Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

(Luận Văn Thạc Sĩ) Đảng Cộng Sản Việt Nam Lãnh Đạo Xây Dựng Hệ Thống Tổ Chức Và Hoạt Động Của Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam Từ Năm 1976 Đến Năm 1986.Pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 115 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------

NGUYỄN THỊ THỊNH

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO XÂY
DỰNG HỆ THỐNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM TỪ
NĂM 1976 ĐẾN NĂM 1986

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------

NGUYỄN THỊ THỊNH

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO XÂY
DỰNG HỆ THỐNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM TỪ
NĂM 1976 ĐẾN NĂM 1986

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 03 15

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ



Người hướng dẫn: PGS. TS. NGƯT. GVCC. Ngô Đăng Tri

Hà Nội 2014

2


MỤC LỤC
Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 2
Lịch sử nghiên cứu vấn đề ..................................................................................... 3
Mục đích nghiên cứu .............................................................................................. 4
Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................................. 4
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................... 4
Nguồn tư liệu ........................................................................................................... 5
Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 5
Bố cục luận văn ....................................................................................................... 5
Chương 1. Đảng lãnh đạo Hội LHPNVN xây dựng hệ thống tổ chức
và hoạt động giai đoạn 1976-1981 ......................................................................... 6
1.1. Thực trạng hệ thống tổ chức và hoạt động của Hội trước năm 1976 .... 6
1.2. Chủ trương và sự chỉ đạo xây dựng hệ thống tổ chức và hoạt động
của Hội giai đoạn 1976-1981 ...................................................................... 29
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 50
Chương 2. Đảng lãnh đạo xây dựng hệ thống tổ chức và hoạt động
Của Hội LHPNVN giai đoạn 1981-1986 ............................................................. 51
2.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương mới của Đảng..................................... 51
2.2. Đảng chỉ đạo xây dựng hệ thống tổ chức và hoạt động của Hội ......... 62
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 76
Chương 3. Nhận xét chung và một số bài học kinh nghiệm ............................. 77
3.1. Nhận xét chung ..................................................................................... 77

3.2. Những nét độc đáo và bài học kinh nghiệm ......................................... 81
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 94
Kết luận ................................................................................................................. 95
Tài liệu tham khảo ................................................................................................ 99
Phụ lục ................................................................................................................. 105

3


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Tên đầy đủ

Viết tắt
HLHPNVN

Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam

TW

Trung ương

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

VNDCCH

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa


HTX

Hợp tác xã

HPHPNGP

Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng

4


Lời cảm ơn
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến PGS.TS Ngô Đăng Tri,
Người Thầy đã khuyến khích tơi theo đuổi đề tài, chỉ bảo, hướng dẫn tơi trong
suốt q trình thực hiện luận văn này.
Tơi xin gửi lời cảm ơn đến Phòng Tư liệu Trung ương Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam , thư viện Khoa Lịch sử, Trung tâm thông tin thư viện trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Thư viện Quốc gia Việt Nam đã tạo điều
kiện cho tôi thực hiện luận văn này.
Luận văn này cũng khơng thể hồn thành nếu khơng có sự động viên,
giúp đỡ của người thân và bạn bè trong suốt quá trình thực hiện.
Dù đã cố gắng nhiều nhưng Luận văn cũng không tránh khỏi những sai
sót, hạn chế; tơi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cơ và bạn bè.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Trong lịch sử loài người, phụ nữ là một lực lượng xã hội quan trọng. Vấn
đề giải phóng phụ nữ, đưa phụ nữ tham gia vào các hoạt động chung của xã hội
đã được các giai cấp, các nhà lãnh đạo quan tâm giải quyết và trở tành thước đo
của mỗi chế độ xã hội.
Nhận thức đúng đắn vai trò quan trọng của phụ nữ, ngay từ khi mới ra đời
Đảng Cộng sản Việt Nam đã quan tâm đến việc vận động phụ nữ và tập hợp họ
trong một tổ chức đấu tranh tiền thân là Hội phụ nữ Cứu quốc cho đến Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam (sau đây xin gọi tắt là Hội) ngày nay. Dưới sự chỉ đạo
đúng đắn của Đảng với những chủ trương, chính sách sát thực, kịp thời qua từng
giai đoạn cách mạng cùng với sự tự phấn đấu vươn lên, tổ chức Hội đã có bước
phát triển tốt cả về tổ chức và hoạt động. Tuy nhiên, với quan điểm nhìn thẳng
vào sự thật, chúng ta thấy rằng công tác lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng tổ chức và
hoạt động Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam của Đảng từ năm 1975- 1985 còn
bộc lộ một số mặt hạn chế. Ý thức làm chủ tập thể, trình độ văn hóa nghề nghiệp
của phụ nữ cịn chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, đường lối, phương
châm công tác vận động phụ nữ chưa được quán triệt sâu sắc ở các cấp, các
ngành; chức năng, phạm vi hoạt động của Hội trên một số mặt công tác chưa
được rõ; trình độ cán bộ các cấp Hội còn yếu; việc chỉ đạo chưa thật sâu sát, cụ
thể; việc vận động phương thức vận động còn lúng túng, sự phối hợp với các
ngành và các đoàn thể khác chưa chặt chẽ.
Tình hình trên cho thấy, để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối
với tổ chức quần chúng nói chung và Hội Liên hiệp Phụ nữ nói riêng cần phải
rút kinh nghiệm, đẩy mạnh hơn nữa. Căn cứ vào những chủ trương, chính sách
và q trình chỉ đạo thực hiện của Đảng về công tác củng cố, xây dựng tổ chức
và hoạt động của Hội từ năm 1975 đến năm 1985 để chỉ ra mặt mạnh, mặt yếu,
6


nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó và những kiến nghị, những chủ trương chiến

