Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Sử dụng phương pháp kể chuyện nhằm nâng cao chất lượng giờ học lịch sử cho học sinh lớp 10 tại trường trung học phổ thông mai sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 34 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO YÊN BÁI
TRƯỜNG THPT MAI SƠN
----o0o----

BÁO CÁO SÁNG KIẾN CẤP CƠ SỞ
(Lĩnh vực: Lịch sử)

Sử dụng phương pháp kể chuyện nhằm nâng cao
chất lượng giờ học lịch sử cho học sinh lớp 10 tại
trường Trung học phổ thơng Mai Sơn

Tác giả: Nguyễn Trung Thành
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Lịch sử
Chức vụ: Tổ trưởng chuyên môn
Đơn vị công tác: Trường THPT Mai Sơn

Yên Bái, tháng 01 năm 2022

-1-


I. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến:“Sử dụng phương pháp kể chuyện nhằm nâng cao chất
lượng giờ học lịch sử cho học sinh lớp 10 tại trường Trung học phổ thông
Mai Sơn”.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lịch sử
3. Phạm vi áp dụng sáng kiến: Môn Lịch sử lớp 10 – Ban cơ bản.
4. Thời gian áp dụng sáng kiến: Năm học 2020 - 2021
5. Tác giả:
Họ và tên: NGUYỄN TRUNG THÀNH
Năm sinh: 1984


Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Lịch sử
Chức vụ công tác: Tổ trưởng chuyên môn
Nơi làm việc: Trường THPT Mai Sơn
Địa chỉ liên hệ: Trường THPT Mai Sơn - Lục Yên - Yên Bái
Điện thoại: 0985259809
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP SÁNG KIẾN
1. Tình trạng giải pháp đã biết
Bộ mơn Lịch sử với tư cách là bộ môn khoa học xã hội, có ưu thế
trong việc góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo của nhà trường phổ thông. Với việc
cung cấp cho học sinh những tri thức cơ bản, có hệ thống về lịch sử dân tộc và lịch
sử thế giới, nhằm xây dựng vốn văn hố phổ thơng khơng thể thiếu được của mỗi
người. Trước yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của xã hội, việc giảng dạy lịch sử ở
trường phổ thông cần phải tạo ra được sự chuyển biến căn bản về chất lượng dạy
học, quán triệt nguyên lý “học đi đơi với hành”. Muốn có được sự chuyển biến đó,
ngồi việc cải cách nội dung chương trình còn phải cải tiến phương pháp và
phương tiện dạy học sao cho giờ học lịch sử thu hút được sự chú ý tự giác của học

-2-


sinh. Từ đó làm cho học sinh hiểu sâu sắc, nhớ lâu những nội dung cơ bản và biết
vận dụng sự hiểu biết sâu sắc đó trong thực tiễn.
Ngày nay cuộc sống đang thay đổi và tiến lên từng giờ. Đó là sự phát triển
như vũ bão của khoa học kỹ thuật, của nền văn minh tin học, sự phát triển của nền
kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hoá ngày càng mạnh mẽ. Đây là cơ hội và
cũng là thách thức đối với đất nước ta. Trong khi đó chúng ta đang gặp nhiều khó
khăn trở ngại do chất lượng và hiệu quả giáo dục – đào tạo còn đang thấp hơn so
với yêu cầu của sự phát triển đó.
Mặt khác, trong xu thế hội nhập với thế giới, bên cạnh những nền văn hố
tiến bộ, có rất nhiều mảng văn hố đen vẫn cịn len lỏi và dễ dàng lan nhanh trong

giới trẻ. Điều đó dẫn đến bản sắc dân tộc đang dần mất đi, mà nhiều người Việt
Nam lại đang quên đi nguồn gốc, lịch sử dân tộc. Vì vậy, một trong những vấn đề
trọng tâm của nước ta là đầu tư phát triển nhân tố con người, tức là đầu tư cho giáo
dục và đào tạo để tạo ra những con người Việt Nam phát triển tồn diện, có đạo
đức, có tri thức, sức khoẻ, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành nhân cách và phẩm chất năng lực của
công dân, nhất là bản lĩnh văn hoá vững vàng trước sự hội nhập. Mơn lịch sử có
vai trị khơng nhỏ góp phần thực hiện nhiệm vụ trên.
Về phía học sinh, các em khơng thích học mơn lịch sử vì cho rằng đó là mơn
phụ, khơng quan trọng lại có q nhiều mốc thời gian và sự kiện khơ khan, khó
nhớ. Vì vậy các em không hứng thú trong học tập môn này, hoặc chỉ học qua loa
đối phó. Vậy phải làm sao để thu hút được học sinh có hứng thú và chuyên tâm
hơn trong học môn lịch sử?
Là “Thầy dạy của cuộc sống”, là “tấm gương soi của muôn đời”, bộ mơn
Lịch sử trong nhà trường phổ thơng có chức năng trang bị cho học sinh những tri
thức về nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội trong quá trình phát triển của lịch sử
dân tộc và thế giới. Kiến thức lịch sử không chỉ liên quan đến tri thức về khoa học
xã hội mà cả về khoa học tự nhiên, giúp học sinh hiểu được quá khứ và hiện tại
một cách toàn diện để sống tốt hơn, hoàn thiện nhân cách con người. Điều này đòi
-3-


hỏi người giáo viên lịch sử luôn phải trau dồi về kiến thức chuyên ngành, tích cực
đổi mới phương pháp soạn giảng, sưu tầm và sử dụng tốt tài liệu chuyên ngành và
các môn học liên quan để nâng cao hiệu quả bài giảng lịch sử.
Thực trạng của việc dạy và học Lịch sử trong nhà trường phổ thông hiện còn
những tồn tại là nội dung của nhiều bài giảng lịch sử rất khô khan với nhiều sự
kiện lịch sử nặng về chiến tranh cách mạng, ít đề cập về lịch sử văn hóa, nghệ
thuật… nên chưa tạo sự hứng thú học sử đối với học sinh. Học sinh hiểu một cách
rời rạc, nông cạn về kiến thức lịch sử, không nắm được mối liên hệ hữu cơ giữa

các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã hội, về kiến thức liên mơn…thậm chí có sự
nhầm lẫn “chết người” về kiến thức lịch sử dân tộc như báo chí đã phản ánh nhiều
sau mỗi một kỳ thi.
Xuất phát từ thực trạng trên, sáng kiến:“ Sử dụng phương pháp kể chuyện
nhằm nâng cao chất lượng giờ học lịch sử cho học sinh lớp 10 tại trường
Trung học phổ thông Mai Sơn” góp phần bổ sung và làm rõ hơn những kiến
thức cơ bản trong sách giáo khoa, khôi phục, tái hiện lại hình ảnh trong quá
khứ giúp học sinh hiểu biết sâu sắc các sự kiện lịch sử đã học, tạo biểu tượng
lịch sử chân thực, chính xác, thơng qua đó khơi dậy trong tâm hồn các em
những xúc cảm lịch sử, đây là cơ sở để giáo dục tình cảm, đạo đức cho học sinh.
Đồng thời giúp học sinh phát triển toàn diện, đặc biệt là năng lực nhận thức (tri
giác), trí tưởng tượng, trí nhớ, tư duy lơ gíc.
2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến
2.1. Mục đích của giải pháp
Giúp giáo viên hiểu rõ việc học tập của học sinh, có cơ sở thực tế để đánh
giá kết quả học tập của các em, làm cho tiết học bớt khô khan, nặng nề mà trở nên
nhẹ nhàng hấp dẫn và hiệu quả.
Sáng kiến giúp nâng cao trình độ hiểu biết thực tiễn dạy học lịch sử hiện nay
ở trường phổ thông và khả năng vận dụng lý luận để phát huy tính tích cực của học
sinh, giúp cho học sinh hứng thú, yêu thích mơn lịch sử . Qua đó, nâng cao trình độ
-4-


