượt từng hình: bạn số 1 nói
về nội dung hình 1, bạn số 2 nghe và bổ sung thêm. Bạn số 2 nói về nội dung
hình 2, bạn số 1 nghe và bổ sung … cứ như thế tiếp tục thay đổi người nói và
người nghe đến hình 5.
- Sau khi thảo luận xong vấn đề 1, chuyển sang thảo luận vấn đề 2: "Nên và
không nên làm gì để cơ và xương phát triển tốt?" Các em lần lượt đưa ra ý kiến
thảo luận một cách sôi nổi nhẹ nhàng nhưng không được cãi cọ gây mất trật tự.
Bước 3: Làm việc theo nhóm:
- Các cặp tự thảo luận, bạn số 1 nêu ý kiến, bạn số 2 nghe để cùng trao
đổi, bàn bạc phân tích …
- Trong quá trình các cặp thảo luận giáo viên theo dõi uốn nắn cho học
sinh. Có cặp chỉ nhận ra hình 2 là một bạn đang ngồi học. Giáo viên hướng dẫn
học sinh quan sát tư thế ngồi học của bạn đó như thế nào? … Hình 4 là một bạn
đang xách thùng, hình 5 là một bạn đang xách thùng nước. Giáo viên cần hướng


dẫn cho học sinh so sánh bạn ở hình 4 và bạn ở hình 5 để nhận ra bạn nào đang

sách nặng? Tại sao ta không nên xách vật nặng?...
Một số cặp còn lúng túng khi thảo luận vấn đề 2: "Nên và không nên
làm gì để cơ và xương phát trển tốt?" Giáo viên hướng dẫn học sinh và việc
quan sát kỹ các hình vừa thảo luận để tìm ra đáp án.
Bước 4: Tổng kết thảo luận chung cả lớp:
- Gọi đại diện 5 cặp lên trình bày những điều các em vừa thảo luận (mỗi
cắp nói về một hình).
- Các nhóm khác bổ sung.
Gọi 3 - 4 nhóm trình bầy kết quả thảo luận vấn đề 2.
Từ kết quả thảo luận của học sinh, giáo viên kết luận…
b. Hoạt động nhóm ngoài lớp:
Cùng với những hoạt động nhóm trong lớp học là những hoạt động nhóm
ngoài lớp học. Giáo viên cần tận dụng những điều kiện cơ sở vật chất của
trường và các bài, các hoạt động có nội dung thích hợp để đưa học sinh ra ngoài
trời thay đổi mạnh mẽ cách tổ chức học tập, có nhiều bài có khả năng như vậy:
như bài: "Giữ sạch môi trường xung quanh nhà ở". "Thực hành: Giữ trường
học sạch đẹp"; "cuộc sống xung quanh"; "Một số loài cây sống trên cạn"; "
Một số loài cây sống dưới nước"; "Mặt trời và phương hướng"…
Khi tổ chức hoạt động nhóm ngoài trời phải đặc biệt chú ý phân công từng vị
trí nhất định.
Ví dụ: Bài: Trường học (SGK trang32)
Thảo luận: Hoạt động 1: Quan sát trường học .
Mục tiêu: Biết quan sát mô tả một cách đơn giản cảnh quan của trường mình.
Bước 1: Chia nhóm chuẩn bị thảo luận .


- Chia lớp thành 4 nhóm (mỗi nhóm là một tổ )
- Cử nhóm trưởng :giáo viên chỉ định bất kì một học sinh nào làm nhóm
trưởng cũng được. Nhóm trưởng làm thư ký (nếu cần).
- Nêu thời gian thảo luận: 10 phút