lược lâu dài cũng như những giải pháp trước mắt với Đảng và Nhà nước để đưa
công tác lãnh đạo chỉ đạo đối với Hội Liên hiệp phụ nũ Việt Nam ngang tầm với
nhiệm vụ của sự nghiệp đổi mới. Những vấn đề trên đây đã nói lên tính cần thiết
và lý do chọn đề tài nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về phụ nữ Việt Nam phải kể đến các cơng trình: "Lịch sử
phong trào phụ nữ Việt Nam" của Nguyễn Thị Thập (chủ biên), Nxb. Phụ nữ,
năm 1981; "Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại" của tác giả Lê Thị Nhâm Tuyết,
xuất bản năm 1973; "Những nét sơ lược về phong trào phụ nữ từ ngày thành lập
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam , "Truyền thống phụ nữ Việt Nam", Nxb. Phụ nữ
của tác giả Trần Quốc Vượng. "Hai mươi năm một chặng đường phát triển của
phụ nữ Việt Nam" của tác giả Lê Minh, Nxb. Phụ nữ, Hà nội, 1997. Các cơng
trình này đã trình bày xun suốt vấn đề phụ nữ Việt Nam trong các giai đoạn
phát triển của lịch sử, nhưng chưa đi sâu nghiên cứu và trình bày đầy đủ những
sự kiện lịch sử của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam . Ngoài ra còn một số luận
văn nghiên cứu về Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam như: Đảng Cộng sản Việt
Nam từ năm 1975 - 1995 trong việc thực hiện chính sách cán bộ nữ của Ngô Thị
Ngọc Anh, đề tài Luận án PTSKH. Lịch sử, Viện Ngiên cứu Chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. "Đảng lãnh đạo xây dựng tổ chức và hoạt động
của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam từ năm 1986-1996, Luận văn Thạc sĩ Lịch
sử cuả tác giả Trương Thị Thủy, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội
và Nhân văn, 2012; Đảng lãnh đạo phong trào đấu tranh của Phụ nữ miền Nam
từ năm 1961 đến năm 1968 - luận văn Thạc sĩ Lịch sử của tác giả Giáp Thị Lan,
2012; Đảng với cuộc vận động phụ nữ 1930-1945, luận văn Thạc sĩ Lịch sử của
tác giả Lê Thị Hà, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, 2008… Các cơng
trình nghiên cứu trên đã đề cập tới những chủ trương, chính sách của Đảng đối
với Hội Liên hiệp Phụ nữ trong từng công tác khác nhau và ở những giai đoạn
lịch sử khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng giai đoạn
1976-1986 đối với Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong công tác củng cố, xây
7



dựng hệ thống tổ chức và hoạt động chưa được đề cập. Mặc dù vậy, kết quả các
cơng trình nghiên cứu trên là nguồn tư liệu quý giá, gợi mở tác giả kế thừa, đi
sâu vào nghiên cứu đề tài.
3. Mục đích nghiên cứu
Tác giả tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng và hiệu
quả của sự lãnh đạo đó trong việc xây dựng tổ chức và hoạt động của Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam từ năm 1976-1986. Thơng qua đó bước đầu rút ra một số
bài học kinh nghiệm từ sự lãnh đạo của Đảng.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trình bày một cách có hệ thống, khách quan sự biến đổi của hoàn cảnh
lịch sử cũng như sự lãnh đạo của Đảng qua những giai đoạn lịch sử khác nhau
cùng với việc hiện thực hóa chủ trương đó gắn với các kết quả cụ thể của Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Đánh giá những ưu, khuyết điểm trong sự lãnh đạo của Đảng và rút ra bài
học kinh nghiệm.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng
- Những chủ trương và biện pháp của Đảng đối với việc xây dựng, phát
triển của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
- Quá trình chỉ đạo thực hiện những chủ trương của Đảng trong xây dựng
tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
5.2. Phạm vi
- Quá trình triển khai của Hội qua các cấp TW đến địa phương.
- Hoàn cảnh lịch sử chi phối sự lãnh đạo của Đảng.
- Sự phối hợp giữa các bộ phận trong hệ thống chính trị đối với hoạt động
của Hội.
- Thời gian: từ năm 1976-1986. Đây là giai đoạn lịch sử đặc biệt sau khi
đất nước thống nhất, Đảng và nhân dân thực hiện công cuộc hàn gắn vết thương
chiến tranh, xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.


8


6. Nguồn tư liệu
- Các văn kiện của Đảng từ năm 1976-1986, của Đoàn Chủ tịch Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam có liên quan đên cơng tác xây dựng tổ chức và hoạt động
của Hội.
- Văn kiện Đại hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tại Đại hội Phụ nữ
toàn quốc nhiệm kỳ IV (1974) và V (1982).
- Các văn bản báo cáo lưu hồ sơ tại Phòng Lưu trữ của Trung ương Hội từ
năm 1976-1986.
- Sách, báo và các cơng trình nghiên cứu có liên quan nội dung nghiên
cứu của đề tài.
7. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng phương pháp chủ yếu là: phương pháp lịch sử, nhằm
trình bày một cách khái quát, khoa học về sự lãnh đạo của Đảng cũng như việc
hiện thực hóa những chủ trương đó trong hệ thống tổ chức và hoạt động của
Hội.
- Phương pháp logic, tổng hợp, phân tích, liệt kê, so sánh, đối chiếu...
8. Bố cục luận văn
- Ngoài Mở đầu, Kết luận, danh mục Tài liệu tham khảo, Phụ lục; nội
dung chính của Luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam xây dựng hệ thống tổ chức và hoạt động từ năm 1976-1980.
Chương 2. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam xây dựng hệ thống tổ chức và hoạt động từ năm 1980-1986.
Chương 3. Nhận xét chung và các kinh nghiệm chủ yếu

9



Chương 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM XÂY DỰNG
HỆ THỐNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG GIAI ĐOẠN 1976-1981
1.1. Thực trạng hệ thống tổ chức và hoạt động của Hội trước năm
1976
1.1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn để Đảng lãnh đạo, chỉ đạo Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam
1.1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Là một lực lượng xã hội chiếm hơn một nửa nhân loại, phụ nữ có một vị
trí to lớn trong lịch sử tiến hóa của xã hội lồi người. Vấn đề giải phóng phụ nữ
là u cầu của lịch sử, là vấn đề có tính thời đại và nó phản ánh sự tiến bộ hay
lạc hậu của một xã hội. Trong lịch sử tiến hóa của nhân loại, loài người muốn
tồn tại và phát triển trước hết phải sản xuất ra của cải vật chất mà trong đó phụ
nữ là một lực lượng quan trọng trong đội ngũ đông đảo những người lao động.
Bằng lao động sáng tạo của mình, phụ nữ đã góp phần làm giàu cho xã hội,
phong phú cuộc sống của con người. Cùng với những hoạt động góp phần sáng
tao ra của cải vật chất và tinh thần, phụ nữ còn tham gia tích cực vào cuộc đấu
tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc, các phong trào nổi dậy của những người bị
áp bức, bóc lột.
Trong di sản tư tưởng của mình, cả Mác-Ăng ghen và Lênin đều đánh giá
cao vai trị, vị trí và khả năng của phụ nữ trong các cuộc cách mạng. Trong lịch
sử nhân loại khơng có một phong trào to lớn nào của những người bị áp bức mà
khơng có phụ nữ tham gia. Phụ nữ là những người bị áp bức nhất trong những
người bị áp bức nên khơng bao giờ họ đứng ngồi và cũng khơng thể đứng ngồi
các cuộc đấu tranh giải phóng. Các Mác viết "Ai biết lịch sử thì biết rằng muốn
sửa sang xã hội mà khơng có phụ nữ góp vào thì chắc chắn khơng làm nổi" [37;
127]. Khơng chỉ dừng lại trong việc đề cao vai trị, vị trí của phụ nữ, Mác cịn
cho rằng mức độ giải phóng phụ nữ là một trong những tiêu chuẩn thước đo để