lý luận dạy học nói chung, dạy học bộ mơn Lịch sử nói riêng cho bản thân về vấn
đề phương pháp dạy học lịch sử.
2.2. Nội dung giải pháp
2.2.1. Cơ sở lý luận
Phương pháp dạy học là những biện pháp, cách thức hành động của của giáo
viên và học sinh trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển
quá trình dạy học, kể chuyện được sử dụng trong dạy học nói chung và trong dạy

học lịch sử nói riêng. Bằng việc dùng lời nói kết hợp hình ảnh để diễn tả một cách
sinh động, hấp dẫn về một câu chuyện đã xảy ra trong quá khứ. Câu chuyện được
kể trong giờ học lịch sử có liên quan đến những mảnh sự kiện, biến cố lịch sử,
nhân vật lịch sử hoặc để giải thích cho một cái tên, một địa danh, một khái niệm,
một thuật ngữ có liên quan đến nội dung bài học.
Mỗi sự kiện, nhân vật, địa danh đều có ý nghĩa riêng về mặt ngơn ngữ, văn
hóa lịch sử. Việc ghi nhớ chúng theo những câu chuyện thú vị đi kèm, giúp học
sinh nhớ dữ liệu không phải bằng cách "học thuộc" mà là nhận thức giá trị của
chúng. Giáo viên sử dụng phương pháp kể chuyện không đơn thuần là để minh hoạ
mà cịn để cụ thể hố kiến thức, tái hiện nội dung kiến thức để tạo biểu tượng lịch
sử, rút ra bài học lịch sử. Việc lồng ghép kể các câu chuyện, các giai thoại lịch sử
trong bài dạy sẽ được học sinh có thêm cơ sở để nắm vững bản chất sự kiện, ghi
nhớ sự kiện, có ấn tượng mạnh và ngưỡng mộ về nhân vật. Qua đó, thực hiện tốt
việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức, hình thành thói quen tư duy, ghi nhớ sự
kiện thơng qua việc liên tưởng tới các câu chuyện được kể, khắc sâu hơn nội dung
lịch sử, vấn đề lịch sử. Từ đó, mang lại hiệu quả rõ rệt cho giờ học lịch sử.
2.2.2. Cơ sở thực tiễn
Những năm trở lại đây, xu hướng dạy học theo phương pháp kể chuyện đang
trở thành xu hướng chủ yếu trong cải cách giáo dục nói chung và đổi mới phương
pháp dạy học lịch sử nói riêng. Nhằm mục đích tìm hiểu thực tiễn sử dụng phương
pháp trong dạy học lịch sử để nâng cao chất lượng cho học sinh Trung học phổ
-5-


thông. Sử dụng phương pháp kể chuyện trong dạy học khơng chỉ có ý nghĩa về
kiến thức, kĩ năng mà nó cịn có ý nghĩa rất lớn trong giáo dục tư tưởng, tình cảm
cho học sinh.
Đội ngũ giáo viên trẻ, khoẻ, nhiệt tình, tận tâm trong giảng dạy. Có kinh
nghiệm nên thông qua công tác dự giờ, thao giảng đã đóng góp ý kiến giúp cho bản
thân rút nhiều kinh nghiệm quý báu để vận dụng khi lên lớp.

Đa số học sinh chăm ngoan, lễ phép, vâng lời thầy cô, bên cạnh đó học sinh
cũng được trang bị đầy đủ sách giáo khoa, các sách bài tập lịch sử...
Nhà trường xây dựng đầy đủ thư viện điện tử và sách tham khảo để phục vụ
cho việc dạy và học của giáo viên và học sinh.
Giáo viên có thể sưu tầm các câu chuyện, các giai thoại lịch sử từ các cuốn
truyện, từ nguồn tư liệu của thư viện nhà truờng để sử dụng cho bài dạy thêm
phong phú, sinh động, tiết học trở nên hấp dẫn.
Tuy nhiên, chương trình giảng dạy hiện nay vẫn còn một số bài quá dàn trải
dẫn đến tình trạng “quá tải” kiến thức đối với cả giáo viên truyền thụ lẫn việc lĩnh
hội kiến thức của học sinh. Giáo viên phải dành nhiều thời gian nghiên cứu chắt
lọc những kiến thức trọng tâm dể bài dạy có hiệu quả. Ngồi ra giáo viên phải dành
nhiều thời gian để sưu tầm các câu chuyện lịch sử liên quan đến bài dạy.
Về phía học sinh: Nhiều học sinh coi môn lịch sử là môn học phụ, môt số
khác chỉ học để xét tốt nghiệp THPT nên chưa có hứng thú, sự u thích, tập trung
đối với mơn học.
Vấn đề đặt ra là phải có những biện pháp thật hiệu quả để nâng cao chất
lượng bộ môn, đồng thời phát huy “sở trường và ưu thế” của bộ môn Lịch sử
trong công tác giáo dục cho học sinh.
2.2.3. Những yêu cầu về sáng kiến khi vận dụng nguyên tắc dạy học
Để sử dụng các câu chuyện, các giai thoại lịch sử trong dạy học lịch sử một
cách hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng dạy học, nâng cao hứng thú học tập
cho học sinh, đỏi hỏi giáo viên phải tuân thủ một số yêu cầu sau:

-6-


Đảm bảo tính cơ bản, khoa học.
Có nhiều giai thoại, nhiều câu chuyện lịch sử nhưng điều quan trọng là giáo
viên phải xác định đúng những câu chuyện có liên quan đến các sự kiện mà bài học
cần đáp ứng.

