Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ VÀ TĐDAĐT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.19 KB, 26 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ VÀ TĐDAĐT
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về dự án đầu tư.
1.1.1. Khái niệm dự án đầu tư.
Lịch sử phát triển kinh tế thế giới và Việt Nam trong những thập niên gần
đây đã khẳng định vai trò của ĐT đối với sự phát triển của mỗi quốc gia nói
chung và từng doanh nghiệp nói riêng. Đầu tư cho tương lai đóng vai trò then
chốt, quyết định vận hội kinh tế của các quốc gia, sự tồn tại và phát triển của
các doanh nghiệp. Thực tiễn đã chứng minh rằng, muốn tối đa hoá hiệu quả của
ĐT thì trước khi ra quyết định ĐT nhất thiết phải có DAĐT. Nói khác đi, ĐT
phải đựơc tiến hành trên cơ sở các DA được soạn thảo và xem xét một cách kỹ
lưỡng. Vì vậy, ĐT theo DA trở thành xu thế phổ biến trong nền kinh tế thị
trường. Tuy nhiên, hiện nay có khá nhiều quan niệm khác nhau về DAĐT
(Investment project). Dự án đầu tư được xem xét dưới nhiều giác độ khác nhau.
Theo thời gian, quan niệm về DAĐT ngày càng được hoàn thiện và phát triển.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại thì: “DAĐT là một tập
hợp các hoạt động đặc thù nhằm tạo nên một thực tế mới có phương pháp trên
cơ sở các nguồn lực nhất định .”
Ngân hàng thế giới (World Bank) thì cho rằng: “ DAĐT là tổng thể các
chính sách, hoạt động và chi phí liên quan đến nhau được hoạch định nhằm đạt
được những mục tiêu nào đó trong thời gian nhất định .”
Theo nghị định số 88/CP ngày 1/9/1999 của Chính phủ thì: “ DA là tập
hợp những đề xuất để thực hiện một phần hay toàn bộ công việc, mục tiêu hoặc
yêu cầu nào đó .”
Dưới giác độ ngân hàng, quyết định sửa đổi và bổ sung quy định 127 của
Thống đốc ngân hàng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chỉ ra rằng: ” DAĐT,
phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc DAĐT, phản ánh phục vụ đời
sống mà khách hàng gửi đến tổ chức tín dụng là một tập hợp những đề xuất,
trong đó có nhu cầu vốn, vay vốn, cách thức sử dụng vốn và cách thức trả nợ
vay trong một khoảng thời gian xác định .”


Cho dù đựơc xem xét dưới bất kỳ góc độ nào thì các DAĐT cũng bao
gồm các thành phần chính sau :
- Các mục tiêu cần đạt được khi thực hiện DAĐT. Những mục tiêu này
cần được biểu hiện bằng kết quả cụ thể như tạo nguồn thu cho ngân sách, giải
quyết việc làm cho người lao động, mang lại lợi nhuận cho chủ ĐT …
- Các hoạt động của DA phải cụ thể, có hệ thống và kế hoạch .
- Thời gian và các nguồn lực cần thiết cho DA. Tổng hợp các nguồn lực
này chính là vốn ĐT cần cho DA. Mỗi DA bao giờ cũng được xây dựng và thực
hiện trong một sự giới hạn về thời gian và nguồn lực nhất định vì vậy, không thể
có những DA phải “thực hiện với bất kỳ giá nào”.
DAĐT được xây dựng và phát triển bởi một quá trình gồm nhiều giai
đoạn khác nhau. Các giai đoạn này vừa có mối quan hệ gắn bó vừa có mối quan
hệ độc lập tương đối với nhau tạo thành chu trình DA. Đối với chủ ĐT và nhà
tài trợ, việc xem xét đánh giá các giai đoạn của chu trình DA là rất quan trọng.
Dưới đây là một cách phân loại chu trình của DA phổ biến nhất và được nhiều
người quan tâm .