10


đánh giá trình độ văn minh của một xã hội. Lênin khẳng định: "Chừng nào mà
phụ nữ không những chưa được tự do tham gia đời sống chính trị nói chung mà
cũng chưa được quyền gánh vác một công việc thường xuyên và chung cho cả
mọi người thì chừng ấy chưa thể nói đến chủ nghĩa xã hội được, mà cũng chưa
thể nói đến ngay cả một chế độ dân củu toàn vẹn và bền vững được" [33; 7374]. Các ông còn cho rằng giai cấp vô sản sẽ không đạt được tự do hồn tồn
nếu khơng giành được tự do hồn tồn cho phụ nữ.
Để thực sự giải phóng phụ nữ thì phải để phụ nữ tham gia lao động sản
xuất nói chung, bồi dưỡng giáo dục họ trong một tổ chức quần chúng.
Là người học trò xuất sắc của Mác, Lênin, đặc biệt sinh trưởng ở một
nước châu Á - nơi tồn tại những quan niệm về sự bất bình đẳng nam nữ từ ngàn
xưa, Hồ Chí Minh sớm nhận thức được vị trí, vai trị của phụ nữ trong lịch sử và
quan tâm đến vấn đề giải phóng phụ nữ. Người khẳng định:"Non sơng gấm vóc
Việt Nam do phụ nữ trẻ cũng như già ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ"
[38; 42]. Người chỉ rõ: "Việt Nam cách mệnh cũng phải có nữ giới tham gia mới
thành cơng". Trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Người soạn thảo
được thông qua trong Hội nghị thành lập Đảng (3/2/1930), Người chỉ rõ phải
thực hiện "nam nữ bình quyền" [37; 295].
Xác định được vai trò quan trọng của phụ nữ, ngay từ khi mới ra đời,
Đảng đã luôn quan tâm theo dõi, động viên, tập hợp phụ nữ vào cấp tổ chức
quần chúng đáp ứng kịp thời yêu cầu cấp bách của từng giai đoạn cách mạng.
Chính từ các tổ chức quần chúng mà phụ nữ và phong trào phụ nữ ngày
càng được rèn luyện, trưởng thành, phát triển từ tổ chức quần chúng tiến lên tổ
chức chính trị xã hội với tên gọi Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Đảng vô cùng
phấn khởi với những thành tích mà HLHPVN đạt được qua những phong trào
Ba đảm đang... Cùng với nhân dân cả nước, phụ nữ đã góp phần to lớn vào
thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng thống nhất nước nhà (30/4/1975).
Thắng lợi của cách mạng đã đưa người phụ nữ Việt Nam lên địa vị làm

chủ tập thể trong xã hội, có quyền bình đẳng với nam giới về mọi mặt, có những
bước tiến nhảy vọt trong đời sống vật chất và tinh thần, có vai trị to lớn trong
11


chiến đấu cũng như trong sản xuất, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta rất tự hào về người phụ nữ Việt Nam: "anh
hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang", những người mẹ đã sinh ra và nuôi
dưỡng lớp lớp thế hệ anh hùng Việt Nam. Nhưng chúng ta còn phải phấn đấu
nhiều hơn nữa để thực hiện triệt để nhiệm vụ giải phóng phụ nữ, bảo đảm cho
phụ nữ cùng với toàn dân thực hiện quyền làm chủ tập thể đầy đủ nhất.
1.1.1.2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Hội trước năm 1976
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí, vai trị của phụ nữ nói
chung và công tác xây dựng hệ thống tổ chức và hoạt động của Hội nói riêng
mang tính liên tục, nhất quán. Trước khi tập trung trình bày sự lãnh đạo của
Đảng đối với Hội từ năm 1976 đến năm 1981, chúng ta cần nghiên cứu mối
quan hệ giữa Đảng Cộng Sản Việt Nam với Hội ở giai đoạn trước năm 1976 trên
những nét cơ bản nhất.
1.1.1.2.1. Về tổ chức
Bộ máy tổ chức cơ quan TW Hội LHPNVN thời kỳ này giữ nguyên cơ
cấu Ban thường trực và 9 ban đơn vị như nhiệm kỳ Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần
thứ II (xem Phụ lục 4. Sơ đồ tổ chức bộ máy cơ quan TW Hội LHPNVN khoá III
(từ 3/1961 đến 3/1974). Tuy nhiên tên gọi có thay đổi chút ít.
1. Ban Văn phòng Trung ương Hội (tên cũ là Văn phòng thường trực)
2. Ban Tổ chức cán bộ
3. Ban Quốc tế (tên cũ là Ban Liên lạc quốc tế)
4. Ban Tuyên huấn
5. Ban Nghiên cứu phụ vận
6. Báo Phụ nữ Việt Nam
7. Ban Phúc lợi

8. Nhà xuất bản phụ nữ
9. Trường cán bộ phụ nữ TW

12


1.1.1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của bộ máy lãnh đạo, các ban, đơn vị trực
thuộc cơ quan TW Hội LHPNVN
Trong nhiệm kỳ này, chức năng, nhiệm vụ của các Ban, đơn vị về cơ bản
giống với nhiệm kỳ trước, tuy nhiên ở một số ban, đơn vị có quy định chi tiết
hơn, sát hơn với điều kiện cả nước có chiến tranh và cùng chiến đấu chống đế
quốc Mỹ xâm lược. Nhiệm vụ của các ban, đơn vị được xác định cụ thể như sau:
Ban Tổ chức cán bộ có nhiệm vụ:
+ Trực tiếp quản lý cán bộ công nhân viên cơ quan TW Hội về các mặt.
+ Theo dõi Đảng đoàn và các Uỷ viên Thường vụ chuyên trách công tác Hội ở các
tỉnh.
+ Xây dựng quy hoạch cán bộ theo tinh thần nghị quyết 225 và 153 của
Ban Bí thư TW Đảng dần đi vào tiêu chuẩn hố cán bộ.
+ Từng bước thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ, bố
trí sắp xếp tổ chức chấn chỉnh bộ máy ở cơ quan TW Hội.
+ Hướng dẫn các tỉnh, thành Hội xây dựng và từng bước thực hiện quy hoạch cán
bộ.
+ Cùng Ban Tổ chức TW theo dõi cán bộ nữ công tác ở các ngành, các cơ
quan TW từ Vụ trưởng, Vụ phó và cấp tương đương.
+ Hướng dẫn việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, sắp xếp, chấn chỉnh bộ
máy và lề lối làm việc ở các cấp Hội.
+ Nghiên cứu và hướng dẫn các hình thức tổ chức cơ sở, nội dung sinh hoạt
Hội cho phù hợp với từng loại cơ sở ở nông thôn, đường phố, hợp tác xã thủ
công nghiệp và hội mẹ chiến sĩ.
+ Xây dựng và theo dõi việc thực hiện Quy chế làm việc của các cấp Hội.

