Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

SKKN việc sử dụng phương pháp kể chuyện kết hợp thơ văn trong dạy học sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.52 KB, 39 trang )

1. TÓM TẮT ĐỀ TÀI
Nói về tầm quan trọng của việc nắm vững lịch sử, qua đó giáo dục niềm tự hào
về lịch sử dân tộc, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Tuy nhiên, thực tiễn giáo dục ở nước ta hiện nay, chất lượng dạy học của môn Lịch
sử chưa cao. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn tới tình trạng này là chậm đổi
mới phương pháp dạy học. Chính vì vậy, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khoá XI
về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh
mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp
đặt một chiều, ghi nhớ máy móc.”
Dạy học lịch sử là quá trình giúp học sinh (HS) tìm hiểu những gì đã diễn ra ở
quá khứ, và mục tiêu của bộ môn Lịch sử chính là việc giúp HS biết quá khứ, hiểu
quá khứ đồng thời rút ra những bài học từ quá khứ để vận dụng vào trong cuộc sống
hiện tại và tương lai.
Đặc thù học tập của môn Lịch sử là các em phải tiếp cận với nhiều sự kiện lịch
sử, với những vị anh hùng… bản thân những sự kiện lịch sử vốn đã khô khan, nhất là
những bài, những chương viết về các trận đánh có rất nhiều những con số về ngày,
tháng, năm xảy ra sự kiện hoặc những số liệu về các thành tựu đã đạt được trên các
lĩnh vực Khi học lịch sử thì yêu cầu các em nhớ sự kiện và hiểu nội dung bài học
một cách chính xác và đầy đủ, vì thế bộ môn Lịch sử khó gây được hứng thú cho các
em, làm cho các em cảm thấy nặng nề, gò ép và nhàm chán.
Trong thực tế, lịch sử là môn học có kiến thức liên môn, song có lẽ có mối
quan hệ tác động qua lại mật thiết và bổ sung cho nhau nhiều nhất là mối quan hệ
giữa lịch sử và văn học. Tài liệu văn học nói chung và thơ văn nói riêng ở nước ta có
khả năng biểu hiện nội dung lịch sử rất sâu sắc, nó không chỉ có giá trị như những tài
liệu lịch sử, mà còn phản ánh được bản chất của từng sự kiện lịch sử cụ thể. Nếu như
văn học thường mô tả những sự kiện bằng hình tượng thì lịch sử tái tạo lại quá khứ
bằng những con số, sự kiện cụ thể, điều đó đã tác động rất lớn đến nhận thức của HS.
Trong việc khôi phục lại bức tranh quá khứ một cách sinh động, nội dung


truyền đạt và phương pháp của giáo viên (GV) là yếu tố hết sức cần thiết. Để cho bài
giảng lịch sử không phải rơi vào tình trạng “khô, khó, khổ”, người GV lịch sử phải
linh hoạt sử dụng nhiều phương pháp đổi mới trong dạy học, trong đó sử dụng các
câu chuyện và các tài liệu văn thơ là một trong những phương pháp hữu hiệu nâng
cao chất lượng bài giảng. Thông qua những câu chuyện lịch sử, những tài liệu thơ
văn sinh động có liên quan đến nhân vật, địa danh hay sự kiện sẽ có tác dụng giúp HS
hứng thú hơn, có thể ghi nhớ sâu hơn những sự kiện lịch sử, những nhân vật, mốc
thời gian, có sự hình dung đa dạng về quá khứ, tạo được biểu tượng sinh động, chính
xác về các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Từ đó, HS có thể hiểu rõ bản chất sự kiện,
hiện tượng lịch sử, có thể dễ dàng lĩnh hội các kiến thức lịch sử, các thuật ngữ, hình
thành các khái niệm lịch sử, nắm được những kết luận khoa học mang tính khái quát.
Trên cơ sở đó, giáo dục, bồi dưỡng cho HS những tư tưởng, tình cảm đúng đắn (tự
hào, gìn giữ, phát huy các truyền thống tốt đẹp của dân tộc, hình thành và phát triển
lòng yêu nước, biết khâm phục, kính trọng những anh hùng dân tộc, người có công
với tổ quốc ) và hình thành nhân cách cho HS.
Trong đề tài này, tôi nghiên cứu việc sử dụng phương pháp kể chuyện kết hợp
với thơ văn trong giảng dạy bài 14 (Các quốc gia cổ đại trên đất nước Việt Nam),
bài 15 (Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập (từ thế kỉ II TCN đến
đầu thế kỉ X) và bài 16 (Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập (từ
thế kỉ II TCN đến đầu thế kỉ X)- (Tiếp theo)) chương trình Lịch sử lớp 10 và coi đó
là nguồn cung cấp thông tin tạo hứng thú học tập, giúp HS nắm rõ bản chất sự kiện,
hiện tượng lịch sử.
Nghiên cứu được tiến hành trên hai nhóm tương đương là hai lớp 10C5, 10C6
Trường THPT Nguyễn Trung Trực. Lớp 10C5 là lớp thực nghiệm và lớp 10C6 là lớp
đối chứng. Lớp thực nghiệm được thực hiện giải pháp thay thế. Kết quả của thực
nghiệm cho thấy tác động đã có ảnh hưởng rõ rệt đến kết quả học tập của HS: Lớp
thực nghiệm có kết quả cao hơn lớp đối chứng. Điểm kiểm tra đầu ra của lớp thực
nghiệm có giá trị trung bình là 7.40; điểm kiểm tra đầu ra của lớp lớp đối chứng có
giá trị trung bình là 5.86. Kết quả kiểm chứng T-test cho thấy p = 0.0001< 0.05;
nghĩa là có sự khác biệt lớn giữa điểm trung bình của lớp thực nghiệm với lớp đối