Sơ đồ chu trình dự án đầu tư:
-Chuẩn bị đầu

-Nghiên cứu, phát hiện cơ hội đầu tư
-Nghiên cứu tiền khả thi
-Nghiên cứu khả thi
-Đánh giá và ra quyết định
- Thực hiện
đầu tư
-Hoàn tất thủ tục triển khai đầu tư
-Thiết kế và lập dự toán thi công
-Thi công xây lắp công trình
-Chạy thử và nghiệm thu sử dụng
-Vận hành kết

quả
-Sử dụng chưa hết công suất
-Sử dụng công suất ở mức cao nhất
-Công suất giảm dần và thanh lý
1.1.2. Nội dung của một dự án đầu tư.
1.1.2.1.Nghiên cứu về sự cần thiết phải đầu tư.
Ta đã biết, DAĐT là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một công
cuộc ĐT sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế, làm tiền đề cho các quyết định
ĐT và hoạt động tài trợ. Tuỳ theo từng DA cụ thể để nghiên cứu, xác định
những cơ sở về sự cần thiết phải tiến hành ĐT theo DA đó. Tuy nhiên, do hoạt
động ĐT mang tính phức tạp, có liên quan, ảnh hưởng và chịu sự chi phối của
rất nhiều yếu tố, trong đó đặc biệt là tình hình kinh tế của mỗi vùng, mỗi khu
vực và mỗi quốc gia. Vì vậy, có thể nói rằng, tình hình kinh tế tổng quát là cơ sở
chủ yếu nhất để nghiên cứu sự cần thiết phải thực hiện các DAĐT. Khi nghiên
cứu tình hình kinh tế tổng quát có liên quan đến DAĐT ta cần xem xét các khía
cạnh sau chủ yếu sau :
- Thực trạng điều kiện tự nhiên vùng DA : tức là đi xem xét và phân tích
vị trí, đặc điểm tự nhiên của vùng DA. Đồng thời, nhìn nhận và đánh giá được
các điểm chung và cá biệt của điều kiện tự nhiên, qua đó thấy được những thuận
lợi và khó khăn của điều kiện tự nhiên đối với DA .
- Thực trạng lao động và dân số vùng DA và vùng phụ cận : đây là yếu tố
có liên quan, ảnh hưởng đến nhu cầu và khuynh hướng tiêu thụ sản phẩm, dịch
vụ do DA tạo ra, đồng thời tác động đến nguồn lao động cung cấp cho DA .
- Thực trạng và xu hướng phát triển kinh tế trong vùng DA : được phản
ánh qua hàng loạt các thông số và chỉ tiêu đặc trưng như : quy mô của sản xuất,
cấu trúc các ngành nghề kinh tế -kỹ thuật trong vùng DA, các chỉ số phát triển
kinh tế trong vùng …Nắm rõ thực trạng và xu hướng phát triển kinh tế vùng, từ
đó giúp khẳng định về mục tiêu, quy mô sản xuất của DA, đồng thời tìm khả
năng cung ứng nguồn lực cho thực hiện DA và phạm vi giới hạn của DA .
- Chiến lược phát triển kinh tế -xã hội vùng DA và vùng phụ cận : phân

tích các yếu tố này để tìm ra sự đồng nhất giữa mục tiêu DA và mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội –kinh tế vùng. Sự đồng nhất nêu trên tạo ra cho DA tiến
hành được thuận lợi vì đi đúng mục tiêu chung và do đó được đón nhận các điều
kiện thực hiện DA từ các thể chế, chính sách, các quy định của Nhà nước, của
ngành và địa phương trong việc huy động về nguồn lực.
- Cập nhật các cơ chế, chính sách mới về phát triển kinh tế - xã hội nói
chung : sự phát triển kinh tế - xã hội luôn diễn ra sôi động và đa dạng, có lúc
theo một quy luật, có lúc không, có lúc nằm trong dự kiến của nhà quản lý, có
lúc vượt ra ngoài tạo ra những sự kiện có thể là cơ hội cho nhà ĐT nhưng cũng
có thể là rủi ro mà nhà ĐT phải hứmg chịu và đối phó. Vì thế, các chính sách,
chủ trương, đường lối phát triển kinh tế của Nhà nước, ngành, địa phương cần
phải được tiếp cận và cập nhật như: các luật lệ liên quan đến ĐT, các luật về
thuế, thương mại, các quy định về tài chính…
- Các khía cạnh kinh tế đối ngoại: đây là các yếu tố liên quan về khía
cạnh cơ hội hoặc hạn chế liên quan đến việc cung ứng đầu vào và tiêu thụ sản
phẩm. Cần chú ý đặc biệt đến quan hệ đa phương - “kinh tế mở” hiện nay và coi
trọng nhân tố thị trường và cạnh tranh.