Ban Quốc tế có nhiệm vụ:

13


+ Nghiên cứu nắm vững đường lối đối ngoại của Đảng vận dụng vào công
tác tuyên truyền giới thiệu cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng
XHCN của nhân dân ta; phong trào phụ nữ, sự nghiệp giải phóng phụ nữ và hoạt
động của Hội LHPNVN; tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ đối với phụ nữ và nhân
dân ta để tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của phụ nữ và nhân dân thế giới đối với
đường lối đấu tranh của ta buộc đế quốc Mỹ và chính quyền Sài gịn thi hành
Hiệp định Paris.
+ Giới thiệu kinh nghiệm và phong trào phụ nữ Việt Nam trong xây dựng
đất nước, phục hồi kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, đấu tranh giành độc
lập dân tộc, địa vị quyền lợi của phụ nữ Việt Nam, quan điểm giải phóng phụ nữ
của Đảng ta. Tìm hiểu kinh nghiệm vận động phụ nữ ở các nước XHCN.
+ Mở rộng quan hệ chặt chẽ với các tổ chức phụ nữ các nước trong phe
XHCN; tranh thủ sự ủng hộ của Liên đoàn phụ nữ Dân chủ thế giới, phong trào
đấu tranh của phụ nữ Á, Phi, Mỹ la tinh; tăng cường và củng cố quan hệ hữu
nghị với phụ nữ Lào, Campuchia.
+ Tuyên truyền tình hình phụ nữ các nước ủng hộ đối với ta để động viên
phong trào phụ nữ trong nước.
Ban Tuyên huấn có nhiệm vụ:
+ Nắm tình hình tư tưởng quần chúng phụ nữ để phản ánh đề xuất với
Đảng đoàn và Ban Thường vụ về các chủ trương giáo dục quần chúng.
+ Nghiên cứu nội dung giáo dục người phụ nữ XHCN, giáo dục người mẹ
về nhiệm vụ đối với con cái, qua đó nắm tình hình và góp phần giáo dục thiếu
nhi.
+ Nghiên cứu chuyên đề về giáo dục nữ thanh niên, giúp cho thường vụ có
kế hoạch phối hợp với Đồn thanh niên để chỉ đạo công tác giáo dục nữ thanh

niên.
+ Xây dựng điển hình người tốt việc tốt.

14


+ Hướng dẫn chỉ đạo các cấp hội thực hiện công tác chuyên môn, đồng thời
kết hợp chặt chẽ với các cơ quan tuyên truyền, văn hoá, giáo dục của Đảng và
Nhà nước để phát huy công tác tuyên truyền giáo dục bằng mọi hình thức.
+ Tun truyền thành tích về mọi mặt của phụ nữ miền Nam.
+ Sưu tầm lưu trữ tài liệu về công tác tuyên truyền giáo dục của Hội.
+ Xây dựng nội dung huấn luyện cho cán bộ cơ sở, bồi dưỡng hướng dẫn
cho cấp tỉnh mở lớp huấn luyện cho cán bộ cơ sở. Bồi dưỡng xây dựng đội ngũ
giảng viên, báo cáo viên cho tỉnh, thành, khu Hội.
+ Tham gia ý kiến vào nội dung bài giảng của Trường Hội về công tác
tuyên truyền, giáo dục và góp phần giảng dạy về nghiệp vụ tuyên huấn cho
trường.
+ Nghiên cứu xây dựng đề cương bài giảng về cơng tác phụ vận để đưa vào
chương trình giảng dạy ở các trường Đảng và các ngành.
Báo Phụ nữ Việt Nam là cơ quan ngôn luận của Hội LHPNVN có nhiệm
vụ:
+ Tuyên truyền, giáo dục và hướng dẫn các cấp Hội, động viên các tầng lớp
phụ nữ phấn đấu thực hiện tốt các chính sách do Đảng và Nhà nước đề ra.
+ Tuyên truyền, giáo dục đường lối quan điểm công tác phụ vận của Đảng,
các chủ trương cơng tác Hội, động viên phụ nữ tích cực cống hiến cho sự nghiệp
chống Mỹ, cứu nước, xây dựng CNXH.
+ Hướng dẫn và trao đổi kinh nghiệm công tác phụ vận, công tác xây dựng
Hội LHPNVN.
+ Tuyên truyền gương đấu tranh của phụ nữ miền Nam, thành tích xây
dựng và củng cố vùng giải phóng miền Nam. Cổ vũ phong trào phụ nữ miền

Bắc; học tập, ra sức chi viện cho cách mạng miền Nam.
+ Tuyên truyền những thành tích hoạt động của phong trào phụ nữ miền
Nam và phụ nữ quốc tế.
15


+ Giới thiệu những gương anh hùng, chiến sĩ thi đua, điển hình người tốt
việc tốt trong phong trào phụ nữ.
+ Đấu tranh thực hiện quyền nam nữ bình đẳng, đấu tranh bảo vệ quyền lợi
phụ nữ và nhi đồng, bảo đảm thực hiện những chế độ, chính sách của Đảng và
Nhà nước đã ban hành đối với phụ nữ.
Nhìn chung, trong nhiệm kỳ 1961-1974, chức năng của cơ quan TW Hội ở
các ban đơn vị không thay đổi mà chỉ có thay đổi ở những nhiệm vụ cụ thể cho
sát hợp với tình hình và phong trào. Ví dụ đó là các nội dung tuyên truyền về
người tốt việc tốt,về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta, về
các phong trào của phụ nữ như Năm tốt, Ba đảm đang...
1.1.2.2. Về hoạt động
Ngay sau ngày miền Nam hồn tồn giải phóng, một vấn đề được Hội
phụ nữ đặc biệt quan tâm, đó là việc chăm lo đời sống nhân dân, và ưu tiên hàng
đầu là công việc cứu đói.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam đã vận động chị em phụ nữ
ở khắp các tỉnh miền Nam tập trung khôi phục và phát triển kinh tế, đẩy mạnh
sản xuất, chăm lo đời sống nhân dân, ưu tiên hàng đầu là cơng tác cứu đói.
Các phong trào “Hũ gạo tình thương”, “Lá lành đùm lá rách” được phát
động. Hoạt động thanh toán nạn mù chữ được phát triển rộng khắp. Các cấp Hội
phối hợp với ngành giáo dục tổ chức các lớp học bình dân học vụ, bổ túc văn
hoá. Các cuộc vận động mang tên “Biết chữ đền ơn Bác”, “Biết chữ để đi bầu”,
“Lớp học 8/3”, vận động nữ thanh niên tham gia các phong trào “Lao động tình
nguyện”, “Thanh niên xung phong”. Ngồi ra phụ nữ cịn tham gia các phong
trào truy quét các tệ nạn xã hội ma tuý, mại dâm…