chứng. Mức độ ảnh hưởng là 0.81 cho thấy có tác động có ảnh hưởng lớn đối với
nhóm thực nghiệm. Điều đó chứng minh rằng sử dụng phương pháp kể chuyện kết
hợp với thơ văn trong dạy học làm nâng cao kết quả học tập lịch sử cho HS lớp 10
Trường THPT Nguyễn Trung Trực.
2. GIỚI THIỆU
Kể chuyện lịch sử là một phương pháp dùng lời nói để diễn tả một cách sinh
động hấp dẫn, có hình ảnh về một câu chuyện đã xảy ra trong quá khứ. Câu chuyện
kể có khi chỉ là những mảnh sự kiện, biến cố lịch sử liên quan đến nội dung bài học,
có khi là những tình tiết liên quan đến các nhân vật lịch sử, có khi chỉ là giải thích
cho một cái tên, địa danh, cho một khái niệm, thuật ngữ trong bài học. “Những câu
chuyện lịch sử mang lại giá trị vô cùng to lớn bởi đó là những bài học làm người,
hình thành nhân cách sống”.
Sử dụng phương pháp kể chuyện lịch sử kết hợp với thơ văn không chỉ tạo
hứng thú học tập cho HS, giúp HS nắm vững bản chất sự kiện, hiện tượng lịch sử mà
còn góp phần giáo dục, bồi dưỡng cho HS những tư tưởng, tình cảm đúng đắn.
Một số công trình nghiên cứu liên quan:
- “Sử dụng tài liệu văn học dân gian phục vụ giảng dạy và học tập lịch sử Việt
Nam trong trường phổ thông ” của tác giả Đặng Hoàng Sang - Hội khoa học lịch sử
Đồng Tháp.
- “Giải pháp hữu ích tăng cường hứng thú cho HS thông qua kể chuyện lịch
sử trong dạy học lịch sử ở trường THCS”, tác giả Tạ Văn Tuấn, Trường trung học cơ
sở Đinh Trang Hòa.
- “Sử dụng tài liệu thành văn nhằm tạo hứng thú học tập cho HS trong dạy học
lịch sử Việt Nam giai đoạn (1919 – 1945” của Nguyễn Hải Yến.
- “Sử dụng thơ văn để tạo hứng thú cho HS trong dạy học bộ môn Lịch sử ở
trường THPT” của Nguyễn Thị Thúy.
- “Phương pháp kể chuyện nhân vật lịch sử trong dạy học lịch sử Việt Nam
giai đoạn (1946 – 1954)” của Mai Thị Ngọc Lệ.
- “Sử dụng thơ văn trong dạy học lịch sử” của Ngô Thị Hòa.
Tuy nhiên, mỗi công trình chỉ nghiên cứu một mảng của vấn đề, hoặc là sử

dụng phương pháp kể chuyện hoặc là sử dụng tài liệu thơ văn trong dạy học lịch sử ở
trường THPT, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu sử dụng phương pháp kể
chuyện kết hợp thơ văn trong dạy học lịch sử lớp 10.
2.1. Hiện trạng
Nội dung kiến thức chương trình và sách giáo khoa môn Lịch sử ở trường
THPT còn quá nặng, bài giảng thiên về lý thuyết khô khan, HS khó nắm vững, dẫn
đến chán nãn không thích thú học môn Lịch sử.
Quan niệm của xã hội, gia đình và đặc biệt là của HS đối với bộ môn Lịch sử
còn khá lệch lạc: không đầu tư, không chú ý thậm chí xem thường hoặc học cho
xong. Việc dạy và học lịch sử ở bậc phổ thông hiện nay dường như chỉ chú tâm vào
học thuộc bài là chính, hay còn gọi là “học vẹt”.
Ở mỗi lớp học, trình độ không đồng đều, HS cá biệt ngày càng nhiều ở trường,
lớp làm ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả giảng dạy của GV.
Thực tế trong chương trình sách giáo khoa lịch sử lớp 10, các câu chuyện và
các bài thơ văn đã được lồng ghép vào nội dung một số bài học. Nhưng do nội dung
và thời lượng chương trình nên số lượng các câu chuyện và các bài thơ văn được đưa
vào chương trình còn hạn chế.
Nhiều GV hiện nay đã sử dụng các câu chuyện kết hợp văn thơ trong dạy học
lịch sử, nhưng trong quá trình giảng dạy và tích hợp câu chuyện với văn thơ chưa có
hệ thống và chưa hiệu quả.
Qua việc thăm lớp, dự giờ khảo sát trước khi tác động, khi giảng dạy GV đã cố
gắng sử dụng các câu chuyện và tài liệu thơ văn vào bài giảng. Tuy nhiên, hầu hết
các GV đều bám vào các câu chuyện và thơ văn trong sách giáo khoa mà ít liên hệ,
mở rộng đối với các câu chuyện và thơ văn bên ngoài, vì vậy chưa tạo được hứng thú
học tập cho HS.
2.2. Nguyên nhân
- GV ít đầu tư sưu tầm và sử dụng tư liệu.
- Phương pháp dạy học sử dụng trong môn Lịch sử chưa phát huy được tính
tích cực của HS, chưa tạo được sự hứng thú của HS. Các sự kiện, hiện tượng lịch sử,
nhân vật lịch sử, không được trình bày một cách cụ thể, sinh động.