Trên đây là những yếu tố cơ bản tác động đến DAĐT. Nghiên cứu các
vấn đề trên sẽ giúp tìm ra câu trả lời vì sao phải thực hiện DAĐT. Để nghiên
cứu các vấn đề trên cần sử dụng nhiều nguồn số liệu thông tin . Có thể thu thập
các số liệu thông tin đó trong các “Niên giám thống kê” của Trung Ương và của
các tỉnh, các báo cáo hàng năm của các bộ, ngành, địa phương về kinh tế và sản
xuất, các thông tin đại chúng qua báo, đài, truyền hình, hệ thống thông tin quản
lý (Management Information System- MIS) qua mạng Internet…
1.1.2.2. Nghiên cứu về phương diện thị trường
Thị trường là đối tượng trực tiếp của sản xuất - là một trong các nhân tố
quyết định việc lựa chọn mục tiêu và quy mô của DA. Vì vậy, việc nghiên cứu
và phân tích thị trường là một khâu quan trọng trong việc xây dựng DA nói
chung. Mục đích chủ yếu của phân tích thị trường là nhằm:
- Giúp phát hiện ra quan hệ cung cầu, về khả năng cung ứng nguyên liệu vµ tiêu

thụ sản phẩm của DA trong quá khứ, hiện tại và tương lai .
- Tìm ra các giải pháp về cung ứng nguyên liệu cũng như tiêu thụ sản phẩm.
- Tìm ra các giải pháp cạnh tranh thị trường sản phẩm của DA: về chất lượng sản
phẩm, thị hiếu, giá cả, đặc thù sản phẩm …
- Xây dựng được các biện pháp khuyến thi và tiếp thị cần thiết giúp cho
việc tiêu thụ sản phẩm của DA .
Tóm lại: phân tích sản phẩm và thị trường cho ta kết quả có nên ĐT hay
không? Nếu ĐT thì nên ĐT vào sản phẩm nào và điều kiện nào về sản phẩm và
thị trường để ĐT có hiệu quả nhất ?Nội dung chủ yếu của phân tích sản phẩm
và thị trường bao gồm:
- Đánh giá nhu cầu thị trường hiện tại: tức là xem xét vấn đề tiêu thụ sản
phẩm, sự chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm và sức cạnh tranh của sản phẩm
trên thị trường hiện tại .
- Đánh giá và dự báo nhu cầu thị trường tương lai: là việc xem xét toàn
diện khả năng tiêu thụ sản phẩm trong tương lai về: số lượng, loại hình thị hiếu,
tính ổn định về sức mua, xu hướng giá cả, đối thủ cạnh tranh…
- Xem xét sự tiêu thụ sản phẩm cạnh tranh.
1.1.2.3.Nghiên cứu phương diện kỹ thuật-công nghệ của dự án
Kỹ thuật- công nghệ là những yếu tố đặc trưng của một DA công nghiệp
nói chung, là một khâu nguồn lực đầu vào tối quan trọng của DA. Kỹ thuật và
công nghệ được trang bị tốt và tổ chức tốt sẽ là cơ sở thành công của DA. Vì
vậy, phân tích kỹ thuật-công nghệ là một trong những yêu cầu quan trọng của
quản lý DAĐT nói chung và là một trong những tiền đề quan trọng cho việc
phân tích về mặt kinh tế -tài chính của DA. Không có số liệu của phân tích kỹ
thuật thì không thể phân tích về mặt kinh tế tài chính. Quyết định đúng đắn
trong thẩm định kỹ thuật –công nghệ có tác dụng to lớn trong việc tiết kiệm các
nguồn lực và tranh thủ được các cơ hội để tăng thêm nguồn lực.
