Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

văn hoá trong giao tiếp kinh doanh của các nước Phương Tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.49 KB, 16 trang )

Giao tiếp Kinh doanh GV: Nguyễn Thế Hùng
LỜI MỞ ĐẦU
Người xưa có câu: “ Miếng trầu bắt đầu câu chuyện”. Để khởi đầu một câu
chuyện, người Việt Nam ta thường đi vòng vo rồi sau đó mới vào vấn đề chính. Đó
cũng là một trong những đặc trưng giao tiếp đã hình thành từ xa xưa và bây giờ vẫn
còn tiếp diễn. Chắc chắn sẽ không có vấn đề gì khi chúng ta giao tiếp với nhau theo
cách thức như vậy nhưng chuyện gì sẽ xảy ra khi bạn cũng áp dụng câu nói này khi
giao tiếp với người nước ngoài?
Trong thời đại kinh tế toàn cầu, việc hội nhập với các nền kinh tế toàn cầu là tất
yếu. Việc kinh doanh quốc tế sẽ thuận buồm xuôi gió nếu như các doanh nghiệp nắm
vững được các nguyên tắc trong giao tiếp quốc tế, cụ thể là văn hoá giao tiếp kinh
doanh của nước mà doanh nghiệp đang hợp tác.
Việt Nam nằm ở Châu Á, chúng ta chịu ảnh hưởng của nền văn hoá Phương
Đông nên việc giao lưu kinh tế sẽ trở nên thuận lợi hơn với các nước trong cùng châu
lục. Nhưng với các nước ở phía Tây bán cầu hay còn gọi là Phương Tây với khoảng
cách địa lý, tôn giáo và nền văn minh khác xa thì việc giao tiếp kinh doanh sẽ khó
khăn rất nhiều.
Tìm hiểu các nền văn hoá của các nước Phương Tây không chỉ giúp công việc
kinh doanh đạt được kết quả tốt mà chúng ta có thể tiếp thu, giao lưu với các nền văn
hoá, văn minh tiên tiến của nhân loại.
Nhóm G2-GTKD đã tìm hiểu về “văn hoá trong giao tiếp kinh doanh của các
nước Phương Tây”. Tuy nhiên, vì thời gian hạn chế nên trong quá trình tìm hiểu nhóm
sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến của Thầy để bài
viết được hoàn chỉnh hơn.
Chúng em chân thành cám ơn!
SVTH: Nhóm G2-GTKD Trang 1
Giao tiếp Kinh doanh GV: Nguyễn Thế Hùng
1. Khái quát về văn hoá:
1.1. Khái niệm văn hoá:
Theo Hồ Chí Minh: “Vì lẽ sinh tồn cũng như vì mục đích cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn


giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương tiện, phương thức sử dụng toàn bộ những sáng tạo, phát minh đó tức là văn
hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó
mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống, và đòi hỏi của
sự sinh tồn”.
Theo E.Herriot: “Văn hoá là cái còn lại sau khi người ta đã quên đi tất cả, là cái
vẫn còn thiếu sau khi người ta học tất cả”.
Như vậy, khái niệm văn hoá rất rộng, trong đó có những giá trị vật chất và tinh
thần được sử dụng làm nền tảng. Định hướng cho lối sống, đạo lý, tâm hồn và hành
động của mỗi dân tộc và các thành viên để vươn tới cái đúng, cái tốt, cái chân, cái
thiện, cái mỹ trong mối quan hệ giữa người và người, giữa người với tự nhiên và xã
hội.
1.2. Các yếu tố cấu thành văn hoá:
1.2.1. Văn hoá vật chất:
Văn hoá vật chất là toàn bộ những giá trị sáng tạo được thể hiện trong các của
cải vật chất do con người tạo ra. Văn hoá vật chất được thể hiện qua đời sống vật chất
của quốc gia đó. Chính vì vậy văn hoá vật chất sẽ ảnh hưởng to lớn đến trình độ dân trí
lối sống của các thành viên trong nền kinh tế đó.
1.2.2. Văn hoá tinh thần:
Văn hoá tinh thần là toàn bộ những hoạt động tinh thần của con người và xã hội
bao gồm kiến trúc, phong tục, tập quán, thói quen và cách ứng xử, ngôn ngữ (bao gồm
ngôn ngữ có lời và ngôn ngữ không lời), các giá trị và thái độ, các hoạt động văn học
nghệ thuật, tôn giáo, giáo dục, các phương thức giao tiếp, cách thức tổ chức xã hội.
1.3. Văn hoá giao tiếp của người Phương Tây nói chung:
Trong Địa lý - Chính trị thì Phương Tây hay còn được gọi là Thế giới Phương
Tây hay Tây Dương là một nhóm các quốc gia Tư Bản đặc thù, bao gồm các nước nằm
ở phía Tây châu Á như Tây Âu (Anh, Pháp, Cộng hoà Liên bang Đức, Ý, Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha ) và Châu Mĩ (Hoa Kỳ, Canada ). Trên các phương tiện truyền
thông thì người ta gọi Phương Tây chủ yếu là những nước Tư Bản nêu trên để phân
biệt với phần còn lại của thế giới.