- Việc giảng dạy được xem là “lối dạy truyền thống” (thầy đọc, trò chép, nói
lại những điều trong sách giáo khoa, học sinh chỉ ghi nhớ, học thuộc mà không hiểu
nên chóng quên…) đã ăn sâu vào suy nghĩ, thói quen trong cách dạy và học của GV
và HS, chi phối việc chỉ đạo dạy học, việc tổ chức kiểm tra, thi cử.
- Tư tưởng xem nhẹ bộ môn chính, phụ.
- Việc tích cực chủ động tìm tòi tài liệu lịch sử ở HS còn hạn chế.
2.3. Giải pháp thay thế
GV sử dụng phương pháp kể chuyện kết hợp với thơ văn trong giảng dạy lịch
sử nhằm đổi mới phương pháp dạy học của bộ môn để nâng cao chất lượng giảng dạy
cũng như phát triển các năng lực của HS.
Qua phương pháp này giúp HS hứng thú hơn khi học lịch sử, có sự hình dung
đa dạng về quá khứ, tạo được biểu tượng sinh động, chính xác về các sự kiện, hiện
tượng lịch sử. Từ đó, các em có thể dễ dàng lĩnh hội các thuật ngữ, hình thành các
khái niệm lịch sử, nắm được những kết luận khoa học mang tính khái quát. Mặt khác,
nó còn có tác dụng trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm đạo đức và hình thành
nhân cách cho HS.
2.4. Vấn đề nghiên cứu
Việc sử dụng phương pháp kể chuyện kết hợp thơ văn trong dạy học có làm
nâng cao kết quả học tập của HS lớp 10C5 Trường THPT Nguyễn Trung Trực hay
không?
2.5. Giả thuyết nghiên cứu:
Việc sử dụng phương pháp kể chuyện kết hợp thơ văn trong dạy học có làm
nâng cao kết quả học tập của hs lớp 10C5 Trường THPT Nguyễn Trung Trực.
3. PHƯƠNG PHÁP
3.1. Khách thể nghiên cứu
+ GV: Nhiệt tình và có trách nhiệm cao trong công tác giảng dạy và giáo dục
HS, giảng dạy môn Lịch sử tại trường THPT Nguyễn Trung Trực trực tiếp thực hiện
việc nghiên cứu.
+ HS: Hai lớp chọn: Lớp 10C5 và lớp 10C6 có nhiều điểm tương đồng nhau về
trình độ HS, số lượng, giới tính và độ tuổi.

Bảng 1. Tổng số và giới tính của HS lớp 10 trường THPT Nguyễn Trung Trực
Tổng số HS Nam Nữ
Lớp 10c5 40 21 19
Lớp 10c6 40 20 20
3.2.Thiết kế nghiên cứu
Chọn hai lớp: Lớp 10C5 là lớp thực nghiệm, lớp 10C6 là lớp đối chứng.
* Kiểm tra trước tác động: Tôi dùng kết quả bài kiểm tra học kì I để xác định các
nhóm tương đương.
Bảng 2. Kiểm chứng để xác định các nhóm tương đương
Lớp đối chứng (10c6) Lớp thực nghiệm (10c5)
Điểm trung bình 5.62 5.74
Giá trị p của T-test 0.799
+ Kết quả kiểm tra cho thấy điểm trung bình của hai lớp có sự khác nhau, do đó
chúng tôi dùng phép kiểm chứng T-Test để kiểm chứng sự chênh lệch giữa điểm số
trung bình của hai lớp trước khi tác động.
+ P = 0.799> 0.05, từ đó kết luận sự chênh lệch điểm số trung bình của hai lớp
thực nghiệm và đối chứng là không có ý nghĩa, hai lớp được coi là tương đương.
* Kiểm tra sau tác động: Tôi dùng bài kiểm tra giữa học kì II theo phân phối
chương trình để kiểm chứng sự chênh lệch điểm số trung bình giữa hai lớp sau khi
tác động.
Bảng 3. Thiết kế nghiên cứu
Ở thiết kế này tôi sử dụng phép kiểm chứng T-tes độc lập.
3.3. Quy trình nghiên cứu
a. Cách thức tiến hành
- Lớp đối chứng (10C6): GV thiết kế giáo án và giảng dạy bình thường (không sử
dụng phương pháp kể chuyện kết hợp thơ văn trong giảng dạy).
- Lớp thực nghiệm (10C5): GV thiết kế giáo án và giảng dạy sử dụng phương pháp
kể chuyện kết hợp thơ văn trong giảng dạy bài 14 (Các quốc gia cổ đại trên đất
nước Việt Nam), bài 15 (Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập (từ
thế kỉ II TCN đến đầu thế kỉ X) và bài 16 (Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh

Lớp
Kiểm tra
trước tác động
Tác động
Kiểm tra
sau tác động
Thực
nghiệm
(Lớp 10C5)
O1
Dạy học có sử dụng phương
pháp kể chuyện kết hợp thơ
văn.
O3
Đối chứng
(Lớp 10C6)
O2
Dạy học bình thường (Không
sử dụng phương pháp kể
chuyện kết hợp thơ văn).
O4
giành độc lập (từ thế kỉ II TCN đến đầu thế kỉ X)-(Tiếp theo)) chương trình Lịch sử
lớp 10, cụ thể là lớp 10C5 - Trường THPT Nguyễn Trung Trực.
Trong quá trình giảng dạy, GV lựa chọn một số câu chuyện và các bài thơ văn
phù hợp với nội dung bài học để giảng dạy. GV dẫn các câu chuyện và các bài thơ
văn vào bài giảng theo dạng nhập đề (chuẩn bị cho HS tiếp thu bài mới), giới thiệu
vấn đề (khắc sâu kiến thức trọng tâm) và kết luận (tóm tắt những tư tưởng chính, rút
ra kết luận, khái quát hóa) nhằm tạo hứng thú học tập cho HS, giúp HS ghi nhớ tốt
những sự kiện lịch sử, những nhân vật, mốc thời gian, qua đó hiểu rõ bản chất sự
kiện, hiện tượng lịch sử. Trên cơ sở đó giáo dục, bồi dưỡng cho HS những tư tưởng,