Đảm bảo tính vừa sức nội dung câu chuyện đưa vào dạy học phải phù hợp
với tâm lý lứa tuổi, hoàn cảnh và trình độ nhận thức của học sinh. Ngơn ngữ phải
trong sáng, sễ hiểu, biểu cảm....
Phát huy tính tích cực của học sinh: Giáo viên cần phải lựa chọn các câu
chuyện lịch sử cho phù hợp với những kiến thức sự kiện lịch sử cơ bản, phục vụ
cho bài học để từ đó học sinh hiểu sâu sắc bài học, kích thích sự ham học, khơi dậy
nội lực của mình. Giáo viên sử dụng phương pháp kể chuyện khơng đơn thuần là
để minh hoạ mà còn để cụ thể hoá kiến thức, tái hiện nội dung kiến thức để tạo
biểu tượng lịch sử, rút ra bài học lịch sử. Nên kể chuyện kèm theo tranh ảnh minh
họa để tăng sự hấp dẫn, lôi cuốn học sinh.
2.2.4. Nội dung kể chuyện lồng ghép trong giờ học lịch sử lớp 10 tại
trường Trung học phổ thơng Mai Sơn
2.2.4.1. Trong chương trình chính khố
Phần1: lịch sử thế giới ngun thủy, cổ đại và trung đại
Chương 1: Xã hội nguyên thủy
Giáo viên giảng giải kết hợp với kể chuyện chứng minh về sự xuất hiện loài
người theo quan điểm duy vật biện chứng, sưu tầm những câu chuyện về khảo cổ
học với phương pháp khoa học hiện đại để chứng minh con người xuất phát từ lồi
vượn cổ qua di tích hóa thạch. Có thể liên hệ đến Việt Nam và chứng minh Việt
Nam là một trong những cái nơi của lồi người qua việc tìm thấy cơng cụ lao động
của người tối cổ ở Thanh hóa .
Chương 2: Các quốc gia cổ đại
Kể chuyện liên quan đến các thành tựu văn hóa như lịch sử, chữ viết, kiến
trúc…, giáo viên kể những câu chuyện liên quan về kim tự tháp ở Ai Cập, Vạn lý
trường thành ở Trung Quốc, đấu trường La Mã…; kể về các vị hồng đế Pharng
-7-


và những kì quan thế giới. Từ đó, giúp học sinh hiểu được những tài năng và sự
sáng tạo của con người thời cổ đại. Bồi dưỡng lòng tự hào về truyền thống lịch sử

của các dân tộc phương Đông trong đó có Việt Nam.
Chương 3: Trung Quốc thời phong kiến
Kể chuyện liên quan đến sự hình thành và phát triển chế độ phong kiến
Trung Quốc, từ khi nhà Tần sáng lập năm 221 TCN và kết thúc vào năm 1911 dưới
triều đại Mãn Thanh, giáo viên sử dụng chuyện kể về quy luật thịnh suy của chế độ
phong kiến Trung Quốc thơng qua các vị hồng đế như Tần Thủy Hoàng, Võ Tắc
Thiên, Chu Nguyên Chương… hoặc về học thuyết Nho giáo tồn tại hàng ngàn năm
của Khổng Tử và sự ảnh hưởng của nó ra bên ngồi. Sự xuất hiện và thành tựu của
thơ Đường và tiểu thuyết Minh- Thanh…Giúp học sinh hiểu được những ảnh
hưởng của văn hóa Trung Quốc đối với Việt Nam
Chương 4: Ấn Độ thời phong kiến
Giáo viên có thể sưu tầm các câu chuyện về văn hóa truyền thống Ấn Độ:
Sự ra đời của chữ viết, nguồn gốc và sự phát triển của đạo Phật, đạo Bàla
môn,Đông Nam Á thời phong kiến, giúp học sinh hiểu được Ấn Độ là một nước có
nền văn minh lâu đời, phát triển cao, cùng với Trung Quốc có ảnh hưởng sâu rộng
ở châu Á và Thế giới.
Chương 5: Đông Nam Á thời phong kiến
Kể chuyện liên quan đến sự hình thành của vương quốc Lào và Campuchia,
về văn hóa Đơng Nam Á thời phong kiến. Thơng qua việc tìm hiểu quá trình phát
triển của lịch sử, tính chất tương đồng về địa lý- lịch sử văn hóa của khu vực và sự
gắn bó lâu đời của các dân tộc ở Đông Nam Á, giáo dục học sinh tinh thần đoàn
kết, hợp tác lẫn nhau giữa các dân tộc trong khu vực.
Phần 2: Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XIX
Chương 1: Việt Nam từ thời nguyên thủy đến thế kỉ X.
Giáo viên kể về các nền văn hóa cổ đại trên đất nước Việt Nam, những nét
chính về đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Văn Lang- Âu Lạc, thời bắc
thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập. Sưu tầm các câu chuyện về tấm gương
-8-



của vị anh hùng dân tộc: Qua cuộc khởi ngnghĩa Hai Bà Trưng, kết hợp với chuyện
kể đánh đuổi Tô Định trả thù chồng đền nợ nước, thể hiện được tinh thần và khí
tiết của người phụ nữ Việt Nam
Về nội dung Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, giáo
viên khắc sâu nghệ thuật quân sự độc đáo như cho quân đóng cọc, lợi dụng nước
thủy triều để đánh giặc.
Chương 2: Quá trình hình và phát triển của nhà nước thế kỉ X-XV
Khái quát quá trình hình thành nhà nước phong kiến Việt Nam qua các triều
đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê. Thông qua chuyện về các nhân vật lịch
như Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hồn, Lý Cơng Uẩn… giúp học sinh hiểu rõ hơn về giai
đoạn lịch sử này. Giáo viên cũng có thể kể chi tiết Thái hậu Dương Vân Nga khoác
áo long bào lên vai Lê Hoàn, chuyển giao quyền lực từ nhà Đinh sang nhà Tiền Lê
hoặc Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh.
Giáo viên thông qua nội dung bài học về các cuộc kháng chiến chống ngoại
xâm, kết hợp với nghệ thuật đánh giặc, ý chí quyết tâm bảo vệ đất nước của Lý
Thường Kiệt, Lê Lợi; đặc biệt, chuyện ba lần đánh bại quân Mông ngun, qua đó
giáo dục lịng tự hào dân tộc, truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm, về
những thành tựu văn hóa của dân tộc.
Chương 3: Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII.
Giáo viên kể chuyện về người anh hùng áo vải Quang Trung và phong trào
Tây Sơn, chuyện về các thành tựu văn hóa thế kỉ XVI- XVIII…qua đó, giáo dục
lịng u nước, đấu tranh cho sự nghiệp bảo vệ sự toàn vẹn của đất nước. Tự hào
về tinh thần đấu tranh của người nông dân Việt Nam.
Chương 4: Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX.
Giáo viên giúp học sinh hiểu tình hình chung về các mặt chính trị, kinh tế,
văn hóa ở nước ta nửa đầu thế kỉ XIX dưới vương triều Nguyễn thông qua các tư
liệu lịch sử.
Phần 3: Lịch sử thế giới cận đại
Chương 1: Các cuộc cách mạng tư sản.
-9-