SVTH: Nhóm G2-GTKD Trang 2
Giao tiếp Kinh doanh GV: Nguyễn Thế Hùng
Trong văn hóa của người phương Tây, sự độc lập của cá nhân được đánh giá
cao, trong khi đó văn hóa phương Đông, do chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các nguyên tắc
về trung - tín - lễ - nghĩa nên đề cao tính tập thể và tôn trọng các giá trị cộng đồng. Sẽ
không ngạc nhiên nếu các đối tác Phương Tây đến tham dự đàm phán với một thành
viên duy nhất và thành viên này có đầy đủ thẩm quyền để ra mọi quyết định. Cạnh
tranh trong kinh doanh không nhất thiết luôn là thắng - thua (win-lose), trong rất nhiều
trường hợp nó là tình huống cùng thắng (win-win). Đây là khái niệm mà nhiều doanh
nghiệp Mỹ đang sử dụng: Từ cạnh tranh trong đối đầu sang cạnh tranh trong hợp tác.
Với quan điểm thẳng thắn trong mọi vấn đề, các doanh nhân phương Tây
thường bày tỏ ý kiến một cách trực diện và nêu rõ nhu cầu của mình. Người phương
Tây rất thẳng thắn trong việc biểu hiện ra bề ngoài, trong lòng buồn thì bề ngoài cũng
biểu hiện nỗi buồn.
Văn hóa phương Tây (trong đó có Mỹ) cho rằng, thời gian là một cái gì cụ thể,
thấy được, quản lý được (quan niệm thời gian đơn tuyến - monochronic time).
2. Văn hoá trong đàm phán kinh doanh của doanh nghiệp:
Văn hóa là một rào cản rất lớn trong những cuộc đàm phán có sự tham dự của
các đối tác đến từ nhiều nền văn hóa. Không giống như khi đàm phán với đối tác trong
nước, vốn có cùng nền văn hóa, ngôn ngữ, định kiến xã hội , những đối tác đến từ
những nền văn hóa khác nhau gần như là một bí ẩn mà những nhà đàm phán phải
khám phá rất nhiều, nếu muốn có một cuộc đàm phán thành công. Có một sự khác biệt
rất lớn về văn hóa giữa các nước Phương Tây với các nước Phương Đông, điều này
dẫn đến sự khác biệt trong cách giao tiếp và đàm phán
2.1. Tính cách của người Phương Tây:
Quan điểm: Khi trình bày về quan điểm của bản thân người phương Tây thường
nói thẳng ngay cảm nhận của họ và quan điểm rõ ràng. Cách trình bày vấn đề: Người
phương Tây đi thẳng vào vấn đề tìm cách giải quyết.
Cách sống: Người Phương Tây thường tự lập và sống tách biệt một mình trong
khi người Phương Đông luôn có xu hướng tụ tập đông người, điều này có thể thấy ở

quy mô gia đình, quan hệ bố mẹ và con cái…Trẻ em: Trẻ em Phương Tây được nhìn
nhận như những chàng trai, cô gái. Trẻ em Phương Đông được quản lý và kèm cặp “ép
khuôn” của cả một thế hệ. Khi có đồ mới: Người Phương Đông có đồ mới thường
nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa, còn người Phương Tây chỉ coi đó là 1
phương tiện thỏa mãn nhu cầu cuộc sống vừa mới được sửa lại.
SVTH: Nhóm G2-GTKD Trang 3
Giao tiếp Kinh doanh GV: Nguyễn Thế Hùng
Tính đúng giờ: Khái niệm đúng giờ của người Phương Tây thường tuyệt đối và
tiết kiệm đến từng phút, còn chúng ta thường tìm mọi lý do để tranh thủ việc cá nhân
và tính theo độ chính xác “giờ dây thun”.
Sếp Tây là người chỉ đạo và làm việc theo chuyên môn quản lý, lãnh đạo của
họ. Sếp Ta thì gọi dạ bảo vâng thường to như “phụ huynh” vậy.
Giao tiếp: Người Phương Tây chỉ dựa trên mối quan hệ cá nhận giữa hai người
hoặc một vài người khác có ảnh hưởng lớn tới họ.
2.2. Khác biệt về ngôn ngữ và những cử chỉ hành vi không lời:
Trong tất cả các ngôn ngử được sử dụng chủ yếu trong đàm phán kinh doanh,
các câu hỏi và những câu tự bộc lộ thông tin là những hành vi ngôn ngữ được sử dụng
thường xuyên nhất. Ngoài ra trong đàm phán kinh doanh còn có những câu mệnh lệnh,
cam kết và hứa hẹn cũng thường xuyên được sử dụng trong các ngôn ngữ đàm phán
thông dụng.
Cộng đồng người Canada nói tiếng pháp cũng có phong cách sử dụng ngôn ngữ
và những hành vi không lời giống như những người anh em của họ. Mỹ, Đức có cách
sử dụng ngôn ngữ và hành vi không lời gần như tương tự nhau. Cách sử dụng ngôn
ngữ, các cử chỉ, điệu bộ của họ không quá nhẹ nhàng nhưng cũng không quá nóng nảy
trong đám phán.
2.3. Sự khác biệt về quan niệm giá trị:
Có bốn quan niệm về giá trị thường được hiểu khác nhau: Khách quan, cạnh
tranh công bằng, và quan niệm về thời gian. Trong đàm phán quốc tế, các nhà kinh
doanh vẫn thường đánh giá người Mỹ luôn ra những quyết định dựa trên những thực
tế rõ ràng mà không quan tấm đến nhân tố tình cảm, quan hệ khác. Đó chính là sự thể

hiện quan niệm của người Mỹ về sự khách quan.
Cạnh tranh là một đặc điểm của đàm phán. Đây là hình thức cạnh tranh giữ
người mua và người bán với tư cách là hai đối tác trên bàn đàm phán. Xu hướng vận
động của các bên yêu cầu về giá cả và điều kiện trao đổi của bên mua và bên bán là
trái ngược nhau. Kết quả của quá trình cạnh tranh giữa hai bên đối tác chính là kết quả
của cuộc đàm phán.
Thời gian trong các nền văn hoá cũng được hiểu khác nhau. Người Mỹ và
người Đức là điển hình của thời gian đơn nghĩa là giờ nào việc nấy. Thời gian được
coi như một thứ hàng hoá hữu hình, thời gian được chia nhỏ gắn với những công việc
cụ thể. Ngươc lại với thời gian đơn là thời gian phức chỉ chú trọng kết quả công việc
ma không chú ý nhiều đến việc phân chia thời gian cụ thể để thực hiện công việc như
SVTH: Nhóm G2-GTKD Trang 4
Giao tiếp Kinh doanh GV: Nguyễn Thế Hùng
thế nào. Quan niệm thời gian phức phổ biến trong những nền văn hoá trừu tượng có
pha sự thực dụng nhưng vẫn chứa nhiều yếu tố tâm linh lãng mạn. Châu Á và Châu
Mỹ La Tinh là những nơi thường hiểu thời gian theo quan niệm thời gian phức.
2.4. Sự khác biệt về tư duy và quá trình ra quyết định:
Khi đối mặt với một nhiệm vụ đàm phán phức tạp, hầu hết các nhà đàm phán
Phương Tây đều có thói quen chia nhỏ nội dung đám phán thành một loạt những công
việc nhỏ, lần lượt giải quyết vần đề. Kết quả cuối cùng của đám phán sẽ là tổng hợp
kết quả đàm phán của tất cả các nội dung nhỏ. Các nhà đàm phán Châu Á lại có xu
hướng ngược lại. Họ không phân chia nội dung đàm phán thành các công việc nhỏ mà
thường cùng một lúc đàm phán tất cả các nội dung không theo một trình tự rõ ràng, và
nhượng bộ chỉ đạt được khi đàm phán đã sắp kết thúc.
3. Những đặc điểm văn hoá giao tiếp kinh doanh của các nước Phương Tây:
3.1. Thời gian trong giao tiếp kinh doanh:
3.1.1. Những vấn đề về nội dung, giờ giấc làm việc:
Người Phương tây muốn biết trước nội dung cuộc gặp, vai trò và quyền hạn, và
thậm chí cả thân thế sự nghiệp của khách. Họ thường định trước thời lượng cho các
cuộc gặp gỡ (các cuộc tiếp xã giao thường kéo dài 30 – 45 phút và hiếm khi quá 1