tình cảm đúng đắn.
b. Thời gian thực hiện:
Thời gian của quá trình nghiên cứu khoảng đầu tháng 11 năm 2014 và đến cuối
tháng 2 năm 2015 (theo kế hoạch dạy và học của nhà trường và theo thời khóa biểu
để đảm bảo tính khách quan).
3.4. Đo lường và thu thập dữ liệu
Bài kiểm tra trước tác động là bài kiểm tra học kì I (môn Lịch sử) do giáo viên
trong tổ thống nhất ra đề.
Bài kiểm tra sau tác động là bài kiểm tra sau khi học xong bài 14, bài 15 và bài
16 Lịch sử 10. Dạng câu hỏi kiểm tra là tự luận.
Sau khi dạy xong các bài học trên, tôi tiến hành bài kiểm tra 1 tiết và chấm bài
theo đáp án đã xây dựng (nội dung được trình bày ở phần phụ lục).
4. PHÂN TÍCH DỮ LIỆU VÀ BÀN LUẬN KẾT QUẢ
4.1. Trình bày kết quả
Bảng 4. So sánh điểm trung bình bài kiểm tra sau tác động
Lớp thực nghiệm
(10C5)
Lớp đối chứng (10C6)
Điểm trung bình 7.40 5.86
Độ lệch chuẩn 1.49 1.90
Giá trị p của T-test 0.0001
Chênh lệch giá trị TB
chuẩn (SMD)
0.81
4.2. Phân tích dữ liệu
Trước khi thực hiện giải pháp 2 lớp 10c5 và 10c6 có kết quả học tập là tương
đương nhau.
Sau tác động kiểm chứng chênh lệch điểm trung bình bằng T-Test cho kết quả
P = 0.0001<0.05, cho thấy: sự chênh lệch giữa điểm trung bình lớp thực nghiệm và
lớp đối chứng rất có ý nghĩa, tức là chênh lệch kết quả điểm trung bình lớp thực

nghiệm cao hơn điểm trung bình lớp đối chứng là không ngẫu nhiên mà do kết quả
của tác động.
Chênh lệch giá trị trung bình chuẩn SMD = 0.81.
Điều đó cho thấy mức độ ảnh hưởng của việc dạy học có sử dụng phương pháp
kể chuyện kết hợp thơ văn đến kết quả học tập của lớp thực nghiệm là lớn.
Giả thiết của đề tài việc sử dụng phương pháp kể chuyện kết hợp thơ văn trong
dạy học làm nâng cao kết quả học tập của hs lớp 10 Trường THPT Nguyễn Trung
Trực đã được kiểm chứng.
Biểu đồ so sánh điểm trung bình trước và sau tác động
của lớp thực nghiệm và lớp đối chứng
4.3. Bàn luận
Kết quả của bài kiểm tra sau tác động của lớp thực nghiệm là điểm trung bình
= 7.40, kết quả bài kiểm tra tương ứng của lớp đối chứng là điểm trung bình = 5.86.
Độ chênh lệch điểm số giữa hai lớp là 1.54. Điều đó cho thấy điểm trung bình của hai
lớp đối chứng và lớp thực nghiệm đã có sự khác biệt rõ rệt, lớp được tác động có
điểm trung bình cao hơn lớp đối chứng.
Chênh lệch giá trị trung bình chuẩn của hai bài kiểm tra là SMD = 0.81. Điều
này có nghĩa mức độ ảnh hưởng của tác động là lớn.
Phép kiểm chứng T- test điểm trung bình sau tác động của 2 lớp là P =
0.0001< 0,05. Kết quả này khẳng định sự chênh lệch điểm trung bình của 2 lớp
không phải là ngẫu nhiên mà là do tác động.
* Hạn chế:
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp kể chuyện kết hợp thơ văn trong dạy
học lịch sử ở bậc THPT là một giải pháp rất tốt để nâng cao kết quả học tập của HS,
Lớp đối chứng (10C6)
Lớp thực nghiệm (10C5)
nhưng để sử dụng phương pháp này có hiệu quả người GV cần phải đầu tư nhiều thời
gian và công sức; biết khai thác các nguồn thông tin, tài liệu; biết chọn lọc tư liệu để
đưa vào tiết dạy sao cho có hiệu quả nhất. Một vấn đề cần lưu ý khác là khi sử dụng
phương pháp này yêu cầu GV phải có giọng nói diễn cảm nếu không kiến thức đưa