Tư liệu về lịch sử nước Mĩ, vì sao mà Mĩ làm cách mệnh, kể chuyện về nhân
vật Oasinhtơn người chỉ huy cuộc đấu tranh giành độc lập của 13 bang thuộc địa
Anh ở Bắc mĩ, góp phần khai sinh ra nước Mỹ
Rôbexpie- linh hồn của cách mạng tư sản Pháp.
Giúp học sinh có những nhận thức đúng về mặt tích cực và hạn chế của
Cách mạng tư sản. Biết trân trọng những quan điểm tiến bộ của Triết học ánh sáng
trong cuộc tấn cơng vào thành trì phong kiến, dọn đường cho cách mạng bùng nổ,
về vai trò của quần chúng nhân dân trong cách mạng.
Chương 2: Các nước Âu- Mĩ từ đầu thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX.
Giáo viên có thể kể về sự ra đời của máy hơi nước, đầu máy xe lửa, tàu thủy
Phơn-tơn, về công cuộc thống nhất Đức, Ý, về Bi-xmac, Ga-đi-ban-đi, …về các
thành tựu của khoa học- kĩ thuật cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX và vai trò của nó
đối với sự phát triển của lịch sử.
2.2.4.2. Trong chương trình ngoại khố
Trong bài ngoại khóa mơn lịch sử, giáo viên có thể tổ chức một buổi tham
quan học tập ở bảo tàng lịch sử đối với học sinh ở các trung tâm thành phố.
Đối với học sinh các trường do điều kiện về kinh tế, về địa lý gặp nhiều khó
khăn, giáo viên có thể tổ chức một bài ngoại khóa với hình thức kể chuyện lịch
sử về một nội dung, sự kiện, vấn đề hoặc nhân vật lịch sử.
Thứ nhất: sử dụng các câu chuyện, các giai thoại lịch sử để tạo biểu tượng về
nhân vật lịch sử.
Đi cùng với các sự kiện lịch sử thường gắn với 1 nhân vật lịch sử cụ thể.
Những anh hùng dân tộc như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn
Trãi, Nguyễn Huệ… Những nhân vật này có vai trị rất lớn với lịch sử dân tộc do
vậy trong dạy học giáo viên không thể lướt qua, bỏ qua mà phải khắc hoạ, tạo biểu
tượng về các nhân vật đó, sử dụng phương pháp kể chuyện có tác dụng tạo biểu
tượng về nhân vật lịch sử một cách sinh động, đậm nét từ đó giáo dục học sinh
kính trọng, noi gương các anh hùng dân tộc.


- 10 -


Giáo viên có thể kể chuyện kết hợp với tranh ảnh để tạo biểu tượng. Trong
bài nội khoá do thời gian có hạn giáo viên tạo biểu tượng về những nét chính, tiêu
biểu đủ để khắc hoạ nên nhân vật đó.
Ví dụ 1: giáo viên tạo biểu tượng về Trần Hưng Đạo.
Trần Hưng Đạo còn được gọi là Hưng Đạo đại vương hay Nhân Vũ Hưng
Đạo Đại Vương, là một nhà chính trị, qn sự, tơn thất hồng gia Đại
Việt thời Trần. Ông được biết đến trong lịch sử Việt Nam với việc chỉ huy quân
đội đánh tan hai cuộc xâm lược của quân Nguyên- Mông năm 1285 và năm 1288.
Ví dụ 2: Tạo biểu tượng về Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
Lê Lợi là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã thành lập một
đội quân người Việt và lãnh đạo đội quân này chiến đấu chống lại sự chiếm đóng
của quân đội nhà Minh (Trung Quốc) từ năm 1418 cho đến lúc đánh đuổi hoàn
toàn quân Minh ra khỏi Đại Việt vào năm 1428. Ơng cũng thành cơng với các
chiến dịch qn sự đánh dẹp các tù trưởng ở biên giới phía Bắc Đại Việt và quân
đội Ai Lao. Ông là Vua của nước Đại Việt từ năm 1428 cho tới năm 1433. Ông
được coi là vị vua huyền thoại của Đại Việt với tài năng quân sự, khả năng cai trị
và lòng nhân ái đối với cả kẻ thù
Thứ hai: Sử dụng các giai thoại lịch sử để giải thích từ đó rút ra bản chất một sự
kiện, một hiện tượng lịch sử.
Để cho học sinh nắm được bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử tức là trả
lời được câu hỏi vì sao thì giáo viên sử dụng các mẩu chuyện, các giai thoại lịch sử
rồi từ đó nêu tình huống có vấn đề.
Ví dụ1: Kể chuyện về đời sống của bầy người nguyên thủy

- 11 -



Bầy người nguyên thủy

Bầy người nguyên thủy là tập hợp một nhóm người từ 5 đến 7 gia đình. Mỗi
gia đình có đơi vợ chồng và con nhỏ chiếm một góc lều hay góc hang. Bấy giờ
chưa có những quy định xã hội nên người ta gọi những hợp quần xã hội đầu tiên
này là “ bầy người nguyên thủy”. Bầy người ngun thủy có người đứng đầu, có
phân cơng lao động giữa nam và nữ, cùng chăm sóc con cái. Họ vẫn cịn sống
trong tình trạng “ăn lơng ở lỗ”- một cuộc sống tự nhiên, bấp bênh triền miên hàng
triệu năm. Giáo viên có thể kết hợp lời nói kể về việc con người phát hiện ra lửa(
từ các vụ cháy rừng hoặc núi lửa phun trào, con người biết dùng lửa để sưởi ấm và
nướng chín thức ăn), sau đó biết giữ lửa, tạo ra lửa bằng cách cọ xát hai hòn đá vào
nhau. Sự xuất hiện của lửa đã thể hiện bước tiến lớn trong đời sống bầy người
ngun thủy.
Có nhiều hình thức tổ chức ngoại khóa, trong đó, kể chuyện lịch sử là một
hình thức ngoại khóa hấp dẫn, dễ làm và có hiệu quả giáo dục cao. Giáo viên có
thể cho học sinh chọn các chủ đề hoặc vấn đề mình u thích, sau đó chuẩn bị theo
nhóm rồi trình bày trước lớp.
Kể chuyện lịch sử không phải là thông báo khô khan, kể chuyện lịch sử phải
đưa người nghe sống lại quá khứ, như đang được chứng kiến tận mắt. Để làm được
điều này trước hết học sinh phải chuẩn bị kỹ càng, phải đọc thuộc truyện, kể không

- 12 -


những khúc chiết, rõ ràng tái hiện lại được nội dung sự kiện lịch sử mà còn cuốn
hút, hấp dẫn người nghe.
Có nhiều cuốn sách trong đó có nhiều câu chuyện lịch sử liên quan đến các
bài học. Đó là các tác phẩm : Những mẩu chuyện lịch sử thế giới, viết về các nhân
vận lịch sử, các cơng trình văn hố nổi tiếng thế giới như cơng trình vườn treo BaBi-lon, cung A phòng, khu lăng mộ Tần Thuỷ Hồng…các trang Web về lịch sử,