tiếng) và không ngại ngùng chủ động kết thúc khi hết giờ, nhất là khi họ có việc bận
tiếp sau đó, hoặc thấy cuộc gặp không mang lại lợi ích gì.
Người Phương Tây thường rất đúng giờ. Sự chậm trễ được hiểu là thiếu quan
tâm, coi thường đối tác hoặc kém cỏi trong sắp xếp thời gian. Ngược lại, đến sớm có
thể làm bên chủ bối rối do chưa sẵn sàng tiếp đón hoặc được hiểu là quá sốt ruột hoặc
không có việc gì tốt hơn để làm. Nói chung, nên đến vào đúng thời gian ghi trên giấy
mời hoặc đã hẹn. Ví dụ: Việc đúng giờ luôn được đánh giá cao trong xã hội Mỹ. họ
sắp xếp các cuộc hẹn và cuộc sống bản thân theo một thời gian biểu. Họ luôn đến đúng
giờ. Đối với sinh viên quốc tế, sinh viên Mỹ dường như luôn vội vàng và lỗ mãng.
Nhưng người Mỹ lại luôn đạt hiệu quả cao trong công việc nhờ sự vội vàng này.
Cũng vì muốn tiết kiệm thời gian, nên các cuộc gặp làm việc với người Phương
Tây là ngắn, tập trung và đi thẳng vào vấn đề. Người Phương Tây thích nói chuyện
làm ăn trước, sau đó mới nói đến chuyện cá nhân và các chuyện khác. Trong các cuộc
họp hoặc gặp gỡ làm việc, người Phương Tây có thể cắt ngang lời nhau để hỏi hoặc
nêu ý kiến của mình. Thói quen này có thể bị coi là bất lịch sự trong một số nền văn
SVTH: Nhóm G2-GTKD Trang 5
Giao tiếp Kinh doanh GV: Nguyễn Thế Hùng
hóa Châu Á. Do vậy, các nhà kinh doanh nước ngoài không nên ngạc nhiên khi bị
người Phương Tây cắt lời để hỏi hoặc nêu ý kiến của họ.
3.1.2. Độc lập hay nhóm:
Trong văn hóa của người Phương Tây, sự độc lập của cá nhân được đánh giá
cao. Sẽ không ngạc nhiên nếu các đối tác Phương Tây đến tham dự đàm phán với một
thành viên duy nhất và thành viên này có đầy đủ thẩm quyền để ra mọi quyết định.
Cũng vì thế, không quá ngạc nhiên khi một doanh nhân Phương Tây cực kỳ khó chịu
vì đối tác Phương Đông của mình, sau 1 tuần đàm phán, lại tuyên bố “phải gọi điện
thoại hỏi sếp ở nhà đã”. Người Phương Tây thường coi điều này như là sự thiếu tôn
trọng trong đàm phán.
3.1.3. Đúng giờ hay trễ giờ:
Khái niệm “thời gian là tiền bạc” là hoàn toàn chính xác đối với các thương
nhân người Mỹ. Họ đúng hẹn và chỉ làm một việc trong một khoảng thời gian nhất

định về một lĩnh vực. Vì thế, người Phương Tây rất xem trọng chuyện giờ giấc và ít
khi trễ giờ trong các cuộc hẹn làm ăn. Họ hẹn bạn 9 giờ bắt đầu đàm phán thì có nghĩa
là chắc chắn 9 giờ sẽ bắt đầu.
Sự chú ý của bạn dành cho thời gian có thể tác động tới hình ảnh của bạn. Hãy
lập kế hoạch cho buổi họp và cuộc hẹn tại các nước Bắc Âu, Đức và Ôxtrâylia, đây là
những nơi mà sự đúng giờ được quan tâm hàng đầu. Tuy nhiên bạn cũng nên chú ý
đến văn hóa của mỗi nước khác ở Phương Tây. Cụ thể như: Tại Anh bạn hãy đến sớm
hơn. Ở Pháp, bạn nên đến trể khoảng 10 phút. Ở Italia, bạn có thể phải đợi nhưng đừng
nghĩ là các nước khác cũng thế. Tại Tây Ban Nha, thời gian biểu linh hoạt hơn.
3.2. Quan điểm giao tiếp:
3.2.1. Sòng phằng hay dựa trên mối quan hệ:
Người Phương Tây khi gặp gỡ, thường chào hỏi nhau một cách hồ hởi và nhanh
chóng. Phong cách chung là bắt tay, ôm hôn hoặc gật đầu. Họ luôn tỏ thái độ tự tin,
bình đẳng, ít coi trọng cương vị xã hội. Trong công việc, họ luôn tỏ rõ bản lĩnh và lòng
nhiệt tình của mình, đồng thời cũng đánh giá người khác qua công việc của họ. Cương
vị xã hội, trong quan niệm của họ là do mỗi người tự đặt lấy. Họ rất ngưỡng mộ ai
bằng năng lực và lòng kiên trì giành được thành công. Họ cũng có sự kính trọng với
truyền thống gia đình, dòng họ. Họ luôn có ý thức và coi trọng quyền công dân của
mỗi người. Họ luôn tin vào qui định của luật pháp để thực hiện công lý trong xã hội và
luôn coi trọng, bảo đảm cho quyền sở hữu cá nhân. Vì thế, những câu hỏi tỏ sự ân cần
SVTH: Nhóm G2-GTKD Trang 6
Giao tiếp Kinh doanh GV: Nguyễn Thế Hùng
quá mức về cuộc sống riêng tư không được ưa chuộng như với ngưòi châu Á. Tính độc
lập này còn thể hiện trong cả sinh hoạt gia đình. Họ thường nuôi dạy con cái từ nhỏ
theo tinh thần luôn có nguyện vọng, xu hướng và khả năng sống tự lập. Nói chung họ
thích có nơi ngủ riêng biệt để được hoàn toàn tự do.
Người Âu – Mỹ rất coi trọng tri thức khoa học và tư duy tuyến tính, nên muốn
mọi việc phải được sắp xếp theo kế hoạch và vận động theo một hướng. Với quan
niệm, cuộc sống chỉ diễn ra có một lần, nên họ rất quý và coi trọng thời gian. Họ
thường sắp đặt công việc theo thời gian chính xác, hoạt động phải đúng giờ và thời