Các chị đã đưa gạo đến tận tay người thiếu đói, khơng để xảy ra nhầm
lẫn thất thốt. Phong trào “hũ gạo tình thương", "Lá lành đùm lá rách" ở các tỉnh
thành từ Huế trở vào Khu 5 và đồng bằng Nam Bộ đã dành được hàng ngàn tấn
gạo, hàng triệu đồng để cứu trợ cho những người thiếu thốn, già yếu...
Tuy nhiên, thành tích giàu ý nghĩa nhân văn đáng biểu dương nhất của
phụ nữ miền Nam trong công tác xã hội, đó là việc giải quyết các tệ nạn xã hội
16


và thanh tốn nạn mù chữ. Các cấp Hội tồn miền Nam đã phối hợp với các
ngành thương binh xã hội và y tế tổ chức cải tạo, trị bệnh tại chỗ cho các nạn
nhân xã hội. Nhiều tỉnh, quận huyện đã mở những lớp dài hạn, ngắn hạn tập
trung từng đợt chữa bệnh và cai nghiện. Thành phố Hồ Chí Minh có Trường
phục hồi nhân phẩm, trường cai nghiện, Rạch Giá có Trường hồn lương. Các
trường này đã tập trung hàng ngàn phụ nữ học tập, cải tạo lâu dài. Trong thời
gian hơn một năm của thời kỳ chuyển tiếp này, đã có hàng trăm người lành bệnh
và sau khi ra trường, họ đi lao động sản xuất và xây dựng gia đình, làm lại cuộc
đời.
Việc thanh tốn nạn mù chữ được mở rộng ở khắp nơi. Các cấp Hội phối
hợp với ngành giáo dục tổ chức các lớp bình dân học vụ, bổ túc văn hóa. Các
cuộc vận động "Biết chữ đền ơn Bác", "Biết chữ để đi bầu", "Lớp học 8/3" liên
tục nối tiếp nhau, đã giữ vững được khí thế sơi nổi của những ngày đầu phát
động xóa nạn dốt và đạt được nhiều kết quả.
Cùng với phụ nữ miền Nam, ở miền Bắc Hội LHPN Việt Nam đã vận
động phụ nữ tiếp tục thực hiện nghị quyết do Đại hội lần thứ IV đề ra. Hội phụ
nữ các cấp vận động phụ nữ tham gia sản xuất nông nghiệp đúng thời vụ, phát
triển chăn nuôi, đồng thời vận động phụ nữ làm nghĩa vụ đầy đủ đối với Nhà
nước. Hội còn thường xuyên vận động thực hành tiết kiệm, giảm bớt chi tiêu,
lãng phí trong việc cưới, việc tang, giỗ tết.
Hội LHPN Việt Nam tiếp tục vận động phụ nữ tham gia cuộc vận động

“Phụ nữ xây dựng gia đình văn hố mới”. Ở nhiều nơi các cấp Hội phụ nữ cùng
với Hội mẹ chiến sĩ tham gia cơng tác chăm các gia đình thương binh liệt sĩ.
Ở khu vực nông thôn, Hội tập trung vận động phụ nữ thực hiện tốt hai
khâu quan trọng: cấy đúng kỹ thuật, kịp thời vụ và hết diện tích và phát triển
chăn ni gia đình. Hội Liên hiệp Phụ nữ đứng ra kết hợp chặt chẽ với Ủy ban
Nông nghiệp, Cục trồng trọt để vận động, hướng dẫn hội viên. Về chăn ni,
ngồi việc vận động phụ nữ tham gia chăn nuôi tập thể, TW Hội chủ trương vận
động phụ nữ thường xuyên phát triển chăn nuôi gia đình, góp phần tích cực thực
hiện kế hoạch Nhà nước. Hội đã tiến hành vận động phụ nữ phát triển chăn nuôi
17


hộ gia đình, xóa bỏ trống chuồng, ni thêm lợn nái, thực hiện chỉ tiêu của Nhà
nước và Hợp tác xã, đồng thời vận động phụ nữ làm đầy đủ nghĩa vụ bán thực
phẩm cho Nhà nước. Ngoài phần động viên phong trào, Hội còn chú ý tổ chức
trao đổi kinh nghiệm, bàn biện pháp đẩy mạnh chăn nuôi gia đình.
Thực hiện Chỉ thị 214 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Hội còn thường
xuyên vận động thực hiện tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng, giảm bớt những
chi tiêu lãng phí trong ma chay, cưới xin, giỗ tết. Hội còn vận động phụ nữ tiết
kiệm trong cả bữa ăn hàng ngày để có thể dành thóc, gạo phịng khi khó khăn,
có việc đột xuất. Hội Phụ nữ đã kết hợp vơi Ngân hàng, vận động gửi tiền tiết
kiệm hàng tháng. Ngoài ra, nhân các ngày kỷ niệm của phụ nữ, hoặc nhân bán
lứa lợn, lứa gà, cá hội cơ sở còn vận động chị em dành ra một số tiền để gửi tiết
kiệm.
Đối với phụ nữ tri thức, Hội mới chỉ tổ chức được những buổi tiếp xúc để
lắng nghe những phát biểu về nguyện vọng, từ đó đề xuất các biện pháp giải
quyết khó khăn và động viên các chị em đem hết tài năng cống hiến cho công
cuộc xây dựng đất nước. Trung ương Hội thành lập những tổ chuyên đề: tổ bảo
vệ sức khỏe phụ nữ, tổ bảo vệ sức khỏe trẻ em, tổ pháp luật... và tổ chức các
cuộc báo cáo chuyên đề liên quan đến phụ nữ. Hội cũng đã tập hợp ý kiến của

các tổ thành từng hệ thống vấn đề liên quan đến các ngành để đề xuất biện pháp
giải quyết.
Đối với ngành nghề thủ công, mặc dù Hội đã cố gắng, cũng mới chỉ làm
được việc động viên các chị không giấu nghề, đề nghị các hợp tác xã giúp đỡ
phụ nữ đi học nghề, học văn hóa để có cơ sở tiếp thu kỹ thuật mới. Do quan
niệm là phải trực tiếp làm ra sản phẩm vật chất hoặc làm việc trong khu vực Nhà
nước mới được coi là người lao động chân chính nên Hội đã cố gắng vận động
chị em làm nghề buôn bán nhỏ, thực chất cũng là tham gia vào khâu phân phối,
lưu thông hàng hóa, chuyển sang sản xuất. Do nền kinh tế chung cịn chậm phát
triển, tìm được cơng ăn việc làm rất khó khăn nên các cấp Hội chỉ kết hợp được
với Sở Lao động dành cho phụ nữ những loại việc giản đơn, thu nhập thấp như
quét rác, tổ phục vụ, nhóm trẻ, khai hoang...
18