Bước 2: Giao nhiệm vụ rõ ràng cụ thể cho từng nhóm :
- Nhóm 1:Quan sát biển trường, nêu tên trường ,địa chỉ nơi trường đóng.
- Nhóm 2: Quan sát các lớp học,nói tên vị trí của từng khối lớp.
- Nhóm 3: Ngoài các lớp học trường mình còn có các phòng nào khác,
quan sát các phòng đó .
- Nhóm 4: Quan sát nhận xét sân trường, vườn trường.
+ Gọi 4 học sinh trả lời: Con ở nhóm nào?
+ Gọi 4 học sinh khác trả lời: Nhóm con có nhiệm vụ gì?
- Hướng dẫn cách lam việc: các nhóm được phân công làm nhiệm vụ gì sẽ đi tới
khu vực đó, quan sát bên ngoài và bên trong các phòng (cho học sinh vào bên
trong các phòng thư viện, hoạt động đội, y tế …để quan sát). Rồi nhận xét xem
chúng nằm ở vị trí nào hoặc có đặc điểm gì, rộng hay hẹp ?...
Các nhóm ghi lại những điều đã quan sát được. Sau 10 phút quan sát, các
con về lớp báo cóa kết quả. Chú ý khi làm việc cần thảo luận sôi nổi nhưng đảm
bảo trật tự để khỏi làm ảnh hưởng đến các lớp học khác.
Bước 3: Làm việc theo nhóm.
Các nhóm đi đến vị trí được phân công làm việc. Giáo viên đi cùng một nhóm
và bao quát các nhóm khác. Trong quá trình làm việc nếu có học sinh hỏi :"
Thưa cô phòng thư viện có nhiều sách báo như vậy có cho chúng con mượn về
nhà đọc không ạ?". Giáo viên trả lời: "Sách báo để cho mọi học sinh đọc trong


giờ nghỉ tại thư viện, hoặc có thể mượn về nhà đọc nhưng phải tuân theo nội
quy của thư viện…".
Tùy từng câu hỏi của học sinh - giáo viên có thể trả lời ngay hoặc dùng câu hỏi
gợi ý để học sinh tự tìm câu trả lời.

Bước 4:Tổng kết thảo luận chung cả lớp.
- Giáo viên yêu cầu học sinh quay về lớp học để báo cáo kết quả :
- Gọi đại diện 4 nhóm lên trình bày kết quả :

- Các nhóm khác nhận xét bổ sung (nếu cần) :về nội dung và cách diễn đạtkhi
trình bày kết quả thảo luận của từng nhóm.
- Học sinh tự rút ra kết luận:
Giáo viên khen những nhóm có ý thức làm việc tốt đạt kết quả cao trong thảo
luận, khen các em trình bày rõ ràng, mạch lạc kết quả thảo luận trước lớp …
3. Phương pháp đóng vai:
3.1.Khái niệm:
Phương pháp đóng vai là cách tổ chức học sinh tham gia giải quyết một tình
huống của nội dung học tập gắn liền với thực tế cuộc sống bằng cách diễn xuất
một cách ngẫu hứng mà không cần kịch bản hoặc luyện tập trước .
3.2.Tác dụng:
– Phát huy trí tưởng tượng và xâm nhập vào cuộc sống.
– HS được rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề một cách tự nhiên và hợp lí, hoặc
diễn lại một tiểu phẩm lịch sử, trong đó các nhân vật có nhiều lời đối thoại.
3.3.Cách tiến hành:


- Bước 1: Giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh: yêu cầu đóng vai cho nhóm,
thời gian cho việc chuẩn bị đóng vai.
- Bước 2: Các nhóm chuẩn bị đóng vai: phần lời của từng vai cần nhớ, phần
diễn của từng vai, phối hợp diễn thử các vai.
- Bước 3: Từng nhóm trình bày đóng vai (diễn).
- Bước 4: Nhận xét / thảo luận về việc đóng vai theo các tiêu chí về lời và
hành động diễn có thể hiện đúng nội dung chính của bài và gây cảm xúc tích
cực cho người xem không.
- Bước 5: Kết luận được rút ra từ nhiệm vụ đóng vai tập trung vào hiểu, vận
dụng kiến thức kỹ năng mới của bài và thực tiễn.
* Ví dụ minh họa: Bài 14: Phòng tránh ngộ độc khi ở nhà
Tổ chức đóng vai theo tình huống: “Em của bạn tình cở uống phải một thứ độc
hại ở trong nhà. Bạn đang chơi ngoài sân thì nhìn thấy em khóc, kêu đau bụng