gian phải được sử dụng một cách hợp lý, các công việc được giải quyết càng nhanh
càng tốt. Đối với họ, thời gian là tiền bạc và cái gì đã trôi qua là thuộc về quá khứ, ít
lưu luyến.
Khi trình bày về quan điểm của bản thân người Phương Tây thường nói thẳng
ngay cảm nhận của họ và quan điểm rõ ràng. Ví dụ: Những người chào hàng phải
chuẩn bị rất kỹ và đi thẳng vào nội dung sau những câu chào hỏi xã giao ngắn gọn.
Yêu cầu này càng quan trọng nếu cuộc làm việc được tiến hành thông qua phiên dịch
vì thực chất thời gian làm việc chỉ còn tối đa một nửa. Trong các cuộc họp hoặc gặp
gỡ làm việc, người Mỹ có thể cắt ngang lời nhau để hỏi hoặc nêu ý kiến của mình.
Thói quen này có thể bị coi là bất lịch sự trong một số nền văn hóa Châu á.
3.2.2. Kiểu giao tiếp kinh doanh thông thường ở Phương Tây:
Trong giao tiếp kinh doanh phương tây theo quan điểm cá tính của người
phương tây chuộng tính tự lập và thích tự thân phấn đấu nên trong quan hệ kinh doanh
cùng hướng tới mục đích của giao tiếp thường là: để hoàn thành công việc, tiếp tục thu
nhận thông tin hướng tới các thông tin chuẩn xác phục vụ cho việc ra quyết định một
cách đúng đắn, tạo sư hiểu biết chung, tiếng nói chung nhằm phát triển quan hệ,nhằm
làm cho người khác hiểu được ý của mình và được người khác đáp lại theo ý muốn
của mình. Như vậy đây là kiểu giao tiếp thể hiên sự hợp tác đôi bên cùng có lợi.
Đối với trường hợp lãnh đạo cấp cao tại đơn vị công ty : cấp lãnh đạo là người
phương tây. Cá nhân họ sẽ làm người chỉ đạo và làm việc theo chuyên môn quản lý,
lãnh đạo của họ. Họ lên kế hoạch kinh doanh theo chuyên môn sở trường và định
hướng rõ ràng mục tiêu cần đạt được và đưa ra quy tắc, quy định làm việc theo logic
chung duy nhất để thực hiện. Lãnh đạo là người đưa ra quyết định cao nhất. Quyết
SVTH: Nhóm G2-GTKD Trang 7
Giao tiếp Kinh doanh GV: Nguyễn Thế Hùng
định chỉ được dựa thêm trên mối quan hệ cá nhân giữa 2 người hoặc một vài người
khác có ảnh hưởng lớn tới họ. Đối với cấp dưới có trình độ sẽ được đánh giá đúng
năng lực dựa vào kết quả công việc hoàn thành. Kiểu giao tiếp thể hiện sự chỉ đạo toàn
quyền từ cấp trên đối với cấp dưới
3.3. Nghi thức xã giao:

3.3.1. Danh thiếp:
Danh thiếp được dùng để giao dịch, sinh hoạt… Danh thiếp thường để trong túi
áo hay trong cặp để tạo sự tôn trọng, tránh để trong bóp, túi quần. Khách ngoại giao
thường in mực đen, khách ngoại thường in mực xanh.
Danh thiếp không quan trọng đối với người Phương Tây, trao danh thiếp cho
nhau không trịnh trọng như người Châu á. Người Phương Tây thường chỉ nhìn lướt
qua hoặc thậm chí không nhìn danh thiếp trước khi cất đi hoặc bỏ vào túi. Thói quen
này không có nghĩa là người Phương Tây không tôn trọng đối tác, bởi vì họ quan niệm
tập trung vào người đang đối thoại với mình quan trọng và thể hiện tôn trọng hơn là
nhìn vào danh thiếp. Tuy nhiên, danh thiếp của đối tác vẫn được các nhà kinh doanh
Phương Tây lưu giữ để có địa chỉ liên hệ khi cần thiết, đặc biệt là đối với những người
mà sau cuộc nói chuyện họ thấy cần phải giữ quan hệ.
Chẳng hạn, ở Tây Ban Nha việc trao đổi danh thiếp trong buổi gặp gỡ đầu tiên
là rất cần thiết, vì vậy bạn nên mang nhiều danh thiếp khi đi gặp đối tác Tây Ban Nha.
Danh thiếp nên có một mặt là tiếng Anh và mặt kia là tiếng Tây Ban Nha. Ghi rõ trình
độ học vấn lên danh thiếp và đảm bảo mô tả rõ chức danh của bạn nhất là khi bạn là
người có vai trò quyết định. Khi trao danh thiếp, nên để mặt tiếng Tây Ban Nha theo
chiều người nhận có thể đọc được khi đưa danh thiếp, bạn nên cười và duy trì giao tiếp
bằng mắt, sau đó dành một vài giây để đọc nội dung. Tiếp theo, đặt danh thiếp lên bàn
trước mặt bạn. Còn ở Đức khách là người đầu tiên trao danh thiếp. Nếu trao cho nhóm
người thì người có cấp bậc cao nhất được trao đầu tiên. Nếu không biết thứ tự cấp bậc
của chủ nhà thì trao danh thiếp cho tất cả, bắt đầu từ người ở bên cạnh mình. Phải xem
danh thiếp trước khi cất đi.
3.3.2. Trang phục:
Ngoài xã hội, nhìn chung, người Phương Tây mặc rất thoải mái, không cầu kỳ
và không quan tâm nhiều đến cách ăn mặc của người khác. Trên đường phố, đôi khi
rất khó có thể phân biệt đẳng cấp, địa vị xã hội hoặc nghề nghiệp dựa vào quần áo bề
SVTH: Nhóm G2-GTKD Trang 8
Giao tiếp Kinh doanh GV: Nguyễn Thế Hùng
ngoài. Tuy nhiên, trong công sở, tại các hội nghị, hội thảo, tiệc và các cuộc tiếp khách