Thực hiện Nghị quyết Đại hội Phụ nữ Việt Nam lần thứ IV, Trung ương
Hội mở cuộc vận động "Phụ nữ xây dựng gia đình văn hóa mới". Đó là một
trong những nhiệm vụ lớn của Hội. Năm 1975, Ban Thường vụ TW Hội cùng
với Bộ Văn hóa ra thơng tư liên tịch thống nhất về mục đích, yêu cầu, nội dung
xây dựng gia đình văn hóa mới, gồm 3 tiêu chuẩn:
- Xây dựng gia đình dân chủ, bình đẳng, hòa thuận hạnh phúc, tiến bộ.
- Hăng hái tham gia lao động và thực hành tiết kiệm.
- Nghiêm chỉnh chấp hành mọi chủ trương, chính sách của Nhà nước.
Cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa mới gắn chặt với nội dung chỉ
thị 214 của Ban Bí thư về việc thực hiện nếp sống mới trong các hội hè, tang lễ,
cưới xin...
Hỗ trợ cho cuộc vận động xây dựng gai đình văn hóa mới, vấn đề hơn
nhân gia đình và sinh đẻ có kế hoạch cũng được Hội đề xuất đầu tiên và tích cực
đấu tranh để thực hiện. Trong tình hình số vụ ly hơn hằng năm đều gia tăng mà
người đứng đầu phần lớn là nam giới, cùng với những hiện tượng ngược đãi vợ

con ngày càng nhiều... các cấp Hội đã phối hợp với cơ quan pháp luật, tham gia
nhận đơn điều tra hòa giải, xét xử và kiểm tra việc thi hành Luật Hôn nhân và
gia đình... Trong nhiều trường hợp, nhờ sự can thiệp của Hội mà kết quả xét xử
được thỏa đáng hơn, quyền lợi của phụ nữ được bảo vệ. Riêng công tác vận
động sinh đẻ có kế hoạch, hầu như Hội phụ nữ là cơ quan chủ chốt đứng ra
tuyên truyền, vận động và chủ yếu cũng mới làm được trong phụ nữ, hội viên
của Hội.
Sau chiến tranh, vấn đề chăm sóc gia đình liệt sĩ, thương binh, bộ đội
càng trở thành một vấn đề lớn, vừa mang ý nghĩa chính trị, xã hội; vừa đáp ứng
nhu cầu chính đáng của tình cảm nhân dân. Ở nhiều nơi, các cấp Hội Phụ nữ và
Hội mẹ chiến sĩ đã coi công tác chăm sóc gia đình liệt sĩ, thương binh, bộ đội là
công tác thường trực, lâu dài, thường xuyên. Đảng, Nhà nước và Bộ Lao động
Thương binh xã hội đánh giá cao sự đóng góp của HLHPN Việt Nam các cấp
đối với công tác hậu phương quân đội. Nhà nước đã tặng thưởng 24 huân
chương và 70 Bằng khen của Thủ tướng cho các cấp Hội có thành tích xuất sắc.
19


Hoạt động quốc tế của Hội sau ngày hịa bình cũng được phát triển, Hội
có quan hệ với trên 25 tổ chức trên thế giới và có những hoạt động hữu nghị với
trên 100 nước. Trung ương Hội đã giới thiệu những hoạt động của phụ nữ Việt
Nam với bạn, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của bạn về tinh thần cũng như vật
chất, để góp phần xây dựng lại đất nước. Hội đã gây được cảm tình và tín nhiệm
đối với Hội bạn. Nhân năm Quốc tế phụ nữ (1975), Liên Hợp Quốc triệu tập Hội
nghị thế giới về phụ nữ ở Mexicô và cũng năm 1975, Đại hội lần thứ 7 Liên
đoàn phụ nữ dân chủ quốc tế họp ở Berlin, phụ nữ Việt Nam đã được đề cao. Tại
Đại hội này, phụ nữ Việt Nam được vào Ban lãnh đạo Đại hội. Bà Hà Thị Quế
được bầu giữ chức Phó Chủ tịch Liên đồn.
Nhìn lại những chủ trương và thành tựu hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam trong giai đoạn bước chuyển (1975-1976), ngày càng khẳng định

rõ vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Ngày 15-1-1976, đồng chí Xuân Thủy, đồng chí Tố Hữu đã họp với đại
diện các đồn thể ở Trung ương để nhận định khái quát về phong trào của Hội
phụ nữ như sau:
Hội Phụ nữ có chuyển biến tốt ở nhiều nơi trong việc thực hiện chức
năng, xây dựng được mối quan hệ với một số ngành trong công tác vận động
phụ nữ lao động, sản xuất (nhất là trong việc cấy và chăn nuôi), xây dựng gia
đình văn hố mới, thực hiện chính sách hậu phương. Một số vấn đề do hậu quả
chiến tranh để lại đối với phụ nữ ở hai miền đã được đặt ra nghiên cứu có biện
pháp giải quyết.
Sau khi có Nghị quyết 22 của Trung ương [tap 34.290], công tác của các
đoàn thể được các cấp uỷ đảng chú trọng hơn. Tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề
vướng mắc hoặc thiếu sót như sau:
Phong trào lao động sản xuất chưa sôi nổi liên tục, những hiện tượng tiêu
cực trong thái độ lao động, trong việc bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa có giảm
nhưng vẫn cịn phổ biến. Tình hình thanh thiếu niên chậm tiến có chuyển biến
phần nào nhưng chưa cơ bản. Đời sống của công nhân, viên chức cịn nhiều khó