học sinh có thể tham khảo.
Ví dụ 2: Bài 20- lịch sử lớp 10: “ Xây dựng và phát triển văn hoá dân
tộc trong các thế kỷ X- XV”. Để học sinh hiểu được vì sao thời Lý phật giáo được
coi là quốc giáo. Giáo viên kể câu chuyện sau:
“ Lý Công Uẩn người làng Cổ Pháp ( Từ Sơn- Bắc Ninh) sinh năm Giáp
Tuất ( 974), là con nuôi của thiền sư Lý Khánh Văn từ năm 3 tuổi và truyền thuyết
vẫn cho rằng ông là con ruột của Vạn Hạnh, anh ruột Khánh Văn.
Cũng theo truyền thuyết bố Lý Công Uẩn nhà nghèo đi làm ruộng ở chùa
Tiên Sơn (An Phong, Bắc Ninh) phải lịng một tiểu nữ rồi làm nàng có thai, bị nhà
sư đuổi đi nơi khác.
Hai vợi chồng đi đến rừng Báng, dừng lại nghỉ. Người chồng khát nước đến
chỗ giếng nước giữa rừng uống chẳng may xảy chân ngã chết đuối. Vợ chờ lâu
khơng thấy đến xem thì đất đã đùn lấp giếng. Người phụ nữ xin vào ngủ nhờ ờ
Chùa Ứng Tầm gần đấy. Sư trụ trì chùa Ứng Tâm đêm trước nằm mơ thấy Long
thần về báo mọng rằng “Ngày mai dọn chùa cho sạch có Hồng đế đến”. Tỉnh dậy
nhà sư sai chú Tiểu quét dọn chùa sạch sẽ. Khi đó chỉ có người đàn bà mang thai
đến. Đêm đấy bỗng nhà chúa phát sáng, hương thơm toả ra ngào ngạt, sư trụ trì dạy
xem thì người đàn bà đã sinh được 1 cậu con trai, 2 bàn tay có 4 chữ “Sơn hà xã
tắc”. Sau đó trời bỗng nổi trận mưa to, gió lớn, người mẹ saukhi sinh chú bé thì
chết và chú bé được nhà chùa nuôi nấng, khi chú bé được 8, 9 tuổi được theo học
sư Vạn Hạnh ở Chùa Tiên Sơn. Chú bé đó là Lý Cơng Uẩn.
Vốn thơng minh bẩm sinh, lại được nhập thân văn hoá ở 1 đất vùng văn
minh, văn hiến, lại được sự dậy dỗ của vị cao tăng xuất chúng, Lý Công Uẩn thực
- 13 -


sự là người con ưu tú của dân tộc. Ông đã cùng Triều Lý làm rạng danh nước Đại
Việt.
Tóm lại trên đây là một số phương pháp lồng ghép kể chuyện lịch sử trong
dạy học lịch sử tôi đưa ra nhằm tạo hứng thú cho học sinh, nâng cao hiệu quả bài

học, truyền đạt kiến thức mới. Trong quá trình vận dụng địi hỏi giáo viên phải có
sự sáng tạo, linh hoạt trên cơ sở khoa học và điều kiện cụ thể của từng lớp học, tiết
học....
2.2.4.3. Một số câu chuyện, giai thoại lịch sử sử dụng trong dạy học lịch sử lớp
10 tại trường Trung học phổ thông Mai Sơn
Trên cơ sở xác định nội dung cơ bản của bài, của chương và nguồn giai
thoại lịch sử, chuyện kể lịch sử thu thập được chúng tôi chọn lọc một số mẩu
chuyện, giai thoại phù hợp với kiến thức cơ bản với nội dung bài dạy đã xác định.
Bài 3- Lịch sử lớp 10: “Các quốc gia cổ đại phương Đông” giáo viên
kể câu chuyện: người Ai Cập cổ đã xây dựng Kim tự tháp như thế nào?

Kim tự tháp- Ai Cập (nguồn: Google )

Trong số 67 Kim tự tháp cịn lại ở Ai Cập thì Kim tự tháp Khê-ốp là
Kim tự tháp lớn nhất ( Mỗi cạnh đáy dài 232m, bốn mặt hình tam giác cân, đỉnh
- 14 -


chóp nhọn cao 146,6m. Thể tích của Kim tự tháp là 2,5 triệu mét khối đá và có
trọng lượng khoảng 6,5 triệu tấn), chúng ta thử xem người Ai Cập cổ đã xây dựng
nó như thế nào? Cơng việc đầu tiên là phải đến những dãy núi ở giáp Hồng Hải,
thậm chí phải sang cả bên bán đảo A Rập để khai thác đá. Tiếp đó, những đồn
người khác đến làm đường, sau đó lại có những người đến vận chuyển những khối
đá lớn đó đến sơng Nin, rồi đi tiếp đến vùng xây Kim tự tháp. Cơng việc đó phải sử
dụng đến hàng vạn lao động, chia thành từng tốp, mỗi tốp ba tháng trong vịng 10
năm trời. Vì chưa có những cơng cụ và phương tiện hỗ trợ nên có thể họ đã dùng
những phương pháp sau: Xây dựng những con đường dốc bằng gạch và cát, hoặc
những sàn ván bằng xà gỗ ngắn đặt nghiêng, chạy vòng xung quanh tháp. Sau đó,
người ta đặt những tảng đá lên mặt dốc và buộc dây kéo đi bằng cách cho trượt
trên những tấm gỗ lớn. Sau khi xong một tầng, người ta lại làm đường dốc cao lên

cho ngang tầng mới và kéo đá lên tầng trên. Và cứ như thế cho đến khi lên đỉnh
nhọn, cuối cùng người ta dỡ dần đường dốc từ tầng trên xuống tầng dưới và lớp đá
bọc ở bên ngoài. Hai triệu tảng đá, mỗi tảng nặng hàng tấn đã được kéo lên như
thế. Kim tự tháp không phải là khối đá đặc mà bên trong cịn có hành lang, đường
hầm, giếng sâu, phòng chứa quan tài, buồng để đồ đạc…Cửa vào Kim tự tháp Khêốp hướng về phương Bắc, không sát liền mặt đất, mà ở cách mặt đất 17,42m. Cửa
bị bịt kín sau khi đưa quan tài của nhà vua vào lăng mộ, qua cửa đến một hành lang
tối và hẹp, rộng gần 1m, cao khoảng 1,5m. càng đi vào trong càng nhằng nhịt, đi
lên, đi xuống, có đoạn đường dẫn đến một cái giếng sâu, có đoạn bị tắc bởi bức
tường đá. Bài 4 - Lịch sử lớp 10: “Các quốc gia cổ đại phương tây Hy lạp và Rô
ma” để cho học sinh biết về nhà khoa học vật lý nổi tiếng là Ác - si - mét. Giáo
viên kể đoạn chuyện sau: “Ác - si - mét (287-212 TCN) quê ở Xi-ra- quy- dơ, một
thành bang Hy Lạp ở đảo Xi rin. Tương truyền rằng vua của thành bang Xi- raquy dơ có một cái vương miện làm bằng vàng, ơng nghi ngờ người thợ kim hồn
được giao làm mũ ăn bớt vàng nhưng không làm cách nào để biết được. Một hôm
nhà vua gọi Ác – si – mét đến và hỏi có thể biết được tỷ lệ vàng ở trong mũ khơng
? Lúc đó Ác - si - mét chưa trả lời được, nhưng sau đó nhờ một lần tắm trong bể
- 15 -