các doanh nhân Phương Tây cũng mặc chỉnh tề và đẹp như ở các nước khác. Khách
đến thăm và làm việc thường mặc com-lê thẫm màu và cravát. Mùa hè, mùa xuân,
hoặc những dịp không trang trọng lắm có thể mặc com-lê sáng màu. Doanh nhân nữ
cũng thường mặc com-lê với màu sắc đa dạng hơn so với nam giới. Mặc gọn gàng và
chỉnh tề quan trọng hơn là kiểu cách. Một số thương nhân dùng chất lượng giầy và
đồng hồ đeo tay để thể hiện mình. Thứ Sáu hàng tuần thường là ngày người Phương
Tây ăn mặc ít nghi lễ nhất tại các công sở. Mặc dù nhìn chung người Phương Tây
không cầu kỳ trong ăn mặc nhưng nếu một doanh nhân đến giao dịch mặc một bộ
com-lê quá cũ và hoặc nhàu nhĩ chắc chắn sẽ tạo ấn tượng ban đầu không hay đối với
đối tác.
Ví dụ: Ở Pháp ngay cả trong những bữa tiệc chính thức cũng không nhất thiết
phải thắt cravat. Nhưng nam giới nhất thiết phải vận com-lê đồng bộ hoặc đờ mi. Còn
ở Đức cách ăn mặc đối với họ chỉ cần trang trọng theo nghĩa kinh doanh, không cần
cầu kỳ và có thể hơi quy cũ. Nam giới nên mặc bộ trang phục có màu sậm. Nữ có thể
mặc bộ trang phục công sở hay đầm theo kiểu truyền thống. Và đặc biệt đừng mang
quá nhiều trang sức hay trang điểm lòe loẹt.
3.3.3. Nghi lễ xã giao:
Khi gặp gỡ, người Phương Tây thường chào hỏi nhau một cách hồ hởi và nhanh
chóng. Phong cách chung là bắt tay, ôm hôn hoặc gật đầu. Họ luôn tỏ thái độ tự tin,
bình đẳng, ít coi trọng cương vị xã hội. Trong công việc, họ luôn tỏ rõ bản lĩnh và lòng
nhiệt tình của mình, đồng thời cũng đánh giá người khác qua công việc của họ. Cương
vị xã hội, trong quan niệm của họ là do mỗi người tự đặt lấy. Họ rất ngưỡng mộ ai
bằng năng lực và lòng kiên trì giành được thành công. Họ cũng có sự kính trọng với
truyền thống gia đình, dòng họ.
Họ luôn có ý thức và coi trọng quyền công dân của mỗi người. Họ luôn tin vào
qui định của luật pháp để thực hiện công lý trong xã hội và luôn coi trọng, bảo đảm
cho quyền sở hữu cá nhân. Vì thế, những câu hỏi tỏ sự ân cần quá mức về cuộc sống
riêng tư không được ưa chuộng.
SVTH: Nhóm G2-GTKD Trang 9
Giao tiếp Kinh doanh GV: Nguyễn Thế Hùng

Họ ít coi trọng quan hệ láng giềng như người châu Á. Khi rảnh rỗi, họ có thể
vui thú với bạn bè hoặc trong câu lạc bộ chứ không nhất thiết thăm hỏi những người
xung quanh.
Ví dụ: Người Pháp chú ý đến tính trang trọng và lễ nghi trong các cuộc gặp gỡ
giao dịch và rất ít khi dùng tên thân mật. Họ có thói quen bắt tay nhanh và nhẹ. Chủ đề
ưa thích của họ là: món ăn, thể thao, văn hóa nghệ thuật. Họ tránh các chủ đề về tiền
bạc, giá cả, đời tư, chính trị… Người Nga rất niềm nở và trân trọng khi giao tiếp. Khi
chào nhau, họ thường bắt tay và xưng danh, trừ khi gặp bạn bè họ ôm hôn ở má.
Người Nga ưa thích các chủ đề: nghệ thuật, văn chương, tình bạn, hòa bình. Họ ưa
thích các món quà là một cuốn sách, album nhạc, bút… Ít người nói được tiếng Anh
(trừ các nhà khoa học). Người Đức có thói quen bắt tay chặt khi làm quen, chào hỏi và
chỉ gọi tên thân mật khi đã quen. Họ có tác phong đúng giờ và khá sòng phẳng. Khi
giao tiếp, họ không đút tay vào túi và không xỏ tay vào vạt áo khi ăn, và xưng danh
đầy đủ khi trả lời điện thoại. Họ thường bàn luận công việc vào sau bữa ăn. Chủ đề ưa
thích là: ôtô, bóng đá, món ăn và tránh các chủ đề về chiến tranh, về thể thao Mỹ.
Người Thụy Điển bắt tay khi giao tiếp và rất nghiêm túc. Họ ưa chuẩn xác về giờ giấc
và thận trọng trong công việc, và không thích nắm tay hay vỗ sau lưng. Họ có thói
quen chúc tụng nhau trong bữa ăn. Người Thụy Điển luôn tự hào về lịch sử, văn hóa,
xã hội của mình và di sản của bộ tộc Viking. Chủ đề yêu thích của họ: mức sống, cảnh
quan thiên nhiên, thể thao. Họ tránh các chủ đề: tuổi tác, nghề nghiệp, ăn uống, gia
đình. Người Italia có thói quen bắt tay và nắm khuỷu tay khi giao tiếp. Họ có thể biểu
lộ thái độ, tình cảm qua các cử chỉ, điệu bộ nhưng ít khi xưng hô bằng tên thân mật.
Tuy vậy, các cuộc tiếp xúc xã giao họ luôn chú ý tới giờ giấc và không ưa kéo dài,
không nói chuyện kinh doanh trong buổi gặp gỡ xã giao, họ ăn bữa chính vào buổi
trưa. Chủ đề ưa thích là sự kiện thế giới, bóng đá và gia đình. Họ tránh các chủ đề về
Maphia, chính trị, tôn giáo, thuế má.
3.3.4. Đối xử bình đẳng với phụ nữ:
Ngày nay phụ nữ Phương Tây đã được coi trọng hơn. Tỉ lệ phụ nữ tham gia
vào công việc xã hội cũng như trong kinh doanh ngày càng tăng. Ở Mỹ khoảng trên
60% đi làm, ở Hoa Kỳ vẫn chưa hết sự phân biệt đối xử giữa nam và nữ. Tuy nhiên, ở