vào nhiều khi sẽ phản tác dụng vì giọng của GV khiến HS mất hứng thú.
5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
5.1. Kết luận
Việc sử dụng phương pháp kể chuyện kết hợp thơ văn trong giảng dạy lịch sử
10 Trường THPT Nguyễn Trung Trực đã góp phần nâng cao kết quả học tập của HS.
Qua giảng dạy, tôi đã rút ra được một kinh nghiệm mà bản thân tôi cho là rất
quý. Đó là: khi sử dụng các câu chuyện, kiến thức thơ văn vào việc giảng dạy lịch sử
sẽ gây hứng thú cho HS trong việc tiếp thu bài. Những tiết học như vậy trở nên sinh
động hẳn. Khi GV kể chuyện hay đọc thơ minh hoạ, cả lớp chăm chú lắng nghe và tỏ
ra rất thích thú. Những tiết học như thế đã để lại trong lòng các em những ấn tượng
sâu sắc và lâu bền. Chắc chắn những sự kiện trong bài học lịch sử sẽ lưu lại trong ký
ức các em sâu hơn, lâu hơn. Tuy nhiên, trong chương trình lịch sử 10 không phải
trong bài giảng nào GV cũng sử dụng phương pháp kể chuyện kết hợp thơ văn, nó chỉ
được sử dụng khi đảm bảo tính cần thiết và hiệu quả cần đạt.
5.2. Khuyến nghị
* Đối với các cấp lãnh đạo: cần quan tâm xây dựng và tiến tới sử dụng những
phương tiện kỹ thuật hiện đại trong dạy học, cần chỉ đạo cho thư viện nhà trường
tăng cường sưu tầm, tập hợp các loại sách, tài liệu tham khảo phục vụ nhu cầu dạy và
học Lịch sử của GV và HS.
Cần hỗ trợ và tạo điều kiện cho GV lịch sử tổ chức các cuộc thi, các trò chơi
lịch sử, các chuyến tham quan di tích lịch sử, bảo tàng…
* Đối với GV: không ngừng tự học, tự bồi dưỡng, chịu khó đầu tư thời gian,
công sức để sưu tầm tài liệu, sắp xếp thành hệ thống theo từng tiết học, từng chương,
từng phần phù hợp với nội dung và kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa.
GV cần đưa ra những yêu cầu cụ thể đối với HS trong quá trình dạy học như
sưu tầm tại liệu trước ở nhà theo định hướng của GV.
Với kết quả của đề tài này, tôi mong rằng các bạn đồng nghiệp quan tâm, chia
sẻ và đặc biệt là GV giảng dạy bộ môn Lịch sử có thể ứng dụng đề tài này vào việc
dạy học để tạo hứng thú cho HS nhằm nâng cao kết quả bộ môn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng, Nxb
Đại học Sư phạm.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra, đánh
giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh môn Lịch sử
cấp trung học phổ thông, Hà Nội.
3. Trương Hữu Quýnh (Chủ biên), Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh (2003),
Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo dục.
4. Phan Ngọc Liên (Tổng Chủ biên), Nguyễn Ngọc Cơ (Chủ biên), Nguyễn Anh
Dũng, Trịnh Đình Tùng, Trần Thị Vinh (2006), Lịch sử 10, sách giáo viên,
Nxb Giáo dục.
5. Phan Ngọc Liên (Tổng Chủ biên), Lương Ninh, Trương Hữu Quýnh (Chủ
biên), Đinh Ngọc Bảo, Nguyễn Hồng Liên, Nguyễn Cảnh Minh, Nghiêm Đình
Vỳ (2013), Lịch sử 10, Nxb Giáo dục Việt Nam.
6. Nguyễn Thành (Chủ biên), Phùng Đức Thắng, Đặng Văn Thái (2000), Hồ Chí
Minh Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Nguyễn Khắc Thuần (2003), Việt sử giai thoại, tập 1, Nxb Giáo dục.
8. Trịnh Tùng (1999), Phương pháp dạy học lịch sử, Nxb Giáo dục.
9. Thái Duy Tuyên (2007), Phương pháp dạy học truyền thống và đổi mới, Nxb
Giáo dục.
10.Việt Nam sử ca – sách điện tử.
11.Mạng internet: vi.wikipedia.org, www.sugia.vn, baigiang.violet.vn,
hotrodayhoc.com, vinhphuc.edu.vn …
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: PHƯƠNG PHÁP KỂ CHUYỆN KẾT HỢP THƠ VĂN TRONG
DẠY HỌC BÀI 14, BÀI 15 VÀ BÀI 16 LỊCH SỬ 10
Sau đây là việc sử dụng phương pháp kể chuyện kết hợp thơ văn trong dạy học
lịch sử ở bài 14, bài 15 và bài 16 trong chương trình Lịch sử lớp 10 ở trường THPT
Nguyễn Trung Trực mà bản thân tôi đã thực hiện:
Bài 14: Các quốc gia cổ đại trên đất nước Việt Nam
Mục 1. Quốc gia Văn Lang - Âu Lạc

GV liên hệ những câu chuyện truyền thuyết như: Con rồng cháu tiên, Thánh
Gióng, Bánh chưng bánh dày, những câu chuyện này đã cơ bản phản ánh được “cái
thần” của sự kiện, của mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể.
Ví dụ, khi cung cấp cho HS nội dung: công cụ sản xuất bằng đồng thau đã trở
nên phổ biến và bước đầu sử dụng công cụ bằng sắt, GV tóm tắt ngắn gọn nội dung
truyền thuyết Thánh Gióng và sử dụng chi tiết Thánh Gióng yêu cầu: “Sứ giả hãy
mau về tâu với nhà vua đúc cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt, một áo giáp sắt
và một cái nón sắt. Ta sẽ đánh tan quân giặc”.
GV đặt câu hỏi: Tại sao Thánh Gióng không yêu cầu sứ giả đúc cho các loại vũ
khí bằng công cụ khác mà phải bằng sắt?
Sau khi HS trả lời, GV nhận xét, bổ sung: thời Hùng Vương tương ứng với giai
đoạn văn hóa Đông Sơn nhân dân ta đã sử dụng công cụ bằng sắt tuy mới ở “bước
đầu”. Từ đó, giúp HS nhận thức được rằng nhờ sử dụng công cụ mới nên người Việt
cổ có được một nền kinh tế phát triển mạnh để từ đây tạo nên những chuyển biến to
lớn về mặt xã hội. Bên cạnh đó, qua câu chuyện ta xác định được những yếu tố thời
gian là thời Hùng Vương thứ 6 (tương ứng với thời nhà Ân ở Trung Quốc), đồng thời
nêu cao truyền thống đoàn kết chống giặc ngoại xâm, bảo vệ lãnh thổ của nhân dân ta
(cả làng góp gạo thổi cơm cho Gióng ăn).
Khi giảng về nguồn gốc và quốc hiệu nước ta, GV có thể đọc câu thơ sau của
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài “Lịch sử nước ta”:
“Hồng Bàng là tổ nước ta
Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang”
Tiếp đó, GV có thể trích dẫn câu ca dao sau để HS khắc sâu kiến thức về cội
nguồn dân tộc:
“Dù ai đi ngược về xuôi, nhớ ngày giỗ tổ mùng 10 tháng 3”
Hoặc:
“Ai về Phú Thọ cùng ta
Nhớ ngày giỗ tổ tháng ba mồng mười.
Ai về đến ngả ba Chanh
Ghé xem phong cảnh Loa Thành Thục Vương