Mục đích chính của việc nghiên cứu kỹ thuật công nghệ của DA là đánh
giá được nhu cầu về mặt kỹ thuật -công nghệ được sử dụng cho DAĐT, tìm ra
những dấu hiệu thuận lợi để khai thác tối đa hoặc dấu hiệu không thuận lợi về

mặt kỹ thuật -công nghệ để cho phép loại trừ ngay từ đầu, giảm thiểu các tổn
thất trong thực hiện các DA. Đồng thời tìm ra những khâu quan trọng về trang
bị kỹ thuật công nghệ để đưa ra những giải pháp kỹ thuật-công nghệ phù hợp,
nhằm có định hướng ĐT đúng đắn và có hiệu quả nhất .
Tuỳ thuộc vào từng loại DA cụ thể mà nội dung nghiên cứu kỹ thuật-công
nghệ có nội dung và mức độ phức tạp khác nhau. Tuy nhiên, những nội dung cơ
bản cần tập trung nghiên cứu bao gồm các vấn đề chính sau:
- Phân tích quan hệ của kỹ thuật -công nghệ với sản phẩm DA
- Lựa chọn hình thức ĐT
- Xác định công suất của DA
- Lựa chọn công nghệ và phương pháp sản xuất sẽ sử dụng trong DA
- Xem xét sử dụng nguồn lực đầu vào
- Lựa chọn và xác định số lượng máy móc thiết bị
- Xác định nguyên vật liệu đầu vào
- Xem xét cơ sở hạ tầng liên quan DA
- Xem xét khía cạnh vị trí, địa điểm DA
- Xem xét khía cạnh môi trường và xử lý thải
1.1.2.4.Nghiên cứu phương diện quản trị nhân lực của dự án
Tổ chức quản trị DA hình thành dần dần trong suốt quá trình hình thành
DA, từ khi bắt đầu nhận dạng DA. Trong suốt quá trình soạn thảo, triển khai
thực hiện DA vẫn còn nhiều khả năng phải thay đổi tổ chức, nhân sự cho phù
hợp với tình hình thực tế, nhất là đối với DA có thời hạn ĐT kéo dài. Vì vậy,
nghiên cứu tổ chức quản trị nhân lực cho DA bao gồm nghiên cứu sơ đồ tổ chức
bộ máy, phân rõ chức năng nhiệm vụ của các bộ phận, các cấp lãnh đạo điều
hành, thực hiện, bố trí và đạo tạo cán bộ công nhân. Sức mạnh của tổ chức bộ
máy phụ thuộc rất nhiều vào những con người cụ thể đảm trách các chức vụ
trong bộ máy đó. Bố trí mô hình tổ chức bộ máy là cơ sở để xác định số lượng
và chất lượng cán bộ, công nhân, từ đó tính toán tổng quỹ tiền lương. Vì vậy
cần phân tích, xác định một cách cụ thể số lượng lao động cho DA. Mặt khác,
cần nghiên cứu kỹ thị trường lao động, gắn nhu cầu kỹ thuật và quản lý của DA

cho phù hợp với khả năng về nguồn nhân lực được cung cấp cho DA. Nếu hai
vấn đề này không hoà hợp được với nhau thì DA không nên thực hiện. Bên cạnh
đó, phân tích đánh giá về quản trị nhân lực của DA cần phải xem xét, dự kiến kế
hoạch bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho người lao động làm việc trong DA. Đối
với vấn đề sử dụng các chuyên gia, cần tuân thủ các nguyên tắc : chỉ sử dụng
các chuyên gia nước ngoài ở những khâu, công việc đòi hỏi trình độ kỹ thuật
cao mà lao động trong nước không đảm đương nổi.
1.1.2.5.Nghiên cứu phương diện tài chính của dự án.
Đầu tư là hoạt động sử dụng vốn, nên quyết định ĐT trước hết và thường
xuyên là quyết định tài chính. Tức là xem xét khả năng và hiệu quả sử dụng tài
chính trong việc thực hiện DAĐT. Nếu DA có thể khả thi ở một số phương diện
nhưng không khả thi ở phương diện tài chính thì sẽ không thể thực hiện trên
thực tế. Điều đó khẳng định tầm quan trọng của việc TĐ, đánh giá về phương
diện tài chính của DA.