SVTH: Nhóm G2-GTKD Trang 10
Giao tiếp Kinh doanh GV: Nguyễn Thế Hùng
Hoa Kỳ, phụ nữ có cương vị cao trong các cơ quan hoặc công ty nhiều hơn, và họ có
quyền lực hơn so với ở các nơi khác trên thế giới. Phụ nữ Mỹ không muốn mình bị coi
là đặc biệt hoặc không quan trọng. Nếu gặp những đối tác kinh doanh là nữ, bạn hãy
đối xử với họ như đối xử với các đối tác nam giới và không nên phật ý vì cho rằng bên
chủ đã đưa phụ nữ ra tiếp bạn. Nếu họ là chủ mời bạn đi ăn, hãy cứ để họ trả tiền như
những người đàn ông khác. Trong kinh doanh, phụ nữ Mỹ cũng quyết đoán không
kém gì nam giới. Ở Đức, phụ nữ được coi trọng: thông lệ “Ladies First” chỉ áp dụng
trong cuộc sống thường nhật. Trong quan hệ làm ăn thì thông lệ là cấp dưới nể vì cấp
trên. Ngày nay, cả nam lẫn nữ đều có thể là người mở cửa cho người khác hay giúp
người khác mặc áo choàng, chỉ không ai được từ chối nhận cử chỉ đó.
3.3.5. Đối xử bình đẳng với người khác chủng tộc:
Trong cuộc sống khoảng cách sự phân biệt đối xử ngày càng được rút ngắn, và
trong kinh doanh thì không được thể hiện sự phân biệt chủng tộc điều đó sẽ làm cản
trợ sự hợp tác trong kinh doanh. Như ở nước Mỹ là một nước đa chủng tộc. Người
nước ngoài di cư đến Hoa Kỳ sinh sống và kinh doanh ngày càng nhiều. Trong thực tế
cuộc sống ở Hoa Kỳ vẫn chưa hết sự phân biệt chủng tộc. Tuy nhiên, luật pháp Hoa
Kỳ cấm mọi hành động phân biệt chủng tộc. Người nước ngoài đến Hoa Kỳ kinh
doanh cần hết sức tránh các hành động, hoặc ngôn ngữ thể hiện sự phân biệt chủng
tộc. Ví dụ thay cho từ “black American” (người Mỹ đen) người ta dùng một từ khác
lịch sự và ít phân biệt chủng tộc hơn là “African American” (người Mỹ gốc Phi).
3.4. Giao tiếp trong đàm phán kinh doanh:
Ngôn ngữ là vấn đề quan trọng để liên kết giữa các nền văn hóa và giữa những
người đàm phán, nhưng nó cũng có thể là rào cản.
3.4.1. Tặng quà:
Doanh nhân châu Âu hầu như ít để ý đến việc tặng quà trong kinh doanh.Chỉ
các nước như Cộng hòa Czech, Phần Lan, Liên bang Nga, Ukraina có để ý đến việc
chọn quà và tặng quà cho đối tác. Một số quốc gia khác,việc tặng quà không được thực
hiện ngay lần đầu gặp gỡ nhưng có thể diễn ra ở những lần sau, đó là Bồ Đào Nha và

Tây Ban Nha. Các nước Anh, Pháp, Canada, Ý và Hungary không có có tục lệ tặng
quà trong giao tiếp kinh doanh, đàm phán. Tuy nhiên, một món quà là bữa ăn tối lại có
thể được chấp nhận ở Anh và Hy Lạp.
SVTH: Nhóm G2-GTKD Trang 11
Giao tiếp Kinh doanh GV: Nguyễn Thế Hùng
Ví du như: Tại Pháp, khi được mời riêng, nên mang theo hoa hoặc bánh kẹo
ngon đến làm quà tặng cho bà chủ nhà. Bó hoa thường được bó và trang trí rất đẹp và
nghệ thuật nên khi tặng cứ để nguyên. Các doanh nhân Mỹ thường trao cho nhau
những đồ vật mang tính chất quảng cáo. Những vật này không được gói. Việc tặng quà
thật sự chỉ giới hạn trong các dịp lễ tết, kỷ niệm, hội hè. Các vật dụng, đồ dùng là loại
quà được chọn nhiều hơn cả. Các món quà thường đi kèm với biểu tượng của công ty.
Dĩ nhiên, người Mỹ, với lối sống và cách nghĩ thoải mái, không câu nệ, sẽ chẳng ngại
ngần gì mà không bóc ngay gói quà ra xem. Tặng quà ở Hoa Kỳ không quan trọng như
ở các nơi khác trên thế giới, và thậm chí còn có thể gây phiền toái. Thà là không tặng
quà còn hơn là tặng sai hoặc tặng không đúng người. Luật pháp Hoa Kỳ thực tế cấm
các quan chức chính phủ nhận quà trong quá trình thi hành công việc. Tuy nhiên,
người Mỹ có thể vui vẻ nhận lời mời đi uống với bạn tại một quán ba hoặc đi ăn tại
một nhà hàng.
3.4.2. Mời cơm làm việc:
Khách nước ngoài đến làm việc có thể được bên chủ mời ăn sáng, trưa, hoặc
tối, và vừa ăn vừa làm việc. Tuy nhiên, bên chủ cũng có thể mời khách ăn sau khi kết
thúc công việc thành công.
Ví dụ: Nguời Mỹ có thể thảo luận công việc trước khi ăn. Họ hầu như không
uống đồ uống có cồn khi ăn sáng hoặc ăn trưa vì vẫn còn trong giờ làm việc. ở Mỹ,
hầu như không có cảnh ép hoặc thi nhau uống rượu trong bữa ăn. Khi được mời, bạn
có thể từ chối và nói thẳng lý do, nếu bạn không muốn uống. Không uống rượu là
chuyện bình thường ở Mỹ.
3.4.3. Vị trí ngồi tiếp khách:
Sắp xếp chỗ ngồi giữa khách và chủ như thế nào chủ yếu phụ thuộc vào tiện nghi
trong phòng. Khách đến đàm phán hoặc thảo luận công việc thường được mời ngồi theo hình