20


khăn. Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và quần chúng tuy có chủ trương đúng
nhưng chưa được quy định cụ thể...
Hội Phụ nữ còn thụ động trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước, chưa phát huy được đầy đủ quyền làm chủ tập thể và
năng lực sáng tạo của quần chúng trong việc xây dựng, củng cố Đảng và Nhà
nước, chưa làm tai mắt được cho cấp uỷ Đảng. Việc phối hợp giữa các cấp hội
với nhau và giữa Hội với các đoàn thể, các ngành khác có khá hơn nhưng vẫn
chưa thật khăng khít và thường xuyên, trách nhiệm của các cấp hội và của các
ban ngành chưa được phân rõ, thiếu một tinh thần đầy đủ hợp tác xã hội chủ

nghĩa.
Trải qua những biến đổi hết sức to lớn của đất nước, phong trào phụ nữ
và hoạt động của Hội LHPN Việt Nam đã trưởng thành vượt bậc, góp phần xuất
sắc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược mà Đảng Lao động Việt Nam đã đề ra:
Chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960), miền Bắc nước ta bước
vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ban Chấp hành TW Hội LHPN Việt
Nam đã phát động phong trào “Phụ nữ 5 tốt”, động viên chị em đẩy mạnh sản
xuất, công tác, nuôi con khoẻ, dạy con ngoan, xây dựng gia đình thuận hồ,
hạnh phúc.
Nhưng việc xây dựng chủ nghĩa xã hội chưa được mấy năm thì đế quốc
Mỹ bị thất bại trong âm mưu tiến hành chủ nghĩa thực dân kiểu mới và chiến
tranh đặc biệt ở miền Nam, ồ ạt đem quân vào miền Nam, đồng thời mở rộng
chiến tranh bằng Không quân và Hải quân ra miền Bắc nhằm phá hoại công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn đối
với tiền tuyến lớn.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11, 12 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, Hội đã phát động phong trào “Ba đảm đang chống Mỹ cứu nước và
xây dựng chủ nghĩa xã hội”, Cuộc vận động “Ba đảm đang” đã khơi động mạnh
mẽ tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội của phụ nữ, cổ vũ chị em tự lực, tự
cường phấn đấu vươn lên gánh vác việc nước, việc nhà.
21


Thấm nhuần sâu sắc chân lý “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do”, hàng
triệu phụ nữ, đủ các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo xông lên vượt mọi trở
lực, gian nguy, hy sinh tất cả, hăng hái đứng lên đánh giặc cứu nước, bảo vệ và
xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, chi viện cho cách mạng miền Nam. “Giặc
đến nhà, đàn bà cũng đánh” là truyền thống nổi bật của phụ nữ Việt Nam. nhưng
chưa bao giờ truyền thống đó lại được thể hiện sáng ngời, với nội dung và hình

thức phong phú như trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Với tinh thần “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, hàng triệu bà mẹ và người
vợ ở hậu phương, từ đồng bằng đến miền núi, đã hy sinh tình cảm và hạnh phúc
riêng, chịu đựng mọi gian khổ trong sản xuất, công tác và đời sống, hiến dâng
cho Tổ quốc những người thân u nhất của mình. Con nối gót cha, em tiếp
bước anh, lớp lớp lên đường đi chiến đấu. Tỉnh nào cũng có hàng vạn gia đình
có từ 2 con trở lên đi bộ đội. Ví dụ, tỉnh Thanh Hố có 22.000 gia đình có 2 con,
2.000 gia đình có 3 đến 4 con và 22 gia đình có 6 con tịng qn. Nhiều bà mẹ
có một con trai cũng tình nguyện xin cho con ra tiền tuyến. Suốt 20 năm cho đến
nay, những người mẹ, những người vợ vẫn dũng cảm, đảm đang việc nước, việc
nhà để chồng con làm nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. Các bà mẹ Việt Nam rất xứng
đáng với lời khen của Đảng: “Dân tộc Việt Nam ta và Đảng ta đời đời biết ơn
những bà mẹ Việt Nam đã sinh ra và cống hiến cho Tổ quốc những người con
ưu tú đã và đang chiến đấu anh dũng tuyệt vời, bảo vệ non sông gấm vóc do tổ
tiên ta để lại”.
Trong 8 năm chiến tranh phá hoại, đế quốc Mỹ đã đem gần 3 triệu tấn
bom đạn đánh phá hầu hết các thành phố, thị xã, thị trấn, toàn bộ các tuyến
đường sắt, đường bộ, các cầu phà, bến cảng, hầu hết các nhà máy, hàng nghìn
cơng trình thuỷ lợi, hàng nghìn thơn xã, hàng nghìn bệnh viện, trường học v.v.
Nơi đâu cũng là chiến trường, nơi đó có mặt những người phụ nữ kiên cường,
xông pha dưới mưa bom, bão đạn, làm nhiệm vụ hậu cần, phục vụ chiến đấu:
tiếp tế, vận tải, đào cơng sự, phá bom mìn, bắt giặc lái, cứu thương, chữa cháy,
giúp đỡ bộ đội, chăm sóc thương binh... Hàng chục vạn chị em nữ công nhân
giao thông vận tải, nữ thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến đã hiến dâng
22


cả tuổi thanh xuân cho đất nước, để cho mạch máu Nam, Bắc được nối liền.
“Sống bám cầu, bám đường, chết kiên cường dũng cảm”, chị em có mặt khắp
nơi, dọc đường Trường Sơn cũng như trong rừng sâu Việt Bắc, Tây Bắc.

Lực lượng nữ dân quân, tự vệ, vừa sản xuất, vừa chiến đấu, vô cùng gan
dạ và mưu trí, đã nhanh chóng biết sử dụng những vũ khí hiện đại, góp phần
cùng các lực lượng vũ trang tạo nên một màng lưới dầy đặc bủa vây quân thù,
bắn rơi hơn 4.000 máy bay Mỹ. Riêng 20 đơn vị nữ dân quân tự vệ đã độc lập
tác chiến bắn rơi 28 chiếc. Hàng vạn nữ thanh niên tình nguyện tham gia bộ đội
chủ lực, làm công tác thông tin, hậu cần, quân y, quân giới...
Cuộc vận động phụ nữ miền Bắc thi đua và học tập phụ nữ miền Nam anh
hùng do Hồ Chủ tịch đề xướng, đã thúc đẩy phong trào Ba đảm đang phát triển
mạnh mẽ. Lòng trung kiên vô hạn của các má bám trụ gây cơ sở trong lòng địch,
tinh thần bất khuất của các nữ chiến sĩ trong tù, những chiến cơng chói lọi của
“đội quân tóc dài” đánh địch bằng ba mũi giáp công, đã thôi thúc phụ nữ miền
Bắc vươn lên không ngừng.
Cuộc đời chiến đấu hy sinh của chị Nguyễn Thị Út, bà mẹ anh hùng 6
con, hình ảnh kiên cường của các nữ anh hùng liệt sĩ Lê Thị Hồng Gấm, Trần
Thị Tâm và bao nhiêu nữ anh hùng, dũng sĩ khác ở miền Nam đã in sâu vào tâm
trí mỗi người phụ nữ miền Bắc. Trong những lúc gian nguy nhất, chính những
tấm gương sáng ngời đó đã cổ vũ phụ nữ miền Bắc tự cường vươn lên để xứng
đáng với phụ nữ miền Nam “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Các tổ
sản xuất trên đồng ruộng, trong các xí nghiệp, cơng, nơng trường, các đơn vị nữ
dân quân, tự vệ thi đua lập công trong sản xuất và chiến đấu để xứng đáng được
mang tên các nữ anh hùng miền Nam.
Tuy hai miền xa cách, nhưng hàng triệu trái tim của phụ nữ cả nước cùng
chung một nhịp, cuộc chiến đấu của phụ nữ cả nước vẫn hồ với nhau thành bức
tranh tuyệt đẹp tơ thắm thêm truyền thống anh hùng của phụ nữ Việt Nam.
Trong 20 mươi năm qua, miền Bắc vừa trực tiếp chống chiến tranh phá
hoại của đế quốc Mỹ, vừa chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền
Nam, đồng thời vẫn bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã
23