nước, ông đã phát minh được nguyên lý quan trọng về thuỷ lực đó là: tất cả mọi
vật thả xuống nước đều phải chịu một lực đẩy từ dưới lên trên bằng trọng lượng
nước phải chuyển đi, ông đã giải được bài toán của nhà vua. Vui mừng về phát
minh đó, từ trong bồn tắm khơng mặc quần áo ơng chạy ra phố và kêu to: “ ơ rê ca!
ơ rê ca!. Nghĩa là “ Ta đã tìm ra rồi “ trong sự cười trêu của người dân. Sau đó ông
đem vương miện thả xuống bồn nước đầy rồi đong lượng nước tràn ra, nhờ đó nhà
vua biết được số vàng đã bị ăn bớt. Một lần Ác - si - mét đã nói một câu “hãy cho
tơi một điểm tựa chắc chắn tôi sẽ cất cả quả đất lên”. Nhà vua vô cùng tức giận cho
rằng ông là kẻ kiêu ngạo khoác lác. Nhà vua liền thách Ác - si - mét hãy làm cho
con thuyền lớn vừa mới đóng xong có thể xuống được mặt nước. Nếu khơng thực
hiện được sẽ chịu tội chết. Ác - si - mét nhận lời, ông đã dùng gỗ đặt các điểm tựa,
rồi dùng rịng rọc cùng địn bẩy. Sau đó một mình ơng đã từ từ nâng địn băy lên và

con thuyền từ trên bãi cát đã trượt xuống mặt biển trong tiếng hò reo tán thưởng
của người dân. Nhà vua vơ cùng khâm phục và kính trọng Ác - si – mét.
Ác - si - mét còn phát minh ra máy ném đá, gương 6 mặt để đốt thuyền
địch khi đất nước có chiến tranh.
Khi đất nước ơng bị qn La Mã tàn phá, quân giặc xông vào bắt ông khi
ông đang vẽ một đồ án khoa học. Trước khi bị sát hại ông đã quát quân giặc:”
Chúng mày muốn làm gì thì làm nhưng khơng được phá đồ án của tao”. Bọn giặc
ngu dốt đã đâm chết ông.

- 16 -


Acsimet ( nguồn : Google)

Ví dụ: Bài 5 – Lịch sử lớp 10: “Trung Quốc thời phong kiến”, phần 1 “Sự
hình thành nhà Tần – Hán”. Để học sinh hiểu vị vua có cơng thống nhất Trung
Quốc nhưng khét tiếng tàn bạo là Tần Thuỷ Hoàng. Giáo viên kể đoạn truyện về
Tần Thủy Hồng.

Tần Thủy Hồng và cơng cuộc thống nhất Trung Quốc ( nguồn : Google)

- 17 -


“ Sau khi tiêu diệt 6 nước thời Chiến quốc và thống nhất Trung Quốc (221
tr. CN), Tần Vương Chính bỏ danh hiệu “Vương” và thay bằng thay danh hiệu
“Hoàng Đế” và xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế Trung ương tập quyền. Tần
thuỷ hoàng thi hành đường lối pháp trị “mọi việc đều dùng pháp luật để quyết định
không dùng nhân đức, ân nghĩa” để cai trị nhân dân. Ơng ta cịn thích chém giết để
ra uy, chẳng hạn hai nhà nho Hầu Sinh và Lư Sinh được Tần Thuỷ Hồng giao cho

nhiệm vụ đi tìm thuốc trường sinh bất lão, hai người này đã lên án sự chuyên
quyền của y và bỏ trốn. Tần Thuỷ Hoàng sai tra xét tất cả các nhà nho. Kết quả 460
người bị phát giác phạm điều cấm, bị đưa ra chôn sống ở Hàm Dương. Có lần một
vẫn thạch rơi xuống ở Đơng Quận, có người khắc lên hịn đá mấy chữ “Thuỷ
hồng đế chết thì đất bị chia”, Tần Thuỷ Hồng cho tra hỏi nhưng khơng ai chịu
nhận, y đã cho sai bắt tất cả những người ở gần đấy giết đi và đốt cháy hòn đá.
Sự thống trị tàn bạo của Tần Thuỷ Hoàng đã làm cho cả xã hội căm phẫn.
Do đó mặc dù được bảo vệ nghiêm ngặt nhưng hai lần bị ám sát hụt.
Bài 6: Các quốc gia Ấn và văn hóa truyền thống Ấn Độ, giáo viên kể câu
chuyện về cuộc đời của Đức Phật Thích ca.
Theo truyền thuyết, Đức phật Thích ca có tới 547 tiền kiếp trước khi đầu
thai làm con vua Suddhodama của Vương tộc Sakya. Mẫu thân của Ngài là hoàng
hậu Maya, một người phụ nữ rất đẹp thông minh và hiền hậu., đã nằm mơ thấy con
voi trắng sáu ngà đi vào mạn sườn bên phải của bà, sau đó hồi thai sinh ra hồng
tử mất, Hồng tử Sít đac-ta Gơ-ta-ma được giao cho bà dì ni nấng. Hồng tử
được dạy dỗ chu đáo, được học tập mọi kiến thức khoa học. Hồng tử tỏ ra có một
trí tuệ thiên bẩm phi thường, nhưng đồng thời cũng có tấm lịng thương cảm sâu xa
đối với chúng sinh. Để ngăn hoàng tử không nghĩ đến việc tu hành, Đức vua đã bố
trí cho ngài sống trong cảnh vương giả vơ cùng xa hoa lộng lẫy. Khi Sít-đác-ta 16
tuổi, người đã lấy cơ em họ của mình là cơng chúa Yasodara cũng vừa tròn 16 tuổi
làm vợ. Mặc dù sống trong cảnh nhung lụa, được mọi người chiều chuộng nhưng
Sít-đác-ta vẫn khơng ngừng suy tư về cuộc đời trần thế. Trong những lần ra ngoài
thành Ngài đã lần lượt chứng kiến cảnh khổ ải của đời người qua hình ảnh một
- 18 -


người già, một người ốm và một người chết. Khi về cung, Sít-đác-ta được tin
Hồng phi mới sinh con trai nhưng chẳng những người không thấy vui mà lại càng
băn khoăn lo nghĩ về khiếp luân hồi: sinh, lão, bệnh, tử. Lại một lần nữa, Hồng tử
nhìn thấy một tu sĩ khất thực, dáng vẻ bần hàn nhưng lại ung dung, tự tại. Hoàng tử