Mục đích chủ yếu của việc TĐ, đánh giá về mặt tài chính của DAĐT là
nhằm: kiểm tra nhu cầu và sự đảm bảo các nguồn lực tài chính cho việc thực
hiện có hiệu quả các DAĐT, đồng thời kiểm tra tình hình kết quả và hiệu quả
hoạt động của DA để đánh giá khả năng sinh lời của vốn ĐT, thời gian hoàn
vốn, độ rủi ro của DA …Để đạt được mục tiêu nêu trên cần tiến hành TĐ
phương diện tài chính thông qua các nội dung chủ yếu sau:
- Xác định tổng vốn ĐT và nguồn vốn, bao gồm: vốn ĐT hình thành tài sản
cố định, tài sản lưu động …Đặc biệt, thời điểm tài trợ của nguồn vốn cần được
đảm bảo để việc thực hiện DA diễn ra theo đúng kế hoạch đã định. Nếu nguồn
cung ứng chậm có thể sẽ làm cho quá trình thực hiện ĐT bị ngưng trệ. Ngược
lại, sẽ gây ra lãng phí ứ đọng vốn .
- Nghiên cứu giá thành sản phẩm DA: đây là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp,
phản ánh tình hình sản xuất-kinh doanh của DA và cũng là chỉ tiêu gốc để tính
toán các chỉ tiêu khác.
- Nghiên cứu doanh thu của DA: đây là một trong những cơ sở quan trọng
để xác định kết quả tài chính (lãi-lỗ) của DA. Thông thường DA bao gồm các

loại doanh thu như: doanh thu từ việc tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ chính, sản
phẩm phụ; doanh thu từ việc thực hiện các dịch vụ cung cấp cho bên ngoài;
doanh thu từ bán phế liệu, thanh lý tài sản cố định; doanh thu khác …
- Lập bảng cân đối tài chính theo thời gian: trên cơ sở nghiên cứu chi phí
đầu tư và doanh thu DA, cần lập bảng cân đối tài chính theo thời gian làm cơ sở
cho việc tính toán các chỉ tiêu hiệu quả DA về mặt tài chính .
- Nghiên cứu các chỉ tiêu hiệu quả tài chính chủ yếu của DA, bao gồm:
tổng hiện giá lợi nhuận thuần - NPV; tỷ lệ thu hồi nội bộ - IRR; thời gian hoàn
vốn; điểm hoà vốn; độ nhạy DA …
1.1.2.6.Nghiên cứu lợi ích kinh tế - xã hội của dự án.
Hiệu quả của một DA được phản ánh qua hệ thống các chỉ tiêu hiệu quả
của chúng, bao gồm: hiệu quả về mặt kinh tế tài chính và hiệu quả về kinh tế xã
hội do DA mang lại. Xem xét lợi ích về mặt tài chính là đứng trên quan điểm
của nhà ĐT (tầm vi mô), còn xem xét lợi ích kinh tế xã hội là đứng trên quan
điểm của toàn xã hội (tầm vĩ mô). Mục tiêu chính của nhà ĐT là tối đa hoá lợi
nhuận, còn mục tiêu chính của xã hội là tối đa hoá phúc lợi xã hội. Nghiên cứu
kinh tế xã hội của DAĐT không thể tách rời nghiên cứu tài chính. Do đó,
nghiên cứu tài chính phải tiến hành trước, làm cơ sở cho nghiên cứu kinh tế xã
hội .
Thông thường, hiệu quả kinh tế xã hội của DA được đánh giá bằng hệ
thống các chỉ tiêu đặc trưng về mặt kinh tế xã hội của DA đó, bao gồm:
- Gia tăng thu nhập quốc dân, nâng cao mức sống dân cư
- Tăng thu ngoại tệ, tiết kiệm ngoại tệ
- Tạo việc làm mới cho cộng đồng
- Đào tạo tay nghề mới, nâng cao học vấn dân trí
- Góp phần cải thiện điều kiện môi trường .
1.1.3.Vai trò của dự án đầu tư.