và rất sợ hãi đi về phía mình. Em sẽ làm gì nếu gặp tình huống đó?
Giáo viên theo dõi học sinh đóng vai, hướng dẫn học sinh nhận xét đánh giá
cách ứng xử của bạn để đưa ra cách làm đúng (hỏi nhanh xem em đã uống gì,
kêu cứu và nhở người lớn hoặc gọi cấp cứu, đưa ngay em và vỏ chai đến cán bộ
y tế.
4. Kỹ thuật mảnh ghép:
41..Khái niệm:
Kỹ thuật mảnh ghép là kĩ thuật tổ chức hoạt động học tập hợp tác kết hợp giữa
cá nhân, nhóm và liên kết giữa các nhóm nhằm mục tiêu:
 Giải quyết một nhiệm vụ phức hợp
 Kích thích sự tham gia tích cực của học sinh trong hoạt động nhóm


- Nâng cao vai trò của cá nhân trong quá trình hợp tác (Không chỉ nhận
thức hoàn thành nhiệm vụ ở Vòng 1 mà còn phải truyền đạt kết quả và hoàn
thành nhiệm vụ ở Vòng 2)
- Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của mỗi cá nhân
4.2 Cách tiến hành
Kỹ thuật mảnh ghép được tiến hành qua 2 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: “Nhóm chuyên sâu”: Lớp học được chia thành các nhóm, mỗi
nhóm được giao nhiệm vụ tìm hiểu sâu 1 vấn đề. Sau 1 thời gian nhất định thảo
luận, mỗi thành viên trong nhóm đều nắm vững và trình bày được kết quả của
nhóm.
- Giai đoạn 2: “Nhóm mảnh ghép”: Sau khi hoàn thành nhiệm vụ ở giai đoạn 1,
mỗi học sinh ở các nhóm chuyên sâu khác nhau lại tập hợp lại thành nhóm mới
là nhóm mảnh ghép. Và nhóm “mảnh ghép” nhận được một nhiệm vụ mới,
nhiệm vụ này mang tính khái quát, tổng hợp toàn bộ nội dung đã được tìm hiểu
từ các nhóm “chuyên sâu”.
Tuy nhiên trong quá trình vận dụng GV có thể tổ chức linh hoạt hoặc kết hợp
với kĩ thuật dạy học khác để mang lại hiệu quả cao

Ví dụ: Bài tìm hiểu các bộ phận của thân cây
- Giai đoạn 1: Các nhóm thảo luận các chủ đề sau:
Chủ đề A: Tìm hiểu về thân,rễ cây?
Chủ đề B: Tìm hiểu về lá cây?
Chủ đề C: Tìm hiểu về hoa và quả?
Lớp có 30 học sinh, có 15 bàn học.