như bừng tỉnh và quyết tâm xuất gia tìm đạo, mong tìm con đường cứu vớt con
người thoát khỏi những trầm luân đau khổ của khiếp luân hồi.
Ngay sau hôm đứa con ra đời, vào khoảng nửa đêm, khi mọi người đã ngủ
say, Hoàng tử lặng lẽ nhìn con và vợ lần cuối, rồi đánh thức người đánh xe dậy,
cùng mình cưỡi con ngựa Canthana yêu q, rời khỏi hồng cung. Khi đã ra ngồi
thành, Sít-đác-ta trút bỏ bộ y phục hoàng tộc, mặc bộ quần áo của người tu hành,
dùng kiếm cắt mớ tóc dài của mình, rồi giao mớ tóc và bộ quần áo hoàng tộc cho
người đánh xe đem về trao cho Đức vua cha. Con ngựa Canthana vì đau khổ phải
chia tay với ơng chủ của nó đã lăn ra chết ngay tại chỗ.
Từ đây, Sít-đác-ta trở thành đạo sĩ Gơ-ta-ma, hay vi hiền triết Sakya ( tức
Thích ca Mâu Ni). Lúc đầu, Gơ-ta-ma đã đi qua nhiều nơi, tìm gặp nhiều thầy học
đạo. Sau đó, Ngài đã cùng 5 người đạo sĩ khổ hạnh thực hành phép tu ép xác trong
suốt 6 năm trời. Mỗi ngày đạo sĩ Gô-ta-ma chỉ ăn một nhúm cơm, một chút vừng,
thân thể của Ngài ngày càng khơ héo, chỉ cịn da bọc xương, đầu óc chống váng,
tóc rụng đầy người, mà vẫn khơng tìm được chân lý giải thoát. Ngài quyết định
thay đổi đường lối tu hành, trở lại ăn uống bình thường. Năm người bạn cùng tu
hành khổ hạnh cho là Ngài đã xa rời đạo lý, bèn bỏ Ngài ra đi.
Một hôm đạo sĩ Gô-ta-ma đến ngồi dưới gốc cây bồ đề ở ngoại vi thành phố
Gaia, thuộc vương quốc Magadha. Sau khi nhận bố thí một bát cháo sữa do một cơ
gái chăn bị dâng biếu, Ngài xuống sơng tắm gội sạch sẽ, trong lịng cảm thấy
khoan khối. Ngài trở lại ngồi thiền định dưới gốc cây bồ đề và nguyện sẽ khơng
đứng dậy nếu khơng tìm thấy đạo. Màn đêm bng xuống, quỷ Marat và đồng bọn
đã hiện ra, dùng trăm phương ngàn kế để bức hại và quyến rũ đạo sĩ, nhưng đều
không làm lay chuyển được Gô-ta-ma. Đạo sĩ tiếp tục ngồi thiền định suốt đêm, trí
óc ngày càng trở nên sáng suốt, đến canh cuối cùng của đêm đó, Gơ-ta-ma đã tìm
- 19 -


ra chân lí “ tứ diệu đế”, thấy được nguyên nhân của nỗi khổ trần thế và phương
cách diệt trừ nỗi khổ. Bình minh ló rạng, chim chóc ca vang, đạo sĩ Gơ-ta-ma đã

đắc đạo, trở thành Đức Phật Thích Ca, lúc này Ngài 35 tuổi.
Bài 11: Tây Âu thời hậu kì trung đại, giáo viên có thể kể câu chuyện về
chuyến hành trình vịng quanh thế giới của Magienlan.

Hành trình vịng quanh thế giới của Magienlan

Chuyến hải hành trong khoảng thời gian 1519–1522 của Magellan đã đi vào
lịch sử như là chuyến đi đầu tiên bằng đường biển của con người từ Đại Tây
Dương đến Thái Bình Dương (cái tên có nghĩa "biển bình n" này được đặt bởi
Magellan; đồng thời nơi nối giữa hai Đại dương được mang tên Eo biển Magellan),
và là chuyến đi đầu tiên băng qua Thái Bình Dương. Chuyến đi này cũng đánh dấu
sự kiện con người lần đầu tiên đi vòng quanh Trái Đất thành cơng, mặc dù chính
bản thân Magellan cũng khơng hồn thành chuyến đi của ơng do bị giết trong Trận
chiến Mactan ở Philippines. Tuy nhiên, do Magellan đã từng đi theo hướng đông
đến Bán đảo Mã Lai trong một chuyến hải hành trước đó, nên ơng trở thành nhà
thám hiểm đầu tiên đi qua tất cả đường kinh tuyến của quả địa cầu. Trong số 237
thủy thủ khởi hành trên năm con tàu, chỉ cịn lại 18 người hồn thành chuyến đi và
xoay xở để quay trở về Tây Ban Nha vào năm 1522, dưới sự dẫn dắt của nhà hàng

- 20 -


hải xứ Basque Juan Sebastián Elcano, người đã nhận trách nhiệm chỉ huy thủy thủ
đoàn sau cái chết của Magellan. Mười bảy thủy thủ nữa sau đó cũng về được Tây
Ban Nha: mười hai người bị Bồ Đào Nha bắt ở Cape Verde vài tuần trước đó trong
khoảng thời gian giữa năm 1525 và 1527, năm người sống sót cịn lại trở về trên
con tàu Trinidad.
Bài 16: Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập, giáo viên có
thể kể chuyện về Hai bà Trưng.
Hai Bà Trưng, Trưng Trắc và Trưng Nhị, hai chị em sinh đôi là con gái Lạc

tướng Mê Linh, đất bản bộ cũ của vua Hùng. Chồng Bà Trưng Trắc là Thi Sách,
con trai lạc tướng Chu Diên. Lãnh thổ Mê Linh và Chu Diên liền cõi, hai gia đình
lạc tướng là thơng gia, khiến thanh thế của họ càng thêm mạnh, uy danh càng thêm
lớn.
Chính sách cai trị hà khắc, tàn bạo của nhà Đông Hán càng thôi thúc vợ
chồng Trưng Trắc-Thi Sách hiệp mưu tính kế nổi dậy chống nhà Hán. Theo truyền
thuyết và sử cũ, Thái Thú Tô Định đã giết chết Thi Sách trước khi cuộc khởi nghĩa
nổ ra. Hành vi bạo ngược của Tô Định càng làm cho
Trưng Trắc cùng em gái là Trưng Nhị thêm quyết tâm tiến hành cuộc khởi
nghĩa đánh đổ chính quyền đơ hộ, rửa nợ nước, trả thù nhà, dựng lại cơ nghiệp xưa
cho các Vua Hùng
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng lập tức được sự hưởng ứng của các lạc tướng và
nhân dân quận Giao Chỉ rồi toàn miền Nam Việt và Âu Lạc cũ. Xuất phát từ Hát
Môn, Hai Bà đánh phá đô uý trị của giặc ở Hạ Lôi (Mê Linh) sau đó kéo quân từ
Mê Linh xuống Tây Vu đánh chiếm Cổ Loa, từ Cổ Loa, quân của Hai Bà vượt
sông Hồng, sơng Đuống đánh chiếm Luy Lâu (nay ở Lũng Khê, Thuận Thành,
Bắc Ninh) là châu trị và quận trị của bọn đơ hộ nhà Hán
Hoảng sợ trước khí thế ngút trời của nhân dân Âu Lạc, bọn địch không dám
chống cự bỏ chạy tháo thân về nước. Thái thú Tơ Định cũng lẻn trốn về nước. Chỉ
trong vịng hai tháng, nghĩa qn Hai Bà Trưng giải phóng tồn bộ đất nước (65
quận, huyện, thành), giành chủ quyền về tay dân tộc.
- 21 -