Cổ Loa thành ốc lạ thường
Trải bao năm tháng nẻo đường còn đây”
Từ đó HS thêm tự hào về truyền thống dân tộc và có ý thức giữ gìn và xây
dựng đất nước.
Về sự thất bại của nước Văn Lang – Âu Lạc trước sự tấn công của phương
Bắc, từ đó nước ta bước vào thời kì Bắc thuộc, chúng ta có thể kể câu chuyện “Mị
Châu, Trọng Thủy” để HS dễ học dễ nhớ hơn. Hoặc cũng có thể trích dẫn đoạn thơ
sau trong tác phẩm “Việt Nam sử ca”:
“Loa thành nhà Thục thật, hư:
“Nỏ thần trăm phát”? Gian mưu Triệu Đà:
Se duyên, Thục - Triệu thông gia
Đà mang giảo kế lừa nhà Thục Vương.
Xót nàng duyên gãy mà thương
Tội nàng tình thiệt vạ vương rụng rời.
Triệu Đà được nỏ, nuốt lời
An Dương Vương phải bỏ đời giữa khơi!”
Để tổng kết mục 1, GV có thể trích dẫn đoạn thơ sau trong “Việt Nam sử ca”:
“"Giấy rách còn giữ lấy lề"
Người Việt đâu cũng nhớ về chốn quê.
Lạc Long Quân lấy Âu Cơ
Mười lăm bộ họp dưới cờ Văn Lang.
Họ Hồng Bàng, giữ giang san
Mười tám đời rạng ngai vàng Hùng Vương!”
Qua đoạn trích trên sẽ khắc sâu cho HS kiến thức khái quát về giai đoạn lịch sử
thời kì dựng nước của dân tộc. Từ đó, bồi dưỡng cho HS ý thức về cội nguồn dân tộc,
lòng yêu quê hương đất nước và tình đoàn kết gắn bó dân tộc.
Mục 2. Quốc gia cổ Chăm pa
GV có thể kể chuyện về quá trình mở rộng lãnh thổ của nước ta xuống phía
Nam.
Ví dụ: Năm 1069, Lý Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, bắt được

vua Chế Củ và 5 vạn dân. Năm sau (1070), vua Chế Củ xin đem ba châu: Địa Lý, Ma
Linh, Bố Chính (Quảng Bình và Bắc Quảng Trị) để chuộc.
Tiếp đó, GV có thể kể cho HS câu chuyện về Công chúa Huyền Trân, con gái
vua Trần Nhân Tông. Năm 1306, Huyền Trân được gả cho vua Chiêm Thành là Chế
Mân để đổi lấy hai châu Ô, Lý (Quảng Trị, Thừa Thiên Huế)
Sau đó GV kết luận: Cuối thế kỉ XV, Chăm pa suy thoái và trở thành một bộ
phận của lãnh thổ, cư dân và văn hóa Việt Nam.
Bài 15: “Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc (Từ
thế kỉ II TCN đến đầu thế kỉ X)”
Mục 1. Chế độ cai trị
GV sử dụng đoạn thơ trong “Việt Nam sử ca” để HS hiểu được chế độ cai trị
của các triều đại phong kiến phương Bắc đối với nước ta:
“Tượng Quận gọi bởi nhà Tần
Hán diệt Triệu, xẻ ba phần nước Nam:
Cửu Chân, Giao Chỉ, Nhật Nam
Giao Chỉ, Đông Hán đổi làm Giao Châu.
Nhà Đường nước chiếm, nhà thâu:
“An Nam đô hộ phủ”, sầu quốc vong!”
Khi dạy đến chính sách đồng hóa về văn hóa, với nội dung mở trường dạy chữ
Hán, truyền bá Nho giáo vào Việt Nam, GV có thể kể chuyện về Khổng Tử, trích dẫn
một số câu nói của Khổng Tử trên quan điểm Nho học.
Mục 2. Những chuyển biến về kinh tế - xã hội
GV có thể kể tóm tắt nội dung câu chuyện “Sự tích bánh chưng bánh dày” để
khẳng định các phong tục, tập quán truyền thống của dân tộc vẫn được bảo tồn, nhân
dân ta không bị đồng hóa về văn hóa.
Bài 16: “Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc (Từ
thế kỉ II TCN đến đầu thế kỉ X)”- Tiếp theo
Mục 1. Khái quát phong trào đấu tranh từ thế kỉ I đến đầu thế kỉ X
GV có thể trích đọc một số câu ca dao sau để HS tạo biểu tượng lịch sử, hình
dung rõ hơn được bối cảnh lịch sử lúc đó như:

Về khởi nghĩa của Bà Triệu:
“Có bà Triệu tướng
Vâng lệnh trời ta
Trị voi một ngà
Dựng cờ mở nước”
Và tương truyền, quân Ngô khiếp uy dũng của Bà Triệu nên có câu:
“Cầm ngang ngọn giáo chống hổ dễ
Giáp mặt vua bà thực khó ghê”
Với khởi nghĩa Mai Thúc Loan, GV có thể đọc bài thơ sau (được ghi trong
“Tiên chân báo huấn tân kinh” ở đền thờ Ông), để HS nhớ và hiểu hơn nguyên nhân
bùng nổ khởi nghĩa, ca tụng công đức của Mai Thúc Loan:
“Hùng cứ châu Hoan đất một vùng,
Vạn An thành lũy khói hương xông,
Bốn phương Mai Đế lừng uy đức,
Đường đi cống vải từ đây dứt,
Dân nước đời đời hưởng phúc chung”
Mục 2. Một số cuộc khởi nghĩa tiêu biểu
Về khởi nghĩa Hai Bà Trưng, GV sử dụng đoạn thơ trong “Đại Nam quốc sử
diễn ca” để giúp HS nắm được nguyên nhân bùng nổ, kẻ thù, diễn biến và kết quả của
cuộc khởi nghĩa. Từ đó, thấy được khí phách anh hùng của phụ nữ Việt Nam trong
buổi đầu đấu tranh giành độc lập:
“Bà Trưng quê ở Châu Phong
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên
Chị em nặng một lời nguyền
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân
Ngàn tây nổi áng phong trần
Ầm ầm binh mã xuống dần Long Biên
Hồng quần nhẹ bước chinh yên
Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành
Kinh kì đóng cõi Mê Linh

Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta”
Hoặc có thể sử dụng đoạn thơ sau trong “Việt Nam sử ca”:
“Tô Định bạo ngược khôn lường
Giết người Giao Chỉ không tường thị phi.
Bắt Thi Sách đem giết đi
Hai Trưng Trắc, Nhị tức thì khởi binh.
Con dòng Lạc tướng Mê Linh
Đuổi quân Tô Định mà bình đất Nam.
Cửu Chân, Hợp Phố, Nhật Nam”
Chẳng bao lâu hạ sáu lăm thành trì.
Xưng vua, lừng lẫy ai bì
Mê Linh đóng phủ, uy nghi một miền.
Hay có thể sử dụng đoạn thơ trong “Thiên Nam ngữ lục” để nói về nguyên nhân cuộc
khởi nghĩa:
“Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kêu oan ức lòng chồng
Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này”
Khi giảng về cuộc khởi nghĩa Lý Bí và sự thành lập nước Vạn Xuân, GV có
thể trích đoạn thơ trong “Lịch sử nước ta” để đánh giá sự kiện lịch sử:
“Anh hùng thay ông Lý Bôn
Tài kiêm văn võ, sức hơn muôn người
Đánh tàu đuổi sạch ra ngoài
Lập nên triều Lý sáu mười năm liền”
Hay có thể sử dụng đoạn thơ trong “Việt Nam sử ca” để nói về nét chính cuộc khởi
nghĩa:
“Tham tàn thái thú, người ghê
Hùng tâm, Lý Bí giương cờ diệt gian.
Vạn Xuân thoát cảnh lầm than
"Thái bình thiên đức", xua tan bóng tà.

Bình minh chiếu sáng sơn hà
Thanh bình tự chủ như là đến phiên!
Nghe qua, Lương Đế đảo điên
Xua quân lấn chiếm, Bá Tiên phụng quyền.
Thua đi, thắng lại truân chuyên
Lý Bôn quyết định trao quyền Triệu Vương.”
Khi giảng về Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938, GV kể về tài
năng của Ngô Quyền trong việc lợi dụng thủy triều lên xuống, ông đã tính toán và
cho đóng cọc xuống cửa sông Bạch Đằng, lên kế hoạch cho quân mai phục và nhử
địch vào trận địa, đúng như kế hoạch đánh thắng giặc sau một ngày. HS sẽ thấy được
tài trí của người Việt từ đó bồi dưỡng niềm tự hào dân tộc, phát huy được tính sáng
tạo trong cuộc sống:
“Sông Bạch Đằng có tên nôm là sông Rừng, vì hai bên bờ sông nhất là phía tả
ngạn toàn là rừng rậm. Hạ lưu sông thấp, độ dốc không cao nên ảnh hưởng của thuỷ
triều lên xuống rất mạnh, chênh nhau đến 3m. Khi triều lên, lòng sông rộng mênh
mông đến hàng nghìn mét, sâu tới chục mét. Biết rõ quân địch sẽ kéo vào nước ta
theo đường sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đã huy động cho quân, dân lên rừng chặt
gỗ, đẽo nhọn đầu và bịt sắt, đem đóng xuống lòng sông Bạch Đằng ở những nơi hiểm
yếu. Lúc nước triều lên bãi cọc chìm trong một biển nước mênh mông. Phía trên bãi
cọc ngầm, Ngô Quyền còn bố trí một lực lượng thuỷ binh ẩn nấp hai bên bờ sông.
Nhiều thuyền được giấu kín trong các bụi lau sậy. Hàng ngàn quân bộ, cung nỏ sẵn
sàng mai phục bên cạnh các vách núi.
Ngô Quyền đích thân cầm quân ra trận.
Năm 938, Lưu Hoằng Tháo cầm đầu thuỷ quân Nam Hán tiến vào cửa sông
Bạch Đằng đánh chiếm nước ta. Đợi cho nước triều lên ngập hết trận địa bãi cọc,
Ngô Quyền cho một số thuyền n hỏ đánh nhử địch. Quân ta vờ thua rút chạy, Hoằng
Tháo hăm hở thúc quân đuổi theo, vượt qua trận địa bãi cọc ngầm của ta. Ngô Quyền
chỉ huy quân ta cầm cự với giặc. Khi nước thuỷ triều bắt đầu rút, ông mới ra lệnh
phản kích. Những mũi tên từ các vách đá vun vút lao ra như mưa, hàng trăm thuyền
bất ngờ xuất hiện. Quân giặc hoảng hốt quay đầu tháo chạy. Ra đến gần cửa sông,