Giáo viên có thể chia thành 6 nhóm: mỗi nhóm gồm học sinh 3 bàn ghép lại
(mỗi nhóm có 5 học sinh). Giao nhiệm vụ: nhóm 1,2 nhận chủ đề A, nhóm 3,4
nhận chủ đề B, nhóm 5,6 nhận chủ đề C.
Phát phiếu học tập cho học sinh. Trên phiếu học tập theo màu có đánh số từ 1 đ.
Thông báo cho học sinh thời gian làm việc cá nhân và theo nhóm
- Giai đoạn 2: Giáo viên thông báo chia thành 10 nhóm mới : mỗi nhóm 1 bàn
(mỗi nhóm có từ 3học sinh): nhóm 1 gồm các học sinh có phiếu học tập mang
số 1,2; nhóm 2 gồm các học sinh có phiếu học tập mang số 3,4; nhóm 3 gồm
các học sinh có phiếu học tập mang số 5; nhóm 4 gồm các học sinh có phiếu
học tập mang số 6; Giáo viên thông báo thời gian làm việc nhóm mới
Các chuyên gia sẽ trình bày ý kiến của của nhóm mình ở vòng 1
Giao nhiệm vụ mới: Em hiểu các bộ phận của cây như thế nào?
Phương pháp này rất hay,áp dụng tốt trong các tiết dạy, làm cho HS phát huy hết
khả năng của mình và ngày càng chủ động hơn, tích cực hơn, tránh nhàm chán
trong các giờ học cứng nhắc.Tuy nhiên, phương pháp này áp dụng hiệu quả nhất
ở các khối 3.
5. Phương pháp trò chơi:
5.1. Khái niệm: Trò chơi học tập là trò chơi có nội dung gắn với hoạt động học
tập của học sinh.
5.2.Tác dụng của trò chơi học tập:
– Làm thay đổi hình thức học tập;
– Làm cho không khí học tập trong lớp học được thoải mái và dễ chịu hơn;

– Làm cho quá trình học tập trở thành một hình thức vui chơi hấp dẫn;
– Học sinh thấy vui, nhanh nhẹn và cởi mở hơn;
– Học sinh tiếp thu tự giác và tích cực hơn;


– Học sinh được củng cố và hệ thống hoá kiến thức.
5.3. Các yêu cầu của trò chơi học tập:
– Các trò chơi phải thú vị để học sinh thích được tham gia;
– Phải thu hút được đa số (hay tất cả) học sinh tham gia;
– Các trò chơi phải đơn giản, dễ thực hiện;
– Các trò chơi không được tốn nhiều thời gian, sức lực để không ảnh hưởng đến
các hoạt động tiếp theo của tiết học hoặc ảnh hưởng đến các tiết học khác;
– Quan trọng hơn, trò chơi phải có mục đích học tập, không đơn thuần là trò
chơi giải trí.
5.4.Cách xây dựng một trò chơi học tập:
Giáo viên có thể lựa chọn bất kì một hoạt động nào để tổ chức thành trò chơi
bằng cách vận dụng các nhân tố cơ bản của trò chơi:
- Phải có tính thi đua giữa các cá nhân và các nhóm;
- Có quy định về sự “thưởng”, “phạt”
- Có cách chơi rõ ràng (bao gồm cả thời gian)
- Có cách tính điểm.
5.5.Cách tổ chức một trò chơi:
- Giới thiệu tên trò chơi, hướng dẫn cách chơi, thời gian chơi và phổ biến luật
chơi.
- Cho học sinh chơi thử (nếu cần).
- Chơi thật.
- Nhận xét kết quả của trò chơi (có thể “thưởng” hoặc “phạt” người thắng
hoặc người thua), nhận xét thái độ của người tham dự và rút kinh nghiệm.