thức đàm phán – khách ngồi đối diện với chủ, trong đó trưởng đoàn hoặc người có chức vụ
cao nhất của các bên ngồi ở vị trí chính giữa bên mình. Bàn tiếp khách có thể là hình chữ
nhật, bầu dục, hoặc tròn.
Ví dụ: Trong các cuộc tiếp khách xã giao, nếu trong phòng là bộ bàn ghế thường
dùng để tiếp khách đàm phán, thì người tiếp chính bên chủ thường ngồi ở đầu bàn (vị
trí số 1 trong sơ đồ dưới đây). Những người khác của bên chủ ngồi một bên. Đoàn
khách ngồi một bên, trong đó trưởng đoàn hoặc người có chức vụ cao nhất trong đoàn
SVTH: Nhóm G2-GTKD Trang 12
Giao tiếp Kinh doanh GV: Nguyễn Thế Hùng
khách ngồi gần nhất với bên chủ. Nếu trong phòng là bộ xa lông, thì người tiếp chính
bên chủ và trưởng đoàn bên khách có thể ngồi cạnh nhau cùng hướng về một phía
(như thường thấy trong các cuộc tiếp xã giao khách quốc tế của Lãnh đạo Đảng và
Nhà nước ta), hoặc bên khách và bên chủ ngồi đối diện nhau.
3.4.4. Cấm hút thuốc:
Hút thuốc bị cấm ngày càng ở nhiều nơi ở Hoa Kỳ. Bạn luôn luôn phải hỏi xem
có được phép hút thuốc hay không trước khi châm lửa hút thuốc. Pháp luật cấm hút
thuốc trên máy bay, trong nhiều nhà hàng, và ở các nơi công cộng. Hút thuốc thường
bị cấm trong các tòa nhà làm việc; do vậy, những người hút thuốc, bất kể là ai, đều
phải ra khỏi nhà và xuống đường để hút thuốc, kể cả trong những ngày mùa đông giá
lạnh.
Khách đến làm việc cần hết sức tránh hút thuốc trong phòng làm việc không hút
thuốc của bên chủ. Đối với những cuộc làm việc dài, thường có bố trí thời gian giải lao
để cho những người hút thuốc ra ngoài hút thuốc, nếu không, bạn có thể chủ động xin
phép tạm nghỉ để ra ngoài hút thuốc.
3.5. Phong cách làm việc:
3.5.1. Cá nhân hay tập thể:
Xuất phát từ cách sống, người phương Tây thường tự lập và sống tách biệt một
mình trong khi người phương Đông luôn có xu hướng tụ tập đông người, điều này có
thể thấy ở quy mô gia đình, quan hệ bố mẹ và con cái, hàng xóm… Do đó, trong văn
hóa của người phương Tây, sự độc lập của cá nhân được đánh giá cao, trong khi đó

văn hóa phương Đông đề cao tính tập thể và tôn trọng các giá trị cộng đồng. Sẽ không
ngạc nhiên nếu các đối tác phương Tây đến tham dự đàm phán với một thành viên duy
nhất và thành viên này có đầy đủ thẩm quyền để ra mọi quyết định.
3.5.2. Truyền đạt thông tin:
Khi trình bày về quan điểm của bản thân người phương Tây thường nói thẳng
ngay cảm nhận của họ và quan điểm rõ ràng. Người phương Tây đi thẳng vào vấn đề
tìm cách giải quyết. Với quan điểm thẳng thắn trong mọi vấn đề, các doanh nhân
phương Tây thường bày tỏ ý kiến một cách trực diện và nêu rõ nhu cầu của mình.
Ví dụ: Trong giao tiếp, người Mỹ có xu hướng nói to, thích nhìn thẳng vào
người đối diện và hay đòi hỏi quyền lợi một cách công khai. Sự thẳng thắn này đôi lúc
bị nhiều đối tác châu Á, thậm chí cả người châu Âu cho là thiếu tế nhị. Nhưng đó thật
SVTH: Nhóm G2-GTKD Trang 13
Giao tiếp Kinh doanh GV: Nguyễn Thế Hùng
sự là phong cách Mỹ. Họ luôn thúc đẩy cuộc thương lượng đến chỗ kết thúc một cách
mau chóng nhất, vì vậy cách làm việc tốt nhất là nên đi thẳng vào vấn đề cũng như
đừng mất nhiều thời gian cho các thủ tục giấy tờ.
Ngôn ngữ cơ thể cũng rất quan trọng trong quá trình giao tiếp đàm phán.Trong
khi giao tiếp, đặc biệt là làm quen nhau thì nên tránh đề cập tới các vấn đề về chính trị,
tuổi tác… đây là điều tế nhị và có thể làm mất lòng họ. Tốt nhất là nên bàn luận về thể
thao, ăn uống, giải trí, quê hương, đất nước.
Ví dụ: Khi làm quen với người Pháp nên trao đổi về các chủ đề văn hóa – xã
hội, tránh các chủ đề chính trị nhạy cảm. Người Pháp rất thích nói và nói nhiều nên
bạn sẽ tạo được ấn tượng tốt nếu tỏ ra chăm chú lắng nghe.
3.5.3. Quan hệ đồng nghiệp:
Sếp Tây là người chỉ đạo và làm việc theo chuyên môn quản lý, lãnh đạo của
họ, mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới hoàn toàn dựa trên trách nhiệm công việc
của mỗi người. Ví dụ: Có những khác biệt rõ ràng giữa những người láng giềng Hà
Lan và Bỉ. Một nhà quản lý người Bỉ thông thường có ý tưởng tổ chức kiểu gia đình,
cảm nhận tổ chức kiểu phụ hệ và có trật tự, và giống nhiều nền văn hóa Latin, người
cha quyết định mọi việc. Người Bỉ cho rằng một nhà quản lý người Hà Lan là quá dân