Dự án đầu tư là tài liệu được tính toán và phân tích đánh giá một cách toàn
diện và có hệ thống về kinh tế - kỹ thuật - tài chính - môi trường …cho mục
đích ĐT. Vì vậy, DAĐT là nền tảng để tiến hành việc ĐT một cách có căn cứ

khoa học, có bài bản và đảm bảo tính pháp lý của việc ĐT. Hay nói một cách
khác, DAĐT là cơ sở đem lại cho công cuộc ĐT kết quả như mong muốn. Nó
tạo cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn lực mới và là một phương tiện chuyển dịch và
phát triển cơ cấu kinh tế, giải quyết mối quan hệ cung cầu về sản phẩm, dịch vụ
trên thị trường, cân đối mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng trong xã hội,
góp phần không ngừng nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần cho nhân
dân, cải tiến bộ mặt kinh tế xã hội. Từ đó ta có thể thấy, DAĐT có vai trò vô
cùng to lớn và được thể hiện cụ thể như sau:
- Đối với chủ đầu tư: DA là căn cứ quan trọng để quyết định bỏ vốn đầu
tư. DAĐT được soạn thảo theo một quy trình chặt chẽ trên cơ sở nghiên cứu đầy
đủ về các mặt tài chính, thị trường, kỹ thuật, tổ chức quản lý…Do đó, chủ ĐT sẽ
yên tâm hơn trong việc bỏ vốn ra để thực hiện DA vì có khả năng mang lại lợi
nhuận cao và ít rủi ro. Mặt khác, vốn ĐT của một DA thường rất lớn, chính vì
vậy ngoài phần vốn tự có, các nhà ĐT còn cần đến phần vốn vay Ngân hàng.
DAĐT là một phương tiện rất quan trọng giúp chủ ĐT thuyết phục Ngân hàng
hoặc các tổ chức tín dụng xem xét tài trợ cho vay vốn. DAĐT cũng là cơ sở để
chủ ĐT xây dựng kế hoạch ĐT, theo dõi, đôn đốc và kiểm tra quá trình thực
hiện ĐT. Bên cạnh đó DA còn là căn cứ để đánh giá và điều chỉnh kịp thời
những tồn đọng vướng mắc trong quá trình thực hiện ĐT, khai thác công trình .
- Đối với Nhà nước: DAĐT là cơ sở để cơ quan quản lý Nhà nước xem
xét, phê duyệt cấp vốn và cấp giấy phép ĐT. Vốn ngân sách Nhà nước sử dụng
để ĐT phát triển theo kế hoạch thông qua các DA, các công trình, kết cấu hạ
tầng kinh tế -xã hội, hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước, các DAĐT
quan trọng của quốc gia trong từng thời kỳ…DA sẽ đươc phê duyệt, cấp giấy
phép ĐT khi mục tiêu của DA phù hợp với đường lối, chính sách phát triển kinh
tế, xã hội của đất nước, khi hoạt động của các DA không gây ảnh hưởng đến
môi trường và mang lại hiệu quả kinh tế xã hội. Mặt khác, nếu nảy sinh mâu
thuẫn, tranh chấp giữa các bên liên quan trong quá trình thực hiện thì DA là một
trong những cơ sở pháp lý để giải quyết .
- Đối với các nhà tài trợ: Khi tiếp nhận DA xin tài trợ vốn của chủ ĐT thì

họ sẽ sem xét các nội dung cụ thể của DA đặc biệt là về mặt kinh tế - tài chính,
để đi đến quyết định có nên ĐT hay không. DA chỉ được ĐT vốn nếu có tính
khả thi theo quan điểm của nhà tài trợ. Ngược lại khi chấp nhận ĐT thì DA là cơ
sở để các tổ chức này lập kế hoạch cấp vốn hoặc cho vay theo mức độ hoàn
thành kế kế hoạch ĐT đồng thời lập kế hoạch thu hồi vốn vay.
1.2.Một số vấn đề cơ bản về thẩm định dự án đầu tư.
1.2.1.Khái niệm thẩm định dự án đầu tư.