- Kết thúc: GV hỏi xem học sinh đã học được gì qua trò chơi hoặc giáo viên
tổng kết lại những gì cần học qua trò chơi này.
5.6.Ví dụ minh họa:
Bài 32: Mặt Trời và phương hướng
Để củng cố cách tìm phương hướng Mặt Trời, giáo viên tổ chức cho học sinh
chơi trò chơi: “Mặt Trời ”
– Yêu cầu HS quan sát hình 3 trang 66 SGK và dựa vào hình vẽ để nói về các
bước xác định phương hướng Mặt Trời theo nhóm.
– Đại diện các nhóm trình bày kết quả của mình. Giáo viên nhắc lại nguyên tắc
xác định phương hướng bằng Mặt Trời.
– Chơi trò chơi: mỗi nhóm 7 người (một bạn là người đứng làm trục, 1 bạn đóng
vai Mặt Trời, 4 bạn đóng vai 4 phương, 1 bạn làm quản trò)
Khi người quản trờ nói: “Ò ó o … mặt trời mọc”, bạn HS làm Mặt Trời sẽ chạy
ra đứng vào một chỗ nào đó, bạn làm trục sẽ chạy theo và đứng dang tay như
hình vẽ, các bạn còn lại sẽ đứng vào vị trí các phương.
Bạn nào đứng sai vị trí là thua. Giáo viên tuyên dương nhóm làm đúng.
6. Phương pháp “Bàn tay nặn bột” :
6.1. Khái quát về phương pháp “Bàn tay nặn bột”
Phương pháp dạy học “Bàn tay nặn bột” là phương pháp dạy học khoa học dựa
trên cơ sở của sự tìm tòi – nghiên cứu, áp dụng cho việc dạy học các môn khoa
học tự nhiên.
Theo phương pháp Bàn tay nặn bột, dưới sự giúp đỡ của giáo viên, chính học
sinh tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến
hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra để từ đó hình thành
kiến thức cho mình.


Phương pháp dạy học “Bàn tay nặn bột” luôn coi học sinh là trung tâm của quá
trình nhận thức, chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội kiến thức
dưới sự giúp đỡ của giáo viên.

Mục tiêu của phương pháp dạy học “Bàn tay nặn bột” là tạo nên tính tò mò,
ham muốn khám phá, yêu và say mê khoa học của học sinh. Ngoài việc chú
trọng đến kiến thức khoa học, phương pháp dạy này còn chú ý nhiều đến việc
rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho học sinh.
6.2.Tiến trình dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”
Có thể tiến hành dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” qua các bước:
– Bước 1: Đưa tình huống xuất phát.
– Bước 2: Làm bộc lộ những hiểu biết ban đầu của học sinh.
– Bước 3: Đề xuất các câu hỏi hay giả thiết, phương án tìm tòi.
– Bước 4: Thực hiện phương án tìm tòi khám phá.
– Bước 5: Kết luận và hợp thức hóa kiến thức.
6.3.Ví dụ minh họa:
Bài 33: Mặt Trăng và các vì sao- Lớp 3:
* Bước 1: .Đưa ra tình huống xuất phát và nêu vấn đề:
GV nêu: Các em biết gì về Mặt Trăng trong tự nhiên?
* Bước 2: Làm bộc lộ những hiểu biết ban đầu của học sinh.
- Yêu cầu học sinh hãy tưởng tượng về Mặt Trăng sau đó, vẽ, viết vào vở
thí nghiệm.
- Gọi HS giới thiệu với các bạn về bài làm của mình. Gắn các bài làm của cả
lớp để học sinh quan sát.
* Bước 3: Đề xuất các câu hỏi hay giả thiết, phương án tìm tòi.


- Qua phần trình bày của các bạn, lớp mình rất ham hiểu biết, biết tự tìm hiểu
về Mặt Trăng. Vậy các bạn có băn khoăn, muốn hỏi gì về Mặt Trăng không?
+ Mặt Trăng có hình gì?
+ Vì sao Mặt Trăng có hình lưỡi liềm?
+ Ánh sáng Mặt Trăng có giống ánh sáng Mặt Trời không?
+ Có phải Mặt Trăng có ánh sáng màu vàng không?
+ Mặt Trăng có chiếu sáng không?

+ Mặt Trăng có sưởi ấm chúng ta không?
+ Mặt Trăng ở xa hay gần Trái ………………
- Giáo viên chốt lại các câu hỏi sẽ trả lời trong bài:
+ Mặt Trăng có hình gì?
+ Mặt Trăng ở xa hay gần Trái Đất?
+ Mặt Trăng có phát ra ánh sáng không?
+ Mặt Trăng có sưởi ấm Trái Đất không?
- Muốn biết sự tưởng tượng của các bạn có giống với Mặt Trăng thật không
mình kiểm tra bằng cách nào? (Xem SGK, xem tivi, xem trên máy tính, xem
trong sách, báo, tìm trong thư viện,…). Thống nhất cách quan sát hình vẽ và
nghiên cứu tài liệu.
* Bước 4: Thực hiện phương án tìm tòi khám phá.
- Trước khi quan sát, yêu cầu học sinh cùng viết dự đoán vào vở thí nghiệm
với các mục như sau:
Câu hỏi
– Mặt Trăng có hình gì?- Mặt
Trăng ở xa hay gần Trái Đất– Mặt