chủ: thật vớ vẩn khi mọi người cứ phải hỏi ý kiến lẫn nhau.
3.5.4. Thể hiện cái tôi:
Phương Tây theo chủ nghĩa cá nhân. Cái “Tôi” là nhất, sở thích của tôi là tuyệt
đối, gia đình, cha mẹ, làng nước, luật pháp không thể can thiệp. Ví dụ: Trong các
trường học Mỹ câu biểu ngữ “ I am unique” (Tôi là độc nhất) trang trọng treo khắp nơi
để khuyến khích học sinh phát triển mọi khả năng của “Cái Tôi”. Ví dụ: Người Mỹ
thường không hiểu được “sự khiêm tốn” của người Trung Quốc. Ở Mỹ, nếu bạn không
giới thiệu mình là người rất tháo vát mà cứ luôn nói mình còn thiếu sót thì đừng trông
mong tìm được việc làm.
Cũng chính cách thể hiện cái tôi của bản thân, nên cũng hình thành nên yếu tố ý
thức trách nhiệm của mỗi cá nhân. Tây Phương do luôn thể hiện cái “tôi” của chính
mình nên tinh thần trách nhiệm rất cao.Ví dụ: Người Anh làm việc với tinh thần và
trách nhiệm cao nhất, luôn coi chất lượng, tiến độ và hiệu quả công việc là ưu tiên
hàng đầu.Khi xảy ra rủi ro người Anh luôn tìm cách khắc phục sự cố trước khi xem
SVTH: Nhóm G2-GTKD Trang 14
Giao tiếp Kinh doanh GV: Nguyễn Thế Hùng
trách nhiệm thuộc về ai và luôn nghiêm khắc rút kinh nghiệm cho bản thân mình và
cho các thành viên khác.
3.5.5. Truyền thông:
Giữ liên hệ và thông tin thường xuyên với bạn hàng Hoa Kỳ là rất quan trọng.
Các nhà kinh doanh Hoa Kỳ nổi tiếng là không kiên nhẫn và rất ghét sự im lặng. Họ
muốn được thông tin thường xuyên về những diễn biến trong kinh doanh bất kể là tốt
hoặc xấu.
Người Phương Tây sẽ đặc biệt chú ý đến các thư hỏi hàng ngắn gọn, rõ ràng,
xúc tích và phải đề tên công ty của mình ngay đầu thư, tiếp đến là địa chỉ công ty
muốn gởi đến và ngày tháng.Chúng ta sẽ nhận được đầy đủ thông tin về sản phẩm,
dịch vụ nếu làm theo yêu cầu trên.
Xã giao điện thoại đúng cách rất quan trọng trong giao tiếp kinh doanh. Đầu
tiên, hãy chào hỏi trước khi trả lời. Khi trả lời điện thoại kinh doanh, nhớ hãy tự giới
thiệu mình (nếu có thể thì cả công ty nữa). Nếu bạn trả lời điện thoại của người khác,

hãy nhắc đến tên của đồng nghiệp khi bạn chào hỏi để người ta biết rằng mình không
gọi nhầm. Ví dụ: Ở Đức người gọi đến thường phải chào và xưng danh, tự giới thiệu
về mình. Người được gọi điện thoại thường ít nhất nên xưng tên, không khi nào được
sử dụng ngôi thứ ba để trả lời, chẳng hạn như : “Đây là ông Smith”.
Người Phương Tây luôn đi đầu về việc ứng dụng các công nghệ, kỹ thuật hiện
đại. Website thương mại của Châu Âu có tính chất kinh doanh nhiều hơn (more
business driven) trong khi các website tại Bắc Mỹ tập trung vào người tiêu dùng nhiều
hơn Các Website thường được tạo nên để các công ty giới thiệu về mình trên Internet
hoặc để làm rõ công ty đó so với các đối thủ cạnh tranh. Các website được xây dựng
để với dự kiến phục vụ bốn mục đích và xúc tiến, bán hàng, trao đổi trực tiếp với
khách hàng (hầu hết các công ty nhằm vào mục đích này) và trao đổi trong nội bộ
công ty (chủ yếu các công ty lớn).
KẾT LUẬN
SVTH: Nhóm G2-GTKD Trang 15
Giao tiếp Kinh doanh GV: Nguyễn Thế Hùng
Người xưa có câu: "Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng
nhau". Câu nói này không những đúng trong thực tiễn đời sống mà đúng luôn cả trong
giao tiếp kinh doanh. Cùng một lời nói nhưng với phong cách, thái độ, âm lượng khác
nhau cũng có thể dẫn đến những cách suy nghĩ khác nhau của cùng một người nghe.
Nếu biết giao tiếp tốt và biết vận dụng khéo thì không việc gì mà không thành công
được.
Văn hoá giao tiếp trong kinh doanh là một phạm trù văn hoá dùng để biểu hiện
cử chỉ, hành động và lời nói làm cho đối phương có cảm tình với mình, từ đó những
công việc mà mình hợp tác mới đạt mục tiêu thành công.
Văn hoá giao tiếp trong kinh doanh của ngưởi Phương Tây cũng không chỉ
dừng lại ở ngôn ngữ trong hành động, cử chỉ, và phong cách ăn mặc mà nó còn thể
hiện ở sự cảm nhận của con người. Một biểu hiện bằng ánh mắt, bằng nụ cười thân
thiện hoặc thái độ luôn tôn trọng, luôn lắng nghe sẽ làm cho đối tượng cảm thấy thoải
mái và hài lòng. Khi khách hàng hài lòng là chúng ta đã bước đầu thành công trong
giao tiếp. Việc hình thành các chuẩn mực, hành động, cử chỉ trong giao tiếp là do sự

khác biệt trong văn hoá của mỗi nước, nhưng nhìn chung là từ hai cái nôi văn hoá lớn
là văn hoá Đông – Tây.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, việc giao lưu kinh tế giữa các nước với
nhau là điều tất yếu, việc nghiên cứu các hành vi, chuẩn mực trong giao tiếp kinh
doanh hay còn gọi là văn hoá giao tiếp kinh doanh sẽ giúp các doanh nghiệp hội nhập
nhanh chóng với nền kinh tế thế giới và khu vực.
SVTH: Nhóm G2-GTKD Trang 16

×