Hoạt động ĐT có rất nhiều đặc điểm và rất phức tạp về mặt kỹ thuật, bên
cạnh đó lại chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố bất định. Do vậy trước khi ra
quyết định ĐT hoặc chấp thuận DAĐT, các cấp có thẩm quyền cần đánh giá lại
toàn diện nội dung DA xem DA có thực sự đem lại lợi nhuận hay không, có đáp
ứng được các mục tiêu phát triển của quốc gia hay không, có thực sự xứng đáng
được tài trợ hay không…Chính vì vậy mà đối với mỗi DA, từ khi lập xong đến
khi thực hiện phải được TĐ qua nhiều cấp: Nhà nước, nhà ĐT, nhà tài trợ…Quá
trình xem xét DA nhằm đạt được các mục tiêu đó gọi là TĐDAĐT. Đứng dưới
mỗi giác độ, lại có những quan điểm khác nhau về TĐDAĐT, nhưng hiểu một
cách chung nhất thì:
- TĐDAĐT là việc tiến hành nghiên cứu phân tích một cách khách quan,
khoa học và toàn diện tất cả các nội dung cơ bản của DA, đặt trong mối tương
quan với môi trường tự nhiên, kinh tế và xã hội nhằm đánh giá tính hợp lý, tính
hiệu quả và tính khả thi của DA để từ đó ra các quyết định ĐT và triển khai thực
hiện DA.
1.2.2. Ý nghĩa của thẩm định dự án đầu tư.
Hoạt động TĐDAĐT là khâu cuối cùng trong giai đoạn chuẩn bị ĐT nhưng
lại là khâu then chốt để ra quyết định ĐT và do đó quyết định sự thành công hay
thất bại của DA. Mục đích của TĐDA là giúp các chủ ĐT, các cơ quan tham gia
hoạt động ĐT lựa chọn được phương án ĐT tốt nhất, quyết định ĐT đúng
hướng, đạt hiệu quả tài chính và lợi ích kinh tế-xã hội. Xuất phát từ quan điểm
và mục tiêu khác nhau, các chủ thể sẽ có cách tiếp cận TĐDA không giống
nhau, và do đó, kết quả TĐ cũng có ý nghĩa khác nhau đối với mỗi chủ thể .

- Đối với chủ đầu tư: việc TĐ được thực hiện độc lập với quá trình soạn
thảo DA sẽ cho phép chủ ĐT nhìn nhận lại DA của mình một cách khách quan
hơn, từ đó thấy được những thiếu sót trong quá trình soạn thảo để bổ sung kịp
thời .
- Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước: mục đích TĐ là nhằm đánh giá
được tính phù hợp của DA đối với quy hoạch phát triển chung của ngành, của
địa phương và của cả nước trên các mặt : mục tiêu, quy mô, quy hoạch và hiệu
quả. Đồng thời, việc TĐ giúp xác định tính lợi hại và sự tác động của DA khi đi
vào hoạt động. Có thể nói, TĐDAĐT là một công cụ, một phương thức hữu hiệu
giúp Nhà nước có thể thực hiện được chức năng quản lý vĩ mô của mình .
- Đối với các Ngân hàng thương mại: Ngân hàng TĐDA nhằm mục đích
tìm ra những khách hàng có đủ tiêu chuẩn về pháp lý cũng như tài chính để
quyết định có ĐT vốn hay không. Bên cạnh đó, thông qua TĐ chi tiết ngân hàng
thương mại có thể phát hiện ra những thiếu sót, bất hợp lý trong các luận cứ và
tính toán của DA, từ đó cùng với chủ ĐT tìm ra những phương hướng và biện
pháp giải quyết kịp thời, đảm bảo tính khả thi của DA. Ngoài ra, thông qua TĐ
các nội dung của DA, nhất là trên khía cạnh tài chính, ngân hàng thương mại có
thể tính toán được tổng vốn ĐT, doanh thu và chi phí hàng năm của DA cũng
như các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án như NPV, NFV, IRR, thời gian
hoàn vốn …Những chỉ tiêu này là cơ sở để ngân hàng tính toán số vốn cho vay,
khả năng trả nợ của DA, đảm bảo cung cấp vốn kịp thời cho chủ ĐT, đồng thời
có thể thu nợ gốc và lãi đầy đủ đúng hạn cho ngân hàng.

×