Dự đoán

Cách tiến hành Kết luận


Trăng có phát ra ánh sáng không?–
Mặt Trăng có sưởi ấm chúng ta
không?
- Các em sẽ hoạt động trong nhóm. Hãy cùng quan sát 3 bức tranh sau và tài
liệu, xem video. Sau đó các nhóm sẽ thảo luận để tìm câu trả lời cho câu hỏi và
điền thông tin vào mục còn lại trong vở thí nghiệm.
* Bước 5: Kết luận và hợp thức hóa kiến thức.

- Yêu cầu học sinh cùng lắng nghe kết quả quan sát của các nhóm
- Giáo viên chốt kiến thức:
+ Mặt Trăng tròn giống như quả bóng lớn (đôi lúc có hình dạng khác)
+ Mặt Trăng ở rất xa Trái đất
+ Mặt Trăng không thể tự phát ra được ánh sáng (Mặt Trăng tỏa sáng do phản
chiếu ánh sáng của mặt trời)
+ Mặt Trăng không sưởi ấm chúng ta.
- So sánh lại biểu tượng ban đầu của các em về Mặt Trăng để khắc sâu kiến
thức.
- Mặt Trăng và Mặt Trời có điểm gì giống nhau?
Như vậy, qua quá trình học tập theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” các em đã
tự khám phá, ghi nhớ kiến thức về Mặt Trăng.
6.4. Một số lưu ý khi áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào dạy học
- Liệt kê các bài học có thể áp dụng Phương pháp dạy học “Bàn tay nặn bột”.
- Giáo viên cần chuẩn bị trước các thí nghiệm dự kiến để có kết quả như mong
muốn.
- Vận dụng tối đa những nguyên vật liệu sẵn có, dễ kiếm.


- Sử dụng công nghệ thông tin cho bài dạy áp dụng phương pháp bàn tay nặn
bột đúng lúc, đúng chỗ, hợp lí.
- Với một số thí nghiệm đơn giản, giáo viên có thể giao việc cho học sinh bằng
những phiếu giao việc, tự học sinh chuẩn bị các vật liệu cho nhóm của mình.
7. Một số lưu ý khi vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực:
- Giáo viên cần nắm vững mục tiêu, nội dung chương trình môn Tự nhiên và
Xã hội cũng như các môn học khác.
- Các phương pháp dạy học rất đa dạng bao gồm cả phương pháp truyền
thống và phương pháp mới. Mỗi phương pháp có ưu, nhược điểm riêng nên giáo
viên cần sử dụng phối hợp các phương pháp sao cho phù hợp với nội dung bài,
đặc điểm học sinh.

- Giáo viên có thể vận dụng linh hoạt các hình thức dạy học theo cá nhân,
nhóm, lớp; ở trong hoặc ngoài phòng học. Tổ chức các trò chơi học tập để
khuyến khích học sinh tích cực hoạt động, lĩnh hội kiến thức.
- Ngoài ra đồ dùng dạy học là phương tiện dạy học không thể thiếu trong
những tiết dạy. Vì vậy, khi sử dụng giáo viên cần linh hoạt để phát huy hết tác
dụng.
- Giáo viên cần khéo léo sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, các
hình thức tổ chức, dẫn dắt học sinh đạt được mục tiêu hoạt động. Đặc biệt cần
động viên, khuyến khích học sinh thường xuyên để giúp học sinh tự tin hơn.



×