hội, tăng cường lực lượng về mọi mặt. Đó chính là sức mạnh của chủ nghĩa xã
hội đã giải phóng người lao động khỏi cảnh bị bóc lột và cách làm ăn riêng lẻ,
đã xây dựng được nền kinh tế quốc doanh và tập thể, mở đường cho việc phát
huy mọi năng lực sản xuất, tiến hành cách mạng kỹ thuật, xây dựng con người
mới, cuộc sống mới.
Tuy nền kinh tế còn thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, nhưng toàn
dân được no ấm, con cái được học hành. Mọi người sống lành mạnh, tôn trọng,
thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. Ai cũng tự hào được lao động để làm giầu cho
đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, vì đó là sự bảo đảm chắc chắn
nhất cho đời sống và hạnh phúc của mình và con cái.
Trong công cuộc cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới tốt đẹp đó, phụ
nữ đã phát huy nhiệt tình cách mạng, hăng hái tham gia mọi mặt hoạt động và
đóng góp vai trị rất quan trọng trong nhiều lĩnh vực mà lực lượng lao động nữ
chiếm số đơng.
Phụ nữ nơng dân có vai trị rất to lớn trong cuộc vận động hợp tác hố
nơng nghiệp và phát triển sản xuất nông nghiệp. Đến nay, 96% hộ nông dân đã
vào hợp tác xã và hơn 90% hợp tác xã đã lên bậc cao. Phụ nữ nông dân chiếm
trên 60% lực lượng giai cấp nông dân tập thể và bảo đảm gần hết các khâu trong
trồng trọt, chăn ni cũng như kinh tế phụ gia đình. Chị em đã góp phần đắc lực
trong việc xây dựng và củng cố hợp tác xã, đấu tranh chống thiên tai, địch hoạ,
áp dụng các biện pháp kỹ thuật mới, làm thuỷ lợi, cải tạo đồng ruộng, đồi núi, sử
dụng cơng cụ cải tiến và cơ khí nhỏ, phấn đấu thực hiện 3 mục tiêu trong nơng
nghiệp (5 tấn thóc 1 héc ta, 2 con lợn 1 héc ta, 1 lao động 1 héc ta gieo trồng),
tiến lên phát triển nơng nghiệp tồn diện, bảo đảm lương thực, thực phẩm, phục
vụ cho công nghiệp và xuất khẩu.
Qua phong trào đã hình hành lớp phụ nữ nơng dân mới, mà điển hình là
11 nữ anh hùng trên các lĩnh vực trồng trọt, chăn ni, thuỷ lợi. Hàng vạn chị
em đã có trình độ sơ cấp, trung cấp và đại học về kỹ thuật và quản lý nông
nghiệp. Hàng vạn chị em tham gia Ban quản trị hợp tác xã và làm đội trưởng,
đội phó đội sản xuất, chứng minh khả năng quản lý kinh tế của phụ nữ nông dân.

24


Lực lượng nữ công nhân viên chức phát triển nhanh chóng cả về số lượng
và chất lượng trong q trình cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa. Năm 1954, nữ
cơng nhân viên chức mới chiếm tỷ lệ 5%, năm 1975 đã chiếm tỷ lệ trên 43%
tổng số công nhân viên chức Nhà nước, lực lượng nắm giữ vai trò chủ chốt trong
nền kinh tế quốc dân và trong sự nghiệp văn hố, giáo dục, y tế. Bộ phận nữ
cơng nhân kỹ thuật và cán bộ khoa học kỹ thuật phát triển nhanh chóng và
chiếm tỷ lệ 33% so tổng số công nhân kỹ thuật và cán bộ khoa học kỹ thuật.
Bom đạn Mỹ tập trung đánh phá có tính chất huỷ diệt các khu trung tâm
công nghiệp. Hàng chục vạn nữ công nhân viên chức đã nêu cao tinh thần tiền
phong của giai cấp công nhân, kiên quyết gửi con đi sơ tán, anh dũng bám sát vị
trí sản xuất và chiến đấu. Với ý thức đảm đang sản xuất, công tác thay thế anh
em đi chiến đấu, chị em tham gia sôi nổi các phong trào thi đua “Giỏi một nghề,
biết nhiều nghề”, “Luyện tay nghề, thi thợ giỏi”, đồn kết giúp đỡ nhau bảo đảm
ngày cơng, giờ cơng, phấn đấu hồn thành kế hoạch trong mọi tình huống. Bất
chấp nắng mưa, bão lụt, bom đạn, vượt qua bao nhiêu khó khăn trong sản xuất,
cơng tác, đời sống, nữ công nhân viên chức trong tất cả các ngành ra sức phấn
đấu hồn thành tốt nhiệm vụ được phân cơng. Với tinh thần dám nghĩ, dám làm,
phát huy sáng kiến cải tiến lề lối làm việc, nâng cao năng suất lao động, chị em
đã góp phần xứng đáng vào việc giữ vững và phát triển sản xuất công nghiệp
trong thời chiến, bảo đảm lưu thông phân phối, mở rộng sự nghiệp văn hoá, giáo
dục, y tế phục vụ kịp thời cho chiến đấu và đời sống nhân dân.
Trong sản xuất tiểu thủ công nghiệp, phụ nữ chiếm 52% tổng số thợ thủ
công chuyên nghiệp. Chị em tham gia trong nhiều ngành nghề, sản xuất hàng
vạn mặt hàng, chiếm 1/3 sản lượng công nghiệp của miền Bắc. Từ người nội trợ
hoặc lao động cá thể chuyển thành người lao động tập thể, chị em đã trưởng
thành về nhiều mặt và đã góp nhiều thành tích đáng kể phục vụ cho chiến đấu,
đời sống và xuất khẩu.

Ngoài khu vực Nhà nước và tập thể, các tầng lớp phụ nữ khác đều có sự
đóng góp nhất định và tiến bộ rõ rệt. Phụ nữ công thương, nội trợ đã giúp đỡ
nhau chấp hành chính sách của Nhà nước, hăng hái tham gia cơng tác xã hội.
25


×