đúng lúc nước triều rút mạnh. Bãi cọc ngầm nhô lên. Quân ta dồn sức tấn công. Quân
từ phía thượng lưu đánh xuống, quân mai phục từ hai bên bờ sông và quân thuỷ từ
các sông nhánh xông ra đánh tạt ngang. Đội hình thuyền của địch rối loạn, xô vào
nhau, va phải bãi cọc ngầm bị thủng vỡ, đắm rất nhiều. Quân địch bỏ cả chèo lái,
nhảy xuống sông, phần bị giết, phần chết đuối, thiệt hại quá nửa. Hoằng Tháo bỏ
mạng nơi đây.
Thất bại nặng nề của đạo thuỷ quân Hoằng Tháo đã làm cho vua Nam Hán kinh
hoàng, chỉ biết thương khóc con trai và hạ lệnh rút quân tiếp ứng, hoàn toàn bỏ mộng
xâm lược nước ta.
Cuối cùng, GV chốt lại: Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 thể hiện nghệ thuật
độc đáo, sáng tạo của Ngô Quyền - đã biết lợi dụng thiên thời, địa lợi, nhân hoà.
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền đã chấm dứt hơn 1000 năm nước ta
bị các triều đại phong kiến phương bắc thống trị, mở ra một thời đại mới - thời đại
độc lập, tự chủ lâu dài của dân tộc ta.
Trên đây là một số ví dụ cụ thể về sử dụng các câu chuyện và tài liệu văn thơ
trong giờ dạy lịch sử ở một số bài học mà bản thân tôi đã tổng kết và thực hiện khi
dạy lịch sử khối lớp 10 ở trường THPT Nguyễn Trung Trực nhằm tạo hứng thú cho
HS, nâng cao hiệu quả bài học. Từ những câu chuyện, đoạn thơ, bài ca nội dung kiến
thức, hình ảnh nhân vật sẽ được toát lên một cách sinh động, sẽ đi theo năm tháng
cùng với các em về các sự kiện, các cuộc khởi nghĩa, mà HS không cần phải học
thuộc lòng cứng nhắc ở trong sách giáo khoa.Tuy nhiên, trong quá trình vận dụng đòi
hỏi GV phải có sự sáng tạo, linh hoạt trên cơ sở khoa học và điều kiện cụ thể của
từng lớp học, tiết học
PHỤ LỤC 2: BẢNG ĐIỂM LỚP ĐỐI CHỨNG (10C6)
STT Họ và Tên
Điểm KT Trước

Điểm KT Sau

1 Lê Mỹ Anh 7.5 8

2 Huỳnh Thị Cẩm 8 9
3 Huỳnh Khánh Duy 7 6
4 Mai Quốc Duy 6.5 6.5
5
Phạm Thị Trúc
Đào 3 5
6 Đỗ Phước Đạt 7.8 8
7 Trần Lý Đức 6.5 8
8 Nguyễn Anh Hào 4 6
9
Nguyễn Thị Cẩm
Hằng 3.5 5
10 Trương Gia Huy 6 7.5
11
Nguyễn Duy Minh
Kha 7.5 8
12 Lê Trọng Khiêm 1 2
13
Nguyễn Duy
Khương 2.5 5
14 Phan Hồng Linh 8 6
15
Ngô Thị Phương
Linh 7.5 8
16
Nguyễn Thị Thùy
Linh 5 1
17 Nguyễn Gia Lộc 2.5 4
18 Trương Ngọc Mi 6 6.5
19

Phạm Thị Kim
Ngân 5 3
20
Trương Ngọc
Tuyết Ngân 5 5
21 Lý Thị Kiều Nhi 6 6
22 Thái Trần Tú Nhi 7.5 4
23 Võ Thị Kim Oanh 6 7
24
Huỳnh Hiểu
Phương 5 2.5
25
Hồ Phương
Phương 3.5 6.5
26 Liêu Thanh Tân 6.5 8
27 Phùng Phúc Thái 7 6
28 Nguyễn Đức 6 6
Thuận
29
Nguyễn Phước
Thuận 7 5
30 Thái Thanh Thuận 5 5
31
Trần Thị Diễm
Trang 5 3
32
Trần Thị Ngọc
Trăm 4 6
33 Võ Thị Mỹ Trâm 4 5
34 Nguyễn Bảo Trinh 7.3 7

35
Nguyễn Quốc
Tuấn 4 5
36 Trần Minh Tường 9 9.3
37 Trần Thị Thanh Vi 6.5 7
38 Nguyễn Anh Vũ 5.8 7
39 Nguyễn Tuấn Vũ 6 7
40 Tô Hồng Yến 4 4.5
P trước tác động 0.799
P sau tác động 0.0001
Giá trị trung bình 5.62 5.86
Độ lệch chuẩn 1.80 1.90
Mức độ ảnh hưởng
(SMD)
0.81
PHỤ LỤC 3: BẢNG ĐIỂM LỚP THỰC NGHIỆM (10C5)
STT Họ và Tên
Điểm KT Trước

Điểm KT Sau

1
Trần Thị Diễm
Châu 7 8
2 Phạm Ngọc Duyên 6 6.5
3
Nguyễn Ngọc
Thùy Dương 6 8
4 Trần Khoa Đăng 5 7
5 Võ Đức Huy 8 8.5

6
Nguyễn Huỳnh
Khoa 4.5 6
7 Đoàn Hiếu Kỳ 6 6.5
8 Phạm Tú Linh 8 10
9
Trần Thị Thùy
Linh 7.5 8
10 Huỳnh Thanh Long 7 9
11 Nguyễn Nhật Long 6.5 7
12 Phạm Văn Ngà 3 3.5
13 Huỳnh Kim Ngọc 4 9.5
14
Phạm Hồng Thái
Ngọc 8.5 9
15
Lăng Thị Cẩm
Nhung 7 7
16
Nguyễn Thị Hồng
Nhung 6 7
17 Lục Tấn Phát 3 5
18 Tiêu Tuấn Phát 7.5 8.5
19
Khổng Thị Trúc
Phương 4 6
20 Trần Đan Phương 5 7.5
21 Nguyễn Tấn Quí 9 9.3
22 Nguyễn Thái Quốc 4 7
23

Nguyễn Thị Trúc
Quyên 1 5
24 Thi Khánh Tây 3.5 5
25
Nguyễn Trung
Thành 4 6
26 Phan Công Thành 4 6.5
27
Huỳnh Thị Thanh
Thảo 4.5 6
28 Đinh Thị Ngọc Thi 5 9.5
29
Nguyễn Hồng
Thuy 5.5 7

×