Mùa hè năm Canh tý (40) Bà Trưng Trắc được tướng sĩ tôn lên làm vua,
hiệu là Trưng Nữ Vương, đóng đơ ở q nhà là lỵ sở huyện Mê Linh cũ. Bà Trưng
Nhị được phong là Bình khơi Cơng chúa. Các tướng sĩ khác đều được phong
thưởng chức tước, tiền bạc, ruộng đất. Dân cả nước được xá thuế hai năm liền.
Mùa hè năm 42 (niên hiệu Kiến Vũ thứ 17), nhà Đông Hán phong Mã Viện
làm phục Ba tướng quân, thống lĩnh quân sĩ sang đánh nước ta do tương quan lực

lượng quá chênh lệch nên sau đó, hai bà Trưng đã phải rút chạy và sau đó trẫm
mình xuống dịng sơng Hát để giữ khí tiết
Bài 19: Các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, giáo viên kể câu chuyện về
tình đồn kết trong nội bộ q tộc nhà Trần .
Do hiềm khích năm Đinh Dậu (1237) đến khi trưởng thành thì Quốc Tuấn và
Quang Khải cũng khơng ưa nhau, nhiều việc trở nên nghi kị nhau. Như có lần,
Quang Khải phải đi cùng Thánh Tơng khỏi kinh sư, gặp sứ thần phương Bắc tới,
khơng có ai chủ trì, Thái Tơng định hỏi Quốc Tuấn thay vào, thì Quốc Tuấn trả lời
dè chừng, không muốn đả động đến Quang Khải.
Thế nhưng vào một hôm, Quốc Tuấn từ Vạn Kiếp tới, Quang Khải xuống
thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Lại gặp Quang Khải vốn sợ tắm gội, Quốc Tuấn
thì thích tắm thơm, từng đùa bảo Quang Khải: “Mình mẩy cáo bẩn, xin tắm giùm”.
Nói rồi, ơng cởi áo Quang Khải ra, dùng nước thơm tắm cho ông và nói: “Hơm nay
được tắm cho Thượng tướng”.
Quang Khải cũng đùa vui, nói: “Hơm nay được Quốc cơng tắm rửa cho”.
Từ đó, tình nghĩa qua lại giữa hai người càng thêm mặn mà. Bản thân làm tướng
văn, tướng võ, giúp Hoàng đế, hai ông đứng hàng đầu, một người là Thượng tướng
Thái sư, một người là Quốc công Tiết chế, đều ảnh hưởng lẫn nhau.
Từ đó, mối hiềm khích giữa hai người lãnh đạo được xóa bỏ, q tộc nhà Trần
đồn kết cùng nhau chỉ huy cuộc kháng chiến chống quân Mông- Nguyên đến
thắng lợi cuối cùng.

- 22 -


Bài 23: Phong trào Tây Sơn và sự thống nhất đất nước bảo vệ tổ quốc cuối
thế kỉ XVIII, giáo viên có thể kể câu chuyện về người anh hùng áo vải Quang
Trung.

Quang Trung- Nguyễn Huệ ( Nguồn: Google)


Quang Trung Hồng đế (1753 – 1792) hay Bắc Bình Vương hoặc Tây Sơn
Thái Tổ, tên thật là Nguyễn Huệ, sau đổi tên là Nguyễn Quang Bình, là vị hồng
đế thứ hai của Nhà Tây Sơn, sau khi Thái Đức Hoàng đế Nguyễn Nhạc thối vị và
nhường ngơi cho ơng. Quang Trung không những là một trong những vị tướng lĩnh
quân sự xuất sắc mà còn là nhà cai trị tài giỏi, ông đã đưa ra nhiều chính sách cải
cách kinh tế, xã hội nổi bật trong lịch sử Việt Nam.
Nguyễn Huệ và hai người anh em của ông, được biết đến với tên gọi Tây
Sơn tam kiệt, là những lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã chấm dứt cuộc nội
chiến Trịnh – Nguyễn phân tranh giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh ở phía bắc
và Nguyễn ở phía nam, lật đổ hai tập đoàn này cùng nhà Hậu Lê, chấm dứt tình
trạng phân biệt Đàng Trong – Đàng Ngồi kéo dài suốt 2 thế kỷ. Ngoài ra, Quang

- 23 -


Trung còn là người đánh bại các cuộc xâm lược Đại Việt của Xiêm La từ phía
nam, của Đại Thanh từ phía bắc. Bản thân ơng đã cầm qn chiến đấu từ năm 18
tuổi, trong 20 năm liền đã trải qua hàng chục trận đánh lớn, và chưa hề thua một
trận nào.
Nguyễn Huệ được coi là vị anh hùng dân tộc của Việt Nam, nhiều trường
học và đường phố ở các địa phương được đặt tên Quang Trung. Các chính sách của
ơng thể hiện tầm nhìn chiến lược của một nhà lãnh đạo tài giỏi.
Bài 30 Cuộc đấu tranh giành độc lập của 13 bang thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ
giáo viên kể chuyện về Washington.

George Washington ( Nguồn: Google)

George Washington ( 22 tháng 2 năm 1732 – 14 tháng 12 năm 1799) là nhà lãnh
đạo chính trị và quân sự có ảnh hưởng lớn đối với quốc gia non trẻ Hoa Kỳ từ năm

1775 đến năm 1799. Ông đã lãnh đạo người Mỹ chiến thắng Vương quốc
Anh trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ với tư cách là tổng tư lệnh Lục quân
Lục địa năm 1775–1783, và ông cũng đã trông coi việc viết ra Hiến pháp Hoa
Kỳ năm 1787. Quốc hội nhất trí chọn lựa ơng làm tổng thống đầu tiên của Hoa
Kỳ (1789–1797). Phong cách lãnh đạo của ơng đã có ảnh hưởng đến thể thức và lễ
nghi cho chính quyền mà được sử dụng từ đó cho đến nay, thí dụ như dùng một hệ
thống nội các và buổi đọc diễn văn nhậm chức. Với tư cách là tổng thống, ông đã

- 24 -


xây dựng một chính quyền quốc gia mạnh mẽ và giàu tài chính mà đã tránh khỏi
chiến tranh, dập tắt nổi loạn và chiếm được sự đồng thuận của tất cả người Mỹ.
Ông hiện nay được biết như vị cha già của nước Mỹ.
Bài 31 Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII

Quần chúng tấn công ngục Baxti - Ảnh nguồn Google
Giáo viên có thể kể câu chuyện về “ Vụ phá ngục Baxti”: “Vào cuối những
năm 70 của thế kỉ XVIII, cuộc khủng hoảng của chế độ phong kiến ở Pháp đã lên
tới đỉnh điểm, sanmgs ngày 14/7/1789, quần chúng kéo đến trại thương binh, đoạt
được 28.000 khẩu súng, rồi tiến đến ngục Baxti, đây là một pháo đài ở phía tây
nam thành phố Pari, xây dựng từ năm 1370 đến năm 1382, có tường bằng đá hình
răng cưa cao 24m, dày 3m, với 8 tháp canh cao 30m và hào sâu rộng 25m bao bọc
xung quanh. Cổng pháo đài được đóng mở bằng những chiếc cầu treo kéo trên
những xích sắt. nơi đây giam giữ rất nhiều tù chính trị, trong đó có nhiều nhà tư
tưởng tiến bộ. Ngục Baxti trở thành tượng trưng cho chế độ quân chủ chuyên chế.
Viêcj đánh chiếm pháo đài đã diễn ra ác liệt trong suốt bốn tiếng đồng hồ, quần
chúng dùng thang bắc qua hào, bọn lính từ trên tháp canh bắn xuống, về sau, đội
dân quân mang đại bác tới, bắn vào pháo đài, một viên đạn bắn trúng sợi dây sắt
kéo cầu treo, chiếc cầu treo rơi xuống. Quần chúng cách mạng ào ạt vượt qua cầu

- 25 -


×